Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Hà Nội: Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.89 KB, 75 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan những thông tin, số liệu được sử dụng trong chuyên đề này
là xác thực và không bị chỉnh sửa. Các tài liệu được sử dụng để phục vụ cho quá trình
xây dựng đề tài là những tài liệu được phép công khai minh bạch. Tôi xin chịu mọi
trách nhiệm liên quan tới tính xác thực và tính công khai của các tài liệu được sử
dụng trong chuyên đề. Ngoài ra, chuyên đề này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi,
vì vậy mọi đánh giá, nhận xét được đưa ra dựa trên quan điểm cá nhân của tôi. Tôi
chịu trách nhiệm về các đánh giá này nhưng không chịu trách nhiệm về tính khách
quan của các đánh giá và phân tích trong chuyên đề này do các đánh giá, phân tích
được đưa ra dựa trên đánh giá chủ quan của cá nhân người viết là tôi. Tất cả các nội
dung của đề tài được xây dựng dựa trên những khảo sát và đánh giá của tôi, do vậy,
các thông tin trong tài liệu có thể trùng lặp với thông tin hiện có. Nhưng tôi xin cam
đoan, mọi đánh giá, phân tích, nhận xét cũng như các ý tưởng, đề xuất trong chuyên
đề này là do tôi tự xây dựng và nghiên cứu và cam kết không có sự sao chép từ bất cứ
một nguồn tài liệu nào. Tôi xin chịu trách nhiệm cho toàn bộ những vấn đề đã được
cam kết ở trên trước Nhà Trường, Khoa Kế hoạch – Phát triển và giảng viên hướng
dẫn PGS.TS. Phạm Văn Vận.
Hà Nội, ngày 8 tháng 5 năm 2010
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Tuấn Việt
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
MỤC LỤC
3.1.Cải cách thủ tục hành chính tạo điều kiện gia nhập thị trường.....................................................41
3.3.Chính sách thuế..........................................................................................................................45
3.4.Chính sách tín dụng và cấp vốn cho kinh tế tư nhân.................................................................49
3.5.Chính sách lao động, tiền lương, đào tạo và khoa học và công nghệ........................................52
3.6.Chính sách hỗ trợ phát triển kinh doanh...................................................................................55
4.Đánh giá chung..............................................................................................................................57
4.1. Những chính sách thành công.......................................................................................................57


4.2. Các chính sách kém hiệu quả........................................................................................................58
2.1. Chính sách hỗ trợ gia nhập thị trường.........................................................................................65
2.2. Chính sách thuế.............................................................................................................................65
2.3. Chính sách tín dụng ......................................................................................................................66
2.4. Chính sách đất đai ........................................................................................................................67
2.5. Chính sách hỗ trợ phát triển kinh doanh......................................................................................68
2.6. Chính sách hỗ trợ công nghệ.........................................................................................................69
Kết luận.................................................................................................................................................73
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời nói đầu
Kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm1986, Đảng và Nhà nước ta
chủ trương đổi mới toàn diện nền kinh tế đât nước với phương châm chuyển từ nền
kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Đảng và
nhà nước đã khẳng định phát huy mọi nguồn lực trong nước đồng thời kết hợp tận
dụng thời cơ quốc tế tiến hành thực hiện Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
thành công với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Qua những đổi mới kịp thời, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành
quả đáng khích lệ: Tăng trưởng kinh tế cao, quan hệ quốc tế được mở rộng, ổn định
chính trị và xã hội, đẵ có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, kim ngạch xuất khẩu bình
quân tăng cao...
Đạt được những thành quả đó là nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân ta nói chung
và của các thành phần kinh tế nói riêng. Những thành quả ấy có sự đóng góp không
nhỏ của loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ ( DNVVN).
DNVVN có một vai trò quan trọng trong sự nghiệp Công nghiệp hoá và hiện
đại hoá đất nước. Điều đó đẵ được cụ thể hoá trong văn kiện đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VIII “... phát triển các loại hình doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ là chính,
với công nghệ thích hợp, vốn đầu tư ít, tạo nhiều việc làm, thời gian thu hồi vốn
nhanh. Chú trọng đầu tư chiều sâu, đổi mới trang thiết bị nhằm khai thác có hiệu

quả năng lực thiết bị hiên có…” ( Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII,
1996, tr23). DNVVN có những ưu điểm nổi bật mà các loại hình doanh nghiệp
khác không có được, đặc
biệ
t
trong
thời kì chuyển đổi hiện nay ở đất nước ta như
có sức năng động, có khả năng thích nghi, dễ thay đổi công nghệ, hiệu quả đầu tư
tương đối
cao, dễ quản lý...
Song, DNVVN hiện nay còn ít vốn, trình độ khoa học công nghệ hạn chế,
gặp nhiều khó khăn trong việc nâng cao sức canh tranh của sản phẩm trên thị
trường trong nước cũng như quốc tế, hiệu quả sử dụng vốn thấp... Nói tóm lại
DNVVN chưa phát huy hết vai trò to lớn của mình, ít được sự ưu ái của các ngân
hàng, khó liên doanh liên kết và còn hạn chế về chính sách hỗ trợ vĩ mô của Nhà
nước. Xuất phát từ tình hình thực tế Đất nước nói chung, tình hình DNVVN ở Hà
Nội nói riêng, em đã lựa chọn đề tài: “Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
ở Hà Nội: Thực trạng và giải pháp” với mục đích:
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Đánh giá một cách khách quan, đúng đắn thực trạng của DNVVN ở Hà Nội
và các chính sách hỗ trợ. Qua đó hiểu rõ hơn vai trò to lớn của DNVVN, các chính
sách hỗ trợ DNVVN trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm góp một tiếng nói chung thúc đẩy sự phát
triển DNVVN, đưa nền kinh tế đất nước sớm thành công trong quá trình CNH-
HĐH đất nước.
- Nâng cao trình độ lý luận và tư duy khoa học cho bản thân.
Bố cục của chuyên đề tốt nghiệp gồm ba chương sau:
Chương I: Lý luận chung về DNVVN và sự cần thiết hỗ trợ DNVVN.
Chương II: Thực trạng hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội.

Chương III: Một số giải pháp hỗ trợ.
Trong suốt quá trình thực hiện, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan,
chuyên đề


thể
chưa đầy đủ và còn nhiều thiếu sót. Em rất mong được sự thông
cảm, góp ý xây dựng của quý thầy cô cùng các bạn sinh viên để chuyên đề này
được thành công hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS. Phạm Văn Vận, người đã tận tình
giúp đỡ, hướng dẫn em nghiên cứu chuyên đề tốt nghiệp này.
Sinh viên: Nguyễn Tuấn Việt
Lớp: Kế hoạch 48B
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chương I
Lý luận chung về DNVVN và sự cần thiết hỗ trợ DNVVN
I. Lý luận chung về DNVVN :
1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Hầu hết các nước đều nghiên cứu tiêu thức phân loại DNVVN. Tuy nhiên,
không có tiêu thức
để

phân
loại DNVVN cho tất cả các nước và ngay trong một số
nước việc phân loại cũng có sự khác nhau tuỳ theo từng thời kỳ, từng ngành nghề,
địa bàn...
Có 2 nhóm tiêu chí phổ biến dùng để phân loại, đó là: tiêu chí định tính và tiêu
chí định lượng.
Tiêu thức định tính: Dựa trên những đặc trưng cơ bản của SME như không

