Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

các giải pháp nhằm quản trị rủi ro về chính trị cho công ty ford việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.18 KB, 39 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: Quản trị rủi ro
ĐỀ TÀI
GV: ThS Nguyễn Thị Hồng Thu
Lớp: Ngoại thương 2,3,4 – K33

TP Hồ Chí Minh – năm 2010
Nhận xét của Giáo viên:























Lời mở đầu
Nền kinh tế toàn cầu đang thay đổi từng ngày từng giờ, mỗi một doanh nghiệp
như là một tế bào của cơ thể sống ấy cũng đang vận động không ngừng, cố gắng bắt
kịp nhịp sống mới để có thể đón nhận cơ hội, chủ động vượt qua thách thức giành vị
trí tiên phong. Bản thân mỗi doanh nghiệp cần phải có những quyết định hợp lý và
đúng lúc thì mới có thể đạt được những điều trên. Và trong môi trường có nhiều
những thay đổi bất ngờ như vậy thì những rủi ro kèm theo mỗi quyết định cũng vì đó
mà thêm phần phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến mức sinh lợi của công ty. Hơn nữa,
doanh nghiệp phải đối đầu với không chỉ một mà là rất nhiều loại rủi ro như rủi ro
hối đoái, rủi ro đầu tư, rủi ro thanh toán… Như vậy, quản trị rủi ro là công tác mang
tính quyết định đối với từng sự vận động của doanh nghiệp. đối với Việt Nam, là một
nước đang trên đà hội nhập, hòa mình vào nền kinh tế thế giới, là nơi thu hút nguồn
vốn đầu tư nước ngoài khá hấp dẫn với tốc độ phát triển kinh tế khá nhanh, chế độ
chính trị ổn định, thế nhưng các nhà đầu tư nước ngoài không hề xem nhẹ yếu tố rủi
ro chính trị ở nước ta. Do nền kinh tế nước nhà đang thay đổi theo hướng cổ phần
hóa, doanh nghiệp trong nước chủ yếu là những công ty vừa và nhỏ nên vẫn cần sự
bảo hộ của nhà nước. tuy nhiên, cũng chính vì điều này đã làm phát sinh không ít rủi
ro về chính trị, khiến các nhà đầu tư e ngại, làm hạn chế việc mở rộng quy mô và phát
triển của doanh nghiệp. Như các tập đoàn lớn khác, tập đoàn Ford với khi xâm nhập
vào nước ta với cái tên Ford Việt Nam cũng đã gặp phải một số rủi ro chính trị.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, nguồn tài liệu hạn chế nên khó tránh khỏi
những sai sót. Kính mong cô và bạn đọc thông cảm. Nhóm rất mong nhận được
những đóng góp ý kiến, nhận xét đánh giá để bài làm hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn.
MỞ ĐẦU
 
1. Mục đích nghiên cứu
Bài làm cung cấp những kiến thức về quản trị rủi ro chính trị, thông qua một số
ví dụ thực tế của công ty Ford Việt Nam giúp người đọc có được một số hiểu biết nhất

định về việc quản trị và xử lý rủi ro, đồng thời rút ra một số bài học kinh nghiệm cho
các doanh nghiệp tham khảo. Từ đó, nhóm hy vọng phần nào giúp các nhà quản trị có
thể có những cách xử lý hiệu quả, đưa ra những quyết định tốt nhất để có thể mang lại
lợi ích cho doanh nghiệp.
2. Phạm vi nghiên cứu
Như tên đề tài đã quá rõ ràng, nhóm chỉ nghiên cứu đến vấn đề rủi ro chính trị,
cụ thể là một số rủi ro chính trị ở Việt Nam mà công ty Ford Việt Nam đã gặp và xử
lý. Các số liệu được lấy từ năm 2007.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, nhóm sử dụng dữ liệu thứ cấp là chủ yếu. các dữ liệu này
được lấy từ nhiều nguồn như: tài liệu, giáo trình liên quan đến quản trị rủi ro, trang
web của công ty Ford Việt Nam, website của Hiệp hội ô tô Việt Nam VAMA, trang
web của Chính phủ, tạp chí ô tô và một số sách báo khác.
Phương pháp xử lý dữ liệu
Đối với các dữ liệu thu được, nhóm áp dụng chủ yếu là các phương pháp định
tính sau:
 Phương pháp mô tả.
 Phương pháp so sánh.
 Phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê đơn giản.
 Phương pháp chuyên gia
4. Bố cục
Đề tài được chia thành các phần chính sau:
 Mở đầu:
Trình bày các vấn đề: ý nghĩa đề tài, mục đích nghiên cứu, đối tượng phạm vi
nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và bố cục của đề tài.
 Phần 1 Cơ sở lý thuyết của rủi ro về chính trị
Trong phần này nhóm xin đưa ra những kiến thức chung nhất về rủi ro chính
trị, các loại rủi ro chính trị và cách xác định.
 Phần 2 Thực trạng tình hình hoạt động của công ty Ford Việt Nam và một
số rủi ro về chính trị mà công ty gặp phải ở Việt Nam

Phần này bao gồm những vài nét tổng quát về công ty Ford Việt Nam, tình
hình hoạt động tính đến năm 2009. đồng thời nêu lên một số rủi ro chính trị ở
Việt Nam.
 Phần 3 Một số giải pháp quản trị rủi ro chính trị nhằm đẩy mạnh sự phát
triển ngành công nghiệp sản xuất ô tô Việt Nam nói chung và công ty Ford
Việt Nam nói riêng.
Trong đây là một số giải pháp nhằm khắc phục và hạn chế rủi ro mà nhóm cho
là hợp lý và cần thiết.
 Kết luận
Trình bày những quan điểm và đánh giá của nhóm.
Mục lục
Phần 1 Cơ sở lý thuyết của rủi ro về chính trị
Phần 2 Thực trạng tình hình hoạt động của công ty Ford Việt Nam và một số rủi ro về
chính trị mà công ty gặp phải ở Việt Nam
1. Giới thiệu tổng quát về công ty
2. Định hướng phát triển của doanh nghiệp
3. Nhận định chung
4. Một số rủi ro về chính trị công ty Ford gặp phải tại Việt Nam
Phần 3 Một số giải pháp quản trị rủi ro chính trị nhằm đẩy mạnh sự phát triển ngành công
nghiệp sản xuất ô tô Việt Nam nói chung và công ty Ford Việt Nam nói riêng
Các giải pháp và phương án lí thuyết để quản trị rủi ro
Các giải pháp kiến nghị
Phần 1 Cơ sở lý thuyết của rủi ro về chính trị
1. Định nghĩa
Rủi ro chính trị là những chính sách của Chính Phủ áp dụng mà giới hạn cơ hội kinh
doanh của các nhà đầu tư, là những khả năng mà các cơ quan Chính Phủ có thể tạo nên
sự thay đổi trong môi trường kinh doanh của quốc gia mà tác động đến lợi nhuận và
những mục tiêu khác của công ty kinh doanh. Mặt khác những rủi ro về chính trị như vậy
cũng làm ảnh hưởng đến những nhà marketing quốc tế, những nhà đầu tư quốc tế
2. Phân loại rủi ro chính trị

