Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

VAI TRÒ CỦA KINH ĐÔ THĂNG LONG TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP TOÀN CẦU CỦA ĐẠI VIỆT THẾ KỶ XVII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (700.81 KB, 7 trang )

VAI TRò CủA KINH ĐÔ THĂNG LONG
TRONG QUá TRìNH HộI NHậP TOàN CầU
CủA ĐạI VIệT THế Kỷ XVII
TS Hong Anh Tun
*
, ThS Lờ Thu Linh
**

Cú hay khụng mt k nguyờn to|n cu ho{ trong lch s nh}n loi giai on cn i s
k? Ba thp k nghiờn cu v| tranh lun ca gii s hc quc t ó gúp phn phc dng bc
tranh to|n cnh v mt din trỡnh hi nhp to|n cu din ra t sau c{c ph{t kin ca
Christopher Columbus n cuc c{ch mng t sn Ph{p (khong 1500 - 1789). C{c quc gia
ụng , i Vit núi riờng, ó hi nhp nh th n|o v| cú vai trũ quan trng n }u trong h
thng trao i thng mi v| giao lu vn ho{ to|n cu thi k ú? Gn mt thp niờn khai
th{c v| nghiờn cu tng i h thng c{c ngun t liu phng T}y liờn quan n i Vit
cho phộp khng nh mt c{ch chc chn: i Vit - vi vai trũ ni bt ca Kinh ụ Thng Long
- ó cú s hi nhp nht nh v|o qu{ trỡnh to|n cu ho{ cn i s k.
1. K nguyờn thng mi v ton cu hoỏ cn i s k
Trong c{ch ph}n k lch s T}y u, giai on t sau c{c i ph{t kin a lý ca hai d}n
tc T}y Ban Nha v| B |o Nha cui th k XV n cuc c{ch mng t sn Ph{p cui th k
XVIII thng c gi chung l| giai on cn i s k
i
. T cui th k XX tr li }y, nhiu
nn s hc phng ụng, kh{i nim cn i s k cng ng|y c|ng c x{c lp mt c{ch ph
bin trong c{ch ph}n k lch s c{c d}n tc
ii
. Mc dự vy, Vit Nam, kh{i nim cn i s k
vn cha c s dng mt c{ch chớnh thng trong c{c cụng trỡnh s hc mang tớnh quy chun
mc dự c{c nh| nghiờn cu ó lun b|n tng i nhiu v nhng chuyn bin ni sinh ca i
Vit di t{c ng ca c{c lung thng mi v| bang giao quc t
iii


.
Khụng ch khai sinh giai on cn i s k, c{c i ph{t kin a lý ca ngi ch}u u
ng thi m ra mt k nguyờn ph{t trin mi cho quan h thng mi v| bang giao gia
phng ụng v| phng T}y - tin ca qu{ trỡnh to|n cu ho{. Sau khi tỡm ra c{c con ng
sang ụng n v| T}y n, trong sut th k XVI, hai d}n tc T}y Ban Nha v| B |o Nha ó

*
Trng i hc Khoa hc Xó hi v| Nh}n vn, i hc Quc gia H| Ni.
**
Vin S hc Vit Nam.
HộI THảO KHOA HọC QUốC Tế Kỷ NIệM 1000 NĂM THĂNG LONG Hà NộI
PHáT TRIểN BềN VữNG THủ ĐÔ Hà NộI VĂN HIếN, ANH HùNG, Vì HOà BìNH