có vị thế độc quyền trên thị trường, chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý
ít,..các tiêu thức này có ưu thế là phản ánh đúng của vấn đề nhưng thường khó
xác định trên thực tế. Do đó, nó chỉ được làm cơ sở để tham khảo mà ít được sử
dụng trên thực tế để phân loại.
Tiêu thức định lượng: Thường sử dụng các tiêu thức như là số lao động
thường xuyên và không thường xuyên trong doanh nghiệp, giá trị tài sản hay vốn,
doanh thu, lợi nhuận. Trong đó:
- Số lao động có thể là lao động trung bình trong danh sách, lao động
thường xuyên, lao động thực tế...
- Tài sản hoặc vốn có thể dùng tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài sản hay vốn
cố định, giá trị tài sản còn lại...
- Doanh thu có thể là tổng doanh thu trong một năm, tổng giá trị gia tăng
trong một năm(hiện nay có xu hướng sử dụng chỉ tiêu này).
DNVVN Việt Nam theo định nghĩa tại Nghị định số 56/2009/NĐ-CP
“DNVVN là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được
chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn
tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh
nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên)”. Theo
các tiêu chí cụ thể xác định quy mô doanh nghiệp quy định tại Nghị định này thì
DNNVV có thể là các doanh nghiệp có số lao động dưới 300 người hoặc tổng nguồn
vốn dưới 100 tỷ đồng đối với khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản, hoặc lao động
dưới 100 người hoặc tổng nguồn vốn dưới 50 tỷ đồng đối với khu vực thương mại và
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
dịch vụ. Theo thống kê của Cục Phát triển doanh nghiệp- Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
đến giữa năm 2009, Việt Nam có khoảng hơn 450 nghìn doanh nghiệp đăng ký kinh
doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp, trong đó khoảng 97% là các DNNVV
(phân theo quy mô lao động) và khoảng 94% (phân theo quy mô vốn).
2. Tiêu thức xác định DNVVN:
2.1. Tiêu thức xác định DNVVN ở một số nước trên thế giới:

Ở các nước, tiêu chí định lượng để xác định quy mô doanh nghiệp rất đa
dạng. Dưới đây là một số tiêu chí phân loại DNVVN qua điều tra ở 12 nước trong
khu vực APEC. Trong các nước này, tiêu chí
số

lao
động được sử dụng
phổ biến
nhất (12/12 nước sử dụng). Còn một số chỉ tiêu khác thì tuỳ thuộc
vào điều kiện
của từng nước: vốn đầu tư (3/12), tổng giá trị tài sản (4/12), doanh thu (4/12) và
tỷ lệ góp vốn (1/12). Số lượng tiêu chí chỉ có từ một đến hai và cao nhất là ba chỉ
tiêu. Điều này được thể hiện một cách cụ thể dưới bảng 1 như sau:
Bảng 1: Tiêu chí phân loại
DNVVN
ở các nước APEC.
Nước Tiêu chí phân loại
Australia
Canada
Hongkong
Indonesia
Japan
Malaysia
Mexico
Philippines
Singapore
Taiwan
Thailand
US
Số lao động

Số lao động; Doanh thu
Số lao động
Số lao động; Tổng giá trị tài sản; Doanh thu
Số lao động; Vốn đầu tư
Số lao động; Tỷ lệ góp vốn
Số lao động
Số lao động; Tổng giá trị tài sản; Doanh thu
Số lao động; Tổng giá trị tài sản
Vốn đầu tư; Tổng giá trị tài sản; Doanh thu
Số lao động; Vốn đầu tư
Số lao động
Nguồn: Ban thương mại và đầu tư, tiểu ban kinh doanh vừa và
nhỏ của các nước APEC, 1995.
Ở Indonesia; Tổng cục thống kê nước này phân loại dựa vào số lao động:
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Doanh nghiệp


dướ
i 19 lao động được coi là nhỏ, doanh nghiệp có trên 20 lao
động được coi là vừa và lớn. Bộ công nghiệp xác định DNVVN dựa trên vốn đầu
tư vào máy móc: dưới 70 triệu rupi và tính bình quân trên một lao động có dưới
625 nghìn rupi là doanh nghiệp nhỏ. Còn Ngân hàng Indonesia coi doanh nghiệp
có tài sản dưới 100 triệu rupi là DNVVN. Ở Hồng kông; doanh nghiệp có lao
động dưới 200 người là DNVVN.


Hàn
Quốc; tiêu thức phân loại doanh nghiệp

chủ yếu dựa vào số lao động và phân biệt theo hai lĩnh vực sản xuất và dịch vụ:
trong lĩnh vực sản xuất dưới 1000 lao động, trong lĩnh vực dịch vụ dưới 20 lao
động
là các DNV&N. Ở Đài Loan doanh
nghiệp có số lao động dưới 300 người và
vốn đầu tư dưới 1,5 triệu USD là
DNVVN. Ở Malaysia; doanh nghiệp có vốn cổ
đông dưới 500 nghìn USD hay tài sản ròng dưới 200 nghìn USD, số lao động dưới
20 người, doanh nghiệp có vốn cổ đông hay tài sản ròng từ 0,5- 2,5 triệu USD, lao
động dưới 100 người là các DNVVN. Ở Thái Lan; doanh nghiệp có số lao động
tối đa 250 người và vốn đầu tư không quá 99.500 USD là DNVVN.
Theo các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) thì các
DNVVN là những công ty hạch toán độc lập không phải là các công ty con của
các công ty lớn; tuyển dụng ít hơn một số lượng lao động đã được quy định. Số
lượng này khác nhau giữa các hệ thống thống kê quốc gia. Giới hạn trần phổ biến
nhất là 250 lao động tại các nước thuộc liên minh Châu Âu (EU). Tuy nhiên, một
số nước đặt ra giới hạn ở mức 200 lao động, trong khi Mỹ coi DNVVN bao gồm
các công ty có ít hơn 500 lao động. Tài sản tính bằng tiền cũng được sử dụng để
xác định DNVVN. Tại EU DNVVN phải có doanh thu hàng năm bằng hoặc ít
hơn 40 triệu EURO và hoặc giá trị bảng cân đối tài sản không vượt quá 27 triệu
EURO.
2.2. Tiêu thức xác định DNVVN ở Việt Nam:
Để xác định tiêu chí DNVVN ở Việt Nam một cách phù hợp, cần căn cứ
vào điều kiện cụ thể của Việt Nam ( là một nước có trình độ phát triển kinh tế còn
thấp, năng lực quản lý hạn chế, thị trường còn thiếu, chưa có thước đo quy mô
doanh nghiệp một cách đích thực) và tính đến các yếu tố tác động tới việc phân loại
nêu trên như mục đích phân loại, tính chất ngành nghề, địa
bàn.
Việc phân loại DNVVN chủ yếu dựa theo 2 tiêu thức là: lao động thường
xuyên và vốn sản

xuấ
t
,


lý do sau: tất cả các doanh nghiệp đều có số liệu về 2
tiêu thức này ( tính phổ dụng); có thể xác định 2 tiêu thức này ở mọi cấp độ, toàn bộ
nền kinh tế, ngành, doanh nghiệp ( tính khả thi). Trong điều kiện của Việt Nam,
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đây là 2 tiêu thức có thể xác định được chính xác trị số của chúng (tính chuẩn
xác).
Tuy vậy, 2 tiêu thức này mới chỉ thể hiện được quy mô đầu vào mà chưa
phản ánh được kết quả tổng hợp thông qua kết quả kinh doanh.
Các tiêu thức khác như doanh thu, vốn pháp định, vốn cố định, vốn lưu động,
lợi nhuận... đều có hạn chế là rất khó xác định hoặc không có nhiều ý nghĩa. Tiêu
thức doanh thu (hoặc giá trị gia tăng) có nhiều ý nghĩa vì nó phản ánh quy mô
doanh nghiệp qua kết quả hoạt động của nó (gắn với hiệu
quả). Tuy nhiên trong
điều kiện của Việt Nam, tiêu thức này rất khó xác định
và không có số liệu chính
xác (chẳng hạn do việc dấu doanh thu để chốn
thuế).
Các tiêu thức khác như vốn pháp định, vốn cố định hay số dư vốn lưu động
không phản
ánh

đầy
đủ và thực chất quy mô của doanh nghiệp trong các ngành
khác nhau. Vốn pháp định thường khác xa vốn thực tế và chỉ mang tính hình thức.