_Rủi ro về quốc hữu hóa và sung công
_Rủi ro về môi trường, an toàn, sức khỏe: những qui định liên quan đến kiểm soát chất
thải, qui trình sản xuất để bảo vệ sức khỏe cộng đồng
_Rủi ro về giấy phép và độc quyền: sự tài trợ hoặc bảo trợ cho một ngành nào đó quyền
phát triển hoặc khai thác nguồn tài nguyên hoặc cơ hội kinh doanh
_Rủi ro về lãi suất: Chính phủ đưa ra nhiều biện pháp sử dụng lãi suất để quản lý và kiểm
soát lạm phát và những vấn đề liên quan đến tiền tệ của quốc gia
_Rủi ro về kiểm soát ngoại hối và tiền tệ không có khả năng chuyển đổi
_Rủi ro về chính sách tuyển dụng lao động: là những quy định về quản lý và tuyển dụng
lao động như các vấn đề về mức lương tối thiểu, lao động nữ, hạn chế lao động nước
ngoài…
_Rủi ro về hạn ngạch, thuế quan, và các giới hạn thương mạo quốc tế khác…
_Rủi ro về thuế: là sự thay đổi chính sách thuế làm thay đổi khoản thu nhập cũng như khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp
3. Cách xác định rủi ro chính trị
Theo một số mô hình dự báo rủi ro chính trị và thương mạo hiện nay đưa ra những
chỉ số rủi ro quốc gia để lượng hóa mức độ rủi ro chính trị của mỗi quốc gia và những chỉ
số này phụ thuộc vào sự đo lường mức độ ổn định chính trị quốc gia
Có một số phương pháp dự đoán rủi ro chính trị, những phương pháp này cung
cấp các dấu hiệu nhằm xác định mức độ rủi ro trong mỗi quốc gia, bao gồm:
_ Tính ổn định chính trị: chỉ số ỏn định chính trị có thể bao gồm tần số thay đổi nhà
nước, mức bạo động của quốc gia, xung đột vũ trang với những nước khác. Các chỉ số
này cho thấy thể chế hiện tại duy trì quyền lực trong bao lâu và sự ủng hộ của thể chế với
đầu tư, tính ổn định chính trị càng cao thì mức an toàn trong đầu tư càng lớn
_ Các yếu tố kinh tế như lạm phát, thâm hụt ngân sách, tỷ lê tăng GNP bình quân đầu
người. Mục tiêu của những chỉ tiêu này nhằm xác định nền kinh tế ở trong tình trạng tốt
hay không hoặc cần có một sự thay đổi để cải thiện tình trạng quốc gia, ở mức hướng
ngoại càng cao thì rủi ro càng thấp
_ Các yếu tố chủ quan của rủi ro chính trị được xác định trên nhận thức chung về quan
điểm quốc gia đối với doanh nghiệp tư nhân và đầu tư nước ngoài

_ Quyền sở hữu không chắc chắn, rủi ro cũng có thể tồn tại nếu chủ tài sản bị trói buộc
về cách sử dụng tài sản của mình
_ Thất thoát vốn: dấu hiệu tốt để đo lường mức độ rủi ro chính trị là sự thất thoát vốn
trầm trọng là vốn chuyển ra nước ngoài của các công dân trong một quốc gia về nổi lo
tính an toàn của vốn của họ
4. Một số tiêu thức đánh giá rủi ro chính trị
_Các tiêu thức đánh giá rủi ro chính trị của E.Ditch và H.G.Koeglmayr
_Các tiêu chí đánh giá rủi ro theo chỉ số BERI
5. Phân tích rủi ro quốc gia
Rủi ro về chính trị có thể xuất hiện ở mỗi quốc gia nhưng mức độ rủi ro ở mỗi nơi lại
khác nhau. Những quốc gia có chế độ chính trị ổn định thì mức độ rủi ro chính trị
thấp, và ngược lại ở những quốc gia thường xảy ra bạo động, đảo chính hoặc chính
sách thường xuyên thay đổi thì rủi ro chính trị sẽ ở mức độ cao. Do đó khi phân tích
rủi ro quốc gia, ta có thể xem xét một số yếu tố cấu thành rủi ro chính trị của một
quốc gia như sau:
 Vô trách nhiệm về tài chính công
 Kiểm soát tỷ giá hối đoái
 Tổng chi tiêu phi sản xuất của nền kinh tế
 Cơ chế khuyến khích phát triển có hiệu quả tài nguyên của quốc gia
(bao gồm tài nguyên nguyên thiên nhiên và con người)
6. Quản trị rủi ro chính trị:
Quản trị rủi ro chính trị được đề cập ở ba giai đoạn: giai đoạn tiền đầu tư, giai đoạn
đầu tư và hậu sung công.
 Giai đoạn tiền đầu tư:
Trước khi quyết định đầu tư vào một dự án ở một quốc gia, mọi công ty đều phải tìm
hiểu thật kỹ những thông tin có liên quan để để đánh giá rủi ro chính trị của đầu tư.
Từ đó công ty phải thiết lập tối thiễu là 4 chính sách riêng rẻ (chính sách đề phòng,
chính sách bào hiểm, chính sách hội đàm về môi trường và chính sách cơ cấu đầu tư)
để có thể quản trị những rủi ro chính trị có thể xảy ra ở quốc gia dự định đầu tư.
 Chính sách đề phòng:

Đây là cách dễ nhất để quản trị rủi ro chính trị, tức là các công ty chỉ cần tránh né
những rủi ro này bằng cách xem xét đầu tư ở những quốc gia có nền chính trị không
ổn định. Những rủi ro về chính trị là ngoài tầm kiểm soát của mình do đó mỗi công ty
sẽ chấp nhận một mức độ rủi ro chính trị nhất định mà tại đó vẫn đảm bảo mức thu
hồi vốn cao và có thể khống chế được các rủi ro này
 Chính sách bảo hiểm:
Bằng cách bảo hiểm tài sản trong các khu vực có rủi ro chính trị, các công ty có thể
tập trung vào việc quản lý kinh doanh của mình và bỏ qua rủi ro chính trị nếu nó có
xảy ra.
Thông thường các quốc gia phát triển sẽ bán bảo hiểm rủi ro chính trị để chi trả cho
tài sản nước ngoài của các công ty nội địa.
 Chính sách hội đàm về môi trường:
Với chính sách này, các công ty sẽ cố gắng tiếp cận với quốc gia chủ nhà trước khi
cam kết đầu tư, xác định quyền hạn và cam kết của hai bên. Nó được xem như là sự
hiểu biết cụ thể về các quy tắc của địa phương nơi công ty họat động.
Những thảo thuận này thường thông dụng đối với các công ty đầu tư trong các quốc
gia kém phát triển, đặc biệt là thuộc địa của nước sở tại.
 Chính sách cơ cấu đầu tư:
Khi một công ty đã quyết định đầu tư vào một quốc gia thì họ sẽ cố giảm đến mức
thấp nhất những nguy cơ về rủi ro chính trị bằng cách tăng chi phí của chính phủ nước
sở tại trong việc gây trở ngại cho hoạt động của công ty. Các cách thức đó là:
- Giữ công ty con địa phương phụ thuộc vào công ty mẹ về thị trường hoặc về cung
ứng.
- Tập trung các điều kiện nghiên cứu - phát triển và các công nghệ độc quyền ở
nước sở tại
- Phát triển những cổ động tài chính bên ngoài để đem lại thành công cho liên doanh
- Được bảo lãnh không điều kiện của nước sở tại đối với các dự án khai thác
 Giai đoạn đầu tư
Ở giai đoạn này, có tối thiểu là 5 chính sách mà công ty có thể áp dụng để đem lại cơ
hội kinh doanh thành công cho mình. Đó là kế hoạch phân tán, tối đa lợi nhuận ngắn

hạn, thay đổi tỷ số lợi nhuận/chi phí của sung công, phát triển cổ đông địa phương và
thích ứng.
 Kế hoạch phân tán:
Với chính sách này, các công ty sẽ thực hiện bán tất cả hoặc một phần lớn lợi nhuận
cổ phần của họ cho các nhà đầu tư địa phương để phân tán quyền sở hữu về đầu tư
nước ngoài trong một giai đọan cố định.
 Tối đa hóa lợi nhuận ngắn hạn:
Công ty thực hiện chính sách này bằng cách thay đổi chi phí bảo trì, cắt giảm tối đa
chi phí đầu tư cần thiết để duy trì sản lượng mong muốn, định giá cao hơn, xóa bỏ chi
phí đào tạo… để thu hồi tối đa lượng tiền mặt từ các họat động ở địa phương trong
thời gian ngắn
 Thay đổi tỷ số lợi nhuận/chi phí:
Việc thay đổi tỷ số lợi nhuận/chi phí có thể thực hiện bằng cách kiểm soát thị trường
xuất khẩu, vận tải, công nghệ, thương hiệu, nhãn hiệu và các phụ tùng được sản xuất
tại các quốc gia khác.
 Phát triển cổ động địa phương:
Việc bồi dưỡng những cá nhân đại phương và nhóm những người chung mục đích
trong một chi nhánh là một trong những chiến lược tích cực, góp phần củng cố địa vị
và hoạt động kinh doanh của công ty trước những rủi ro chính trị của nước sở tại mà
đặc biệt là việc sung công của chính phủ.
 Thích ứng:
Đây là chính sách mà các công ty hiện nay đang áp dụng, tức là họ thích ứng với sung
công tiềm ẩn và cố kiếm lợi nhuận trên các nguồn lực của công ty bằng cách tham gia
vào các hợp đồng chuyển nhượng và quản lý.
 Giai đoạn hậu sung công
Theo William Hoskins, hậu sung công có 4 giai đoạn cơ bản mà chính phủ và công ty
phải đối mặt. Đó là thương lượng, áp dụng quyền lực, sử dụng pháp luật và từ bỏ
quản lý
 Thương lượng:
Các công ty sẽ cố duy trì sự liên lạc với chính phủ nước sở tại và nổ lực thuyết phục

ngăn sung công xảy ra bằng việc chỉ ra các lợi ích kinh tế trong tương lai của nó hoặc
những hậu quả tai hại của việc thu hồi các tài sản của công ty.
 Áp dụng quyền lực:
Nếu nhượng bộ của công ty không khôi phục lại được các tài sản của mình thì công ty
sẽ gây áp lực kinh tế của mình với chính phủ nước sở tại như cắt bỏ những phụ tùng
quan trọng, thị trường xuất khẩu, công nghệ và kỹ năng quản lý…
 Sử dụng pháp luật:
Sau hai giai đọan trên, công ty sẽ tìm đến sự đền bù về mặt pháp luật dù cho chính
phủ nước sở tại có thực hiện các xử lý pháp luật thích đáng hay không.
 Từ bỏ quản lý:
Cuối cùng là công ty sẽ từ bỏ quản lý theo một trong ba cách sau: quản lý xuất khẩu
như trước nhưng theo một thỏa thuận ủy quyền; trang bị kỹ năng kỹ thuật và quản lý
theo một hợp đồng quản lý; và bán nguyên liệu, phụ tùng cho chính phủ nước ngoài.
7. Chiến lược tài chính giảm thiểu rủi ro chính trị:
Để giảm thiểu rủi ro chính trị, các công ty cần theo dõi, nghiên cứu và dự báo những
thay đổi trong chính sách của cả chính phủ nước mình và nước sở tại có liên quan đến
hoạt động kinh doanh; trên cơ sở đó sẽ hoạch định những chiến lược sao cho có thể
đón đầu được cơ hội, né tránh được những nguy cơ.
Một số các chiến lược tài chính chủ yếu mà công ty có thể áp dụng để quản trị rủi ro
chính trị là:
 Sắp xếp hợp lý nguồn tài chính của tập đoàn
 Tìm sự tài trợ đầu tư nước ngoài từ chính phủ nước họ hay các nước
khác và từ những tổ chức quốc tế hơn là từ nguồn tài chính của bản thân
công ty
 Thuê quốc tế
 Đa dạng hóa các nguồn tài trợ để giảm sự lệ thuộc vào bất kỳ một thị
trường tài chính nào
 Thiết lập thỏa thuận cung cấp sản phẩm dài hạn
Phần 2 Thực trạng tình hình hoạt động của công ty Ford Việt Nam và một số rủi ro về
chính trị mà công ty gặp phải ở Việt Nam