tiến h|nh khai th{c thuộc địa (khai mỏ bạc ở Nam Mỹ) v| khai mở c{c tuyến buôn b{n nối liền
nhiều trung t}m kinh tế lớn của thế giới (Lisbon - Ấn Độ - Đông Nam Á - Trung Quốc - Nhật
Bản). Sang thế kỷ XVII, c{c d}n tộc ch}u Âu kh{c như Anh, H| Lan, Ph{p< cũng tham gia một
c{ch mạnh mẽ v|o hệ thống trao đổi n|y. Từ Mỹ Latinh, bạc nén theo thuyền về T}y Ban Nha
để từ đó chảy sang c{c trung t}m thương mại lớn của ch}u Âu như Lisbon, Lu}n Đôn, Antwerp
(Bỉ), Amsterdam (H| Lan)< Từ c{c trung t}m thương mại chính đó, bạc lại theo c{c thương
thuyền Bồ Đ|o Nha, H| Lan, Anh, Ph{p< sang Đông Ấn (Ấn Độ, Đông Nam Á, Trung
Quốc<), chưa kể đến một lượng bạc lớn kh{c chảy thẳng từ Nam Mỹ sang Manila (Philippines)
trên c{c thương thuyền T}y Ban Nha vượt Th{i Bình Dương.
Ngo|i bạc, c{c loại thương phẩm cũng được trao đổi rộng rãi: vải dạ, đồ mỹ nghệ v| kỹ
thuật của ch}u Âu cũng theo thuyền sang phương Đông để đổi lấy hương liệu, tơ lụa, gốm sứ,
xạ hương< Từ thế kỷ XVI, một mạng lưới thương mại liên ho|n đã được người Bồ Đ|o Nha
lập ra, nối liền thương cảng Lisbon với Goa (Ấn Độ), Malacca (Đông Nam Á), Macao (Trung
Quốc), Nagasaki (Nhật Bản). Ở phía t}y, không chỉ thương phẩm m| một dòng chảy nh}n lực
(người ch}u Âu v| nô lệ ch}u Phi) cũng tr|n qua Đại T}y Dương, hình th|nh những trung t}m
kinh tế thuộc địa mới nằm rải r{c từ miền Bắc đến miền Nam ch}u Mỹ. C{c loại c}y trồng v|
vật nuôi (khoai lang, ngô, đậu<) từ Nam Mỹ được giới thiệu sang Đông Á, góp phần l|m nên

sự bùng nổ d}n số v| biến đổi kinh tế - xã hội ở Trung Quốc thế kỷ XVIII, trong khi c{c loại dịch
bệnh từ c{c cựu ch}u lục cũng theo ch}n người ch}u Âu v| nô lệ da đen sang t}n thế giới, góp
phần v|o qu{ trình diệt vong của nhiều nền văn minh cổ xưa thuộc khu vực Nam Mỹ< Qu{
trình to|n cầu ho{ giai đoạn cận đại sơ kỳ ra đời từ đó
iv
.
2. Hội nhập toàn cầu của Đại Việt thế kỷ XVII và vai trò của Kinh đô Thăng Long
Cho đến những năm cuối của thế kỷ XX, trước khi có những nghiên cứu mới về Thăng
Long (Đại Việt nói chung) thế kỷ XVII, giới sử học nhìn chung duy trì quan điểm tương đối
thiếu tích cực về vị trí v| vai trò của kinh đô Thăng Long trong c{c mạng lưới thương mại v|
bang giao quốc tế. Trong c{ch nhìn truyền thống, việc c{c triều đình phong kiến Việt Nam, nhất
l| triều Lê sơ, không chủ trương thúc đẩy ngoại thương khiến cho nhiều nh| nghiên cứu duy trì
quan điểm về sự “khép kín” hoặc thậm chí “biệt lập” của Đại Việt với c{c dòng chảy thương
mại khu vực v| quốc tế vốn diễn ra hết sức sôi động ở khu vực Biển Đông. Chẳng hạn, trong lý
luận của mình về nền hải thương Đông Nam Á giai đoạn cận đại sơ kỳ, học giả Anthony Reid
cho rằng, đến cuối thế kỷ XVI, Thăng Long - mặc cho sự hưng thịnh về kinh tế v| mậu dịch quốc
nội - vẫn nằm kh{ xa c{c tuyến hải thương quốc tế nối Đông Bắc Á với c{c hải cảng quốc tế
phương nam v| phía t}y
v
.
Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVII (hoặc khoảng giữa thế kỷ XVIII đối
với trường hợp Đ|ng Trong), vấn đề hội nhập quốc tế của quốc gia Đại Việt đã có bước ph{t
triển ngoạn mục, khẳng định vị trí chiến lược v| vai trò trọng yếu của Đại Việt trong hệ thống
thương mại v| bang giao to|n cầu. Cuộc khủng hoảng chính trị của triều Lê sơ (đỉnh cao l| sự
ph}n cắt Đ|ng Ngo|i - Đ|ng Trong) góp phần thúc đẩy xu thế hướng ngoại của hai tập đo|n
phong kiến Trịnh v| Nguyễn nhằm tìm kiếm c{c hậu thuẫn về t|i chính v| qu}n sự từ c{c thế
lực ngoại bang. Nếu như ở Đ|ng Trong, c{c chúa Nguyễn tận dụng thương cảng Hội An để thu
hút thương nh}n ngoại quốc đến buôn b{n nhằm thiết lập quan hệ chiến lược với họ (đặc biệt l|
với người Nhật v| người Bồ Đ|o Nha), ở Đ|ng Ngo|i - dù chậm ch}n hơn so với họ Nguyễn -
c{c chúa Trịnh (tiêu biểu l| chúa Trịnh Tr{ng v| chúa Trịnh Tạc) cũng đã có những chủ trương

