Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Bài giảng giáo dục gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.16 KB, 76 trang )

1
Chương I
GIA ĐÌNH - TẾ BÀO CỦA XÃ HỘI
Thời gian giảng: Thời gian thảo luận:
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ GIA ĐÌNH
1. Khái niệm Gia đình
Với tư cách là một hình thức cộng đồng tổ chức đời sống xã hội. Gia
đình được hình thành từ rất sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu
dài. Xuất phát từ nhu cầu bảo tồn và duy trì nòi giống, từ sự cần thiết phải dựa
vào nhau để sinh tồn, các hình thức quần tụ giữa nam và nữ giới, những hình
thức cộng đồng tổ chức
đời sống gia đình đã xuất hiện. Lịch sử nhân loại đã
trải qua nhiều hình thức gia đình như: Gia đình đối ngẫu, gia đình hôn nhân
từng cặp, gia đình một vợ một chồng
Trên cơ sở của sự phát triển kinh tế - xã hội các kiểu dạng tổ chức cộng
đồng mang tính tự nhiên, ngay từ đầu đã chịu sự quy định của sự biến
đổi
trong sản xuất trong đời sống kinh tế - xã hội.
Để quan hệ với thiên nhiên, tác động vào thiên nhiên, con người cần
phải quần tụ thành các nhóm cộng đồng. Ban đầu, các quan hệ chi phối trong
những nhóm cộng đồng ấy còn mang sắc thái tự nhiên sinh học sống quần tụ
với nhau theo bày đàn, sinh sống bằng săn bắn hái lượm
Trước những yêu cầu của sản xuất và sinh hoạt những đòi hỏi c
ủa
đời sống kinh tế các quan hệ ấy dần trở nên chặt chẽ, giữa các thành viên
trong cộng đồng ấy xuất hiện những cơ chế ràng buộc lẫn nhau phù hợp và
thích ứng với những điều kiện sản xuất, sinh hoạt của mỗi một nền sản
xuất. Gia đình dần dần trở thành một thiết chế xã hội, một hình ảnh "xã hội
thu nhỏ
". Nhưng không phải là sự thu nhỏ một cách giản đơn các quan hệ
xã hội. Những gia đình được coi như một thiết chế xã hội đặc thù, nhỏ


nhất, cơ bản nhất.
Nếu như văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra, nhằm thoả mãn, đáp ứng các nhu cầu của chính mình thì
2
gia đình không chỉ là một hình thức tổ chức cộng đồng, một thiết chế xã hội
mà điều quan trọng gia đình còn là một giá trị văn hoá xã hội. Tính chất, bản
sắc của gia đình lại được duy trì, bảo tồn, được sáng tạo và phát triển nhằm
thoả mãn những nhu cầu của mỗi thành viên trong gia đình trong sự tương tác
gắn bó với văn hoá cộng đồng dân tộc, cộng
đồng giai cấp, tầng lớp trong mỗi
giai đoạn lịch sử của quốc gia, dân tộc.
Như vậy: Gia đình là một trong những hình thức tổ chức cơ bản
trong đời sống cộng đồng của con người một thiết chế văn hoá xã hội đặc
thù được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của những quan hệ
hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡ
ng và giáo dục giữa
các thành viên.
b. Đặc trưng các mối quan hệ cơ bản của gia đình
* Hôn nhân và quan hệ hôn nhân là một quan hệ cơ bản của sự hình
thành, tồn tại và phát triển gia đình
- Hôn nhân là một hình thức quan hệ tính giao giữa nam và nữ nhằm
thoả mãn các nhu cầu tâm sinh lý, tình cảm và bảo đảm tái sản xuất ra con
người nhằm duy trì, phát triển nòi giống.
Cùng với sự phát triển của lịch sử Hôn nhân cũng có sự bi
ến đổi sâu
sắc về hình thức tính chất và sắc thái của nó: Nếu như trong chế độ CSNT
hình thái hôn nhân chủ yếu là quần hôn. Trong các chế độ tư hữu hôn nhân
được hình thành xây dựng và thực hiện trên cơ sở bảo đảm lợi ích của những
người chủ sở hữu (gia đình gia trưởng - bảo đảm quyền lực của người chồng,
người cha, người chủ sở hữu tài sả

n và kế thừa tài sản ).
- Hôn nhân là hình thức quan hệ tính giao của con người và chỉ có ở
con người. Cho nên ngay từ đầu hôn nhân đã mang bản chất người nhân văn
và nhân đạo. Sự phù hợp về tâm lí, sức khoẻ và nhất là trạng thái tình cảm
ngay từ ban đầu nó đã là cơ sở trực tiếp của hôn nhân, mang lại bản sắc đặc
thù của quan hệ hôn nhân.
3
- Tuy nhiên, cũng như mọi quan hệ xã hội khác Hôn nhân luôn chịu sự
chi phối của các quan hệ kinh tế và bản chất của chế độ xã hội mà trên đó nó
được hình thành và phát triển.
Vì vậy, hôn nhân trong bất cứ thời đại nào cũng có thể và cần phải
được xã hội thừa nhận ở những mức độ, trình độ khác nhau. Trong chế độ tư
hữu và các xã hội có sự phân chia giai cấp sự thừa nhận đ
ó của các chuẩn
mực văn hoá và lối sống truyền thống của cộng đồng (tổ chức cưới, hỏi ).
- Sự phù hợp về trạng thái tâm lý, tình cảm, lối sống giữa đôi nam nữ
trước khi đi đến hôn nhân là cơ sở trực tiếp cho hôn nhân: Tình yêu. Cũng
như hôn nhân, tình yêu của mỗi thời đại, mỗi giai tầng, mỗi dân tộc và cộng
đồng tâm lý văn hoá cũng có những giá trị và chu
ẩn mực riêng với những
biểu hiện riêng, cụ thể và sinh động.
* Huyết thống, quan hệ huyết thống là quan hệ cơ bản, đặc trưng của
gia đình
Do nhu cầu hết sức tự nhiên cần duy trì và phát triển nòi giống, con
người đã sáng tạo ra gia đình với tính cách là một thiết chế xã hội. Trong gia
đình cùng với quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống được coi là một quan
hệ cơ bả
n nhất. Tuy nhiên, ngay cả quan hệ cơ bản này cũng có những thay
đổi theo tiến trình lịch sử, những sự thay đổi ấy được quy định, chịu sự chi
phối của các điều kiện: Kinh tế, văn hoá, chính trị của xã hội. Mặt khác quan