1. Giới thiệu tổng quát về công ty:
a. Vài nét sơ lược về công ty:
• Công ty Ford Việt Nam thuộc tập đoàn ô tô Ford được thành lập năm 1995,
là một trong những công ty sản xuất ô tô và phân phối sản phẩm này trên
thị trường ô tô Việt Nam. Tổng vốn đầu tư của Ford Việt Nam là 102 triệu
USD. Đây là liên doanh giữa Ford Motor Company (Hoa Kỳ 75%) và Công
ty Diesel Sông Công (Việt Nam 25%) với tổng số vốn đầu tư 72 triệu
USD. Đây là liên doanh ô tô có vốn đầu tư lớn nhất và cũng là một trong
những dự án đầu tư lớn nhất của Mỹ tại Việt Nam. Tổng số nhân viên tại
Ford Việt Nam là hơn 580 nhân viên.
• Hai năm sau, tháng 9/1997 Ford khai trương 3 đại lý ủy quyền đầu tiên tại 3
miền của Việt Nam. Tháng 11/1997 Ford đã khai trương nhà máy lắp ráp ở
tỉnh Hải Dương, xã Lai Cách, huyện Cẩm Giàng - cách Hà Nội 55 km về
phía Đông- với tổng diện tích là 30 ha. Nhà máy có ba phân xưởng chính
là: Xưởng Hàn (Body Shop), Xưởng Sơn (Paint Shop) và Xưởng Lắp ráp
Hoàn thiện (Trim and Final Lines). Loại hình lắp ráp chủ yếu là CKD2
(nhập khẩu cụm linh kiện) với công suất là 14.000 xe một năm / 2 ca sản
xuất.
• Đến năm 2005, Ford Việt Nam vẫn là Công ty có vốn đầu tư trực tiếp lớn
nhất của Hoa Kỳ tại Việt Nam.
• Ngoài ra, Ford Việt Nam luôn coi những hoạt động đóng góp xã hội là một
phần trách nhiệm của công ty đối với cộng đồng. Ford Việt Nam đã
và đang thực hiện nhiều chương trình trong các lĩnh vực an toàn giao thông,
bảo vệ môi trường- gìn giữ di sản văn hoá dân tộc và nhiều chương trình từ
thiện khác. Về các hoạt động môi trường và bảo tồn văn hoá, “Chương
trình Bảo vệ môi trường và gìn giữ di sản văn hoá” do quỹ Ford tài trợ
được bắt đầu từ 2000 đã đóng góp tổng cộng 240.000 đô la cho trên 60 dự
án, từ bảo vệ rùa biển, dùng năng lượng biogas bảo vệ các điệu múa và văn
học truyền thống của Việt nam.
• Đối thủ cạnh tranh của công ty: Toyota, General Motor, Mercedes,

Volkswagon và Kia Morning…

b. Sản phẩm của công ty Ford:
• Tháng 11/2004 Ford VN giới thiệu xe Mondeo phiên bản mới.
• Tháng 3/2005 Ford VN giới thiệu xe đa dụng 7 chỗ Everest hoàn toàn mới.
• Tháng 8/2005 Ford VN giới thiệu xe Focus hoàn toàn mới.
• Tháng 5/2006, Ford VN giới thiệu xe Focus 5 cửa hoàn toàn mới.
• Năm 2007, Ford Việt Nam ra mắt phiên bản Ford Everest mới và Ford
Transit 9 chỗ ngồi. Các phiên bản này được giới thiệu tại triển lãm ô tô Việt
Nam 2007 (Autotech) tại Cung Văn hóa Hữu nghị Việt Xô, Hà Nội
• Như vậy, cho tới nay sáu dòng sản phẩm hiện tại của công ty là Transit,
Ranger, Escape, Mondeo, Everest, Focus.
c. Nhân sự:
Lao động tại Công ty Ford Việt Nam chủ yếu là người Việt Nam, có khoảng 2
đến 5 nhân sự nước ngoài chiếm giữ vị trí chủ chốt (Tổng Giám đốc, Giám đốc
Tài chính, Giám đốc Sản xuất, Giám đốc Nhân sự, Giám đốc Bán hàng và Tiếp
Thị). Với chính sách đào tạo tốt, phát triển nhân lực địa phương, đến năm 2009,
chỉ còn Tổng Giám đốc là người nước ngoài. Công nhân tại nhà máy chủ yếu là
người địa phương, dao động từ 200 đến 300 người. Các Tổng Giám đốc qua các
thời kỳ (đến tháng 4 năm 2010): Murray Gilbert (Úc), Deborah Aronson (Mỹ),
Jason Liu (Đài Loan), Timothy Tucker (Mỹ), Michael Peace (Úc).
d. Tình hình phát triển của công ty:
• Ford Việt Nam thông báo về doanh số của năm 2009. Năm 2009 được xem
là năm có doanh số tốt nhất của hãng từ trước đến nay: tăng 28% so với
2008 với doanh số bán hàng đạt 8.286 xe. Các dòng sản phẩm của Ford đều
đạt doanh số lớn. Đây chính là lí do giúp cho Ford đạt được doanh số kỉ lục
này, trong đó Ford Focus, Ford Ranger và Ford Everest SUV đã đạt được
doanh số kỉ lục. Những kết quả ấn tượng mà Ford Việt Nam đạt được trong
năm 2009 đã góp phần nhấn mạnh tầm quan trọng ngày càng lớn của các
chiến lược phát triển của Ford đối với khu vực châu Á.