nhất định trong việc khai th{c chức năng thương mại của kinh đô Thăng Long trong việc thiết
lập quan hệ với c{c thế lực nước ngo|i. Từ cuối thế kỷ XVI, c{c thương nh}n Trung Quốc, Nhật
Bản v| Đông Nam Á ghé thăm c{c thương cảng v| trung t}m buôn b{n nội địa của Đ|ng Ngo|i
ng|y c|ng nhiều. Từ cuối thập niên 20 của thế kỷ XVII, người Bồ Đ|o Nha khai mở quan hệ
buôn b{n với chính quyền Thăng Long. Năm 1637, Công ty Đông Ấn H| Lan thiết lập quan hệ
buôn b{n với vương quốc Đ|ng Ngo|i, lập thương điếm buôn b{n ở Kẻ Chợ đến tận năm 1700
mới chấm dứt. Công ty Đông Ấn Anh cũng thiết lập thương điếm buôn b{n ở Phố Hiến v|
Thăng Long trong giai đoạn 1672 - 1697. Ngo|i ra, người Ph{p, người T}y Ban Nha< cũng
tham gia v|o c{c hoạt động thương mại v| truyền gi{o ở Thăng Long nói riêng, Đại Việt nói
chung trong c{c thời kỳ kh{c nhau của thế kỷ XVII
vi
.
Với riêng vương quốc Đ|ng Ngo|i của Đại Việt, xung lực chính cho qu{ trình dự nhập
to|n cầu nằm ở vai trò của một số thương phẩm xuất khẩu có gi{ trị v| nhu cầu cao trên thị
trường, tiêu biểu nhất l| c{c loại sản phẩm tơ lụa, thứ đến l| gốm sứ, xạ hương, quế, đồ sơn
m|i< Theo những số liệu trích lục được từ kho tư liệu lưu trữ của c{c Công ty Đông Ấn H|
Lan v| Anh, trong giai đoạn tơ lụa Đ|ng Ngo|i có vị trí cao ở thị trường khu vực (đặc biệt l| thị
trường Nhật Bản, giai đoạn 1641 - 1654). H|ng năm, Đ|ng Ngo|i sản xuất ra khoảng 90 tấn tơ
sống v| khoảng 6.000 đến 10.000 tấm vải lụa khổ lớn (lĩnh, ho|ng quyến<). Sự hấp dẫn của tơ
lụa v| c{c loại h|ng ho{ xuất khẩu Đ|ng Ngo|i khiến cho lượng tiền (bạc nén, c{c loại đồng tiền
bạc, tiền đồng, đồng thỏi<) đổ v|o Đ|ng Ngo|i đứng ở mức kh{ cao: trong khoảng 7 thập niên
cuối của thế kỷ XVII, trung bình mỗi năm người H| Lan v| người Hoa đưa v|o Đ|ng Ngo|i
khoảng hơn 350.000 guilder H| Lan (khoảng hơn 100.000 lạng bạc nén) để trao đổi c{c loại h|ng
ho{ của Đ|ng Ngo|i, chưa kể vốn đầu tư của c{c lực lượng buôn b{n ngoại quốc kh{c như Nhật
Bản, Bồ Đ|o Nha, thương nh}n Đông Nam Á<
vii
Sự ph{t triển của ngoại thương thúc đẩy sự mở
rộng của nền kinh tế h|ng ho{ Đại Việt, kéo theo sự dịch chuyển nh}n lực sang lĩnh vực sản xuất
h|ng thủ công nghiệp xuất khẩu (tơ lụa, gốm sứ). Ngo|i ra, sự hiện diện của h|ng trăm người
ngoại quốc mỗi năm, kể cả những người lưu trú l}u d|i hoặc tạm trú v|i ba th{ng để chờ t|u rời