Vốn cố định có sự khác biệt lớn giữa các ngành sản xuất và thương mại, vốn lưu
động cũng khác biệt rất lớn giữa các lĩnh vực, ngành
nghề.
Trên cơ sở những luận giải đó, nghị định 56/2009/NĐ-CP đã đưa ra định
nghĩa:
Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy
định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng
nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng
cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn
vốn là tiêu chí ưu tiên), cụ thể như sau:
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bảng 2: Tiêu thức phân loại
DNVVN
ở Việt Nam.
Quy mô

Doanh nghiệp
siêu nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Số lao động
Tổng nguồn
vốn
Số lao động
Tổng nguồn
vốn
Số lao động
I. Nông, lâm nghiệp
và thủy sản
10 người trở

xuống
20 tỷ đồng trở
xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20 tỷ
đồng đến 100
tỷ đồng
từ trên 200
người đến 300
người
II. Công nghiệp và
xây dựng
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng trở
xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20 tỷ
đồng đến 100
tỷ đồng
từ trên 200
người đến 300
người
III. Thương mại và
dịch vụ
10 người trở

xuống
10 tỷ đồng trở
xuống
từ trên 10
người đến 50
người
từ trên 10 tỷ
đồng đến 50 tỷ
đồng
từ trên 50
người đến 100
người
Nguồn: NĐ 56/2009/NĐ-CP
3. Tiêu chí đánh giá doanh nghiệp phát triển bền vững
Chính sách phát triển của mọi quốc gia trên thế giới hiện nay đều hướng đến
sự phát triển bền vững.
Mặc dù thuật ngữ phát triển bền vững đã xuất hiện vào đầu những năm 80 của
thế kỷ trước nhưng hiện tại đang trở thành một vấn đề mang tính toàn cầu. (Thuật
ngữ này lần đầu tiên được sử dụng trong Chiến lược bảo tồn thế giới do Hiệp hội bảo
tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên quốc tế, Quỹ động vật hoang dã thế giới và
Chương trình môi trường do Liên hiệp quốc đề xuất vào năm 1980).
Tuy nhiên, bài toán của các nhà cấp quản lý nhà nước hiện nay là làm thế nào
để phát triển bền vững không chỉ là nhiệm vụ của quốc gia mà là nhiệm vụ của từng
người dân thông qua hành vi tiêu dùng, ứng xử của mình cũng như của các doanh
nghiệp.
Tại Việt Nam trong những năm gần đây, khía cạnh phát triển bền vững
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đã được quan tâm
nhiều hơn. Trong năm năm trở lại đây, mỗi năm các tờ báo ngoại ngữ của nhóm báo
Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn đều tiến hành trao giải thưởng "Doanh nghiệp và phát
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
triển bền vững" cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại TPHCM và một
số tỉnh miền Đông Nam bộ.
Các bộ tiêu chí đang được sử dụng nhiều trên thế giới, bao gồm bộ tiêu chí
"Phát triển bền vững Dow Jones'" (Dow Jones Sustainability Indexes) và bộ tiêu chí
của tổ chức Global Reporting Initiative (GRI). Riêng với các quốc gia thì có bộ tiêu
chí do Liên hiệp quốc soạn thảo.
Trước hết là bộ tiêu chí Dow Jones được công bố vào năm 1999. Đây là bộ
tiêu chí đầu tiên trên thế giới được thiết lập nhằm đánh giá thành tích trên ba chiều
kích của phát triển bền vững là kinh tế, môi trường và xã hội của các doanh nghiệp
lớn. Dưới đây là nội dung của bộ tiêu chí này:
Các chiều kích của phát
triển bền vững
Các chỉ tiêu
Trọng số của các chỉ
tiêu (%)
Kinh tế
- Qui tắc ứng xử/ tuân theo luật lệ/ hối lộ-đút lót.
- Quản trị doanh nghiệp
- Quản tri rủi ro và khủng hoảng
- Các chỉ tiêu riêng của ngành nghề
5.5
6.0
6.0
Tùy theo ngành nghề
Môi trường
- Thành tích về môi trường
- Có bản báo cáo về môi trường
- Các chỉ tiêu riêng của ngành nghề
7.0

3.0
Tùy theo ngành nghề
Xã hội
- Hoạt động từ thiện
- Ứng dụng các qui tắc sử dụng lao động của quốc
gia và quốc tế
- Việc phát triển vốn con người
- Có báo cáo về hoạt động xã hội
- Khả năng thu hút
- Các chỉ tiêu riêng của ngành nghề
3.5
5.0
5.5
3.0
5.5
Tùy theo ngành nghề
Các chỉ tiêu trên được thể hiện bằng các câu hỏi cụ thể để đo lường và người
đứng đầu doanh nghiệp sẽ phải cung cấp câu trả lời.
Chẳng hạn đối với thành tích về môi trường, doanh nghiệp sẽ cho biết trong
năm qua hoạt động sản xuất và kinh doanh của họ đã thải bao nhiêu lượng khí CO
2
,
lượng nước sạch đã sử dụng, tổng lượng các loại năng lượng (điện, xăng dầu…) đã
sử dụng, lượng rác thải. Doanh nghiệp cũng phải giải trình về chiến lược của mình
trong tương lai xem có giảm thiểu các chỉ số trên dần dần hay không.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Về khía cạnh xã hội, doanh nghiệp sẽ phải cho biết có sự phân biệt đối xử về
giới tính trong vấn đề lương bổng hay không (lương trung bình của lao động nam và
lao động nữ), tỷ lệ nữ đảm trách các trách nhiệm lãnh đạo, khả năng tự do lập hội của

người lao động, vấn đề đảm bảo sức khỏe và an toàn cho người lao động, tổng kinh
phí mà doanh nghiệp đã dùng cho các hoạt động từ thiện.
Tuy nhiên cho đến nay, bộ tiêu chí do GRI thiết lập vào năm 2002 mới được
xem là bộ tiêu chí đầy đủ và rõ ràng nhất dù nó vẫn xoay quanh ba chiều kích của
phát triển bền vững giống như bộ tiêu chí Dow Jones. Cụ thể bộ tiêu chí này như sau:
Các chiều kích Các khía cạnh
Kinh tế - Những tác động kinh tế trực tiếp của doanh nghiệp
- Sự hiện diện trên thị trường
- Những tác động kinh tế gián tiếp
Môi trường - Nguyên vật liệu
- Năng lượng
- Nước sạch
- Đa dạng sinh học
- Rác thải
- Sản phẩm và dịch vụ
- Vận tải
Lao động Nhân công
Quản lý các mối quan hệ lao động
Sức khỏe và an toàn
Đào tạo và giáo dục
Sự đa dạng và cơ hội
Quyền con người Chiến lược và quản lý
Không phân biệt đối xử
Quyền tự do lập nhóm
Lao động trẻ em
Lao động cưỡng bức
Việc tuân thủ các qui tắc lao động và an toàn
Tuân thủ luật lệ địa phương
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Xã hội Cộng đồng
Hối lộ và tham nhũng
Các đóng góp về mặt hành chính
Cạnh tranh và giá cả
Sản phẩm có trách nhiệm Sức khỏe và an toàn của người tiêu dùng
Sản phẩm và các dịch vụ
Quảng cáo
Tôn trọng sự riêng tư
Các chỉ báo của những bộ tiêu chí trên đây chủ yếu mang yếu tố tham khảo.
Bởi vì, đối với Việt Nam, có thể thêm các chỉ báo như việc trao học bổng, xây dựng
nhà tình nghĩa và đóng góp cho các chương trình gây quỹ từ thiện.
Ưu thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ có những lợi thế rõ ràng, đó là khả năng thoả mãn
nhu cầu có hạn trong những thị trường chuyên môn hoá, khuynh hướng sử dụng
nhiều lao động với trình độ lao động kỹ thuật trung bình thấp, đặc biệt là rất linh
hoạt, có khả năng nhanh chóng thích nghi với các nhu cầu và thay đổi của thị trường.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể bước vào thị trường mới mà không thu hút sự chú ý
của các doanh nghiệp lớn (do quy mô doanh nghiệp nhỏ), sẵn sàng phục vụ ở những
nơi xa xôi nhất, những khoảng trống vừa và nhỏ trên thị trường mà các doanh nghiệp
lớn không đáp ứng với mối quan tâm của họ đặt ở các thị trường có khối lượng lớn.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là loại hình sản xuất các địa điểm sản xuất phân tán, tổ
chức bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ nên nó có nhiều điểm mạnh:
- Dễ dàng khởi sự, bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ và năng động, nhạy bén
với thay đổi của thị trường.
Doanh nghiệp chỉ cần một số vốn hạn chế, mặt bằng không lớn, các điều kiện
sản xuất đơn giản là đã có thể bắt đầu hoạt động. Vòng quay sản phẩm nhanh gọn, có
thể sử dụng vốn tự có, hoặc vay bạn, bố mẹ, người thân dễ dàng. Bộ máy tổ chức gọn
nhẹ linh hoạt, dễ quản lý, dễ quyết định. Đồng thời, do tính chất linh hoạt cũng như
quy mô nhỏ của nó, doanh nghiệp có thể dễ dàng phát hiện thay đổi nhu cầu của thị
trường, nhanh chóng chuyển đổi hướng kinh doanh, phát huy tính năng động sáng