hệ huyết thống ấy cũng gia nhập đan xen vào các quan hệ kinh tế và chính trị
xã hội của mỗi thời đại.
Thí dụ: Trong chế độ công xã nguyên thu
ỷ huyết thống về đằng mẹ
được coi là chuẩn mực để tính quan hệ thân tộc gần xa khi ấy gia đình được
xây dựng trên cơ sở huyết thống mẫu hệ.
Khi chế độ tư hữu ra đời vai trò của người đàn ông ngày càng được
khẳng định trong quan hệ gia đình gia trưởng. Gia đình theo huyết thống về
đằng cha (gia đình phụ hệ ra đời). Khi quan hệ bất bình đẳng gi
ữa nam và nữ
4
ngày càng gay gắt thì gia đình phu hệ phát triển: Gia đình chủ nô, gia đình
phong kiến gia trưởng và gia đình tư sản.
Chỉ có thể khắc phục được những mâu thuẫn này khi xoá bỏ được chế độ
tư hữu về tư liệu sản xuất và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất được xác lập.
* Quan hệ quần tụ trong một không gian sinh tồn
Ngay từ đầu xuấ
t phát từ yêu cầu đặt ra trong quan hệ với tự nhiên và
giữa con người với nhau cộng đồng gia đình đã luôn cư trú quần tụ trong
một không gian sinh tồn từ lúc trong một hang đá hốc cây → sau đó là trong
một mái nhà. Dù không gian sinh tồn ấy ngày càng mở rộng và chịu sự chi
phối của các quan hệ kinh tế - xã hội nhưng nhu cầu quần tụ vẫn luôn luôn
được đặt ra, cho dù ngày nay khái niệm không gian sinh tồn không còn giữ
nguyên nghĩa như
một giới hạn địa lý thuần tuý nữa. Cho dù sự can thiệp,
mức độ quan tâm giữa các thành viên gia đình đã được thay thế, đảm nhận ở
mức độ đáng kể sự quan tâm, chăm sóc giữa các thành viên, các thế hệ trong
mỗi gia đình không vì thế mà mất đi mà trái lại nó được củng cố, được thực
hiện nhờ thiết bị, phương tiện và tiện nghi ngày càng hiện đại đầy
đủ hơn

(An cư lập nghiệp).
* Quan hệ nuôi dưỡng giữa các thành viên và các thế hệ thành viên
trong gia đình
Nuôi dưỡng là một nghĩa vụ, một trách nhiệm đồng thời còn là một
quyền lợi thiêng liêng của gia đình của các thành viên gia đình đối với nhau.
Nuôi dưỡng không đơn thuần chỉ là các bậc cha mẹ, ông bà nuôi dưỡng con
cháu mà còn là hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng của con cháu đối với cha mẹ,
ông bà, giữa các thành viên khoẻ mạnh có thuậ
n lợi trong làm ăn sinh sống
đối với những thành viên gặp khó khăn, rủi ro về sức khoẻ về làm ăn sinh
sống. Mặc dù xã hội phát triển sự quan tâm của xã hội đối với gia đình và các
thành viên gia đình qua các chính sách bảo hiểm, chăm sóc y tế, dưỡng lão
nhưng nuôi dưỡng của gia đình có những đặc thù mà xã hội dù có hiện đại
5
đến đâu cũng không thể thay thế được và càng không nên đặt vấn đề thay thế
hoàn toàn.
2. Vị trí gia đình trong xã hội
a. Gia đình là tế bào của xã hội
Có thể ví xã hội là một cơ thể sống hoàn chỉnh và không ngừng biến
đổi được "sắp xếp tổ chức" theo nhiều mối quan hệ, trong đó gia đình được
xem là một tế bào, một thiết chế cơ sở đầu tiên.
Mỗi mộ
t chế độ xã hội được sinh thành, vận động và biến đổi trên cơ
sở một phương thức sản xuất xác định và có vai trò quy định đối với gia đình.
Nhưng xã hội ấy lại tồn tại thông qua các hình thức kết cấu và quy mô gia
đình. Mỗi gia đình hoà thuận thì cả cộng đồng xã hội tồn tại và vận động một
cách êm thấm. Mục đích chung của sự vận độ
ng, biến đổi của xã hội trước hết
vì lợi ích của mỗi công dân và thành viên của xã hội nhưng lợi ích của mỗi
công dân, mỗi thành viên xã hội lại chịu sự chi phối của lợi ích các tập đoàn

giai cấp thống trị trong xã hội, trong điều kiện xã hội phân chia thành giai cấp.
b. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội quyết định quy mô, kết cấu,
hình thức tổ chức và tính chất của gia đ
ình
Theo quan điểm về duy vât lịch sử đã chỉ ra rằng: Gia đình là những
hình thức phản ánh đặc thù của trình độ sản xuất của trình độ phát triển kinh
tế. Trong tiến trình lịch sử nhân loại các phương thức sản xuất: cộng sản
nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, địa chủ phong kiến, tư bản chủ nghĩa, và xã
hội chủ nghĩa đã lần lượ
t thay thế nhau, kéo theo và dẫn đến sự biến đổi về
hình thức tổ chức, quy mô và kết cấu cũng như tính chất của gia đình.
Từ gia đình tập thể quần hôn với hình thức huyết thống → gia đình
đối ngẫu cặp đôi bước sang hình thức gia đình cá thể một vợ một chồng. Từ
chỗ gia đình một vợ một chồng bất bình đẳ
ng đối với người phụ nữ, người
vợ sang gia đình một vợ một chồng bình đẳng giữa nam và nữ, vợ và chồng.
Tất cả những bước phát triển ấy của gia đình phụ thuộc chủ yếu và trước hết
6
vào những bước tiến trong sản xuất, trong trình độ phát triển kinh tế của mỗi
thời đại.
c. Gia đình là một thiết chế cơ sở, đặc thù của xã hội là cầu nối giữa
cá nhân và xã hội
Trong hệ thống cơ cấu tổ chức của xã hội gia đình được coi là thiết chế
cơ sở, đầu tiên và nhỏ nhất. Sự vận động biến đổi củ
a thiết chế độ tuân theo
những quy luật chung của cả hệ thống. Nhưng thiết chế ấy vận động biến đổi
còn nhiều cơ sở kế thừa các giá trị văn hoá truyền thống mỗi nền văn hoá mỗi
vùng và địa phương khác nhau, và còn được bộc lộ, thể hiện ở mỗi thành viên
và thế hệ thành viên trong sự "giao thoa" của mỗi cá nhân và mỗi gia đình.
Thông qua các hoạt độ

ng, tổ chức đời sống gia đình mỗi cá nhân, mỗi
gia đình tiếp nhận chịu sự tác động và phản ứng lại đối với những tác động
của xã hội. Thông qua các tổ chức, các thiết chế, chính sách của xã hội. Sự
đồng thuận hay không đồng thuận của những tác động từ xã hội, Nhà nước
với những hình thức tổ chức, sinh hoạt trong thiết chế gia đình sẽ
tạo ra kết
quả tốt hay xấu của mỗi chế độ xã hội mỗi thời đại.
Cá nhân con người (thành viên của xã hội) chịu sự ảnh hưởng rất sâu
sắc của gia đình từ tư tưởng, đạo đức, lối sống và phong cách làm việc bởi vì
cha ông ta đã có câu: "Nòi nào giống ấy, giỏ nhà ai qua nhà nấy".
d. Gia đình là tổ ấm mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hoà trong
đời số
ng cá nhân của mỗi thành viên mỗi công dân của xã hội
Từ thuở lọt lòng cho đến khi nhắm mắt xuôi tay mỗi thành viên được
nuôi dưỡng chăm sóc để trở thành công dân của xã hội, lao động, cống hiến
và hưởng thụ đóng góp cho xã hội trước hết và chủ yếu là thông qua gia đình
và với gia đình.
Sự yên ổn hạnh phúc của mỗi gia đình là tiền đề, điều kiện quan trọng
cho sự hình thành, phát triển nhân cách, b
ảo đảm đạt hiệu quả cho các hoạt
động lao động của xã hội.
7
Rõ ràng là muốn xây dựng xã hội phải chú ý xây dựng gia đình, xây
dựng gia đình là trách nhiệm, là một bộ phận cấu thành trong chỉnh thể các
mục tiêu phấn đấu của xã hội vì sự ổn định và phát triển của chính xã hội.
II. CÁC CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH
1. Chức năng tái sản xuất ra con người
Là một trong những thiết chế cơ bản của xã hội. Gia đình đảm nhận
chức năng tái sản xuất ra con người, tái tạo bảo dưỡng sức lao động cho xã
hội. Trong sự phát triển của lịch sử, các chức năng của gia đình đã có nhiều