bến, cũng có t{c động đ{ng kể đến sự chuyển biến kinh tế - xã hội Đ|ng Ngo|i
viii
.
Điều đ{ng lưu ý l|, nếu như thương cảng Hội An l| khởi nguồn của sự thịnh đạt của
vương quốc Đ|ng Trong, Kinh đô Thăng Long - Kẻ Chợ có vai trò hết sức quan trọng trong sự
ph{t triển kinh tế - xã hội v| đặc biệt l| qu{ trình hội nhập quốc tế của vương quốc Đ|ng Ngo|i.
Trong thế kỷ XVII, c{c hoạt động giao thương với người nước ngo|i diễn ra chủ yếu ở một số
địa điểm nằm dọc theo tuyến sông Hồng từ Thăng Long ra biển: kinh đô Kẻ Chợ, Phố Hiến,
Domea (nay thuộc Tiên Lãng, Hải Phòng). Tuy nhiên, hoạt động thương mại chính diễn ra ở
kinh đô Thăng Long.
ix
Vì vậy, có thể nói, Thăng Long l| xung lực chính cho qu{ trình hội nhập
của vương quốc Đ|ng Ngo|i v|o quỹ đạo to|n cầu ho{ thế kỷ XVII:
2.1. Nhắc đến Thăng Long, người ta thường nghĩ ngay đến chức năng chính trị của một kinh
đô. Tuy nhiên, bên cạnh chức năng l| đầu não chính trị (thành) của quốc gia Đại Việt qua nhiều triều
đại, Thăng Long còn nổi bật với chức năng kinh tế v| thương mại (thị). Đặc biệt, từ thời Lê sơ, với
việc khu thương mại được mở rộng về phía đông Ho|ng th|nh, chức năng “thị” của Kinh đô
ng|y c|ng nổi bật. Cùng với chính s{ch của triều đình, c{c dòng di cư của thợ nghề từ nhiều l|ng
nghề nổi tiếng kh{c nhau đến Thăng Long đã góp phần tạo nên những trung t}m sản xuất, những
phố chuyên nghề v| chuyên c{c mặt h|ng thủ công nghiệp nổi tiếng: phố H|ng Đ|o chuyên tơ lụa,
vải vóc; phố H|ng Bạc chuyên c{c mặt h|ng kim ho|n, đổi tiền; phố H|ng Buồm chuyên c{c thiết bị
cho vận tải đường thuỷ, l|ng B{t Tr|ng sản xuất gốm sứ xuất khẩu<
x
Sự đa dạng v| dồi d|o về
thương phẩm xuất khẩu đã thu hút người ngoại quốc về đ}y tụ cư lập thương điếm buôn b{n.
2.2. Không chỉ l| trung t}m sản xuất h|ng ho{, Kinh đô Thăng Long còn l| nơi tập kết
h|ng ho{ từ nhiều trung t}m sản xuất kh{c nhau ở ch}u thổ sông Hồng. Tơ lụa từ c{c xứ Kinh
Bắc, Sơn Nam, xứ Đo|i<, quế từ c{c vùng miền núi T}y Bắc, xạ hương v| v|ng do thương
nh}n mang từ c{c vùng biên giới Việt - Trung< đều đổ về Thăng Long để phục vụ nhu cầu thu
mua của c{c thương điếm ngoại quốc. Người phương T}y đến Thăng Long v| c{c buổi chợ

phiên đều trầm trồ về sự đông đúc v| tấp nập của c{c dòng người v| thương phẩm từ c{c địa
phương đổ về kinh đô.
Quy mô của Kẻ Chợ s{nh ngang nhiều th|nh thị kh{c ở ch}u Á trong khi d}n số của Kẻ
Chợ lớn hơn nhiều, nhất l| v|o phiên chợ ng|y 1 v| 15 }m lịch h|ng th{ng khi người d}n cùng
với h|ng ho{ từ c{c l|ng ven đô đổ về đ}y nhiều không đếm xuể. Những con phố ng|y thường
vốn rộng rãi v| quang đãng giờ đ}y trở nên chật chội đến nỗi chỉ nhích được 100 bước trong
vòng 30 phút. C{c loại h|ng ho{ kh{c nhau được quy định b{n ở c{c con phố riêng; mỗi con
phố gồm cư d}n của một hoặc hai ba l|ng. Những người d}n ở c{c con phố tổ chức h|ng b{n
theo kiểu phường hội ở c{c th|nh thị ch}u Âu.
xi