• Nhằm hỗ trợ sự tăng trưởng kinh doanh của hãng và nhu cầu ngày càng cao
đối với các dòng xe Ford, Ford Việt Nam tiếp tục phát triển kế hoạch mở
rộng sản xuất trong năm 2009 bằng việc hoàn thiện dây chuyền lắp ráp mới
với công nghệ tiên tiến nhất tại nhà máy Ford Hải Dương với năng suất
tăng 25%. Ford cũng tiếp tục mở rộng mạng lưới đại lý trên toàn quốc trong
năm 2009 với tổng số 21 đại lý và 2 phòng trưng bày. Năm 2009, Ford Việt
Nam “ đạt doanh số kỷ lục cao nhất” từ trước tới nay.
• Ford sẽ tiếp tục mở rộng mạng lưới đại lý ủy quyền của mình vào năm
2010 bằng việc bổ sung một số cơ sở mới và tiếp tục đẩy mạnh các dịch vụ
mang đẳng cấp quốc tế và mang lại những trải nghiệm đặc biệt cho khách
hàng. Năm 2010, Ford Việt Nam sẽ tập trung vào việc mang lại sự hài lòng
cho khách hàng, trong đó có việc đưa vào hoạt động dây chuyền lắp ráp
mới với những công nghệ tiên tiến nhất, tăng cuờng năng lực sản xuất, ra
mắt các mẫu xe mới và cung cấp đầy đủ các hoạt động hỗ trợ cho các đại
lý, trong đó bao gồm chương trình Chất lượng Dịch vụ Chăm sóc mang
đẳng cấp quốc tế, các quy trình bán hàng và giao hàng mới của đại lý.
e. Thành tựu công ty đạt được:
• Với hơn 100 năm kinh nghiệm hoạt động trên thị trường quốc tế của công
ty Ford Motor, và 10 năm hoạt động tại thị trường Việt Nam, Ford Việt
Nam (FVL) đã đạt được nhiều thành công tại thị trường đang phát triển
này. Từ vị trí thứ 7 trên thị trường khi bắt đầu hoạt động tại Việt Nam năm
1997, Ford Việt Nam đã nhanh chóng phát triển và đến hết năm 2004, Ford
Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ 2 trên thị trường với 14% thị phần. Cũng
trong 10 năm qua, với những nỗ lực không ngừng của Ban lãnh đạo và toàn
thể nhân viên công ty, Ford Việt Nam đã dẫn đầu thị trường về nhiều mặt.
Nhà máy Ford tại Hải Dương là nhà máy ô tô đầu tiên và duy nhất tại Việt
Nam được cấp cả ba chứng chỉ chất lượng ISO 9001; ISO 14001 và QS
9000. 12/2002 Ford Việt Nam nhận giải thưởng quốc tế về bảo tồn môi
trường hoang dã tại nhà máy Hải Dương.
• Tháng 6/2005, Ford Việt Nam vui mừng thông báo đã vượt qua các

kiểm định cần thiết và đạt tiêu chuẩn nhận chứng chỉ chất lượng ISO:TS
16949 chuyên ngành Công nghiệp ôtô. Như vậy, Ford Việt Nam đã và đang
dẫn đầu trong công tác nâng cao chất lượng, thoả mãn khách hàng. Tháng
7/2005 Nhà máy Ford VN đạt chứng chỉ ISO:TS 16949 và nâng cấp ISO
9001:2000.
• Năm 2009, Ford Việt Nam là một trong bốn thương hiệu xe hơi đạt được
điểm số cao trên mức trung bình của ngành trong “Khảo sát về sự hài lòng
của khách hàng” – Sales Satisfaction Index (SSI) do J.D. Power &
Associates lần đầu tiên thực hiện tại thị trường Việt Nam. Ford Việt Nam
cũng đã được Bộ Công nghiệp & Thương mại và Bộ Kế hoạch & Đầu tư
trao tặng giải thưởng "Việt Nam Golden FDI" cho những hoạt động kinh
doanh xuất sắc và những nỗ lực chuyển giao công nghệ của hãng trong năm
2009.
• Năm 2010, Tập đoàn Ford Motor đạt danh hiệu "Doanh nghiệp có đạo đức
kinh doanh tốt nhất" toàn cầu.
2. Định hướng phát triển của doanh nghiệp:
Ford Việt Nam sẽ tiếp tục đầu tư mạnh hơn nữa. Trong năm 2008, Ford Việt
Nam đã đầu tư 10 triệu USD nhằm mở rộng dây chuyền lắp ráp, nâng cao chất
lượng và trở thành hãng sản xuất xe hơi có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn
nhất với tổng vốn lên tới 110 triệu USD. Năm 2009, chúng tôi sẽ đầu tư một
khoản lớn hơn cho dù kinh tế đang suy yếu. Ngoài ra, chúng tôi vẫn tiếp tục giới
thiệu các mẫu xe mới như năm 2008 là Mondeo, là Ford Everest, Escape phiên
bản mới với hàng loạt cải tiến, tiếp tục mở rộng hệ thống dịch vụ và bán hàng (lên
23 đại lý) Ngoài ra, kiểm tra cẩn thận các tính năng kỹ thuật trước khi tung ra thị
trường, cải thiện dịch vụ chăm sóc khách hàng. Ford cũng tự tin trong bối cảnh
kinh tế toàn cầu khó khăn, Ford Motor sẽ giữ vững được hoạt động của mình, trở
thành một doanh nghiệp có sức cạnh tranh mạnh mẽ.
3. Nhận định chung:
a. Thuận lợi:
• Ford là một thương hiệu mạnh với những dòng sản phẩm đầy uy tín và chất

