Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Một số giải pháp tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào phát triển nông thôn của Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.88 KB, 74 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời nói đầu
Trong quá trình xây dựng đất nước, Đảng và Chính phủ ta luôn theo phương
châm lấy dân làm gốc, mọi vấn đề đều do “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra”. Phát triển nông thôn dựa vào cộng đồng nhằm phát huy sức mạnh của cộng
đồng dân cư, nơi mà người dân có tính gắn kết cao. Ngày nay phát triển nông thôn
chú trọng nhiều hơn đến việc thực hiện dân chủ cơ sở ở địa phương, diễn ra ở tất cả
mọi địa bàn cấp thôn và xã.
Một trong những lĩnh vực cần có sự nghiên cứu nhiều hơn nữa đó là việc tìm
ra các mô hình phát triển nông thôn phù hợp với bối cảnh của nông thôn cấp cơ sở.
Bên cạnh đó, các kinh nghiệm đã có cũng chỉ ra rằng các cộng đồng nông thôn chỉ
có thể phát triển có hiệu quả và bền vững nếu như mô hình phát triển nông thôn
được xây dựng trên cơ sở huy động được nguồn nội lực của bản thân cộng đồng
nông thôn cũng như nhắm đến việc lấy phát triển con người làm trọng tâm.
Qua thời gian tìm tòi thực tế trong thời gian em đi thực tập em xin chọn đề
tài: “ Một số giải pháp tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào phát triển
nông thôn của Việt Nam hiện nay ”. Nội dung chuyên đề gồn 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận chung về sự tham gia của cộng đồng và pháp triển nông
thôn
Chương II :Đánh giá thực trạng sự tham gia của cộng đồng vào phát triển nông
thôn của Việt Nam qua thử nghiệm mô hình phát triển nông thôn dựa vào cộng
đồng
Chương III : Một số giải pháp tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào phát triển
nông của Việt Nam hiện nay
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn thầy PGS.TS Nguyễn Tiến Dũng Bộ môn
Kinh tế phát triển - đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu này
SVTH: Vũ Thị Huyền Trang Lớp: KTPT 48B
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG


VÀ PHÁP TRIỂN NÔNG THÔN
I. Các khái niệm và định nghĩa cơ bản
1. Phát triển nông thôn
Hiện nay , trên thế giới vẫn chưa có định nghĩa chuẩn xác về nông thôn, có
rất nhiều định nghĩa khác nhau.
Khi định nghĩa về nông thôn người ta thường so sánh nông thôn với đô thị.
Có ý kiến cho rằng, khi xem xét nông thôn dùng chỉ tiêu mật độ dân số, số lượng
dân cư: ở nông thôn thấp hơn so với thành thị. Có ý kiến dùng chỉ tiêu trình độ cơ
cấu hạ tầng để phân biệt nông thôn với thành thị.
Quan điểm khác cho rằng nên dựa vào chỉ tiêu trình độ tiếp cận thị trường,
phát triển hàng hoá để xác định vùng nông thôn (nông thôn thấp hơn).
Lại có quan điểm cho rằng, vùng nông thôn là vùng mà dân cư ở đây làm
nông nghiệp là chủ yếu.
Như vậy có thể thấy rằng, khái niệm về nông thôn chỉ mang tính chất tương
đối, thay đổi theo thời gian và theo tiến trình phát triển kinh tế, xã hội của các quốc
gia trên thế giới. Khái niệm nông thôn bao gồm nhiều mặt có quan hệ chặt chẽ với
nhau.
Có thể hiểu: “Nông thôn là vùng khác với vùng đô thị ở chỗ là trên đó sống
và làm việc một cộng đồng trong đó chủ yếu là nông dân, có mật độ dân cư thấp, có
cơ cấu hạ tầng kém phát triển hơn, có trình độ tiếp cận thị trường và sản xuất hàng
hoá thấp hơn “ ( Kinh tế nông thôn, 1995).
SVTH: Vũ Thị Huyền Trang Lớp: KTPT 48B
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2. Cộng đồng
Cộng đồng là những công dân cư trú trong một khu vực địa lý nhất định hợp
tác với nhau vì lợi ích chung hoặc chia sẻ những văn hóa chung. Cộng đồng có 3
đặc trưng: cùng trong khu vực địa lý, hợp tác với nhau, chia sẻ những giá trị văn
hóa chung.
3. Phát triển nông thôn dựa vào cộng đồng

Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về phát triển (nông thôn) theo định
hướng cộng đồng, và có một số cách dùng từ khác nhau như phát triển theo định
hướng cộng đồng, phát triển dựa vào cộng đồng, phát triển do cộng đồng làm chủ,
và phát triển lấy người dân làm trung tâm. Phát triển theo các tên gọi khác nhau này
đều có chung bản chất là phát triển theo định hướng cộng đồng.
Phát triển theo định hướng cộng đồng cho rằng các cộng đồng địa phương
khi có được quyền ra các quyết định và quản lý các nguồn lực trong tay sẽ thực hiện
việc phát triển tốt hơn.
Theo định nghĩa của Ngân hàng thế giới, phát triển do cộng đồng làm chủ
phụ thuộc vào việc xây dựng mối quan hệ đối tác giữa các tổ chức cộng đồng, các
tổ chức phi chính phủ với các đơn vị cung cấp các dịch vụ tư nhân hay công cộng
(như dịch vụ khuyến nông). Trong điều kiện của Việt Nam, có thể hiều trong điều
kiện khi chính quyền xã, các thôn và các tổ chức cộng đồng đang giữ vai trò chủ
đạo trong việc lựa chọn, lập kế hoạch và quản lý các chương trình, các hoạt động
phát triển địa phương. Điều đó còn bao gồm cả việc chuyển quyền chủ đầu tư và sử
dụng tài chính cho cấp địa phương.
Trong định nghĩa khác thì nhấn mạnh đến việc ra quyết định và thúc đẩy sự
tham gia của người dân như những vấn đề quan trọng nhất. Khi đó phát triển nông
thôn dựa vào cộng đồng là việc tập trung phát triển nguồn nhân lực, phát triển con
người để họ có đủ năng lực đứng ra chủ động tổ chức việc phát triển của bản thân.
Việc nâng cao năng lực được thực hiện qua một quá trình liên tục. Vai trò của các
bên liên quan khác nhau có sự thay đổi. Các tổ chức chính quyền, tổ chức cấp trên
SVTH: Vũ Thị Huyền Trang Lớp: KTPT 48B
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
từ vị trí lãnh đạo chuyển sang làm người hỗ trợ. Người dân, cộng đồng địa phương
từ vị trí cấp dưới, thực hiện theo định hướng, mệnh lệnh từ trên đưa xuống chuyển
sang người làm chủ, trực tiếp lãnh đạo tổ chức thực hiện các hoạt động. Vấn đề
quan trọng nhất trong phát triển nông thôn dựa vào cộng đồng liên quan đến sự
tham gia của người dân, cộng đồng địa phương vào các hoạt động tại địa phương.