2.3. Những đặc điểm nổi bật về kinh tế v| thương mại đưa đến một chức năng kh{c nữa
của Kinh đô Thăng Long: trung t}m chính trị đối ngoại của vương quốc Đ|ng Ngo|i. Quan
điểm sử học truyền thống nhấn mạnh sự cảnh gi{c của c{c triều đình phong kiến Đại Việt có xu
hướng cho rằng thương nh}n ngoại quốc (người ngoại quốc nói chung) bị nghiêm cấm th}m
nhập v|o kinh đô nhằm phòng tr{nh gi{n điệp phương Bắc. Tuy nhiên, một số nghiên cứu mới
đã x{c thực về sự hiện diện của thương nh}n ngoại quốc ngay tại Kinh đô Thăng Long dưới
triều Trần
xii
. Sang thế kỷ XVII, quan điểm của triều đình phong kiến Đại Việt trở nên phóng
kho{ng một c{ch đặc biệt: triều đình cho phép thương nh}n, gi{o sỹ, nh| du h|nh< ngoại quốc
v|o lưu trú v| kinh doanh trong nội địa, thậm chí ngay tại Kinh th|nh Thăng Long. Cho đến
tận cuối thập niên 80 của thế kỷ XVII, người Hoa vẫn được phép lưu trú buôn b{n ở Thăng
Long. Người Bồ Đ|o Nha khi buôn b{n từ Macao sang Đ|ng Ngo|i cũng được phép lên Kinh
đô giao dịch. Đặc biệt, hai Công ty Đông Ấn H| Lan v| Anh đều lập thương điếm để định cư v|
kinh doanh ngay tại Kinh đô Thăng Long:
“Thương điếm của người Anh toạ lạc một c{ch yên bình ở phía bắc của th|nh phố [Kẻ
Chợ] v| quay mặt ra sông. Đ}y l| một ngôi nh| thấp, trông đẹp mắt v| l| ngôi nh| đẹp nhất m|
tôi đã trông thấy trong th|nh phố. Ở chính giữa có một phòng ăn xinh xắn v| ở c{c phía l|
những căn phòng tiện nghi d|nh cho thương nh}n, nh}n viên thương điếm v| người hầu của