biến động một số chức năng của gia đình truyền thống
đã bị mai một hay bị
thay thế bằng các chức năng khác phù hợp hơn khi xã hội chuyển từ xã hội
nông nghiệp chuyển sang xã hội công nghiệp. Nhưng chức năng tái sản xuất
ra con người vẫn luôn luôn và bao giờ vẫn là chức năng quan trọng nhất của
gia đình. Bởi nó là chức năng cố hữu đặc thù không một thiết chế xã hội nào
có thể thay thế được. Nó thực hiện vi
ệc duy trì nòi giống, chuyển giao văn
hoá từ thế hệ này sang thế hệ khác và do đó nó là một trong hai nhân tố quyết
định sự tồn tại và phát triển của lịch sử nhân loại. Anghen đã từng viết: "Theo
quan điểm duy vật nhân tố quyết định trong lịch sử phát triển của xã hội loài
người quy cho đến cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp của
con người. M
ột mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt ra thức ăn, quần áo, nhà
ở, và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó, mặt khác là sản
xuất ra chính bản thân con người, là sự truyền nòi giống. Những thiết chế xã
hội trong đó những con người của một thời đại lịch sử nhất định và một nước
nhất định đang s
ống là do 2 loại sản xuất đó quyết định: Một mặt do trình độ
phát triển của lao động và mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình"
1
.
Ngày nay ở các nước phương Tây xuất hiện một số kiểu gia đình kỳ
quặc như: Gia đình độc thân, gia đình không sinh đẻ, gia đình đồng tính luyến
ái (Pháp luật cho phép) Đó là hiện tượng không bình thường của gia đình.
Bởi lẽ nếu gia đình không sinh đẻ, không nuôi dạy con cái cũng có nghĩa là

1
M.E Tuyển tập T6. NXB Sự thật. H.1984, tr.26
8

không có sự duy trì nòi giống, không có sự chuyển giao văn hoá và như vậy
xã hội sẽ đi vào ngõ cụt không có sự phát triển. Gia đình không chỉ tái sản
xuất ra con người về mặt thể chất mà còn tái sản xuất ra đời sống tình cảm,
tâm hồn, văn hoá tức là quá trình xã hội hoá con người. Quá trình biến đứa trẻ
từ một sinh vật người thành con người xã hội.
- Ngày nay trước sự tác động của khoa học - công nghệ hiệ
n đại con
người không những làm chủ được quá trình sinh đẻ mà con người đẻ theo ý
muốn. Vì vậy mà chức năng sinh đẻ tái sản xuất ra con người của gia đình
ngày nay đã được xã hội hoá và kế hoạch hoá. Như vậy mới bảo đảm tái sản
xuất ra con người hợp lí vừa đảm bảo chất lượng chăm sóc vừa đảm bảo hạnh
phúc cho cha mẹ. Việc kế hoạch hoá trong sinh đẻ vừ
a có lợi cho gia đình, cá
nhân và xã hội.
Trong thực tế xã hội hiện nay một số gia đình vẫn còn tồn tại tư tưởng
bảo thủ, lạc hậu; đẻ nhiều để có con đàn cháu đống, đẻ nhiều con để trông cậy
khi tuổi già, đẻ con trai để nối dõi tông đường, đẻ con gái để có nếp có tẻ, có
người chấy rận chăm sóc mẹ Những tư tưởng lạc hậu này cầ
n phải đấu tranh
để loại trừ ra khỏi đời sống xã hội, để góp phần làm cho xã hội phát triển hợp
lí giữa sự phát triển kinh tế - văn hoá và sự gia tăng dân số. Muốn thực hiện
tốt điều này cần trang bị cho thế hệ trẻ những kiến thức về kế hoạch hoá gia
đình, sức khoẻ sinh sản
2. Chức năng nuôi dưỡng giáo dục con trẻ
Nuôi d
ưỡng giáo dục con trẻ là trách nhiệm nghĩa vụ của mỗi người
làm cha, làm mẹ như Luật hôn nhân Gia đình đã ghi: "Cha mẹ có trách nhiệm,
nghĩa vụ nuôi dạy con cái thành công dân có ích cho xã hội"
1
. Trẻ em sinh ra

phải được sinh trưởng và phát triển một cách bình thường và các quyền được
sống, được học tập, vui chơi, được chăm sóc và giáo dục, được tôn trọng về
nhân cách. Cha mẹ, người đỡ đầu có trách nhiệm tạo lập môi trường sống,
môi trường xã hội an toàn đối với cuộc sống và phát triển thể chất, tinh thần
cho trẻ nhằm giúp trẻ phát triển nhân cách toàn diện về tất cả mọ
i mặt.
9
Gia đình là môi trường xã hội hoá đầu tiên đối với trẻ em và là môi
trường giáo dục suốt đời đối với sự hình thành và phát triển nhân cách con
người. Từ khi lọt lòng trẻ em đã được thừa hưởng nền văn hoá gia đình qua
sự quan tâm chăm sóc của cha me, ông bà, cô dì, chú bác Trẻ em được giáo
dục bằng những tình cảm ruột thịt của những người thân trong gia đình. Đó là
sự yêu thương của người mẹ, sự
gia uy chỉ bảo của người cha, sự yêu quí của
ông bà nội ngoại, sự ganh đua đoàn kết của anh em trong bầu không khí hoà
thuận, êm ấm tất cả những gì trẻ nghe thấy, nhìn thấy, trẻ cảm nhận được đều
ghi sâu trong tâm trí trẻ thơ và trẻ có thể bắt chước những gì mà ông bà, cha
mẹ, anh chị đã thể hiện,
Khi lớn lên quan hệ xã hội của trẻ được mở rộng như
ng tình cảm của
gia đình vẫn là động lực thôi thúc con người tự hoàn thiện nhân cách của
mình. Nếu gia đình có bầu không khí tâm lí không hoàn thuận sẽ có ảnh
hưởng không tốt tới trẻ thơ, sẽ là nguyên nhân dẫn tới sự bất ổn trong tâm hồn
trẻ thơ và là mầm mống cho những hành vi sai lệch ở trẻ em. Trong quá trình
hình thành và phát triển nhân cách của con người vai trò của gia đình ở mỗi
giai đoạn, lứa tuổi là khác nhau:
+ Giai đoạn ấu thơ: Gia đình là môi trường xã hội hoá đầu tiên của con
người, gia đình là cầu nối giữa đứa trẻ với môi trường xung quanh, giúp trẻ
làm quen với thế giới đồ vật và hình thành những thói quen ban đầu cần thiết
của con người.