lượng trên thị trường Việt Nam.
• Hiện tại, Ford Motor dưới sự điều hành của ông Alan Mulally đã thực hiện
rất thành công một kế hoạch cải tổ nhằm thay đổi tình thế. Những sản phẩm
mới của Ford đang thâm nhập thị trường và có các ưu thế về khả năng tiết
kiệm, độ an toàn hơn đối thủ cạnh tranh. Ví dụ, Mondeo, điểm gây ấn
tượng nhất là hốc hút gió. Ở Mondeo, hốc hút gió hình thang rộng gấp đôi
lưới tản nhiệt, mang thông điệp về một mẫu xe có sức mạnh do phải hút
lượng không khí lớn.
• Dự đoán trong năm 2009, sản lượng bán xe sẽ suy giảm ở mức 20% nhưng
xe lắp ráp trong nước sẽ chịu ảnh hưởng ít hơn so với xe nhập khẩu. Những
chính sách như hiện nay, trong thời gian tới, xe lắp ráp trong nước sẽ vẫn
duy trì vị thế, không chỉ vì giá rẻ hơn, được thiết kế riêng phù hợp mà còn
vì các chế độ bảo hành, bán hàng Điều này làm tăng tính cạnh tranh của
Ford.
b. Khó Khăn:
 Thị trường sụt giảm mạnh, nhất là những tháng cuối năm, lên tới 33
- 50% so với những tháng trước đó cũng như cùng kỳ năm ngoái.
Nguyên nhân chính vẫn là do suy thoái về kinh tế.
 Mặt khác, sang năm 2009 thị trường tiêu thụ không những không
phục hồi mà còn có thể tiếp tục sụt giảm khoảng 20% mà nguyên
nhân là do nền kinh tế chưa thể phục hồi nhanh.
• Thuế TTĐB tiếp tục tăng mạnh từ 15 - 20% vào dòng xe 7
chỗ, vốn là thế mạnh sản xuất, lắp ráp của nhiều liên doanh
trong nước, loại xe phổ biến nhất của người tiêu dùng, sử
dụng nhiều phụ tùng, linh kiện nội địa nhất. Giá các loại xe
này bắt buộc phải tăng lên tương ứng và sẽ là gánh nặng đối
với người tiêu dùng, các nhà cung ứng phụ tùng.
 Các dòng sản phẩm của Ford chủ yếu nhằm đáp ứng yêu cầu về tính
năng nên đã bỏ qua yếu tố kiểu dáng. Do đó, đối với nhóm khách
hàng thích mẫu mã đẹp mắt thì công ty sẽ gặp khó khăn so với một

số đối thủ cùng ngành như Toyota, Mercedes, Daewoo, Lexus,
Chevrolet.
 Hầu hết các sản phẩm của Ford vẫn phải nhập linh kiện ở nước
ngoài, tốn chi phí, đẩy giá thành lên cao, gặp khó khăn trong cạnh
tranh về giá.
 Ngoài ra, trong giai đoạn hiện nay khi Việt Nam đã gia nhập và bắt
đầu thực thi các nguyên tắc của WTO, Việt Nam phải mở cửa kinh
tế rộng hơn và phải đối xử bình đẳng với các thành phần kinh tế bất
kể là nhà nước, tư nhân hay đầu tư của nước ngoài. Theo đó những
ưu đãi mà nhà nước dành cho các công ty như Ford Việt Nam sẽ
không còn, dẫn đến khó khăn cho công ty là rất lớn.
4. Một số rủi ro về chính trị công ty Ford gặp phải tại Việt Nam
a) Những bất cập trong chính sách thuế ô tô Việt Nam:
Chính sách thuế được xem là công cụ quản lý hỗ trợ quan trọng cho sự phát triển
ngành công nghiệp ô tô. Tuy nhiên thời gian qua, công cụ này đã được sử dụng không
hiệu quả dẫn tới việc cho đến nay (sau rất nhiều nỗ lực), Việt Nam vẫn chưa có ngành
công nghiệp ô tô đúng nghĩa. Chính sự bất cập chính sách thuế nhập khẩu ô tô Việt Nam
đã gây không ít khó khăn cho các DN Việt Nam cũng như các DN nước ngoài.
Năm 2003, xe mới nguyên chiếc đã được phép nhập khẩu (xe cũ được nhập khẩu
vào năm 2006), nhưng do thuế nhập khẩu quá cao nên hầu như chẳng có doanh nghiệp
nào mặn mà. Trong năm 2007, Bộ Tài chính tiến hành ba đợt giảm thuế nhập khẩu ô
tô. Cụ thể, sau khi Việt Nam gia nhập WTO hồi tháng 1-2007, các loại ô tô nhập mới
nguyên chiếc được giảm thuế từ mức 90% xuống còn 80%. Vào tháng 8-2007, mức thuế
trên được giảm xuống còn 70% và vào ngày 16-11-2007 còn 60% Bên cạnh đó, mặt
hàng ôtô cũng từng phải chịu tăng phí trước bạ. Trong ba lần giảm thuế nhập khẩu xe
nguyên chiếc liên tiếp từ mức 90% xuống còn 60% của năm 2007, lần nào đại diện Bộ
Tài chính cũng đều khẳng định mức thuế được điều chỉnh vừa phù hợp với lộ trình hội
nhập lại vừa góp phần đưa ngành công nghiệp ôtô, thị trường ôtô phát triển đúng hướng
thậm chí gián tiếp giúp tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế. Với lần giảm thuế trong năm
2007 ,cánh cửa cho xe nguyên chiếc tràn vào được mở tung một cách đột ngột khiến giới