công ty. Ngôi nh| n|y được x}y song song với con sông, ở mỗi đầu hồi lại có những ngôi nh|
nhỏ hơn mang c{c công dụng kh{c nhau như nh| bếp, nh| kho< đứng th|nh một h|ng d|i đi
từ căn nh| chính ra tận sông, tạo th|nh hai c{nh v| một c{i s}n vuông để trông về phía sông. Ở
góc s}n phía bờ sông có một cờ treo cờ Anh trong c{c dịp lễ vì người Anh chúng ta có thói quen
treo quốc kỳ trong ng|y Chủ Nhật cũng như c{c ng|y lễ tiết kh{c. Thương điếm của người H|
Lan gi{p thương điếm của người Anh ở mạn nam. Tôi chưa bao giờ đi v|o đó nên chẳng thể mô
tả gì hơn về thương điếm ấy ngo|i những điều được người kh{c kể lại khu thương điếm của họ
không rộng như của chúng ta tuy rằng họ đã đến đ}y trước chúng ta nhiều năm v| bởi người
Anh vừa chuyển về đ}y từ Phố Hiến, nơi họ cư trú trước đ}y“
xiii
.
2.4. Thăng Long đồng thời l| địa b|n chính tiếp nhận c{c th|nh tựu khoa học, kỹ thuật,
văn ho{, tôn gi{o< của phương T}y v|o Đ|ng Ngo|i. Do cuộc chiến kéo d|i với họ Nguyễn
Đ|ng Trong, kỹ nghệ qu}n sự phương T}y được triều đình Lê - Trịnh đặc biệt quan t}m. Ngo|i
việc thu mua súng từ người Bồ Đ|o Nha, H| Lan, Anh<, chúa Trịnh đôi khi yêu cầu người
phương T}y tham gia chế tạo súng tại Đ|ng Ngo|i hoặc cử những thợ súng giỏi sang hướng
dẫn binh sỹ triều đình sử dụng hoả khí. Trong thư gửi To|n quyền của Công ty Đông Ấn H|
Lan ở Batavia năm 1670, Chúa Trịnh Tạc viết: “Nh}n t|u khởi h|nh ta gửi Quốc vương Batavia
bức thông thư thông b{o ý định thanh to{n c{c mặt h|ng v| thần công cỡ lớn m| Quốc vương
sẽ gửi sang trong thời gian tới bằng tơ lụa theo gi{ trị tương xứng. Đề nghị Quốc vương cử một
đốc qu}n sang Đ|ng Ngo|i giúp ta huấn luyện binh sĩ. Hy vọng Quốc vương Batavia thoả mãn
yêu cầu của ta để tình giao hiếu mãi được trường tồn, như nhật nguyệt thiên thu còn s{ng
mãi”
xiv
.
Đối với c{c gi{o sỹ phương T}y, bên cạnh việc truyền gi{o ở c{c khu vực duyên hải v|
nông thôn, Thăng Long cũng được x{c định l| địa b|n chiến lược quan trọng trong việc mở
rộng ảnh hưởng của Thiên Chúa. Nhằm l{ch luật của triều đình, c{c gi{o sỹ luôn tìm cớ để
được lên kinh đô thuyết giảng. Một nh| du h|nh đến Kẻ Chợ năm 1688 nhận xét: “Tôi được cho
biết rằng c{c vị gi{m mục người Ph{p n|y không được sống ở Kẻ Chợ, cũng không được đi đến

đó nếu không có giấy phép của quan trấn thủ< Những nh| truyền gi{o ở đ}y đều thông thạo
với c{c công việc sửa chữa c{c loại đồng hồ - những việc m| d}n địa phương vốn kém hiểu biết
- v| điều n|y l| một lợi thế để quan lại triệu tập họ lên Kẻ Chợ. Khi đã lên đến kinh đô rồi họ sẽ
biến một việc cỏn con vốn cần không qu{ 5 đến 6 giờ đồng hồ để ho|n thiện th|nh một việc có vẻ
khó khăn v| cần gấp đôi thời gian, thậm chí phải v|i ng|y mới l|m xong được. Theo c{ch n|y
họ có thời giờ rảnh để thuyết giảng gi{o lý trong khi lưu trú tại Kẻ Chợ”
xv
.
3. Tiểu kết
Việc khai mở c{c tuyến h|ng hải v| thương mại đường d|i nối liền Đông - T}y sau c{c
ph{t kiến địa lý của người ch}u Âu khiến cho trao đổi to|n cầu nhanh chóng được mở rộng v|
ph{t triển ng|y c|ng mạnh mẽ. Trong c{c thế kỷ XVI - XVIII, c{c tuyến buôn b{n, c{c dòng chảy
thương phẩm, giống c}y trồng v| vật nuôi< được x{c lập; qu{ trình tiếp xúc v| giao lưu giữa
c{c nền văn ho{, c{c thế giới tôn gi{o, c{c tiến bộ khoa học kỹ thuật< diễn ra trên phạm vi to|n
cầu. Sự trao đổi thương mại (kim loại tiền tệ như bạc, đồng, v|ng lấy c{c thương phẩm thủ công
nghiệp xuất khẩu như vải vóc, hương liệu, đồ gia dụng<) khiến cho c{c nền kinh tế hội nhập
v|o dòng chảy thương mại ng|y c|ng trở nên phụ thuộc v| chi phối lẫn nhau. Đ}y chính l| cơ
sở để x{c lập qu{ trình to|n cầu ho{ trong lịch sử nh}n loại giai đoạn cận đại sơ kỳ (thế kỷ XVI -
XVIII), trong đó Đại Việt v| một số quốc gia Đông Á kh{c như Trung Quốc, Nhật Bản, Xiêm,
Indonesia, Philippines< đã dự nhập một c{ch tương đối s}u, rộng v| chịu những t{c động
đ{ng kể từ hệ thống trao đổi to|n cầu.
Đối với vương quốc Đ|ng Ngo|i của quốc gia Đại Việt, qu{ trình hội nhập quốc tế diễn ra
đặc biệt sôi động trong thế kỷ XVII. C{c thế lực thương mại, h|ng hải, tôn gi{o kh{c nhau
(Trung Quốc, Nhật Bản, Bồ Đ|o Nha, H| Lan, Anh, Ph{p, Xiêm, Java<) đều th}m nhập v|o,
định cư, buôn b{n ở một số trung t}m chính trong nội địa. Trong số đó, kinh đô Thăng Long
l| trung t}m thương mại quan trọng bậc nhất của vương quốc Đ|ng Ngo|i, nơi sản xuất v|
tập kết h|ng ho{ xuất khẩu (tơ, lụa, gốm sứ, v|ng, xạ hương, quế<) để thương nh}n ngoại
quốc thu mua v| chuyên chở đi c{c thị trường khu vực v| quốc tế. Ngo|i ra, chính s{ch
tương đối cởi mở của triều đình Lê - Trịnh cũng cho phép người ngoại quốc được phép lập
thương điếm lưu trú v| kinh doanh, tạo điều kiện để qu{ trình giao lưu văn ho{, kỹ thuật,