+ Giai đoạn tuổi mẫu giáo nhi đồng: Gia đình có vai trò chăm sóc giáo
dục trẻ tiếp tục hình thành và củng cố những thói quen tốt cho trẻ. T
ổ chức
hướng dẫn các hoạt động cho trẻ giúp trẻ biết nhận thức cái đúng cái sai, cái
được phép và cái không được phép.
+ Giai đoạn thiếu niên và thanh niên mới lớn: Giai đoạn này gia đình
có nhiệm vụ giúp cho trẻ có khả năng thích nghi với những yêu cầu của cuộc
sống hoạt động học tập và sinh hoạt, giúp trẻ hình thành những giá trị, những
10
chuẩn mực, thiết lập những mối quan hệ với những người xung quanh, giúp
trẻ hình thành, phát triển năng lực tự chủ, tự ý thức về bản thân.
+ Giai đoạn tuổi trưởng thành: Gia đình giúp cá nhân chuẩn bị bước
vào cuộc sống tự lập và phải trả lời được các câu hỏi làm nghề gì để kiếm
sống; sống theo lối sống nào? Yêu ai? Yêu như thế nào?
+ Giai
đoạn chuẩn bị kết hôn: Gia đình giúp cá nhân hiểu biết về ý
thức trách nhiệm của người làm vợ, làm chồng, làm cha, làm mẹ
+ Giai đoạn tuổi già: Gia đình có chức năng chăm sóc, kính trọng và
chuẩn bị đón nhận tuổi già.
Tóm lại: Chúng ta có thể khẳng định rằng: Gia đình luôn luôn đóng vai
trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách con người nói
chung và trong sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ nói riêng. Chúng ta c
ần tránh tư
tưởng ỷ lại, dồn hết trách nhiệm giáo dục thế hệ trẻ cho giáo dục nhà trường,
để giáo dục gia đình có hiệu quả cha mẹ cần phải thường xuyên quan tâm đến
con trẻ và phối hợp với nhà trường, với các tổ chức xã hội, đoàn thể để giáo
dục con trẻ.
3. Chức năng kinh tế
Trong bất cứ thời đại nào kinh tế gia đình vẫn gi
ữ vai trò quyết định

cho sự phát triển bền vững của gia đình.
Kinh tế gia đình phát triển, giàu có đảm bảo cuộc sống và sinh hoạt của
mỗi cá nhân sẽ giúp cho gia đình có điều kiện thực hiện tốt các chức năng
khác đồng thời cũng là điều kiện thực hiện tốt hạnh phúc gia đình.
Trong xã hội nông nghiệp lạc hậu, gia đình là đơn vị sản xu
ất, một đơn
vị kinh tế độc lập mọi người trong gia đình cùng chung lưng đấu cật cùng làm
cùng hưởng
Trong xã hội công nghiệp hiện đại kinh tế gia đình được chuyển hoá
dưới dạng hoàn toàn khác. Trước kia gia đình là một đơn vị sản xuất nên chức
năng kinh tế của gia đình được thể hiện qua sự điều hành, tổ chức sản xuất,
kinh doanh ngay trong gia đình. Trong xã hộ
i công nghiệp hiện đại mỗi thành
11
viên trong gia đình lại tham gia hoạt động ở một cơ sở sản xuất, kinh doanh
khác nhau. Họ chỉ còn lệ thuộc với nhau bằng sự góp tiền để tạo ra ngân sách
chi tiêu trong gia đình, nhằm thoả mãn những nhu cầu chung của mọi thành
viên trong gia đình và nhu cầu sống của mỗi cá nhân và như vậy là chức năng
kinh tế của gia đình chuyển từ đơn vị sản xuất sang đơn vị tiêu dùng và đi
ều
phối các chức năng còn lại của gia đình.
Chính do có sự chuyển đổi như vậy nên mọi người trong gia đình có
cảm tưởng bị mất đi chức năng kinh tế. Sự nhận thức thiếu đúng đắn về vấn
đề này sẽ làm cho các mối quan hệ trong gia đình trở nên lỏng lẻo dẫn tới tình
trạng chồng một vốn, vợ một vốn, mọ
i người giấu diếm nhau về các khoản
thu nhập → Do đó chỉ cần có sự bất hoà nho nhỏ về tình cảm là dễ dàng dẫn
đến sự đổ vỡ của hạnh phúc gia đình. Điều này lí giải cho tại sao ở các nước
phát triển hiện nay tỉ lệ ly hôn ngày càng tăng.
Ở nước ta đang trên đường đổi mới từ nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu

chuyể
n sang nền kinh tế thị trường, tự do kinh doanh phát triển hiện tượng ly
hôn ngày càng tăng ở các đô thị vấn đề đặt ra cho mỗi gia đình Việt Nam
trong thời kỳ mới là: Đi đôi với việc phát triển kinh tế gia đình thì vấn đề giữ
gìn mối quan hệ đầm ấm đảm bảo hạnh phúc gia đình là vấn đề vô cùng quan
trọng không thể thiếu trong từng ngày, từng giờ của nh
ững cặp vợ chồng và
con trẻ.
4. Chức năng tổ chức đời sống vật chất và văn hoá gia đình
Gia đình như là tế bào thu nhỏ của xã hội, nó có chức năng tổ chức đời
sống vật chất và văn hoá tinh thần cho mỗi thành viên trong gia đình. Gia
đình tổ chức đời sống hợp lí, khoa học cho mỗi thành viên: Thoả mãn nhu cầu
ở chừng mực cần thiết như
nhu cầu về ăn, uống, ở, mặc, vui chơi giải trí và
học tập, tu dưỡng.
Gia đình không chỉ thoả mãn nhu cầu vật chất cho mỗi thành viên mà
còn phải thoả mãn về nhu cầu tinh thần. Trong đời sống gia đình mối quan hê
giữa các thành viên trong tình ruột thịt, thương yêu hết mức trên kính, dưới
12
nhường nhằm tạo ra bầu không khí tâm lý gia đình đầm ấm hết sức tránh
những xung đột cãi vã đáng lí không thể xảy ra nếu không may xảy ra thì cần
phải được giải quyết kịp thời bằng con đường tình cảm, tế nhị. Mục tiêu chính
của việc tổ chức đời sống gia đình là nhằm mang lại hạnh phúc cho mỗi thành
viên trong gia đình. Tạo điều kiện cho mỗi thành viên trong gia đình được b
ảo
đảm về sức khoẻ, có chăm sóc đầy đủ vui vẻ → tạo điều kiện cho mọi thành
viên trong gia đình gắn bó, thông cảm, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau cùng
chung sức để xây dựng gia đình hạnh phúc. Nếu người chủ gia đình biết cách
tổ chức tốt đời sống gia đình thì cuộc sống dù có nghèo đói một chút mọi
thành viên có thể thiếu thốn về vật chấ

t nhưng họ lại được bù đắp bằng tình
cảm yêu thương đùm bọc lẫn nhau còn hơn những gia đình giàu sang phú quý
nhưng lại có bầu không khí tâm lý không hoà thuận, không tôn trọng lẫn
nhau, luôn luôn mâu thuẫn → biến gia đình thành địa ngục trần gian.
III. CÁC MỐI QUAN HỆ QUAN TRỌNG NHẤT TRONG GIA ĐÌNH
1. Quan hệ vợ chồng
Quan hệ vợ chồng trong gia đình là mối quan hệ: Bình đẳng, hiểu
nhau, yêu thương tôn trọng lẫn nhau, chung thuỷ với nhau, giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ.
a. Trách nhiệm của người chồng
Người chồng là trụ cột trong gia đình. Có trách nhiệm lo toàn định
hướng cuộc sống cho cả gia đình đồng thời cũng là người phân sử mọi việc
gia đình. Muốn thực hiện đượ
c những điều đó người chồng phải có những
phẩm chất sau:
- Biết cách nói năng, hoạt bát, biết động viên vợ, con trong lúc khó khăn.
- Biết quan tâm chiều chuộng vợ.
- Biết cách đối xử ngoại giao lịch thiệp, ôn hoà và rộng lượng.
- Sống có bản lĩnh với những ước mơ cao đẹp, chung thuỷ với vợ, biết
cách chủ động thoả mãn nhu cầu tình dục của v
ợ để tạo ra sự hoà hợp.
13
- Tôn trọng vợ trong những hoạt động của gia đình đối xử với vợ hết
sức: bình đẳng trong giao tiếp, công việc trong chăm sóc và giáo dục con cái.
- Biết cùng vợ san sẻ công việc gia đình (xay lúa khỏi ẳm em).
- Có ý thức, trách nhiệm lo toan cuộc sống gia đình, có trí tuệ và có
phương pháp giáo dục dạy dỗ con cái.
b. Vai trò trách nhiệm của người vợ đối với chồng
Trách nhiệm nặng nề nhất của ng
ười vợ là nội trợ quan tâm chăm sóc