tạo, tự chủ, nhạy bén trong lựa chọn thay đổi mặt hàng. Từ đó doanh nghiệp sẽ tạo ra
sự sống động trong phát triển kinh tế.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Sẵn sàng đầu tư vào các lĩnh vực mới, lĩnh vực có mức độ rủi ro cao.
Đó là bởi vì các doanh nghiệp loại này có mức vốn đầu tư nhỏ, sử dụng ít lao
động nên có khả năng mạo hiểm sẵn sàng mạo hiểm. Trong trường hợp thất bại thì
cũng không bị thiệt hại nặng nề như các doanh nghiệp lớn, có thể làm lại từ đầu
được. Bên cạnh đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ có động cơ để đi vào các lĩnh vực
mới này: do tính chất nhỏ bé về quy mô nên khó cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn
trong sản xuất dây chuyền hàng loạt. Họ phải dựa vào lợi nhuận thu được từ các cuộc
kinh doanh mạo hiểm.
- Dễ dàng đổi mới trang thiết bị, đổi mới công nghệ, hoạt động hiệu quả với chi phí
cố định thấp.
Doanh nghiệp có nguồn vốn kinh doanh ít nên đầu tư vào các tài sản cố định
cũng ít, do đó dễ tiến hành đổi mới trang thiết bị khi điều kiện cho phép. Đồng thời
doanh nghiệp tận dụng được lao động dồi dào để thay thế vốn. Với chiến lược phát
triển, đầu tư đúng đắn,sử dụng hợp lý các nguồn lực của mình, các doanh nghiệp vừa
và nhỏ có thể đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao, cũng như có thể sản xuất được
hàng hoá có chất lượng tốt và có sức cạnh tranh trên thị trường ngay cả khi điều kiện
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có nhiều hạn chế.
- Không có hoặc ít có xung đột giữa người thuê lao động với người lao động.
Quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ tất nhiên là không lớn lắm. Số lượng lao
động trong một doanh nghiệp không nhiều, sự phân công lao động trong xí nghiệp
chưa quá mức rõ rệt. Mối quan hệ giữa người thuê lao động và người lao động khá
gắn bó. Nếu xảy ra xung đột, mâu thuẫn thì dễ dàn xếp.
Hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Các hạn chế của loại hình doanh nghiệp này đến từ hai nguồn. Các hạn chế
khách quan đến từ thực tế bên ngoài, và các hạn chế đến từ chính các lợi thế của
doanh nghiệp vừa và nhỏ.

- Hạn chế đầu tiên và lớn nhất của DNVVN nằm trong chính đặc điểm của nó, đó là
quy mô nhỏ, vốn ít, do đó các doanh nghiệp này thường lâm vào tình trạng thiếu vốn
trầm trọng mỗi khi muốn mở rộng thị trường, hay tiến hành đổi mới, nâng cấp trang
thiết bị.
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường phụ thuộc vào doanh nghiệp mà nó cung cấp
sản phẩm.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Khó khăn trong nâng cấp trang thiết bị, đầu tư công nghệ mới, đặc biệt là các công
nghệ đòi hỏi vốn lớn, từ đó ảnh hưởng đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm
và tính cạnh tranh trên thị trường.
- Có nhiều hạn chế trong đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp, thiếu bí quyết và
trợ giúp kỹ thuật, không có kinh nghiệm trong thiết kế sản phẩm, thiếu đầu tư cho
nghiên cứu và phát triển,... nói cách khác là không đủ năng lực sản xuất để đáp ứng
các yêu cầu về chất lượng, khó nâng cao được năng suất và hiệu quả kinh doanh.
- Thiếu trợ giúp về tài chính và tiếp cận thị trường các doanh nghiệp vừa và nhỏ
thường tỏ ra bị động trong các quan hệ thị trường.
- Do tính chất vừa và nhỏ của nó, DNVVN gặp khó khăn trong thiết lập và mở rộng
quan hệ hợp tác với các đơn vị kinh tế bên ngoài địa phương doanh nghiệp đó đang
hoạt động.
- Cũng do tính chất vừa và nhỏ, DNVVN gặp khó khăn trong thiết lập chỗ đứng vững
chắc trong thị trường.
4. Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế quốc dân:
Các DNVVN có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Họ góp phần vào sự gia tăng tổng thu nhập quốc dân của các nước trên thế giới,
bình quân chiếm khoảng 70% GDP mỗi nước.
Ở Việt Nam hiện nay DNVVN vừa có diện rộng, phổ cập chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng số doanh nghiệp và có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển
kinh tế xã hội. Cùng với kinh tế nông nghiệp và kinh tế nông thôn, DNVVN được
xem như là những nhân tố đảm bảo cho sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế,

tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, khai thác tận dụng hiệu quả tiềm năng
về vốn, tay nghề và những nguồn lực tiềm ẩn trong dân cư. Nó còn góp phần phân
bố công nghiệp trên các địa
bàn

khác
nhau; giữ vai trò bổ sung cho công nghiệp lớn;
bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống, thể hiện bản sắc văn hoá dân tộc.
4.1. Mức độ đóng góp của DNVVN Việt Nam trong nền kinh tế
Cho đến nay, chưa có số liệu chính thức được công bố về đóng góp của
khu vực
SME

trong
nền kinh tế Việt Nam. Tuy vậy, theo ước tính, DNNN và
doanh nghiệp có vốn đầu nước ngoài chiếm khoảng 43 - 45% GDP, sản xuất
nông nghiệp chiếm khoảng 27- 30% GDP, thì phần còn lại là sản phẩm của khu
vực DNVVN. Như vậy, các DNVVN không kể sản xuất nông nghiệp, đã tạo ra
khoảng 25-28% GDP. Theo báo cáo gần đây của Tổng cục
Thống kê thì DNTN,
Công ty TNHH, Công ty cổ phần đã tạo ra 8%
GDP;
Hộ kinh doanh cá thể tạo ra
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
8-9% GDP và các Hợp tác xã đã tạo ra khoảng 9% GDP.
- Do số lượng DNVVN tăng nhanh nên mặt hàng phong phú, đáp ứng ngày
càng tốt hơn nhu cầu c