tôn gi{o< được diễn ra một c{ch chủ động hơn. Không hề cường điệu khi cho rằng kinh đô
Thăng Long có vai trò quyết định trong qu{ trình dự nhập v|o quỹ đạo to|n cầu ho{ cận đại
sơ kỳ của vương quốc Đ|ng Ngo|i thế kỷ XVII.


CHÚ THÍCH

i
Kh{i niệm “cận đại sơ kỳ” (early modern) xuất hiện từ thập niên 40 của thế kỷ XX để chỉ một thời kỳ lịch sử sôi
động của T}y Âu từ 1500 đến 1750 hoặc 1789. Từ thập niên 70 của thế kỷ XX, kh{i niệm “cận đại sơ kỳ” ng|y c|ng
được sử dụng một c{ch phổ biến trong giới sử học Anh, Đức, H| Lan< Cùng với sự chấp nhận ng|y c|ng rộng
rãi của kh{i niệm “cận đại sơ kỳ”, kh{i niệm “cận đại” (modern) cũng được đẩy lùi về giai đoạn kể từ sau c{ch
mạng tư sản Ph{p hoặc từ sau cuộc c{ch mạng công nghiệp ở Anh. Xin xem: Peter Burke, Can We Speak of an Early
Modern World? IIAS Newsletter 43/2007 (spring), p. 10.
ii
Đến nay, phần lớn giới sử học phương Đông đã coi “cận đại sơ kỳ” l| một (tiểu) giai đoạn hữu cơ trong lịch sử của
c{c d}n tộc: Ch}u Mỹ bước v|o giai đoạn cận đại sơ kỳ từ sau năm 1492 (năm nh| th{m hiểm Christopher
Columbus tìm ra ch}u Mỹ); Cận Đông lấy mốc 1501 - năm th|nh lập triều đại Safavid hùng mạnh - l| thời điểm
khu vực thuộc đế chế Ottoman (Đông Nam Âu xuống T}y Á, Trung Á v| phần lớn lục địa đen) l| mốc niên đại
bước v|o giai đoạn “cận đại sơ kỳ”; khu vực Nam Á lấy năm 1526 - thời kỳ ph{t triển đỉnh cao của đại đế chế
Mughal - l| thời điểm bắt đầu giai đoạn “cận đại sơ kỳ”; thế giới Đông Nam Á hải đảo coi việc người Bồ Đ|o Nha
chiếm giữ Malacca (1511) v| th}m nhập mạnh mẽ v|o c{c khu vực kh{c nhau của vùng quần đảo hương liệu
trong c{c thập kỷ tiếp theo của thế kỷ XVI, đặc biệt l| sự xuất hiện của hai thế lực h|ng hải T}y Âu l| H| Lan v|
Anh trong thế kỷ XVII, l|m điểm ph}n kỳ; lịch sử Nhật Bản bước sang thời kỳ cận thế bằng sự kiện thống nhất
đất nước sau cuộc nội chiến trăm năm v| việc Mạc Phủ Đức Xuyên (Tokugawa) lên nắm quyền v|o đầu thế kỷ
XVII; Trung Quốc cũng có bước chuyển mình hết sức căn bản kể từ sau cuộc chuyển giao triều chính Minh -
Thanh (1644), nhất l| sau khi triều Thanh dẹp xong thế lực phản Thanh phục Minh Trịnh Th|nh Công ở Đ|i Loan
(1683) v| mở cửa đất nước (1684)<
iii
Về lịch sử Việt Nam, xin xem chẳng hạn: Nguyễn Quang Ngọc (cb.), Tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB Gi{o dục, H|