4. Khái niệm về vấn đề liên quan “ sự tham gia ” trong phát triển
4.1. Những vấn đề chung về sự tham gia trong phát triển
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện phát triển theo định hướng cộng
đồng từ những năm 1970 thì các khái niệm như “sự tham gia” hay “tăng cường
quyền lực” đã được sử dụng rất phổ biến, nhất là trong các tài liệu về các biện pháp
xoá đói giảm nghèo và cải thiện hiệu quả và tính bền vững của các biện pháp thúc
đẩy sự phát triển. Tuy vậy không có một định nghĩa duy nhất về “sự tham gia” để
có thể áp dụng cho tất cả các chương trình hay dự án phát triển, việc diễn giải bản
chất cũng như quá trình tham gia phụ thuộc vào yêu cầu phát triển của mỗi tổ chức.
Cohen và Uphoff cho rằng “liên quan đến phát triển nông thôn... sự tham gia
bao gồm sự liên quan của người dân vào quá trình ra quyết định, vào việc thực hiện
các chương trình, sự chia sẻ lợi ích có được từ chương trình phát triển; và/hoặc các
cố gắng để đánh giá những chương trình như vậy”.
OECD cho rằng “sự phát triển có người dân tham gia là việc xây dựng mối
quan hệ đối tác trên cơ sở thảo luận giữa các bên liên quan khác nhau, trong đó một
chương trình sẽ được các bên liên quan cùng nhau thiết lập lên, và ý kiến, kiến thức
của địa phương được tôn trọng. Điều này cho thấy kế hoạch của dự án sẽ được đàm
phán qua lại hơn là bị áp đặt từ bên ngoài. Nhờ vậy mà người dân trở thành “các
nghệ sĩ thực thụ”-những người tham gia tích cực, thay vì chỉ là những người hưởng
lợi”-tham gia một cách thụ động.
Một số tác giả thông qua các công việc nghiên cứu của mình đã đưa ra các
định nghĩa và các nguyên tắc của lý thuyết về phát triển với sự tham gia của người
SVTH: Vũ Thị Huyền Trang Lớp: KTPT 48B
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
dân và cộng đồng địa phương. Hai tác giả đã xuất bản nhiều cuốn sách và bài báo
về lý thuyết đó là Norman Uphoff và Robert Chambers.
- Norman Uphoff có được các kinh nghiệm thực tế trong quá trình làm việc
tại các dự án thuỷ lợi tại Xri-lan-ca và Nê pan. Các nghiên cứu của ông tập trung
vào các vấn đề về sự tham gia của cộng đồng địa phương trong các hoạt động phát

triển. Tuy vậy khái niệm về sự tham gia của người dân còn tương đối rộng khi ông
cho rằng chỉ cần có sự liên quan cũng được coi như sự tham gia.
- Robert Chambers có rất nhiều kinh nghiệm về lĩnh vực phát triển ở châu á
và châu phi. Năm 1983, ông đã xuất bản cuốn sách được nhiều người biết tới với cái
tên “Phát triển nông thôn – hãy bắt đầu từ những người cùng khổ” nhằm vào việc
thay đổi nhận thức về những người nghèo ở nông thôn.
Năm 1994, ông đã viết một loạt các bài báo giới thiệu về Đánh giá nông thôn
với sự tham gia của người dân (PRA), trong đó cán bộ của các tổ chức bên ngoài
chỉ hoạt động như những người trợ giúp, trong khi người dân và cộng đồng địa
phương mới là những người thực hiện và quản lý quá trình phát triển của chính họ,
thông qua một loạt các công cụ được liên tục cải biến và hoàn thiện.
Trong các tác phẩm của mình, ông cũng luôn nhấn mạnh rằng quan điểm và
cách hành xử của cán bộ hỗ trợ còn quan trọng hơn nhiều so với kỹ năng của họ
trong việc áp dụng phương pháp này. Cùng với thời gian thì PRA đã trở thành một
phương pháp phát triển nông thôn (Chambers, 1997).
Các lĩnh vực tham gia thay đổi tùy theo mục tiêu của người nghiên cứu. Tuy
nhiên, việc ra quyết định luôn được xem là lĩnh vực quyết định nhất cho bất kì mục
tiêu nào và không đựơc bỏ qua. Cohen và Uphoff (1979) đã đưa ra khung phân tích
để giám sát vai trò của tham gia trong các dự án và chuwong trình phát triển. Họ
thấy có 4 lĩnh vực tham gia: (1) ra quyết định, (2) Thực hiện, (3) Hưởng lợi, (4)
Đánh giá.
SVTH: Vũ Thị Huyền Trang Lớp: KTPT 48B
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trong khi đó, Finsterbusch và Wiclin(1987) nhận thấy dự án có 3 pha và 5
hình thức tham gia là (1) Lập kế hoạch (nguyên gốc và thiết kế), (2) Thực hiện
( thực hiện và thiết kế lại), và (3) bảo dưỡng. Khung phân tích Cohen và Uphoff có
mục tiêu tham gia và khung phân Finsterbusch và Wiclin có mục tiêu dự án, nhưng
chúng tương hợp để phù hợp với thực tế.
Trong nghiên cứu sự tham gia của địa phương về các hoạt động phát triển ở

nông thôn Thái Lan, Pong quan (1992) quan sát thấy tham gia bao gồm thành phần
sau : đóng góp, hưởng lợi, liên quan đến ra quyết định và đánh giá. Tham giam
hưởng lợi trong đánh giá dự án là không đánh kể nên điều này có thể bỏ qua trong
nghiên cứu của chúng ta, điều này cũng thấy trong nghiên cứu của Finsterbusch và
Wiclin (1987)
4.2 Các tiêu chí đánh giá sự tham gia của cộng đồng (Với từng dự án cụ thể )
4.2.1. Tính minh bạch và công khai
* Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở
Việc thực hiện dân chủ cấp xã được thực hiện trên nguyên tắc: Bảo đảm trật
tự, kỷ cương trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật; bảo đảm quyền của nhân dân
được biết, tham gia ý kiến, quyết định, thực hiện và giám sát việc thực hiện dân chủ
ở cấp xã; bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân; công khai, minh bạch trong quá trình thực hiện dân chủ ở cấp xã; bảo đảm sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Các nội dung cần công khai để nhân
dân biết bao gồm: kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phương án chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và dự toán, quyết toán ngân sách hàng năm của xã; dự án, công trình đầu
tư thứ tự ưu tiên, tiến độ thực hiện, phương án đền bù hỗ trợ giải phóng mặt bằng,
tái định cư liên quan đến dự án, công trình trên địa bàn cấp xã; quy hoạch kế hoạch
sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh, quy hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp
xã. Ngoài ra người dân có quyền được biết việc quản lý, sử dụng các loại quỹ,
khoản đầu tư, tài trợ theo chương trình, dự án đối với cấp xã; các khoản huy động
SVTH: Vũ Thị Huyền Trang Lớp: KTPT 48B
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhân dân đóng góp; chủ trương, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát triển sản
xuất, xóa đói giảm nghèo; phương thức và kết quả bình xét hộ nghèo được vay vốn
phát triển sản xuất, trợ cấp xã hội, xây dựng nhà tình thương, cấp thẻ BHYT.
Đối tượng mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do chính
quyền cấp xã thu trực tiếp. Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải
quyết các công việc liên quan đến nhân dân do chính quyền xã trực tiếp thực hiện.