a

x
ã hội, tính cạnh tranh tăng lên làm cho chất lượng hàng
hoá và dịch vụ được nâng cao, thị trường sôi động hơn. DNVVN còn góp phần
khai thác tiềm năng của đất nước để phát triển kinh tế như tài nguyên, lao động, vốn
thị trường, đặc biệt là tay nghề tinh xảo và truyền thống dân tộc.
4.2. DNVVN giữ vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm
DNVVN giữ vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm, giải quyết có hiệu
quả những vấn đề xã hội. Chiếm tới 90% số doanh nghiệp cả nước, tạo công ăn việc
làm cho 90% lao động, hơn nữa chi phí trung bình để tạo ra một chỗ làm việc trong
các DNVVN chỉ bằng khoảng 3-10% so với doanh nghiệp lớn.
4.3. DNVVN làm cho nền kinh tế năng động và có hiệu quả hơn
Một vai trò nữa rất quan trọng của DNVVN là làm cho nền kinh tế năng
động và có hiệu quả hơn. Do số lượng doanh nghiệp tăng lên rất lớn nên động lực
cạnh tranh làm cho nền kinh tế thêm năng
động


hiệu quả. Hơn nữa, các doanh
nghiệp này có khả năng thay đổi mặt hàng, công nghệ và hướng kinh doanh một
cách nhanh chóng. Ngoài ra, do có nhiều doanh nghiệp cùng kinh doanh một số mặt
hàng nên sẽ giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế: khi một doanh nghiệp đổ vỡ
thì có các doanh nghiệp khác thay thế.
Phát triển DNVVN, làm cho số lượng doanh nghiệp tăng lên rất lớn, làm
tăng tính cạnh
tranh,

giảm
bớt mức độ rủi ro, đồng thời tăng số lượng chủng loại
hàng hoá, thoả mãn nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Đảng ta chủ trương
thực hiện công nghiệp hoá, coi trọng công nghiệp hoá

nông

nghiệp,
nông thôn.
DNVVN với mạng lưới rộng khắp đã có truyền thống gắn bó với nông nghiệp và
kinh tế xã hội nông thôn sẽ là động lực thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, nông thôn
phát triển. Sẽ hình thành những tụ điểm, cụm công - nông nghiệp để tác động
chuyển hoá sản xuất nông nghiệp theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
4.4. DNVVN góp phần tích cực trong việc lưu thông hàng hoá và XK
Trong những năm 1950 các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ lấy mục tiêu
phục vụ thị trường trong nước là chính, đáp ứng nhu cầu trong nước và sử dung có
hiệu quả nguồn nhân lực. Khi
nêng

kinh
tế phát triển, sức mua tăng lên, nhu cầu
lớn hơn, các DNVVN nhạy bén trong việc điều chỉnh cơ cấu, tăng doanh thu. Điều
này rất khó thực hiện ở các doanh nghiệp lớn khi muốn đa dạng hoá các mặt hàng
sản xuất. Trong khi các DNVVN số lượng đông đảo và hoạt động có hiệu quả, họ có
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thể tự sản xuất thay thế nhập khẩu.
Đầu thập kỷ 60, Chính phủ nhiều nước đã quyết định phát triển DNVVN
theo định hướng xuât khẩu. Bên cạnh việc góp phần lưu thông hàng hoá trong nước,
các doanh nghiệp đều lấy thị trường quốc tế làm thị trường chính.
Trước đây việc tiêu thụ sản phẩm ở nước ngoài phải do trung gian ngoại
thương làm môi giới, nhưng trong những năm gần đây DNVVN đã có khả năng tự
thúc đẩy tiêu thụ hàng hoá trên thế giới. Đây cũng là sự tương đồng ở Việt Nam, các
doanh nghiệp có quy mô nhỏ, khả năng lưu thông trong nước lẫn ngoài nước đều

hết sức khó khăn, đặc biệt là lưu thông trong nước do bị ép giá). Nhưng với các cơ
sở doanh nghiệp tổ chức xuất khẩu, giá thu mua dù sao cũng tốt hơn so với thị
trường trong nước dã buộc các DNVVN phải tính tới các hoạt động xuất khẩu.
4.5. Các DNVVN dễ dàng duy trì sự tự do cạnh tranh
Sự tự do cạnh tranh là con đường đúng nhất để phát huy tiềm lực vốn có
của doanh nghiệp. Một quốc gia nào muốn tạo nên các DNVVN đều phải có chế
độ tư hữu và tự do cạnh tranh. Các doanh nghiệp lớn thường cần những thị trường
lớn, đòi hỏi phải có sự bảo trợ của Chính phủ và phải có sự
độ
c
quyền.
Còn ở DNVVN thì tình trạng độc quyền không xảy ra, họ sẵn sàng chấp
nhận tự do cạnh tranh. So với các doanh nghiệp lớn, DNVVN có tính tự chủ cao, họ
không ỷ lại sự giúp đỡ của Nhà nước. Vì mưu lợi họ sẵn sàng khai thác
các cơ hội
để phát triển mà không ngại rủi ro. Ở các nước trong khu vực
mỗ
i
năm bình quân
có khoảng 2-3% số DNVVN bị phá sản và cũng có khoảng 3% loại doanh nghiệp
này mới được hình thành.
Loại hình DNVVN có điều kiện thuận lợi trong việc tập trung vốn, tiếp nhận
đầu tư nước ngoài. Sự phát triển của các ngành có hàm lượng kỹ thuật cao không
chỉ cho phép các DNVVN cạnh tranh dễ dàng mà còn cho phép chúng chiếm ưu thế
trong một số ngành.
4.6. Các DNVVN có khả năng ứng biến nhanh nhạy
Những biến động kinh tế xã hội trên thị trường quốc tế và trong nước đã
nhiều lần gây cú sốc lớn cho nền kinh tế nhiều nước, như hai cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới thập niên 80, 90, nạn lạm phát, ô nhiễm,... Nhưng các DNVVN đã
thích nghi nhanh chóng, thay đổi hoàn cảnh, tự điều chỉnh tổ chức sản xuất. Với

tư thế nhỏ gọn, năng động, dễ quản lý, không cần thiết quá nhiều vốn, các
DNVVN rất linh hoạt trong việc đòi hỏi, phát triển và tránh những thiệt hại to lớn
do môi trường khách quan tác động. Trong những năm gần đây, các DNVVN của
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
các nước phải ứng phó với sự tăng giá của đồng tiền trong nước,
sự
thi
ếu
lao động
tạm thời và vấn đề ô nhiễm môi trường. Do dễ dàng quản lý, các DNVVN rất linh
hoạt trong việc điều chỉnh kết cấu sản xuất, chuyển kênh tiêu thụ ở nước ngoài để
tránh sự mất mát ngoại hối do đồng tiền trong nước tăng giá. Khả năng ứng biến
của DNVVN đối với sự đột biến của hoàn cảnh không thể không kể đến vai trò trợ
giúp tích cực của Chính phủ.
Các DNVVN dễ dàng tạo nên sự phát triển cân đối giữa các vùng và góp
phần giảm bớt nạn thất nghiệp. Vấn đề phát triển cân đối giữa các vùng không
thể thành công nếu nước đó chỉ chú trọng đến việc phát triển cân đối giữa các
doanh nghiệp đại quy mô. Ở nhiều nước, tính phổ biến các DNVVN rất có lợi thế
trong việc tuyển dụng nhân công tại địa phương và tận dụng các tài nguyên, tư liệu
sẵn có của địa phương. Lợi nhuận của các DNVVN góp phần tái sản xuất, đầu tư
cho địa phương, do đó hiệu quả kinh tế của các DNVVN cũng là hiệu quả về ổn định
và phát triển kinh tế ở địa phương. Các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ là khu vực
kinh tế thu hút nhiều lao động, có thể tạo ra nhiều
công ăn việc làm,góp phần giảm
bớt nạn thất nghiệp của mỗi địa phương nói
riêng và của nền kinh tế nói chung.
Theo tư liệu mấy năm gần đây, các DNVVN trong ngành thương nghiệp là các
doah nghiệp tạo việc làm nhiều nhất cho công nhân. Bởi vì số lượng các doanh
nghiệp loại