Nội, 2001; Đối với c{c s{ch gi{o khoa lịch sử thế giới, có thể xem: Vũ Dương Ninh - Nguyễn Văn Hồng, Lịch sử thế
giới cận đại, NXB Gi{o dục, H| Nội, 2006.
iv
Arturo Giraldez, “Philippin v| to|n cầu hóa lần đầu tiên”, tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, 12/2009, tr.54-65.
v
Anthony Reid, Southeast Asia in the Age of Commerce (Vol. 2: Expansion and Crisis), New Haven: Yale University
Press, 1993, 62-63, 71 v| c{c trang tiếp theo.
vi
Hoang Anh Tuan, Silk for Silver: Dutch-Vietnamese Relations, 1637 - 1700 (Leiden-Boston: Brill), 2007, pp. 45-57.
vii
Ho|ng Anh Tuấn, “Kim loại tiền Nhật Bản v| chuyển biến kinh tế - xã hội Đ|ng Ngo|i thế kỷ XVII”, tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử, H| Nội, 12/2009, tr.18-30 v| 1/2010, tr.53-63.
viii
Về t{c động của ngoại thương (to|n cầu hóa nói chung) đến kinh tế - xã hội Đ|ng Ngo|i thế kỷ XVII, xin xem:
Ho|ng Anh Tuấn, “Kim loại tiền Nhật Bản v| chuyển biến kinh tế - xã hội Đ|ng Ngo|i thế kỷ XVII”.
ix
Trong số 3 địa điểm nổi bật trên, Domea l| cửa ngõ giao thương, nơi thương thuyền ngoại quốc neo đậu chờ h|ng
v| thuỷ thủ lưu trú chờ khởi h|nh. Phố Hiến mang nặng chức năng tuần ty v| một số chức năng thương mại nhất
định nhưng không mạnh như Kinh đô Thăng Long. Về vấn đề ph}n định chức năng của hệ thống thương mại
Đ|ng Ngo|i thế kỷ XVII, xin xem: Ho|ng Anh Tuấn, “Hải cảng miền đông bắc v| hệ thống thương mại Đ|ng
Ngo|i thế kỷ XVII qua c{c nguồn tư liệu phương T}y”, tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, H| Nội, 1/2007, tr.54-64 &
2/2007, tr.54-63.
x
Nguyễn Thừa Hỷ, Economic History of Hanoi in the 17
th
, 18
th
and 19
th
Centuries (Hanoi: ST Publisher, 2002),

pp. 155-169.
xi
Samuel Baron, “Mô tả vương quốc Đ|ng Ngo|i (1683)”, in trong: Nguyễn Thừa Hỷ, Tư liệu văn hiến Thăng Long -
Hà Nội: Tuyển tập tư liệu phương Tây, NXB H| Nội, 2010, tr.141.
xii
Li Tana, “A View from the Sea: Perspectives on the Northern and Central Vietnam Coast”, Journal of Southeast
Asian Studies, 37/1 (2006), pp. 83-102.
xiii
William Dampier, Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688, NXB Thế giới, H| Nội, 2007, tr.67-68.
Người H| Lan đến buôn b{n ở Đ|ng Ngo|i từ năm 1637 đến năm 1700. Người Anh đến Đ|ng Ngo|i năm 1672 v| bị
buộc phải cư trú ở Phố Hiến đến tận năm 1683 mới được phép chuyển lên Kẻ Chợ. Năm 1697 người Anh rời bỏ Đ|ng
Ngo|i vì tình trạng thương mại đình đốn.

xiv
Trích thư Chúa Trịnh Tạc gửi Toàn quyền Joan Maetsuyker năm 1670, trong: Daghregister Batavia 1670, tr.205-206.
xv
William Dampier, Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688, sđd, tr.116.

×