Đề án điều chỉnh địa giới hành chính liên quan trực tiếp đến cấp xã. Kết quả thanh
tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng của cán bộ, công chức cấp xã, cán
bộ thôn bản...
* Các tiêu chí đánh giá:
+ Tỷ lệ dân cư biết đến dự án.
+ Mức độ tham gia của người dân.
(Lượng hóa sự tham gia của người dân)
4.2.2. Tính công bằng
VD: 1 dự án xóa đói giảm nghèo tính công bằng thể hiện ở chỗ: phải xem
xét đối tượng hưởng thụ của dự án có đúng với mục tiêu của dự án không, những
giải pháp để các đối tượng được hưởng sự công bằng.
4.2.3 Tính hiệu quả
Xem xét việc sử dụng các đầu vào của dự án đã được hiệu quả và hợp lý
chưa?; chí phí để được đầu ra mong muốn; so sánh hiệu quả đạt được và chi phí bỏ
ra
VD : 1 dự án xóa đói giảm nghèo đánh giá hiệu quả qua : bao nhiêu % vốn
được giải ngân; bao nhiêu % người dân được vay vốn giảm nghèo; bao nhiêu %
thoát nghèo nhờ vay vốn giảm nghèo.
4.2.4. Tính bền vững
SVTH: Vũ Thị Huyền Trang Lớp: KTPT 48B
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tăng năng lực của người dân; chính quyền… Các hoạt động phát triển tiếp
tục phát huy tác dụng khi dự án kết thúc
4.3. Xác định mức độ của sự tham gia
Có các phương pháp khác nhau để xác định phạm vi tham gia. Một số giá trị
được gán cho một chỉ số tham gia, sau đó thông qua các phưong trình tương ứng
phạm vi tham gia trong mỗi lĩnh vực và sau đó là tổng thể đã được xác định. Khi
nghiên cứu tham gia của người dân trong quản lý rừng ở Ấn Độ, Lise (2000) nhận
thấy rằng người dân địa phương đã tham gia vào các hoạt động khác nhau. Các hoạt

động được xem là chỉ số tham gia bao gồm : trồng rừng, đóng góp cho rừng,.. Trong
trường hợp này, mức độ tham gia là tổng của các chỉ số tham gia. Nghiên cứu
không phân biệt lĩnh vực tham gia như đã nêu ở trên của Cohen hoặc Finster busch.
Tuy nhiên , dường như là các hoạt động liên quan đến ra quyết định đã được nhấn
mạnh. Các hoạt động rất quan trọng đó là: hội Họp, tham gia hội họp, thỏa thuận
với các quyết định... vv.
Trong đó, khi nghiên cứu phát triển tham gia ở vùng nông thôn Nigeria,
Okarfor(1997) nhận thấy 4 lĩnh vực tham gia, và do đó 4 yếu tố để đo phạm vi tham
gia là: (1) tham giam vào cuộc họp của dự án,(2) tham gia vào giám sát các dự án
phát triển;(3) đóng góp vốn; và (4) tham gia vào việc ra quyết định. Phạm vi tham
gia được đo bằng phản ứng của người được hỏi thông qua cho điểm mức độ tham
gia theo thang có 3 điểm ; tương ứng với 5 là tham gia rất chặt ; 3 là tham gia từng
phần; và 1 là không tham gia. Chỉ số tham gia(PI) sau đó được tính dựa vào giả thiết
rằng những điểm trả lời về tất cả 4 yếu tố tạo thành chỉ số thực nghiệm về mức độ
tham gia. Theo Thuật ngữ thống kê chỉ số PI cho dự án phát triển như sau:
100
1
1
x
D
d
PI
N
i
i
N
i
i
d



=
=
=
SVTH: Vũ Thị Huyền Trang Lớp: KTPT 48B
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trong đó PI
d
là chỉ số tham gia cho dự án phát triển; N là số yếu tố để đo
mức độ tham gia cho dự án phát triển; di là điểm thực tế do những người được hởi
trả lời về từng yếu tố; và Di là điểm cực đại của mỗi yếu tố.
Trong tài liệu nghiên cứu về tổ chức quản lý tài nguyên có sự tham gia trong
quản lý rừng cộng đồng ở Ấn Độ, Seker (2001) đã phân tích sự tham gia gồm có 3
dạng quản lý tài nguyên: thiết lập qui tắc; thực hiện qui tắc; và bảo dưỡng tài
nguyên. Ông đã phát hiện có 7 chỉ số tham gia, trong số đó có 5 biến số tham gia
trực tiếp nư thạm gia vào việc trồng cây, mức độ đóng góp tài chính, và vv... Còn 2
chỉ số còn lại là "bản chất " và "mức độ" tham gia vào các hoạt động trồng rừng.
Chỉ số tham gia này đã đựơc đo bằng thang 5 điểm từ 1 = "không" hoặc không có
gì, đến 5 = cao/rất tốt.
Sự tham gia có thể áp dụng cho rất nhiều các hoạt động để tăng hiệu quả của
các hoạt động hoặc dự án.
Sự tham gia cũng đặc trưng cho quản lý tài nguyên thiên nhiên (Lise 2000;
Dupar 2002; Seker 2001;) . Sự tham gia cũng đóng vai trò đáng kể trong xây dựng
cơ sở hạ tầng, như công trình thủy lợi, giao thông, hệ thống điện, và vv...
( UNCDF; Feachem, 1980; Jogresen et al., 2001; lam 2001). Nó cũng có vai trò tích
cực trong các hoạt động văn hóa xã hội như là các dụ án về y tế, giáo dục ...vv.(Rao
et al., 2004)
II. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia và mô hình phát triển nông thôn
dựa vào cộng đồng

1. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia
1.1. Điều kiện hộ gia đình
Trong nhiều nghiên cứu khác cũng cho thấy điều kiện hộ gia đình ảnh hưởng
đến sự tham gia của người dân trong các họat động phát triển. Trong khuôn khổ
SVTH: Vũ Thị Huyền Trang Lớp: KTPT 48B
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nghiên cứu về sự tham gia Cohen và Uphoff (1979) đã liệt kê các đặc trưng hộ gia
đình ảnh hưởng tới sự tham gia. Đó là : độ tuổi, giới tính, tình trạng hôn nhân, điều
kiện kinh tế, quan hệ xã hội, và vv... Trong nghiên cứu khác, W. Alters và các cộng
sự (1999) thấy rằng lịch sử di dân và định cư của hộ gia đình cũng ảnh hưởng tới sự
tham gia.
Về tình trạng nghiên cứu của các nước đang phát triển, Abeyrama và
Webberr (1983), chỉ ra rằng cơ sở nghiên cứu của bất kì xã hội nào cũng là một
trong những khía cạnh quan trọng nhất phải tính đến khi đề cập tới sự tham gia của
người dân trong phát triển.
Các đặc trưng tự nhiên của bất kì của dự án nào cũng không đủ để huy động
sự tham gia của người dân, nếu không có cơ sở nghiên cứu về các yếu tố chính trị,
kinh tế và văn hóa xã hội, lịch sử và nếu không thuyết phục và cho phép người dân
tham gia phát triển.
Poudyal (1990) trong luận án của ông về " liên quan của người dân với phát
triển huyện thông qua việc phân cấp ở Nêpan", kết luận rằng có 6 yếu tố là: điều
kiện kinh tế, giáo dục /đào tạo, địa vị , cấu trúc tuổi, số nguời trong hộ, thuộc tổ
chức nào có ảnh hưởng tới năng lực tham gia của người dân. Mô hình trong nghiên
cứu của ông giả thiết rằng sự tham gia bị tác động bởi phạm vi, năng lực, nhu cầu
và những lợi ích.
1.2. Điều kiện môi trường cộng đồng
Điều kiện môi trường cộng đồng cũng ảnh hưởng tới mức độ tham gia của
người dân. Các yếu tố môi trường khác nhau có ảnh hưởng tới việc thammgia vào
dự án. (Cohen và Uphoff, 1980; Finterbusch, 1989). Xu thế và sự kiện lịch sử có

những hệ quả quan trọng đối với sự tham gia của người dân. Các sự kiện như: lịch
sử di dân và định cư; dòng giống gia đình và nhóm, lịch sử của các tổ chức chính trị
xã hội và các xung đột vv... ( Walter và cộng sự, 1999). các hoạt động phát triển
SVTH: Vũ Thị Huyền Trang Lớp: KTPT 48B
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trong cộng đồng được tổ chức thông qua hoạt động tập thể, ngừơi dân địa phương
tụ họp cùng nhau để làm việc.
Ở các cộng đồng nông thôn, ở mức độ nào đó, người dân luôn duy trì một số
các họat động tập thể.; ví dụ: các hoạt động cộng đồng như là xây dựng nhà, lễ hội
vv...
1.3. Tính cộng đồng
Ý thức cộng đồng có thể tự thể hiện bằng việc tự nguyện tham gia vào các
hoạt động tập thể của cộng đồng. Khái niệm ý thức cộng đồng có tính lý thuyết hơn,
dựa vào quyền lợi của những thành viên và các nhà nghiên cứu( Gardner và Stern,
1996; Zanetell, 2000) trong tương quan giữa ý thức cộng đồng và mức độ tham gia
của dân địa phương trong quản lý phát triển. Cộng đồng là khái niệm có 2 khía cạnh
tự nhiên và tinh thần mà các thành viên cộng đồng đã từng trải. Là nơi mà người
dân cùng sống, cùng chia sẻ các dịch vụ, và xem như là ngôi nhà chung của họ,
cộng đồng như là cấp tổ chức con người cơ bản nhất về thời gian và không gian.
Khái niệm các hoạt động phát triển ở nông thôn dựa vào lãnh thổ, hoặc dưới tên gọi
khác là các hoạt động phát triển ở nông thôn dựa vào cộng đồng, dẫn tới việc phân
cấp các hoạt động phát triển ở cấp địa phương.
Cộng đồng cũng thể hiện những kinh nghiệm được chia sẻ kết nối cuộc sống
của người dân trong cùng một không gian. Điều này dẫn tới tình cảm và sự gắn kết
về tinh thần. Ý thức của từng cá thể cộng đồng ảnh hưởng tới việc tự nguyện tham
gia vào các hoạt động để trợ giúp và hoàn thiện cộng đồng (McMillan,1996; St.
Anne, 1999). Ý thức cộng đồng được hình thành qua lịch sử cộng đồng. Nó bao
gồm sự tự nguyện ở lại cộng đồng, thăm hỏi lẫn nhau, có cùng cảm xúc với các
thành viên cộng đồng, tranh thủ hoặc trao đổi tình cảm với nhauvv... (Zanetell và

Knuth, 2004; Buckners, 1988).
Điều kiện tự nhiên như đất canh tác, nguồn nước tưới và các yếu tố khác
cũng ảnh hưởng tới sự tham gia.
SVTH: Vũ Thị Huyền Trang Lớp: KTPT 48B
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Hệ thống cơ sở hạ tầng như hệ thống giao thông, điện, thông tin liên lạc, và
vv... hỗ trợ người dân địa phương tiếp xúc với cộng đồng bên ngoài có đựoc thông
tin và trao đổi hàng hóa, củng cố năng lực và lòng tin cho họ. Nhìn chung, do cơ sở
hạ tầng còn nghèo ở các vùng nông thôn, đặc biệt là các vùng sâu , vùng xa, và điều
này đã cô lập các cộng đồng làm cho việc phát triển kinh tế xã hội gặp nhiều khó
khăn, và điều này đã ảnh hưởng tới sự tham gia của người dân địa phưong (Walters
và cộng sự, 1999).
2. Mô hình phát triển nông thôn dựa vào cộng đồng
2.1 Nguyên tắc chung
Việc xem xét tổng quan phát triển nông thôn cấp cơ sở - xã, thôn, bao gồm
kinh nghiệm và bài học rút ra từ các mô hình, các nội dung và cách tiếp cận đã có,
bước đầu, cho phép đưa ra định nghĩa chung về mô hình phát triển nông thôn dựa
vào cộng đồng:
Xây dựng nông thôn cấp cơ sở dựa vào cộng đồng là việc tăng cường nhận
thức và nâng cao năng lực của người dân và cộng đồng địa phương, từ đó tạo ra
động lực để họ có thể đứng ra chủ động làm chủ việc phát triển kinh tế, xã hội và
môi trường của bản thân theo hướng bền vững với sự hỗ trợ phù hợp, có hiệu quả
của Nhà nước.
Phát triển nông thôn là một khái niệm rộng. Có nhiều cách tiếp cận tương
ứng với mục tiêu, nội dung khác nhau trong phát triển nông thôn. Tùy theo điều
kiện cụ thể của mỗi khu vực nông thôn để có phương pháp tiếp cận và nội dung phù
hợp.
Đối với phát triển nông thôn cấp cơ sở, có các phương pháp phổ biến để
triển khai trên diện rộng như: phát triển nông thôn theo cách tiếp cận truyền thống