sức khoẻ cho chồng, con là người lo toan quán xuyến công việc nội trợ trong
gia đình.
Người vợ còn là người giúp cho chồng thành đạt "Phụ nữ trợ giúp một
cách đắc lực cho sự thành công, người nào yêu họ thì được họ truyền cho sức
mạnh, nghị lực, người nào được họ yêu sẽ có một hào quang uy thế bao bọc".
Để làm được điều trên người vợ ph
ải hiểu được ước mơ, hoài bão của
chồng, để cùng chồng cảm thông chia sẻ, cùng lo lắng cho sự nghiệp của chồng.
Người chồng không gì vui sướng bằng có một người vợ thực sự hiểu
mình thực sự thông cảm và chia sẻ với mình những lúc khó khăn. Trong
những trường hợp người vợ có trình độ văn hoá, nghề nghiệp cao hơn chồng,
có sự đóng góp nhiều hơn ch
ồng về kinh tế thì cần phải khiêm tốn, không nên
tự cao, tự đại tỏ ý coi thường chồng vì đó là nguyên nhân xung đột gia đình
dẫn đến li hôn. Để thực hiện tốt những điều trên đây người vợ cần:
- Giữ gìn nhan sắc cho đẹp để luôn luôn củng cố tình yêu của chồng.
- Tế nhị ngọt ngào trong ứng xử với chồng.
- Luôn thuỷ chung với chồng.
- Khéo léo, tế nhị
trong ứng xử với khách.
- Luôn khuyến khích động viên chồng trong sự nghiệp.
- Biết cách ghen, đánh ghen một cách tế nhị vừa bảo vệ được hạnh
phúc gia đình, vừa bảo vệ được chồng.
14
2. Quan hệ cha mẹ và con cái
a. Trách nhiệm của cha mẹ với con cái
Trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái là trách nhiệm của công dân
đối với cộng đồng, đối với xã hội, là trách nhiệm của người vợ đối với chồng
đồng thời cũng là trách nhiệm của cả hai vợ chồng trong việc chăm lo hạnh
phúc gia đình. Chăm sóc giáo dục con trẻ không chỉ là trách nhiệm quyền lợi

của các bậc cha m
ẹ mà còn là bổn phận của cha mẹ với con cái.
Cha mẹ có bổn phận nuôi con khôn lớn và bổn phận dạy con nên người
trở thành công dân có ích cho xã hội, đào tạo thế hệ trẻ cho tương lai còn khó
khăn vất vả khôn lường.
Dạy con nên người bao gồm các nội dung sau:
- Dạy cho trẻ những tri thức hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người.
- Dạy cho trẻ biết cách làm người: Hiếu thảo, sống có tình ngh
ĩa, cần
cù, chịu khó, kiên trì, năng đông, tự chủ sống có bản lĩnh, có đức tính khiêm
tốn, có lòng tự trọng, làm tốt trách nhiệm của con cái với cha mẹ, người thân
và đối với xã hội
Dạy trẻ phải được tiến hành từ khi tuổi còn thơ như cha ông ta đã dạy:
"Dạy con từ thuở còn thơ, ". Bởi lẽ những thói quen tốt của con người phải
thường hình thành từ khi còn nhỏ
, "tre già khó uốn" nếu có uốn được cũng rất
nhiều công sức.
Dạy trẻ cần phải hiểu con trẻ về mọi mặt không nên dùng vũ lực để uy
hiếp trẻ, cần phải dùng tình thương yêu, quan tâm chăm sóc, sự gương mẫu
của cha mẹ và những lời nói ngọt ngào của cha mẹ sẽ giúp cho trẻ hiểu được
những điều hay lẽ phải những việc nên làm và nhữ
ng điều không được phép
làm. Tuy nhiên cũng có những lúc lời nói ngọt ngào của cha mẹ không có tác
dụng thì cha mẹ phải dùng những biện pháp cứng rắn và nghiêm khắc.
Khi trẻ ở tuổi thiếu niên, tuổi dậy thì thì cha mẹ cần quan tâm đến cuộc
sống nội tâm của trẻ, cha mẹ phải luôn đóng vai người bạn lớn của con trẻ
mới dễ dàng dắt dẫn con, khuyên nhủ con có kết quả tốt hơ
n. Giai đoạn này
15
trẻ em không còn là trẻ con nhưng cũng chưa phải là người lớn vì vậy mà suy

nghĩ và hành động của trẻ chưa được chín chắn còn thiếu suy nghĩ và bồng
bột, đôi khi tỏ ra ngang bướng lạ thường. Các em còn có sự lẫn lộn giữa dũng
cảm và liều lĩnh, kiên trì với bảo thủ, độc lập với cô lập Cho nên nhiều
người còn gọi trẻ thiếu niên là "trẻ khó dạy", "trẻ n
ổi loạn" Vì vậy mà đòi
hỏi các bậc làm cha mẹ phải thường xuyên quan tâm gần gũi đối với các em,
thông cảm chia sẻ với các em những vướng mắc khó khăn của các em và uốn
nắn kịp thời những sai lệch ở các em. Dạy con không chỉ đơn giản là những
điều giáo huấn hàng ngày mà cha mẹ cần quan tâm đến việc lo cho con học
hành đến nơi đến chốn. Người xưa có câu: "Cho con học chữ
, học nghề là
thông minh nhất". Cha mẹ cần chú ý con mình học dốt dễ sinh chán học
nhưng có thể có khiếu khi học một nghề nào đó. Vì vậy mà không nên ép
buộc con trẻ theo ý muốn chủ quan của cha mẹ. Tuỳ theo năng lực sở trường
của con mà hướng cho con học chữ hay học một nghề nào đó phù hợp với con
trẻ. Nhưng dù học chữ hay học nghề thì cha mẹ cũng cần phả
i hiểu rằng trong
một xã hội phát triển trình độ văn hoá tối thiểu của con người, lao động phải
đạt được là hết THPT. Do đó mà dù làm gì đi chăng nữa thì cha mẹ cũng cần
phải tạo điều kiện, giúp đỡ con mình có được trình độ học vấn ở mức trung
bình đó.
Việc học tập của con trẻ đòi hỏi cha mẹ phải thường xuyên quan tâm,
theo dõi, đôn đố
c nhắc nhở, cha mẹ phải thường xuyên liên hệ với thầy cô để
nắm được tình hình học tập của con và có những biện pháp phối hợp với nhà
trường để giáo dục con một cách kịp thời. Đồng thời ở gia đình cha mẹ phải
quan tâm đến thời gian biểu của con, đến phương pháp học tập của con, đến
các nhiệm vụ mà con mình phải hoàn thành trước khi đến lớp để giúp con
mình học tập tốt (Nêu một vài ví dụ cụ thể để chứng minh).
b. Trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ

Con cái cần phải thấu hiểu công lao sinh thành và nuôi dưỡng của cha
mẹ phải đền ơn và trả nghĩa cha mẹ:
16
- Phải lễ phép với cha mẹ, vâng lời cha mẹ. Cha mẹ là người sinh thành
và nuôi dạy con nên người vì vậy con cái không được vô lễ với cha mẹ, cha
mẹ gọi phải dạ, bảo phải vâng. Nói chuyện với cha mẹ phải xưng con, nói lời
phải nhẹ nhàng lễ phép, không được xúc phạm cha mẹ, to tiếng với cha mẹ và
không được quyền từ bỏ cha mẹ. Cha mẹ là người sống lâu năm có nhiều kinh
nghiệm, từ
ng trải với đời nên những lời khuyên bảo của cha mẹ đều mang
tính khôn ngoan từng trải vì vậy mà con trẻ cần phải học tập và bắt chước
nghe theo những lời khuyên vàng ngọc đó.
Quan tâm chăm sóc cha mẹ, làm vui lòng cha mẹ khi cha mẹ ốm đau,
con cái phải tận tâm chăm sóc sức khoẻ cho cha mẹ, chăm lo đời sống vật
chất cũng như cuộc sống tinh thần cho bố mẹ. Con trẻ
phải hiểu rằng tỏ lòng
hiếu thảo đối với cha mẹ cốt ở sự thành tâm, thành ý chứ không phải ở hình
thức bề ngoài.
Phải luôn luôn tôn trọng cha mẹ, hỏi ý kiến, xin phép cha mẹ mỗi khi
làm những công to việc lớn trong gia đình đó cũng là tạo điều kiện cho cha
mẹ một tâm lý thoải mái bằng lòng với sự trưởng thành của con trẻ.
Tóm lại: Gia đình là một cộ
ng đồng người, một tế bào xã hội mà các
thành viên của nó liên kết với nhau bằng quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết
thống (giữa ông bà, cha mẹ và con cháu) bằng sinh hoạt chung và có trách
nhiệm với nhau, theo đạo lý và pháp luật. Gia đình là một hiện tượng xã hội
lịch sử được hình thành rất sớm và tồn tại bền vững cùng với sự tồn tại của xã
hội loài người. Gia đình có những chức năng xã hội củ
a nó đó là chức năng
duy trì nòi giống chức năng kinh tế, chức năng chăm sóc giáo dục trẻ em,

chức năng văn hoá và các chức năng xã hội khác.
17

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN
1. Theo Anh (chị) trong giai đoạn hiện nay số lượng trẻ em hư gia tăng
có đúng không? Trẻ em hư do nguyên nhân nào là chính?
2. Ly hôn hiện đang gia tăng ở thị xã, thị trấn, thành phố nơi trung tâm
văn hoá xã hội của địa phương tại sao vậy? Nguyên nhân nào là chủ yếu nhất?
3. Trong thời đại ngày nay với nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, mối quan hệ giữ
a các thành viên
gia đình trong một không gian sinh tồn đang có xu hướng tăng". Đúng hay
sai? Vì sao?
18
Chương 2
GIÁO DỤC GIA ĐÌNH
Thời gian giảng: Thời gian thảo luận:
MỤC ĐÍCH YÊU CẦU
Khi nghiên cứu chương này yêu cầu sinh viên phải thực hiện các yêu
cầu sau đây:
- Hiểu và nắm vững khái niệm giáo dục gia đình, các đặc điểm, nội
dung của giáo dục Gia đình. Nắm vững các nguyên tắc và phương pháp tổ
chức giáo dục gia đình.
- Trên cơ sở và nắm vững những nội dung tri thức nêu trên sinh viên
phải biết vận dụng để nghiên cứu, xem xét thực tế giáo dục gia đình Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay nhằm tìm cách phát huy ảnh hưởng của giáo dục gia
đình trong công tác chăm sóc giáo dục thế hệ trẻ.
- Để học tập, nghiên cứu có chất lượng sinh viên cần có thái độ nghiêm
túc khi nghiên cứu chương này đồng thời phải thực hiện đầy đủ những yêu
cầu chỉ dẫn của giảng viên.

NỘI DUNG BÀI GIẢNG
Gia đình là tế bào của xã hội gia đình tốt sẽ tạo nên mộ
t xã hội tốt đẹp
điều này đã được Lịch sử phát triển của loài người thừa nhận. Từ xa xưa các
thế hệ đi trước luôn luôn coi trọng vai trò của giáo dục gia đình đối với sự
phát triển của xã hội. Khổng Tử (551 - 479 TCN) nhà giáo dục nổi tiếng của
Trung Quốc đã nói: "Tu thân tề gia, trị quốc bình thiên hạ".
Ngày nay trong xu thế phát triển của thời đại thì giáo dục gia
đình lại
càng có vai trò quan trọng Hồ Chí Minh đã dạy "Giáo dục Nhà trường dù tốt
đến mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng
không hoàn toàn".
Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên và là môi trường giáo dục suốt
đời đối với sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Sức mạnh to lớn
19
của giáo dục gia đình là giáo dục bằng tình cảm yêu thương chăm sóc, bằng
sự gương mẫu của những người làm cha mẹ, bằng sự kết hợp giữa quyền quy
của người cha và tình thương yêu chăm sóc của người mẹ. Thông qua hoạt
động sống, sinh hoạt lao động và học tập trong gia đình.v.v Nhằm giúp cho
mọi thành viên hình thành và phát triển nhân cách con người theo những tiêu
chí mà gia đình mong đợi và phù hợp với những yêu cầu c
ủa xã hội.
I. KHÁI NIỆM GIÁO DỤC GIA ĐÌNH
1. Định nghĩa
Như chúng ta đã biết giáo dục là một quá trình tác động có mục đích,
có kế hoạch của nhà giáo dục nhằm giúp cho thế hệ trẻ tự tổ chức, tự điều
khiển quá trình hình thành và phát triển nhân cách của mình theo yêu cầu,
mục đích và nhiệm vụ giáo dục đã đề ra do đó ta có định nghĩa:
"Giáo dục gia đình là một quá trình tác độ
ng có mục đích có kế hoạch

của cha mẹ và những người thân trong gia đình tới thế hệ trẻ nhằm giúp các
em biết tự tổ chức, tự điều khiển quá trình hình thành và phát triển nhân cách
của mình để hình thành và phát triển các năng lực người và những phẩm chất
tốt đẹp của con người theo yêu cầu của xã hội".
2. Các khâu trong giáo dục gia đình
* Hình thành ý thức cá nhân
Hình thành ý thức cá nhân là làm cho thế hệ trẻ
trong gia đình hiểu
được đạo lý của gia đình là gì? Cùng hàng loạt các chuẩn mực xã hội giúp họ
nhận thức được cái tốt, cái xấu, nhận thức rõ về vai trò trách nhiệm, vị thế của
mỗi thành viên trong gia đình. Vai trò bổn phận của người làm cha, làm mẹ,
làm con cái trong gia đình. Cùng với sự hiểu biết về gia lễ, gia phong, gia
pháp.v.v Hiểu những quy tắc ứng xử trong gia đình, hiểu được đạo lý làm
con phải lấ
y chữ hiếu làm đầu, vợ chồng phải lấy chữ chung thuỷ làm cốt lõi.
Chỉ có nhận thức đầy đủ, sâu sắc thì con người mới tránh được những sai lầm,
thiếu sót trong cuộc sống gia đình, trong quan hệ ứng xử với những người
xung quanh và trong mọi hành động.
20
* Hình thành tình cảm niềm tin
Là khâu giúp cho mọi thành viên trong gia đình có được thái độ rung
động trước những vấn đề của cuộc sống gia đình và các vấn đề xã hội. Hình
thành cho thế hệ trẻ tình yêu thương đối với ông bà, cha mẹ và những người
thân trong gia đình. Tình yêu nam nữ, tình yêu quê hương, tình cảm thầy trò,
tình yêu thương đồng loại đối với cộng đồng, giai cấp, dân tộc. Chính những
tình cảm đó sẽ là động lực thôi thúc con ngườ
i đi đến chân lý. Trong giáo dục
gia đình tình yêu thương của cha mẹ đối với con trẻ và sự kính yêu của con
trẻ đối với cha mẹ sẽ là sợi dây liên kết tâm hồn của các thành viên trong gia
đình đối với nhau thành một tổ ấm.