kinh doanh ô tô nhập khẩu ngỡ ngàng, trong khi các nhà sản xuất trong nước thì…
choáng váng. Lượng xe nhập khẩu nguyên chiếc tăng nhanh, song các nhà sản xuất trong
nước vẫn kiên định không giảm giá bán. Vậy là mục tiêu “kéo” giá xe trong nước xuống
không đạt được, các nhà quản lý lại phải đối mặt với áp lực nhập siêu tăng cao.
Lập tức chính sách thuế lại điều chỉnh Chỉ nửa năm sau đó - tháng 3.2008, thuế
NK mặt hàng này tăng lên đến 70%. Thêm một tháng nữa, chính sách này lại thay đổi khi
ôtô NK phải chịu thuế suất 83% vào tháng 4.2008. Theo Quyết định 17/2008/QĐ-BTC
ký ngày 17-4 về việc sửa đổi mức thuế suất một số nhóm mặt hàng trong biểu thuế xuất
khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi thì các loại xe ô tô đều được nâng lên mức thuế 83%.
Bên cạnh đó, tại quyết định này, thuế suất nhập khẩu các mặt hàng linh kiện ô tô, máy
móc, phụ tùng phục vụ cho việc lắp ráp các loại ô tô trong nước cũng được điều
chỉnh với mức tăng trung bình là 3-5%.Tại thời điểm xây dựng phương án tăng thuế, ba
mức được đưa ra là 80%, 83% và 85%, song Bộ Tài chính đã chọn mức 83%.
Hai quyết định tăng thuế liên tiếp với tổng mức tăng là 23% sẽ lại đưa giá xe hơi
gần như trở lại vị trí cũ .Điều này có nghĩa là trong vòng 2 năm, chính sách thuế đối với
mặt hàng này có tới 3 lần thay đổi, với mức tăng cao ngất ngưởng tới 31%.Tuy nhiên,
nếu thống kê kỹ lưỡng hơn thì thực chất mặt hàng này trong 2 năm qua đã phải chịu tăng
thêm rất nhiều loại thuế, phí. Cụ thể là từ tháng 4.2009, ôtô NK đã phải chịu tăng thuế
tiêu thụ đặc biệt (từ 15% - 30% tuỳ dòng xe và dung tích xilanh) .
Thật hiếm thấy sắc thuế nào lại được điều chỉnh với tốc độ chóng mặt như thuế
ôtô. Điều đáng nói là những lần điều chỉnh thuế suất luôn có tác dụng vô hiệu hóa lẫn
nhau trong khi lần nào cũng được cho là… hợp lý.
Vào năm 2009 cũng có nhiều biến động với thị trường ô tô Việt Nam do Luật
Thuế tiêu thụ đặc biệt sửa đổi chính thức có hiệu lực ảnh hưởng đến giá cả xe ô tô.Năm
2008 các loại xe từ 6-9 chỗ đang hưởng mức thuế chung là 30% trong khi từ 1/4/2009,
phải chịu mức thuế tăng thêm từ 15%-30%.Cụ thể, thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với
các loại xe 6-9 chỗ có dung tích xi-lanh dưới 2.000 tăng từ 30% lên 45% kéo theo mức
tăng giá bán khoảng 12%, các loại xe từ 2.000 cm3 đến 3.000 cm3 tăng từ 30% lên 50%
kéo theo mức giá bán tăng khoảng 15% và xe trên 3.000 cm3 tăng từ 30% lên 60% kéo
theo mức tăng giá bán khoảng 23%.

Năm 2010, mức cam kết WTO năm 2010 đối với xe ô tô dưới 9 chỗ ngồi cụ thể là:
loại chạy xăng, trên 2500 cc là 80,5%; xe chạy xăng dưới 2500 cc và xe chạy diessel có
cam kết trần là 87%; xe ô tô 4 bánh 2 cầu chủ động có mức cam kết trần là 77%. Mức
thuế nhập khẩu đối với các ô tô này năm 2009 là 83%. Để góp phần hạn chế nhập siêu,
ổn định kinh doanh và ít tác động nhất về thay thế thuế suất, Bộ Tài chính điều chỉnh
bằng các mức trần WTO của năm 2010 đối với xe chạy xăng trên 2500 cc và xe 4 bánh 2
cầu chủ động (xe chạy xăng, trên 2500 cc là 80%; xe ô tô 4 bánh 2 cầu chủ động là 77%),
các loại xe chạy xăng dưới 2500 cc và chạy diesel giữ nguyên mức hiện hành của năm
2009 là 83% để tránh việc thay đổi lớn và không chênh lệch so với các loại công suất lớn.
Việc áp dụng Biểu thuế này vẫn thực hiện theo nguyên tắc nhất quán từ trước đến
nay và hoàn toàn phù hợp với lộ trình thuế mà Việt Nam đã ký cam kết khi gia nhập
WTO, các cam kết này và các nguyên tắc đều thông báo công khai trên các phương tiện
thông tin đại chúng để toàn dân cũng như các cơ quan có thể kiểm tra, giám sát.
Tuy nhiên,điều đáng nói chính là Chính phủ không còn ưu đãi giảm thuế VAT
5%, theo đó mức thuế VAT đối với mặt hàng ôtô quay trở lại 10% từ ngày
1.1.2010.Chình điêu này đã tác động không nhỏ đến sức mua trên thị trường ô tô Việt
Nam.
b) Ảnh hưởng của rủi ro chính trị đối với nhà sản xuất ôtô Ford:
Chỉ trong vòng gần 2 năm đã có tới 6 lần điều chỉnh thuế nhập khẩu, giảm rồi
tăng. Những tác động tiêu cực của thuế tiêu thụ đặc biệt ảnh hưởng và làm suy giảm thị
trường ôtô. Vào năm 2007,do ảnh hưởng của chính sách thuế nhập khẩu ô tô,mức giảm từ
90% xòn 60% nên phản ứng của thị trường đối với hàng loạt các hoạt động giới thiệu sản
phẩm mới trong năm 2007 và những nỗ lực không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ
sau bán hàng, Ford Việt Nam đã đạt doanh số bán hàng kỷ lục với 902 xe được bán ra
trong tháng 11. Theo báo cáo bán hàng của VAMA, đây là doanh số bán hàng tháng cao
nhất kể từ tháng 1 năm 2005 của Ford, đạt mức tăng trưởng kỷ lục 234% so với cùng kỳ
năm ngoái. Trong 11 tháng đầu năm 2007, Ford Việt Nam đã bán được tổng cộng 4,937
chiếc xe, chiếm 7.2% thị phần
Nhưng đến 2008,thị trường lại biến động do ảnh hường chính sách thuế .Do năm
2007 lượng tiêu thụ ôtô tăng mạnh lên nên trong 2008 các doanh nghiệp đã tăng mạnh