(hay là phát triển từ trên xuống), phát triển dựa vào cộng đồng (hay là phát triển từ
dưới lên hoặc kết hợp cả từ trên xuống và dưới lên, với các công cụ điển hình như
SVTH: Vũ Thị Huyền Trang Lớp: KTPT 48B
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
RRA – đánh giá nhanh nông thôn, PRA – đánh giá nông thôn có sự tham gia của
người dân, PLA – học hỏi và hành động có sự tham gia của người dân).
Trong điều kiện nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước cho phát triển nông thôn còn
hạn chế, hướng tới triển vọng một chương trình xây dựng NTM trên phạm vi cả
nước, có thể thấy phát triển dựa vào nội lực và do người dân làm chủ là cách tiếp
cận phù hợp. Theo cách tiếp cận này, xây dựng nông thôn mới cấp cơ sở đảm bảo
đồng thời phát triển con người và tổ chức cộng đồng, và phát triển kinh tế, xây dựng
bộ mặt mới của địa phương. Trong đó phát triển con người và tổ chức cộng đồng
phải được coi là then chốt, là động lực cho phát triển các lĩnh vực khác.
2.2. Vai trò của cấp thôn và cấp xã
Bản chất và quy mô chương trình phát triển nông thôn sẽ quyết định nội
dung và cách tiếp cận được sử dụng. Chương trình nông thôn mới với bản chất do
cộng đồng địa phương tự thực hiện với sự hỗ trợ kích hoạt của Nhà nước vì vậy sẽ
áp dụng cách tiếp cận dựa vào nội lực và do cộng đồng làm chủ. Cộng đồng địa
phương ở khu vực nông thôn thông thường vẫn được xác định là cấp làng xã, tuy
vậy do khác biệt về các điều kiện kinh tế, xã hội và tự nhiên giữa các vùng khác
nhau, nên quy mô và tính chất cộng đồng làng xã cũng rất đa dạng.
Nhìn chung khi sử dụng cách tiếp cận dựa vào nội lực và do cộng đồng làm
chủ có thể chọn đơn vị cộng đồng cấp thôn (bản, làng, ấp-sau đây gọi tắt là thôn)
làm đơn vị cộng đồng cơ sở trực tiếp tổ chức thực hiện các hoạt động phát triển.
Cấp xã giữ vai trò tổng hợp các kế hoạch phát triển của các thôn trong xã, điều phối,
hỗ trợ và làm cầu nối khi được các thôn yêu cầu. Cấp xã cũng xây dựng kế hoạch
phát triển xã bao gồm các hoạt động phát triển chung, liên thôn và các hoạt động
phát triển quy mô lớn, mức độ kỹ thuật phức tạp, vượt quá khả năng tổ chức thực
hiện, vận hành,v.v.. của các thôn.

Tuy thôn không phải là một cấp chính quyền, nhưng nó vẫn có các tổ chức
hội đoàn thể và lại là nơi sinh sống của cộng đồng dân cư, người dân có tính gắn kết
SVTH: Vũ Thị Huyền Trang Lớp: KTPT 48B
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
cao do cùng chia sẻ các giá trị cộng đồng cũng như các nguồn tài nguyên tự nhiên.
Hơn nữa thôn cũng là nơi thực hiện dân chủ một cách trực tiếp và rộng rãi. Vì vậy,
muốn huy động được sức mạnh của người dân để phát triển nông thôn mới giàu đẹp
và văn minh thì mô hình nông thôn mới thực hiện tại cấp thôn là phù hợp và đảm
bảo tính thực tiễn và khả thi cao.
Mô hình phát triển nông thôn mới đề cập ở đây là mô hình phát triển. Mô
hình này khác với thuật ngữ dùng để chỉ các mô hình kỹ thuật đang được sử dụng
rộng rãi trong ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn. Mô hình mới thử nghiệm
thí điểm việc áp dụng phương pháp tiếp cận và cách lập kế hoạch nhằm phát huy và
huy động sức mạnh của toàn thể cộng đồng tham gia vào phát triển nông thôn.
2.3. Vai trò làm chủ của cộng đồng thôn
* Việc xây dựng nông thôn mới xuất phát từ các yêu cầu khách quan:
-Nhu cầu thực tế đòi hỏi phải có mô hình phát triển nông thôn ở cấp thôn.
-Sự phát triển sẽ bền vững nếu dựa trên cơ sở tự lực cánh sinh.
-Lý thuyết và các nguyên tắc cơ bản phát triển dựa vào nội lực và do cộng
đồng làm chủ.
-Các bài học thành công về phát triển nông thôn cơ sở ở trong và ngoài nước.
-Tinh thần chỉ đạo của Trung ương “người dân địa phương chịu trách nhiệm
chính và thực hiện việc xây dựng và phát triển thôn mới, Trung ương, tỉnh, huyện
và các đơn vị tư vấn, hỗ trợ và thúc đẩy”.
Theo quan điểm trên, lực lượng tham gia vào hệ thống phát triển nông thôn
nói chung và phát triển thôn nói riêng được chia thành 2 cấp: (1) Cấp hỗ trợ từ trên
xuống hay từ bên ngoài cộng đồng cư dân thôn và (2) Cấp thực hiện là các cộng
đồng thôn mà người dân tại đó chính là tác nhân chính của phát triển nông thôn. Vai
trò của cấp hỗ trợ là xây dựng khung pháp luật thể chế, hoạch định các chính sách

hỗ trợ cho PTNT, hỗ trợ về phương pháp phát triển nông thôn và chuyển giao tiến
SVTH: Vũ Thị Huyền Trang Lớp: KTPT 48B
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
bộ khoa học kỹ thuật, cung cấp thông tin phù hợp, kịp thời, giúp đỡ hỗ trợ cộng
đồng cư dân nông thôn, khơi dậy phát huy nội lực của người dân để huy động có
hiệu quả cho xây dựng nông thôn mới. Họ cũng tăng cường năng lực cho người dân
để họ có đủ sự tự tin và năng lực để tận dụng và sử dụng các cơ hội phát triển,
nguồn hỗ trợ tài chính cho các hoạt động phát triển một cách có hiệu quả.
Như đã được đề cập ở trên, cấp xã giữ vai trò tổng hợp các kế hoạch phát
triển của các thôn trong xã, điều phối, hỗ trợ và làm cầu nối khi được các thôn yêu
cầu. Cấp xã cũng xây dựng kế hoạch phát triển xã bao gồm các hoạt động phát triển
chung, liên thôn và các hoạt động phát triển quy mô lớn, mức độ kỹ thuật phức tạp,
vượt quá khả năng tổ chức thực hiện, vận hành, v.v.. của các thôn.
Cấp xã còn có vai trò quan trọng là cấp đóng vai trò cầu nối và là điểm giao
thoa của các hỗ trợ từ trên xuống và các nhu cầu về phát triển từ các cộng đồng thôn
đưa lên.
SVTH: Vũ Thị Huyền Trang Lớp: KTPT 48B
15
Cấp xã: Đóng vai trò cầu nối
Cấp hỗ trợ bao gồm:
Địa phương: huyện
Các tổ chức chuyên
môn: nông nghiệp,
xây dựng, vv.
Cầu nối đề xuất hỗ
trợ và thực hiện
hỗ trợ
Cấp thực hiện:
Đóng vai trò chính