Nên nhớ rằng tình yêu thương quan tâm chăm sóc của cha mẹ đối với
con trẻ là liều thuốc diệu kỳ, là động lực để cha mẹ dạy con nên người và là
một thứ
keo gắn kết giữa cha mẹ và con trẻ. Một số gia đình hiện nay không
tạo ra được điều đó nên đã để xảy ra nhiều hiện tượng phi đạo đức: Con cái
không nghe lời cha mẹ cãi lại cha mẹ, hành hạ cha mẹ v.v.
* Rèn luyện hành vi và thói quen
Hành vi và thói quen là thước đo của ý thức, tình cảm và nhân cchs của
con người. Con người nói mà không làm là con người sáo rỗng tình thương
yêu đối với cha mẹ phải được thể hiện b
ằng sự kính trọng lễ phép, sự quan
tâm chăm sóc cha mẹ khi khoẻ cũng như khi ốm đau già cả.
Thước đa của sự giáo dục gia đình là những hành vi, cử chỉ ứng xử thật
khớp giữa lời nói và việc làm của các thành viên trong gia đình. Trong thực tế
cuộc sống vẫn tồn tại hiện tượng nói một đằng làm một nẻo vì vậy mà mục
đích chính của giáo dụ
c gia đình là rèn luyện các hành vi, hành động mang
tính chất gia lễ, gia phong, gia giáo cho các thành viên trong gia đình.
Sự giáo dục này phải được bắt đầu ngay tư khi đứa trẻ mới sinh ra bằng
việc tập luyện các kỹ năng về hành vi văn minh, văn hoá trong ăn uống, đi,
ngồi, nằm đứng. Các hành vi lễ độ với ông bà, cha mẹ, thầy cô và những
người lớn tuổi sao cho phù hợp với truyền thống và phong tục tập quán của
21
người Việt Nam trong thời hiện đại. (Từ cách vái chào, cách bắt tay, ôm hôn
phù hợp với vị thế ).
Quá trình rèn luyện đó phải đi đến hình thành thói quen. Thói quen là
hành vi đã trở thành nhu cầu tình cảm nên nó có tính bền vững nó khó hình
thành nên cũng rất kho vứt bỏ. Thói quen tốt là vốn quý giá do con người hoạt
động, tích luỹ mới có. Nó sẽ được dùng trong suốt cuộc đời của mỗi con
người. Vì vậy mà các bậc làm cha mẹ cần quan tâm tới việc hình thành thói

quen t
ốt cho con cái.
3. Đặc điểm của giáo dục gia đình
Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên và là môi trường giáo dục
suốt đời đối với sự hình thành và phát triển nhân cách con người, cha mẹ
vừa là người sinh thành đồng thời là thày cô giáo đầu tiên đối với trẻ em.
Thời thơ ấu là thời kỳ rất quan trọng của sự phát triển tâm hồn con người.
Cha ông ta thường nói "Dạy con từ thủa còn thơ" thực tiễ
n đã chứng minh
vai trò vô cùng quan trọng của giáo dục gia đình trong giai đoạn đầu tiên của
sự hình thành và phát triển nhân cách con người đặc biệt là giai đoạn từ lúc
sơ sinh đến lúc 5 tuổi.
Qua nghiên cứu các chuyên gia giáo dục đã khẳng định rằng: Một số
những thói quen tốt của con người nếu không được hình thành ở giai đoạn
trước 5 tuổi thì về sau rất khó hình thành và nếu có hình thành được thì đòi
hỏi bả
n thân đối tượng giáo dục phải có nghị lực, có sự cố gắng hết sức mình
mới hy vọng thành công.
+ Thế mạnh của giáo dục gia đình là giáo dục bằng tình cảm ruột thịt
giữa cha mẹ và con đẻ. Tình yêu thương sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ
đối với con trẻ tạo nên một sức mạnh cảm hoá vô cùng to lớn không thể gì so
sánh nổi. Bởi vì điều quan trọng nhất trong tâm hồn tr
ẻ em đang lớn lên là:
Tình yêu thương trong một gia đình mà cha mẹ và con cái yêu thương nhau
đầm ấm mọi lời nói, việc làm của cha mẹ đều ảnh hưởng sâu sắc đến con trẻ.
22
Con trẻ thường dõi theo cha mẹ từng bước đi, đón ngay từ ánh mắt nụ cười
của cha mẹ, uống ngay từng lời khuyên bảo ân cần của cha mẹ v.v.
Đặc điểm này khiến cho giáo dục của gia đình tốt hay xấu không phải
là do cha mẹ có nhiều hay ít thời gian tiếp xúc dạy dỗ con trẻ mình chủ yếu là

do cha mẹ quan tâm đến việc giáo dục con trẻ nhiều hay ít. Điều này đã bác
b
ỏ lối biện bạch của một số bậc cha mẹ nói rằng: "Con tôi chưa ngoan chưa
tốt vì tôi bận quá nhiều việc ít thời gian ở nhà để tiếp xúc với con".
Nếu thực sự quan tâm giáo dục con trẻ thì dù có thời gian ít vào dạy
con tốt. Trái lại ít quan tâm giáo dục con em, không biết cách giáo dục con
em thế nào cho đúng thì có suốt ngày bên cạnh con cũng không dạy con
nên người.
+ Những tác động giáo dục của gia đình đến trẻ em diễ
n ra mang tính
phức hợp từ nhiều phía: Đó là ảnh hưởng của truyền thống gia đình, bầu
không khí tâm lý của gia đình, nếp sống của gia đình, hoàn cảnh gia đình, ảnh
hưởng từ phía người cha, người mẹ.v.v Những tác động trên đan xen vào
nhau có khi hỗ trợ cho nhau, có khi lại cản trở tác động của nhau hoặc làm vô
hiệu quá trình giáo dục của nhau. Vì vậy mà cha mẹ và những người lớn tuổi
trong gia đình c
ần phải có sự thống nhất với nhau trong quá trình giáo dục trẻ
em. (Nêu một vài ví dụ chứng minh).
+ Quá trình giáo dục trẻ em trong gia đình diễn ra trong nhiều giai đoạn
khác nhau ứng với mỗi thời kỳ phát triển tâm lý của trẻ tại các thời điểm đó
nội dung, phương pháp giáo dục của gia đình phải có sự khác nhau.
Quá trình giáo dục con trẻ mang tính lâu dài, đòi hỏi cha mẹ và những
người lớn tuổi trong gia đ
ình cần phải kiên trì chờ đợi sự tiến bộ ở trẻ em, tin
tưởng vào sự trưởng thành khôn lớn của trẻ em. Đồng thời cũng đòi hỏi các
bậc làm cha mẹ phải thường xuyên quan tâm củng cố rèn luyện những hành vi
thói quen mới được hình thành ở trẻ em để nó trở thành những phẩm chất tốt
của người công dân sau này.
23
+ Quá trình giáo dục trẻ em trong gia đình chịu sự chế ước của giáo dục