này

rấ
t lớn, phân bố rộng rãi khắp các cùng nên có vai trò rất lớn trong
việc phát triển công bằng giữa
các thành thị và nông thôn.
4.7. Các DNVVN là nơi đào tạo các nhà doanh nghiệp
Thông qua các hoạt động sản xuất kinh doanh trong các DNVVN nhiều nhà
quản lý cấp thấp khi thấy mình đã có đầy đủ kinh nghiệm liền tự mình tạo lập
nên một cơ nghiệp khác, bỏ doanh nghiệp mình đã từng làm việ. Nguồn gốc của
sự thành công là ở chỗ: hộ sẵn sàng học hỏi, chịu gian khổ trong thời gian còn là
công nhân làm thuê để tích luỹ thành quả cho riêng mình. Chính phủ nhiều nước
đã khuyến khích quá trình tự lập sáng tạo của mỗi cá nhân. Khác với doanh nghiệp
lớn, các nhà doanh nghiệp thường là những người có học vị cao, đào tạo chính
quy để trở thành các nhà doanh nghiệp. Các DNVVN là một nơi sàng lọc đào
tạo các nhà doanh nghiệp thông qua kinh nghiệm thực tiễn và kinh nghiệm tiếp thu
lĩnh vực có thể phát triển được của mình.
Với vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế như vậy, trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế để góp phần cải thiện cán cân thương mại Việt Nam trong
thời gian qua, các DNVVN đã không ngừng tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cho khu vực này nói riêng và
cả nước nói chung. Để đạt được những kết quả đó, là sự nỗ lực của mỗi bản thân
các
doanh

nghiệp.
II. Sự cần thiết ph ải hỗ trợ các DNVVN:
Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê đối với 155 doanh nghiệp trong

năm 2007 thì có tới 97% số doanh nghiệp được điều tra là các doanh nghiệp nhỏ và
vừa (DNNVV) nếu phân theo số lao động (dưới 300 người) và 95% nếu phân theo
vốn đăng ký (dưới 10 tỷ đồng)
1
. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà chủ yếu là
các DNNVV đã và đang đóng góp vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân. Đây là khu vực phát triển nhanh nhất trong khu vực doanh nghiệp. Các
DNNVV có vai trò tạo việc làm mới
2
, sử dụng gần 4 triệu lao động, chiếm gần 50%
lao động trong khu vực doanh nghiệp, đóng góp hơn 40% GDP và 29% tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước, khoảng 14,8% tổng thu ngân sách Nhà nước. Và điều
dễ nhận thấy là các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã có những đóng góp quan trọng trong
việc xoá đói giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội, nhất là ở khu vực nông thôn.
Mặc dù có những đóng góp quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân, các
DNNVV với đặc trưng riêng của mình thường gặp nhiều khó khăn trong quá trình
phát triển như: đất đai, vốn, công nghệ, nguồn nhân lực, thị trường,... Những khó
khăn này có chiều hướng gia tăng trong điều kiện kinh tế toàn cầu suy giảm, nền kinh
tế Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn với tốc độ tăng trưởng chỉ khoảng gần 4%
trong 6 tháng đầu năm 2009. Những khó khăn của nền kinh tế sẽ tác động đến các
hoạt động của DNNVV trong đó đáng kể nhất là đối với các khía cạnh tài chính
(nguồn tín dụng sẽ bị hạn chế, khả năng chi trả của doanh nghiệp thấp nên sẽ khó
vay), thị trường bị thu hẹp, đặc biệt là thị trường quốc tế, giải quyết lao động cho
người lao động. Mặc dù đã có những dấu hiệu phục hồi của kinh tế thế giới cũng như
kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, theo ước tính những khó khăn, thách thức vẫn còn ảnh
hưởng đáng kể đến hoạt động của các doanh nghiệp. Ước tính có khoảng 20% số các
doanh nghiệp sẽ bị phá sản hoặc có nguy cơ phá sản, 60% doanh nghiệp bị đình trệ
hoặc thu hẹp sản xuất, kinh doanh trong năm 2009. Hệ quả là các doanh nghiệp nói
chung, đặc biệt là các DNNVV khó có thể tránh khỏi xảy việc cắt giảm số lượng lao
động và từ đó làm tăng số lượng thất nghiệp đối với người lao động, nhất là lao động

1
Tính toán của nhóm nghiên cứu.
2
Suất đầu tư cho một chỗ làm việc ở DNNVV chỉ bằng khoảng từ 3-10% của doanh nghiệp lớn.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
phổ thông làm tăng số người thất nghiệp trong toàn xã hội ảnh hưởng lớn đến tình
hình trật tự, an toàn xã hội.
Hỗ trợ cho các DNVVN không chỉ có lợi cho doanh nghiệp mà còn có lợi
cho cả Nhà nước và xã hội. Đó là những lợi ích cơ bản
sau:
- Hỗ trợ cho các DNVVN là cách thức để nuôi dưỡng những nguồn thu
cho ngân sách Nhà nước bởi vì thực tế số lượng DNVVN chiếm chủ yếu trong
các doanh nghiệp.
- Hỗ trợ DNVVN là một hình thức đầu tư gián tiếp của Nhà nước. Bởi vì,
thay vì Nhà nước đầu tư trực tiếp để thành lậph các doanh nghiệp nhà nước thì nay
chuyển sang hỗ trợ các doanh nghiệp đã
có,

đặ
c biệt là các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh.
- Bằng việc hỗ trợ DNVVN, Nhà nước cũng có thể giải quyết những vấn đề
xã hội mà bất cứ Nhà nước nào cũng phải đương đầu. Đó là giải quyết nạn thất
nghiệp, tạo việc làm rất hiệu quả với nguồn vố rất hạn hẹp của Nhà nước (thay vì
thành lập các doanh nghiệp nhà nước, thì số vốn có thể hỗ trợ cho rất nhiều các
doanh nghiệp sẵn có - điều đó rõ ràng hiệu quả hơn).
- Thông qua các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, việc đầu tư phát triển sản
xuất sẽ hiệu quả hơn vì huy động được tiềm năng sáng tạo trong dân, vừa thực hiện
tốt chức năng quản lý của Nhà nước.

III. Kinh ngh i ệm h ỗ


trợ


x uấ t nhậ p k h ẩ u cho DNVVN c ủ a m ộ t số
n ước:
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang đặt ra những thách thức
lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung đặc biệt là DNVVN ngoài quốc
doanh nói riêng trong mọi lĩnh vực và
quan

trọng
nhất là lĩnh vực xuất nhập khẩu.
Với những khó khăn đó DNVVN ngoài quốc doanh sẽ phải quyết tâm rất lớn, bên
cạnh đó thì sự hỗ trợ của Nhà nước trong hoàn cảnh đó là một
điều rất cần thiết
đối với họ.
Một trong những biện pháp có ý nghĩa lúc này là những kinh nghiệm thành
công cũng như thất bại của các nước đi trước có thành tựu lớn trong phát triển
kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá nhanh, có điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hoá
tương đồng với chúng ta.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1. Các biện pháp hỗ trợ của Đài Loan
Đài Loan là một quốc gia điển hình có nhiều DNVVN. Sự thần kỳ của kinh tế
Đài Loan cũng gắn với mức tăng trưởng cao và sự phồn vinh của các DNVVN. Quá
trình phát triển này cũng gắn liền với nỗ lực của các xí nghiệp nhỏ và vừa trong
sản xuất, tiết kiệm nhằm tăng sức cạnh tranh và đẩy mạnh xuất