trong phát triển nông
thôn (thôn)
Thời gian
Mức độ
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Hình 1: Các lực lượng chính tham gia vào xây dựng nông thôn mới
Để khơi dậy sự khởi đầu cho phát triển thôn, người dân cần sự hỗ trợ của các
nhân viên hỗ trợ phát triển cộng đồng hay nhân viên hỗ trợ phát triển nông thôn
giúp họ nâng cao tính tự chủ, tự lực và tạo động lực ban đầu, nhất là đối với người
dân thuộc các nhóm thiệt thòi như vùng sâu, vùng xa, người dân tộc thiểu số, người
khuyết tật và phụ nữ.
Nhân viên hỗ trợ phát triển là người giúp đỡ và tư vấn chứ không phải là
người ra quyết định. Vai trò của nhân viên phát triển là giúp đỡ và tư vấn cho người
dân thôn xác định các mục tiêu phát triển và xây dựng kế hoạch phát triển thôn. Mọi
người đều có thể trở thành nhân viên phát triển nếu hội tụ đủ các tiêu chuẩn sau: có
kiến thức về phát triển, có kỹ năng và am hiểu về công tác xã hội, có sức khoẻ tốt và
có lòng nhiệt thành với công tác phát triển.
SVTH: Vũ Thị Huyền Trang Lớp: KTPT 48B
16
Vai trò hỗ trợ của bên
ngoài
Vai trò của người dân
tại thôn
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Hình 2: Vai trò của người dân tham gia xây dựng nông thôn mới
Người dân tại cộng đồng thôn đóng vai trò rất quan trọng trong các hoạt
động phát triển nông thôn. Người dân của thôn cần đổi mới tư duy về phát triển
nông thôn từ nhận thức và cách nghĩ rằng các ý tưởng và hoạt động phát triển được
khởi xướng và bắt đầu từ bên ngoài, do người ngoài làm hộ, làm thay sang nhận
thức và cách nghĩ năng động, tự chủ hơn rằng mọi việc phải được bắt đầu và khởi

xướng từ người dân, do người dân đề xuất, bên ngoài chỉ hỗ trợ và giúp đỡ khi cần
thiết thì sự nghiệp phát triển nông thôn mới mang lại hiệu quả thiết thực và bền
vững.
2.4. Vai trò quan trọng của sự tham gia của cộng đồng thôn
Các mức độ hay là sự biến đổi về chất lượng sự tham gia của người dân
Xây dựng mô hình nông thôn mới được thực hiện thông qua tăng cường
năng lực cho người dân và cộng đồng để họ “tham gia” thực sự vào các hoạt động
phát triển thôn. Tuỳ thuộc vào trình độ nhận thức, văn hoá, điều kiện kinh tế, địa lý
của từng vùng miền khác nhau, mức độ tham gia của người dân vào phát triển thôn
ở các cấp độ khác nhau. Các mức độ tham gia của người dân có thể được coi như
một tiến trình liên tục và chia thành 5 cấp độ khác nhau (xem hình 3) thể hiện chất
lượng sự tham gia.
Tham gia thụ động: Người dân thụ động tham gia vào các hoạt động phát
triển thôn, bảo gì làm đấy, không tham dự vào quá trình ra quyết định, xây dựng kế
hoạch.
Tham gia thông qua việc cung cấp thông tin: thông qua việc trả lời các câu
hỏi điều tra của các nhà nghiên cứu. Người dân không tham dự vào quá trình phân
tích và sử dụng thông tin.
SVTH: Vũ Thị Huyền Trang Lớp: KTPT 48B
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
5
4
Tự nguyện
và chủ động
3
Theo định hướng
từ bên ngoài
2
Theo nghĩa vụ

hay bị bắt buộc
1 Cung cấp thông tin
Thụ động
Hình 3: Các mức độ tham gia khác nhau của người dân vào xây dựng mô
hình nông thôn mới
Tham gia bởi nghĩa vụ hay bị bắt buộc: thông qua việc đóng góp lao động,
tiền hay một số nguồn lực khác. Người dân cho rằng đây là nghĩa vụ họ phải đóng
góp. Các hoạt động thường do các tổ chức quần chúng, cán bộ dự án khởi xướng,
định hướng và hướng dẫn.
Tham gia bởi định hướng từ bên ngoài: Người dân tự nguyện tham gia vào
các tổ, nhóm do dự án hoặc các chương trình khởi xướng. Bên ngoài hỗ trợ và
người dân tự chịu trách nhiệm trong việc ra quyết định.
Tự nguyện: Người dân tự khởi xướng về việc xác định, lập kế hoạch, thực
hiện và đánh giá các hoạt động phát triển không có sự định hướng từ bên ngoài.
2.5. Vai trò của việc lập kế hoạch phát triển thôn
Việc xây dựng mô hình phát triển nông thôn theo cách tiếp cận dựa vào cộng
đồng trước tiên thông qua quá trình lập kế hoạch phát triển thôn. Việc lập kế hoạch
SVTH: Vũ Thị Huyền Trang Lớp: KTPT 48B
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đó giúp người dân tại thôn tạo ra các kết quả trong tương lai mà họ thực sự mong
muốn và quan tâm biến những kết quả đó thành hiện thực. Động lực xây dựng thôn
mới phải xuất phát từ mong muốn và nguyện vọng của người dân địa phương. Kế
hoạch phát triển thôn sẽ là cơ sở ban đầu để xây dựng nông thôn mới, kế hoạch này
phải là của người dân tại thôn chứ không phải của cơ quan chuyên môn hay của
chính phủ hoặc của chính quyền địa phương.
Muốn có một kế hoạch phát triển phù hợp và thu hút sự tham gia của cộng
đồng thôn, trước hết người dân tại thôn phải biết rất rõ ràng mục đích mà họ muốn
đạt được trong tương lai là gì? Sau đó người dân xem hiện tại họ có những gì? Khi
họ đã có một bức tranh toàn cảnh về những kết quả mong muốn cuối cùng và xác