xã hội, chịu sự định hướng của giáo dục nhà trường và phụ thuộc khá lớn vào
khả năng tự giáo dục của bản thân mỗi người. Vì vậy đi đôi với việc giáo dục
con trẻ cha mẹ phải thường xuyên quan tâm tới chủ trương chính sách giáo
dục của Đảng và nhà nước quan tâm tới việc phối h
ợp với nhà trường với các
tổ chức xã hội, đoàn thể để giáo dục trẻ cho phù hợp với những định hướng
giá trị của xã hội (Phân tích một vài ví dụ để minh hoạ).
II. NỘI DUNG GIÁO DỤC GIA ĐÌNH
1. Giáo dục đạo đức
Cha mẹ và những người lớn tuổi trong gia đình cần phải giáo dục trẻ
em trở thành những người có ích cho xã hội. Đó là giáo dục cho trẻ em có mộ
t
nhân cách toàn vẹn phát triển cả Đức lẫn Tài trong đó phải lấy Đức làm gốc.
Theo quan điểm của người Trung Quốc thì con người có Đức phải có các đức
tính sau: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
+ Nhân: là lòng thương người hay nói một cách khác là con người phải
có lòng nhân ái phải biết sống cho mọi người không chỉ cho riêng mình,
người nhân từ đi đến đâu cũng được quý trọng và ngưỡng mộ.
+ Lễ: là những phép tắc bắt buộ
c con người phải tuân theo để sống đúng
với đạo lý làm người, phải tôn trọng pháp luật biết lễ phép với người trên, ôn
hoà nhường nhịn kẻ dưới, biết thờ cha kính mẹ hoà thuận với anh em với bà
thân thuộc. Đến trường phải biết kinh trọng thầy cô, yêu quý bạn bè, ra đường
phải biết kính trọng và giúp đỡ người già cả, người tàn tật. Người có lễ là người
có nếp sống vă
n minh, lịch sự đi đến đâu cũng được nhiều người yêu quý.
+ Nghĩa: là làm theo lẽ phải ứng xử theo đường lối đúng đắn biết sống
có ơn nghĩa, phải ăn ở hiếu thảo với cha mẹ, cố gắng đền đáp công ơn sinh
thành, dưỡng dục của cha mẹ, dù trong muôn vàn khó khăn cũng phải làm
cho cha mẹ vui lòng, đối với thầy cô giáo đã có công dạy dỗ nên ng

ười thời
phải trọn đời kính trọng và nhớ ơn sâu sắc đối với người thân phải biết sống
có ân nghĩa.
24
+ Trí: là sự thông minh là phần hiểu biết khôn ngoan chứa trong đầu óc
của con người. Người có trí là người thông minh có học vấn biết phân biệt
phải trái ở đời.
+ Tín: là sự tin cậy sự giữ lời hứa một cách ngay thẳng không hề gian
dối. Làm người phải biết trọng chữ Tín đó là danh dự của mình. Người biết
giữ chữ Tín là người có lòng tự trọng, không để người khác khinh bỉ mình.
Người có chữ tín luôn
được mọi người yêu quý. Cha mẹ cần giáo dục cho con
cái biết trọng lời hứa đó là đức tính tốt đẹp mà ai cũng phải rèn luyện trong cả
cuộc đời. Muốn làm tốt được điều này đòi hỏi cha mẹ phải luôn luôn giữ lời
hứa đối với con trẻ.
Ngày nay đứng trước yêu cầu của xã hội về nội dung giáo dục đạo đức
đòi hỏi các bậc làm cha mẹ
cần phải giáo dục cho con trẻ những nội dung
sau đây:
+ Có hiếu với cha mẹ, hoà thuận với anh em có tình làng nghĩa xóm.
+ Trung với nước có nghĩa với nhân dân.
+ Sống làm việc chí công vô tư tuân theo hiến pháp và pháp luật.
Cụ thể là trong từng gia đình cần phải giáo dục con trẻ:
- Biết yêu thương bố mẹ và người thân trong gia đình.
- Biết kính trọng thầy cô người đã thường xuyên dạy dỗ dìu dắt con.
- Yêu làng xóm quê hương, ch
ế độ xã hội chủ nghĩa, yêu trường lớp.
- Chấp hành tốt mọi nội quy, quy chế của nhà trường, pháp luật của
nhà nước.
- Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm, tôn trọng quy tắc sinh sống của gia đình.

- Biết ơn những người có công với đất nước, biết giữ gìn phát huy
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của gia đình biết dũng cảm đấu tranh chống
cái xấu và đấu tranh bảo vệ Tổ quốc.
- Biết làm tròn bổn phận của người con trong gia đình và người công
dân trong xã hội.
25
2. Giáo dục trí tuệ
Nhiệm vụ của cha mẹ trong gia đình là phải giúp trẻ hình thành thế giới
quan khoa học phát triển năng lực nhận thức, năng lực hoạt động trí tuệ, phát
triển trí thông minh sáng tạo, năng lực độc lập suy nghĩ và giải quyết vấn đề
trong học tập và trong cuộc sống v.v. Giúp trẻ biết nhìn nhận về thế giới
xung quanh đang biến đổi.
Để thự
c hiện tốt nội dung trên: cha mẹ cần phải tổ chức tốt hoạt động
học tập và các hoạt động khác cho con em cụ thể là cha mẹ canà giáo dục
cho con:
- Có động cơ thái độ học tập đúng đắn, có phương pháp học tốt.
- Tạo điều kiện về thời gian về phương tiện, cơ sở vật chất để giúp đỡ
con học tapạ (góc học tậ
p + sách vở, bút mực ).
- Rèn luyện thói quen học tập tự giác, có nề nếp học tập.
- Động viên khuyến khích trẻ tích cực học tập.
Bên cạnh đó cha mẹ cần phải giúp trẻ về nội dung và phương pháp học
tập có phương pháp ghi nhớ bài nhanh, giải bài tập sáng tạo giao thêm bài tập
ngoài những bài thầy cô giáo đã giao ở trường. Quan trọng hơn cả là cha mẹ
phải hình thành cho trẻ thói quen học tập độc l
ập và thói quen làm việc trí óc
một cách độc lập sáng tạo, giúp trẻ khả năng tự tổ chức hoạt động học tập của
mình trong các hoàn cảnh điều kiện khác nhau ứng với từng giai đoạn lứa
tuổi. Cha mẹ có phương pháp tổ chức và giáo dục trí tuệ cho trẻ theo từng giai

đoạn, lứa tuổi, hoàn cảnh.
- Về giúp con trẻ có phương pháp học tập ở nhà cha mẹ cầ
n chú ý
Các điểm sau đây:
* Chuẩn bị bài tới lớp:
- Ôn bài cũ + học lí thuyết
- Làm bài tập
- Chuẩn bị bài mới theo hướng dẫn của giáo viên.
* Học bài: - Đọc kỹ SGK, vở ghi trên lớp

×