khẩu.
1.1. Về chiến lược kinh doanh
Sự phát triển kinh tế Đài Loan luôn gắn chặt với hoạt động ngoại thương.
Ngoại thương thực sự là động lực thúc đẩy các ngành sản xuất vươn lên, đáp ứng
nhu cầu phong phú và đa dạng. Do nhận thức được những giới hạn của thị trường
nội địa, từ những năm 60 Đài Loan đã coi mở rộng xuất khẩu như một chính sách
chỉ đạo, một phương châm chiến lược. Ngay trong những năm đầu thực hiện chiến
lược "hướng về xuất khẩu", ngành ngoại thương Đài Loan đã trở thành lực lượng
nâng đỡ và nuôi dưỡng các ngành công nghiệp
Cuối những năm 50, công nghiệp tư nhân của Đài Loan đã phát triển khá
mạnh, thị trường nội địa đã tới mức bão hoà, công nghiệp Đài Loan chuyển từ
"thay thế nhập khẩu" sang "đẩy mạnh
xuấ
t
khẩu".
Lúc này khu vực tư nhân đã có cơ
sở khá vững, chính quyền Đài Loan đã khuyến khích họ phát triển ngoại thương,
xâm nhập thị trường quốc tế qua hàng loạt các biện pháp cải cách kinh tế như
chuyển thống nhất tỷ giá hối đoái, nới lỏng những hạn chế nhập khẩu... Năm 1965
Đài Loan đã mở "khu chế biến xuất khẩu" với nhiều ưu đãi về ngoại thương.
Đồng thời các biện pháp tăng cường thực lực kinh t
ế


khả năng cạnh tranh,
chính sách bảo hộ mậu dịch cũng dần được thay thế bằng chính sách tự do mậu
dịch.
1.2. Về chính sách thuế
Trong những năm cuối thập kỷ 50, đầu thập kỷ 60, Đài Loan đã áp dụng
phương châm "hy sinh thuế cao, đẩy mạnh kinh tế, bồi dưỡng nguồn thuế", liên

tục ban hành các pháp lệnh "khuyến khích đầu tư", "đầu tư hoa kiều"...Với nhiều
ưu đãi dành cho các SME thực hiện tái sản xuất mở rộng và đổi mới thiết bị. Chẳng
hạn, Chính phủ miễn thuế 5 năm cho các xí nghiệp mới xây dựng, miễn thuế 4
năm cho các xí nghiệp đổi mới thiết bị tính từ lúc bắt đầu bán sản phẩm. Bên cạnh
đó, Đài Loan còn thực hiện biện pháp "hạn chế lập xưởng", nghĩa là trên cơ sở
đánh giá thị trường, chính quyền hạn chế khắt khe đầu tư vào một số ngành nào đó
để đảm bảo có thị trường cho các DNVVN trọng điểm, tránh tình trạng sản xuất
trùng lặp, gây lãng phí tiền lương, lao động và vốn.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trong thời gian 1970-1977 Đài Loan đã miễn giảm thuế, việc giảm thuế đã
kích thích đầu tư. Do đó, số DNVVN mới không ngừng tăng lên, các DNVVN cũ
không ngừng gia tăng tài sản, khiến cho mức thuế cơ bản tăng lên, và giá trị tuyệt
đối của thuế cũng không ngừng tăng lên. Cho tới những năm 80, Chính quyền Đài
Loan ban hành một hệ thống chính sách tổng hợp hỗ trợ SME và ngay lập tức đã có
tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của khu vực này, tạo nên một nàn sóng phát
triển các DNVVN.
Hệ

thống
chính sách hỗ trợ SME của Đài Loan hiện nay bao
gồm:
1. Chính sách hỗ trợ về tài chính tín dụng
2. Chính sách hỗ trợ về công nghệ
3. Chính sách nghiên cứu và phát triển
4. Chính sách về kiểm soát chất lượng sản phẩm
5. Chính sách quản lý đào tạo
6. Chính sách an toàn công nghiệp
7. Chính sách hỗ trợ nghiên cứu thị trường quốc tế
8. Chính sách trợ giúp các SME hợp tác lẫn nhau cùng phát triển

9. Chính sách trợ giúp các DNVVN thích ứng với hệ thống pháp luật
Với hệ thống chính sách này, Đài Loan đã thành công trong phát triển
DNVVN
. Các
DNVVN
của Đài Loan đóng góp bình quân mỗi năm tới 40% GNP,
60% kim ngạch xuất khẩu và tạo công ăn việc làm cho khoảng 68% lực lượng lao
động cả nước.
Ngoài những điểm nêu trên, về các phương tiện khai thác thăm dò tài
nguyên, cung ứng nguyên liệu, mở rông thị trường, chuyển giao công nghệ, chính
quyền Đài Loan đều căn cứ vào nhu cầu của từng giai đoạn phát triển kinh tế, trực
tiếp tham gia dẫn dắt, nâng đỡ khu vực DNVVN ở các khu vực khác
nhau.
1.3. Về ngoại thương
Đài Loan tổ chức đặt trụ sở và mạng lưới mậu dịch ở hơn 50 nước và khu
vực. Đồng thời còn tham gia triển lãm, hội trợ quốc tế, thường xuyên mời khách
nước ngoài và các nhà kinh doanh đến Đài Loan tham quan, cử người đi nước
ngoài để chào hàng. Để mở rộng mạng lưới mậu dịch quốc tế, Đài
Loan
đã xây
dựng các trạm "phục vụ mậu dịch quốc tế"cung cấp cho DNVVN các đường dây
điện thoại và khuyến khích các cơ sở DNVVN đặt đại lý ở nước ngoài. Chính phủ
còn thưởng ngoại thương cho các DNVVN xuất khẩu được nhiều.
Với những biện pháp nâng đỡ điển hình như trên, trong hoàn cảnh quốc tế
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thuận lợi, kết hợp với sự nỗ lực của bản thân các DNVVN, viện trợ của Mỹ... Đã
góp phần giúp Đài Loan đạt được
những


thành
tựu lớn trong ngoại thương. Cụ thể
xin xem dưới bảng sau:
Bảng 3: Tỷ lệ xuất khẩu của DNVVN thời kỳ 1976-1988.
Đơn vị:100%
Thời
kỳ
Tổng DN lớn DNV&N
1976
1977
1978
1979
1980
1981
1982
1983
1984
1985
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
43,2
41,8

40,9
40,2
33,3
25,2
24,1
26,7
28,2
34,2
56,8
58,2
59,2
59,8
66,7
74,8
75,9
73,3
71,8
65,8
Nguồn:Vụ nghiên cứu kinh tế ngân hàng Đài loan.
Nhìn vào bảng trên ta nhận thấy xuất khẩu của các DNVVN ở Đài Loan có
vai trò to lớn trong thương mại của công cuộc thực hiện chiến lược "hướng về
xuất khẩu".
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2. Các biện pháp hỗ trợ của Malaysia.
Các biện pháp ưu đãi và khuyến khích đầu tư của Malaysia được quy định
chủ yếu trong Luật khuyến khích đầu tư ban hành năm 1986 (the promotion
of investmen act) và Luật thuế thu nhập công ty năm 1967. Malaysia quy định
chế độ ưu đãi đầu tư cho từng lĩng vực như: công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ.
Trong ưu đãi từng ngành có biện pháp ưu đãi khuyến khích đầu tư chung, và ưu đãi

đầu tư theo mục tiêu.
Các biện pháp khuyến khích xuất khẩu đối với công nghiệp.
Thứ nhất: Hệ thống tái cấp vốn tín dụng xuất khẩu. Để thực hiện mục tiêu
của Chính phủ nhằm thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến,
Ngân hàng Trung ương Malaysia và Ngân hàng Negara đã thực hiện hệ thống tái
cấp vốn tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi cho các nhà
xuất khẩu nói chung và
các
DNVVN
Malaysia nói riêng, tạo điều kiện cho
họ
cạnh tranh hữu hiệu hơn
trên thị trường quốc tế. Các đặc tính chính của hệ

thống này là:
- Hệ thông này do các Ngân hàng thương mại thực hiện, và Ngân hàng
Negara sẽ tái cấp vốn cho Ngân hàng thương mại để tăng tín dụng xuất khẩu cho
nhà xuất khẩu. Nhà xuất khẩu có thể có hoá đơn xuất khẩu ghi bằng ngoại tệ,
nhưng việc cấp vốn chỉ thực hiện bằng đồng ringgit Malaysia.
- Có hai loại tín dụng trong hệ thống này, đó là tín dụng xuất khẩu trước khi
giao hàng được sử dụng để cấp vốn lưu động cho các nhà xuất khẩu trực tiếp và gián
tiếp (người cung cấp các khoản đầu vào cho người xuất khẩu cuối cùng), và tín
dụng xuất khẩu sau khi giao hàng tạo điều kiện cho nhà xuất khẩu Malaysia có
vốn ngay sau khi xuất khẩu hàng hoá theo phương thức trả chậm.
- Để được phép nhận tín dụng xuất khẩu hàng xuất khẩu phải thoả mãn các
tiêu chuẩn sau
đây:

Mộ
t là, sản phẩm không thuộc vào danh mục không được

hưởng tín dụng xuất khẩu. Hai là, sản phẩm phải có tối thiểu 20% giá trị gia tăng, và
cuối cùng là tỷ lệ sử dụng nguyên liệu vật tư trong nước tối thiểu là
30%.
Tuy vậy,
các tiêu chuẩn này có thể được vận dụng một cách linh hoạt có tính đến hoàn cảnh cụ
thể.
- Thời hạn tối đa của tín dụng xuất khẩu trước khi giao hàng đối với tất cả các
sản phẩm là 4 tháng, và của tín dụng sau khi giao hàng là 6 tháng.
- Số tín dụng xuất khẩu trước khi giao hàng được cấp bằng 80% giá trị đơn
đặt hàng, hoặc bằng 70% kin ngạch xuất khẩu của 12 tháng dựa trên giấy xác nhận
về kim ngạch xuất khẩu. Đối với tín dụng sau khi giao hàng, thì số tín dụng được
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
cấp bằng 100% giá trị xuất khẩu ghi trên hoá đơn.
Thứ hai: Tính gấp đôi số tiền chi phí bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Để
khuyến khích các
nhà

xuấ
t khẩu DNVVN xâm nhập vào các thị trường không
truyền thống, được tính gấp đôi chi phí bảo hiểm tín dụng xuất khẩu được Bộ
trưởng
Bộ tài chính chấp nhận. Điều này có hiệu lực từ năm 1986.
Thứ ba: Tính gấp đôi chi phí để khuyến mại xuất khẩu. Một số chi phí nhất
định mà các DNVVN bỏ ra để tìm kiếm các cơ hội xuất khẩu các sản phẩm sản
xuất tại Malaysia được phép tính cao lên 2 lần. Các chi phí đó là:
- Quảng cáo ở nước ngoài.
- Đưa hàng mẫu ra nước ngoài.
- Nghiên cứu thị trường xuất khẩu.
- Cung cấp thông tin kỹ thuật ra nước ngoài.

-Triển lãm và/hoặc tham gia vào các triển lãm công nghiệp và thương mại
được Bộ công nghiệp và thương mại quốc tế chấp thuận.
- Các dịch vụ phục vụ công tác quan hệ xã hội liên quan đến xuất khẩu
- Cước phí đi công tác ra nước ngoài của nhân viên.
- Chi phí ăn, ở các cán bộ kinh doanh người Malaysia ra nước ngoài
Các biện pháp khuyến khích xuất khẩu đối với ngành nông nghiệp.
Trợ cấp xuất khẩu bằng 5% kim ngạch xuất khẩu được thực hiện để
khuyến khích xuất khẩu một số sản phẩm nông nghiệp nhất định theo quy định của
Bộ trưởng Bộ Thương mại. Khoản tiền này được cấp bằng cách khấu trừ trực tiếp
từ lãi gộp của công ty. Nếu khoản này vượt quá khoản lãi gộp thì coi như bị lỗ và
được chuyển sang năm tài chính tiếp theo.
Ngoài những biện pháp đã nêu ở trên, để tăng cường khả năng xuất khẩu
của các DNVVN. Chính phủ Malaysia còn miễn thuế nhập khẩu toàn bộ đối với
nguyên vật liệu trong trường hợp DNVVN sản
xuấ
t
thành
phẩm để xuất khẩu với
điều kiện các vật tư nguyên liệu đó chưa được sản xuất ở trong nước, hoặc
đ
ã
được sản xuất ở trong nước nhưng với chất lượng và giá cả chưa thể chấp nhận
được.
3. Các biện pháp hỗ trợ của Hàn Quốc
Xem xét quá trình phát triển kinh tế của Hàn Quốc từ cuối thập kỷ 50 đến
nay, có thể
nhận

thấy
nổi lên 3 giai đoạn phát triển với những ưu điểm phát triển

khác nhau. Giai đoạn thứ nhất kéo
dài

cho
đến thập kỷ 70 và trọng tâm ưu tiên phát
triển là khuyến khích và thúc đẩy tăng kim ngạch xuất khẩu.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Giai đoạn thứ hai kéo dài trong suốt thập kỷ 80, trong đó ưu tiên phát triển
được dành cho công nghiệp nặng và công nghiệp hoá chất. Giai đoạn thứ ba bắt
đầu từ đầu thập kỷ 80 mà trọng tâm của nó đã chuyển sang khu vực các DNVVN
.
3.1. Về chiến lược kinh doanh
Các biện pháp khuyến khích và ưu đãi đầu tư ở Hàn Quốc đã thay đổi theo
từng giai đoạn phát triển và nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển trong từng giai
đoạn.
Để thúc đẩy tăng kim ngạch xuất khẩu cho đến đầu thập kỷ 70, Chính phủ
Hàn Quốc đã thực hiện chiến lược thúc đẩy xuất khẩu hơn là thay thế nhập khẩu.
Chính phủ Hàn Quốc đã hỗ trợ mạnh mẽ cho các nhà xuất khẩu, với nhiều biện
pháp khác nhau, gồm đối sử ưu đãi trong cấp vốn tín dụng và trong chế độ thuế
khoá.
III.2. Về chính sách tín dụng
Hệ thống cấp vốn tín dụng xuất khẩu đã đóng vai trò rất quan trọng nhằm
hỗ trợ xuất khẩu cho đến giữa những năm 80 khi có được thặng dư về cán cân
vãng lai. Bản chất của hệ thống này là chính sách tái chiết khấu của hệ thống ngân
hàng để cung cấp tín dụng với lãi suất thấp thông qua các ngân hàng thương mại cho
các DNVVN đã nhận được tín dụng thư. Các khoản cho vay chiết khấu của ngân
hàng Trung ương Hàn Quốc cũng được mở rộng cho xuất khẩu trước khi giao hàng
nhằm hỗ trợ cho việc mua nguyên liệu và các sản phẩm trung gian để sản xuất hàng
xuất khẩu.

Lãi suất cho vay đối với xuất khẩu từ 6-10%, trong khi mức lãi suất chung
là 17-23%.
Từ

cuố
i những năm 1980, sự chênh lệch lãi suất mới được xoá bỏ. Nếu
xem xét mức lãi suất trên thị
trường
tài chính phi chính thức tại thời điểm đó vào
khoảng hơn 30%, thì sự ưu đãi đối với xuất khẩu qua tín dụng lãi suất thấp thật
lớn. Hầu như mọi khoản tín dụng xuất khẩu đều được hỗ trợ thông qua cơ chế tạo
tiền của Ngân hàng Trung ương dưới hình thức chiết khấu. Trong khoảng thời gian
từ 1976-1986 tỷ lệ tín dụng của Ngân hàng Hàn Quốc trong tổng số khoản vay của
Ngân hàng nội địa là 79,4%, đặc
biệt vào những năm 1973-1981 tỷ lệ này lên tới
90,1%.
III.3. Các biện pháp hỗ trợ khác
Ngoài ra còn có rất nhiều biện pháp hỗ trợ khác của Chính phủ đối với hoạt
động xuất
nhập

khẩu
của các DNVVN như chiết khấu thuế ra khỏi giá mua thiết bị
và phương tiện đầu tư để sản xuất; trợ cấp cho việc cải tiến đóng gói và mẫu mã
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

×