định được xuất phát điểm hiện tại họ có gì, họ sẽ nhận thấy rằng những mong muốn
sẽ chỉ là viễn cảnh và ước mơ nếu họ không thực sự nỗ lực tìm kiếm giải pháp để
đạt được. Các kế hoạch phát triển là từng bước của một lộ trình thay đổi hiện trạng
thực tế với những nguồn lực hiện có để đạt được tương lai mong muốn.
Phát triển nông thôn nói chung cũng như phát triển của từng thôn cụ thể là
một quá trình liên tục, kéo dài, gồm nhiều nội dung và đi kèm là cách thực hiện
khác nhau do đó được thể hiện qua việc xây dựng kế hoạch phát triển thôn. Kế
hoạch phát triển thôn (viết tắt là KHPT) gồm có mục tiêu hay kế hoạch phát triển
dài hạn và kế hoạch phát triển hàng năm. Xây dựng mục tiêu hay kế hoạch phát
triển dài hạn cho phép cộng đồng xác định và thống nhất được hướng đi của mình
trong một khoảng thời gian trung hạn, từ ba đến năm năm so với hiện tại, tùy thuộc
vào trình độ và khả năng của mỗi cộng đồng, cũng như nội dung phát triển. Nếu
như nội dung xây dựng cơ sở hạ tầng có thể xây dựng kế hoạch tương đối dài hạn (5
năm), thì nội dung phát triển kinh tế, do sự biến đổi liên tục của thị trường, thường
chỉ có thể xây dựng kế hoạch trong thời gian ngắn hơn (3 năm).
Việc xây dựng kế hoạch phát triển dài hạn giúp cho việc tính toán (hình
dung) nhu cầu phát triển trong tương lai của cộng đồng hay của mỗi loại công trình
nên các hoạt động phát triển hay công trình được thực hiện hiện tại nhưng hoàn toàn
SVTH: Vũ Thị Huyền Trang Lớp: KTPT 48B
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đáp ứng tốt yêu cầu phát triển trong tương lai. Đó cũng là cơ sở để cộng đồng huy
động một cách tập trung những nguồn lực phù hợp cho việc thực hiện phấn đấu đạt
được mục tiêu đề ra. Trên nền tảng KHPT dài hạn, kế hoạch phát triển hàng năm
của thôn bao gồm các hoạt động ưu tiên sẽ được xây dựng, đó là cụ thể hóa KHPT
dài hạn khi được gắn vào với các điều kiện về nguồn lực và tổ chưc tại địa phương.
Có sự khác nhau giữa KHPT dài hạn cũng như hàng năm khi so sánh với các
kế hoạch và quy hoạch do các đơn vi chuyên môn lập. KHPT dài hạn và hàng năm
do thôn lập sẽ đơn giản, có tính định hướng và linh hoạt nhiều hơn, phù hợp với khả
năng và trình độ của địa phương, giúp thôn có thể chủ động được và thực hành

được vai trò làm chủ. Nhưng đặc biệt là phù hợp với sự đa dạng và tính thường
xuyên thay đổi khi tổ chức thực hiện các hoạt động phát triển của cộng đồng. Các
kế hoạch này sẽ được điều chỉnh sau kết quả thực hiện mỗi năm.
III. Sự cần thiết và khả năng
1. Sự cần thiết
Xây dựng NTM nhằm tìm kiếm cơ chế vận động trong nội bộ mỗi cộng đồng
và các tổ chức bên ngoài một cách phù hợp. Dựa vào việc phát hiện và huy động
các nguồn lực tiềm năng, tính sáng tạo dồi dào của mỗi cộng đồng thôn, cộng với sự
hỗ trợ (nhỏ, có hạn) của Nhà nước sẽ tạo ra những thay đổi, chuyển biến lớn trong
công việc phát triển nông thôn tại mỗi địa phương. Như vậy, xây dựng NTM không
có nghĩa tập trung vào tất cả các vấn đề, nội dung của phát triển nông thôn. Thử
nghiệm xây dựng mô hình NTM chính là kiểm nghiệm các giả thiết đặt ra (ví dụ
như: khi cộng đồng được giao quyền làm chủ họ có thể xây dựng được NTM của
họ) khi mô phỏng mô hình theo các cơ chế, nội dung và cách tiếp cận dự định sẽ
được sử dụng để xây dựng NTM trong giai đoạn nhân rộng đại trà sau này
Nguyên tắc bao trùm, chi phối xây dựng NTM là dựa vào cố gắng của cộng
đồng thôn là chính, sự giúp đỡ của Nhà nước là quan trọng, nhưng chỉ là thêm vào
SVTH: Vũ Thị Huyền Trang Lớp: KTPT 48B
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
cho nhanh hơn. Bên cạnh đó khi thử nghiệm xây dựng NTM theo cách tiếp cận dựa
vào nội lực và do cộng đồng làm chủ cần lưu ý:
Mang tính quá trình, vì phải lưu ý đến phát triển con người và tổ chức cộng
đồng để nâng cao khả năng làm chủ trong tổ chức thực hiện các nội dung phát triển
cộng đồng thôn.
Sự tham gia tự nguyện và nhiệt tình của cộng đồng thôn có vai trò quyết định
đến thành công xây dựng NTM. Hiện mô hình được xây dựng ở thôn có trình độ
phát triển trung bình so với mỗi địa phương.
Không phải dự án, không chỉ tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng, phụ
thuộc vào duy nhất nguồn hỗ trợ từ bên ngoài.

Gắn với khả năng nhân rộng đại trà: chỉ được xem là mô hình tốt khi có khả
năng nhân rộng đại trà.
Cần ghi nhận các kết quả khác nhau do ảnh hưởng từ các cơ chế mới được
đưa vào áp dụng, các kết quả ngược với mong muốn cần phải được xem xét một
cách khách quan trong tổng hợp kết quả thử nghiệm sau này.
Thông qua việc xây dựng mô hình để xem xét các vấn đề liên quan theo từng
chủ đề như vai trò làm chủ của cộng đồng thôn, cơ chế huy động sự tham gia của
cộng đồng, phát triển tổ chức cộng đồng, vai trò và quy trình lập, tổ chưc thực hiện
kế hoạch phát triển cộng đồng thôn, nội dung hoạt động phát triển, quản lý tài
chính, cơ chế và cách thức hỗ trợ của các cấp liên quan – cấp xã, huyện, vv…
2. Khả năng
Nghiên cứu xây dựng chương trình phát triển nông thôn cấp cơ sở là công
việc khó khăn. Để tìm ra cách thức, mô hình có hiệu quả trong phát triển nông thôn
nói chung và phát triển nông thôn cấp cơ sở nói riêng luôn là công việc khó khăn do
vừa là vấn đề kỹ thuật vừa là vấn đề quản lý, xã hội. Việc xây dựng mô hình thử
nghiệm cần có sự tiếp thu và học hỏi từ các kinh nghiệm và bài học đã có trước đây.
Đến thời điểm hiện nay, số lượng các chương trình, các mô hình thử nghiệm trong
SVTH: Vũ Thị Huyền Trang Lớp: KTPT 48B
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nước và ngoài nước đã tương đối nhiều có thể đưa ra các kinh nghiệm và bài học
phong phú cho việc thiết kế chương trình xây dựng nông thôn cấp cơ sở. Điều cần
thiết của việc thử nghiệm mới là tiếp tục củng cố các vấn đề đã được khẳng định
tương đối rõ, tìm tòi thử nghiệm các vấn đề mới cho thấy có khả năng thành công.
Bên cạnh đó, để tiết kiệm thời gian và nguồn lực, cũng cần lưu ý tránh lặp lại các
vấn đề, các nội dung và cách làm trước đây đã được khẳng định là không thành
công.
SVTH: Vũ Thị Huyền Trang Lớp: KTPT 48B
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

CHƯƠNG II
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG VÀO
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CỦA VIỆT NAM QUA THỬ NGHIỆM MÔ
HÌNH PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
I. Tổng quan về quá trình phát triển nông thôn của Việt Nam
1. Phát triển nông nghiệp, nông thôn từ năm 1954 đến nay
- Từ năm 1954-1959, ruộng đất được giao cho người dân với mục tiêu
“người cày có ruộng”. Giai đoạn này quan hệ sản xuất chuyển từ địa chủ phong
kiến sang quan hệ sản xuất mới: nông dân làm chủ ruộng đất và sản xuất độc lập
trên ruộng đất của mình.
- Từ 1960-1985: chia làm 2 giai đoạn nhỏ: Mô hình tổ chức sản xuất dưới
dạng hợp tác xã nông nghiệp.
- Từ 1960-1975: mô hình hợp tác xã hóa nông nghiệp được triển khai trên
toàn miền Bắc. Trong thời kỳ này Nhà nước đã tăng cường đầu tư cho nông thôn về
cơ sở hạ tầng kỹ thuật chủ yếu để phát triển HTX: phát triển các công trình kỹ thuật
(nhà kho, sân phơi, các trại giống,…) đẩy mạnh việc chuyển giao khoa học kỹ thuật
về trồng trọt, chăn nuôi… đã có những tác động tích cực đến sản xuất nông nghiệp.
- Từ 1976-1980: mô hình tổ chức hợp tác xã nông nghiệp được triển khai
trên phạm vi cả nước. Trong đó vai trò của cấp huyện được coi trọng, là cấp quản lý
kinh tế chủ yếu đối với việc thực hiện các chiến lược phát triển nông nghiệp và
nông thôn. Hình ảnh của người nông dân lúc này là hình ảnh của người xã viên
HTX.
Mô hình khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động (1981-1985):
Chỉ thị 100 CT-TW (13/01/1981) về “khoán sản phẩm đến nhóm và người
lao động”, cho phép người lao động được HTX giao đất và thu hồi một phần sản
phẩm theo một mức “khoán” nhất định.
SVTH: Vũ Thị Huyền Trang Lớp: KTPT 48B
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chỉ thị chỉ nói đến việc khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động chứ

chưa nhắc đến khoán hộ; gia đình mới chỉ được làm 3 khâu là cấy, chăm sóc và thu
hoạch còn tập thể đảm nhiệm 5 khâu trong quá trình sản xuất cây lúa. Chỉ thị đã tạo
ra một không khí mới trong nông thôn: nông dân đã phấn khởi sản xuất, năng suất
tăng lên rõ rệt. Tuy nhiên, người dân vẫn còn nhiều băn khoăn, không chịu bó buộc
ở “5 khâu” do tập thể đảm nhiệm.
Giai đoạn này, mục tiêu sản xuất vẫn bị áp đặt bởi kế hoạch từ trên xuống,
nông dân vẫn chưa có quyền làm chủ thực sự.
Từ 1986-1991: cơ chế khoán cho nhóm và người lao động:
Nghị quyết 10 (Bộ chính trị ngày 05/08/1988) trong nông nghiệp đã khắc
phục được những tồn tại của chỉ thị 100.
Nét đổi mới của Nghị quyết 10 so với chỉ thị 100 là “một chủ, bốn tự”.
“Một chủ” là xác định hộ là đơn vị kinh tế tự chủ. Đó chính là sự đột phá rất
quan trọng của Nghị quyết 10.
“Bốn tự”, nghĩa là hợp tác xã tự xác định phương hướng, nhiệm vụ sản xuất
kinh doanh; tự xác định hình thức, quy mô sản xuất; tự xác định hình thức phân
phối, tiêu thụ sản phẩm, bảo đảm để xã viên tự vào ra hợp tác xã.
Điều đáng nói ở đây là: Đảm bảo tự xác định hình thức, quy mô sản xuất có
nghĩa là xóa bỏ việc chỉ đạo nhất loạt lên hợp tác xã cấp cao, lên quy mô xã to. Đảm
bảo tự xác định hình thức quản lý nghĩa là không nhất thiết “năm khâu, ba khâu”
như Chỉ thị 100 mà khoán theo mức, đơn giá, gia đình làm được khâu nào thì cứ
tính theo đơn giá mà hưởng. Trong vấn đề tiêu thụ sản phẩm, tư tưởng chính sách
“thuận mua vừa bán” trong nghị quyết là xóa cách bắt buộc bán theo nghĩa vụ đang
thực hiện. Chính sách này chỉ có thể thực hiện được khi đổi mới đồng bộ khâu lưu
thông, phân phối mà trong Chỉ thị 100 đã chưa đề cập đến.
- Mô hình sản xuất nông nghiệp bằng việc giao đất cho nông hộ:
SVTH: Vũ Thị Huyền Trang Lớp: KTPT 48B
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Từ 1991 đến nay, đất đai được giao toàn quyền sử dụng cho các nông hộ,
người nông dân được hoàn toàn chủ động sản xuất trên mảnh đất được giao.

Giai đoạn này, nông hộ là đơn vị sản xuất cơ bản. Người nông dân đã chú
trọng đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất và đóng góp nhiều cho phát triển
cơ sở hạ tầng, làm cho bộ mặt nông thôn có những thay đổi đáng kể.
Mô hình này có tác dụng làm cho cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch
mạnh theo hướng tích cực. Đời sống của người dân nông thôn đã ngày càng nâng
cao, đẩy mạnh tiến trình phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
2. Định hướng của phong trào xây dựng nông thôn mới là phát triển nông
thôn cấp cơ sở
Phát triển nông thôn thôn cấp cơ sở là một nội dung của phát triển nông thôn,
gắn với địa bàn cụ thể. Qua quá trình Nhà nước hỗ trợ hoàn toàn cho phát triển
nông nghiệp, nông thôn đã chứng tỏ không thành công. Ngày nay, phát triển nông
thôn cấp cơ sở thay đổi phương pháp hỗ trợ của nhà nước cho cộng đồng địa
phương, phải gắn liền với khuyến khích sự tham gia của cộng đồng địa phương.
Một loạt công cụ và phương pháp mới được giới thiệu như đánh giá nhanh nông
thôn – RRA, đánh giá nông thôn có sự tham gia – PRA,…
Phát triển nông thôn tại Việt nam được đề cập trực tiếp từ đầu những năm
1990. Được bắt đầu muộn hơn nhưng điều đó không có nghĩa là nội dung và
phương pháp phát triển nông thôn có nhiều khác biệt, tách rời với lý thuyết và nội
dung phát triển nông thôn của thế giới. Phát triển nông thôn cấp cơ sở tại Việt Nam
đã bắt nhịp được với xu thế phát triển chung của thế giới. Các phương pháp tiếp
cận, nội dung phát triển nông thôn cấp cơ sở về lý thuyết cũng như thực tiễn được
áp dụng trên thế giới cũng được tổ chức ở Việt Nam, dù có thể ở những quy mô và
hình thức khác nhau.
SVTH: Vũ Thị Huyền Trang Lớp: KTPT 48B
25

×