sản lượng xe Ford, nhưng từ giữa năm 2008 do có có nhiều chỉnh trong chính sách với
ôtô như tăng thuế nhập khẩu xe nguyên chiếc, tăng lệ phí trước bạ và kinh tế khó khăn
nên tiêu thụ xe giảm mạnh đã làm cho lượng ôtô tồn đọng lớn Theo số liệu của tổng cục
Thống kê, năm 2008 các DN đã nhập khẩu tới 50.400 xe ôtô các loại. Vào tháng 3 và
tháng 4/2008 khi thuế suất thuế nhập khẩu ôtô tăng 2 lần liên tiếp từ 60% lên 83% rồi vào
cuối tháng 8/2008 lệ phí trước bạ tăng gấp đôi từ 5% lên 10% thì xe nhập khẩu bị đội giá,
rất khó bán, trong khi trước đó các DN nhập về quá nhiều xe dẫn đến tồn đọng lớn. Theo
ước tính số ôtô nhập khẩu hiện còn tồn vào khoảng 15.000 chiếc chủ yếu là xe du lịch đắt
tiền. Mức tăng trưởng trong toàn ngành ôtô nửa cuối 2008 chỉ bằng 50% của nửa đầu
năm 2008. Riêng với Ford Việt Nam, cũng có một sự tăng trưởng đáng kể trong nửa đầu
2008 . Khách hàng đặt hàng nhiều hơn lượng công ty có thể sản xuất để đáp ứng, vì vậy
vẫn còn một lượng lớn các đơn đặt hàng trước mà công ty phải cung cấp đến cuối năm
2008. Cho nên, sự giảm sút trong lượng bán hàng của Ford không đến 50% như toàn
ngành, tuy nhiên, vẫn sẽ có sự giảm sút do bị ảnh hưởng của chính sách thuế.Thị trường
cũng vì những điều chỉnh đó mà rối loạn. Người tiêu dùng cũng không kịp trở tay. Không
thể hiểu nổi và không thể sắp xếp, điều chỉnh kịp được kế hoạch sản xuất, lắp ráp khi mà
ôtô là mặt hàng chủ yếu phải nhập khẩu linh kiện từ nhiều nước khác nhau. Vừa điều
chỉnh kế hoạch xong, lại điều chỉnh nữa gây thiệt hại không nhỏ đối với Ford. Nếu cứ
tiếp tục tăng thuế, thì cầu ôtô trên thị trường sẽ tiếp tục giảm, có thể ảnh hưởng xấu đến
hệ thống cung cấp và việc đầu tư lâu dài của xe Ford tại Việt Nam Điều đó không chỉ
ảnh hưởng đến các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến các
công ty cung cấp phụ tùng, linh kiện, đặc biệt là các doanh nghiệp Việt Nam cung cấp
phụ tùng cho hãng xe Ford. Mặt khác, sẽ dẫn đến việc các hãng sản xuất của Ford hoặc
phải cắt giảm sản xuất, hoặc phải cắt giảm nhân sự.
Với kinh tế khó khăn và sự tác động của các chính sách nên tất cả các doanh
nghiệp ôtô đều cắt giảm mạnh số lượng xe Ford trong năm 2009. Có những doanh
nghiệp lên kế hoạch cắt giảm tới 50% sản lượng so với 2008, nhập khẩu xe nguyên chiếc
cũng giảm mạnh. Sản lượng sụt giảm khiến giá xe Ford tăng lên. Giá xe chỉ giảm khi sản
lượng ôtô tăng lên, nay sản lượng giảm đồng nghĩa với giá xe phải tăng
Từ quý 2/2009 giá xe hơi tăng đáng kể do ảnh hưởng thuế tiêu thụ đặc biệt.Với

mức thuế mới này thì giá ôtô dưới 10 chỗ ngồi của Ford có nhiều thay đổi. Trong đó, các
loại xe từ 6-9 chỗ phải chịu mức tăng giá mạnh mẽ nhất còn các loại xe từ 5 chỗ ngồi trở
xuống phải chịu mức tăng giá ít hơn Bên cạnh đó, trong năm 2008, dù cho tỉ lệ lạm phát
tăng trên 20%, nhưng Ford vẫn không nâng giá. Vì thế mức giá chung sẽ được tăng lên
trong năm 2009 để bù đắp lại các chi phí cao hơn của phụ tùng nhập khẩu và các loại
thuế khóa cùng những chi phí liên quan khác. Như vậy, khi tính các chi phí này cùng với
lệ phí trước bạ vốn đã cao hơn trước, sức mua sắm xe hơi Ford suy giảm rõ rệt vào năm
2009.
Về cơ bản nền công nghiệp ô tô của Ford năm 2009 sụt giảm số lượng tiêu thụ từ
20% tới 25% so với năm 2008, xe cá nhân sẽ giảm ít nhất ¼ so với 2008. (Trong năm
2008 tiêu thụ ôtô các hãng ước tính đạt 120.000 xe các loại, trong đó xe cá nhân vào
khoảng 80.000 chiếc)Như vậy, chi phí dành cho khách hàng mua Ford lại tăng thêm. Với
những xe có giá thấp nhất năm 2008 là 10.000 USD thì lệ phí trước bạ cũng tăng thêm
200 USD, còn những xe giá trị càng cao thì lệ phí trước bạ tăng thêm càng lớn. Với
những xe có giá 50.000 USD thì mức phí trước bạ phải nộp là 6.000 USD tăng thêm
1.000 USD so với 2008.
Những tháng đầu năm 2010 do mức thuế VAT trở lại mức 10% nên các hãng xe
đều phát thông báo tăng giá xe, Ford VN cũng phát đi thông báo: Ngoại trừ ba dòng xe
Ford Everest, Ford Transit và Ford Mondeo đang được hãng ưu đãi để giữ nguyên giá,
các dòng xe còn lại của hãng này như Escape, Ranger, Focus sẽ được điều chỉnh giá tăng
với tỉ lệ từ 4,7%-6,1% so với mức giá trước ngày 4.1.
Hơn nữa,ba yếu tố cùng lúc ập đến làm thị trường ôtô bắt đầu đi vào thời kỳ ngủ
đông, là thuế VAT và phí trước bạ tăng trở lại, tỉ giá USD - VND tăng và ngân hàng thắt
chặt cho vay.Theo số liệu của Tổng cục Thống kê cho biết, tháng 1/2010 lượng ô tô
nguyên chiếc nhập khẩu về Việt Nam đạt 3.400 chiếc, giảm đến 69,6% so với tháng
12/2009 (nếu so sánh riêng xe du lịch thì mức giảm là 69,7%; 2.400 chiếc/7.900 chiếc).
Tháng 2/2010, lượng ô tô nguyên chiếc nhập khẩu giảm khoảng 26,5% so với tháng đầu
năm (khoảng 2.500 chiếc). Cộng dồn cả hai tháng đầu năm, lượng xe nhập khẩu ước đạt
khoảng 5.900 chiếc, tương đương giá trị kim ngạch 94 triệu đô la Mỹ.
Nhận định về thị trường ô tô Việt Nam năm 2010, lãnh đạo nhiều doanh nghiệp

sản xuất ô tô trong nước đều lắc đầu: “Rất khó dự đoán. Bởi thị trường ô tô Việt Nam rất
nhạy cảm với chính sách. Trong khi chính sách quản lý về ô tô đã và đang có nhiều biến
động”. Nhóm ý kiến bi quan cho rằng, có khả năng thị trường sẽ đóng băng chứ không
chỉ là giảm sút. Thực tế này cho thấy chính sách kiểm soát nhập khẩu ô tô cần linh hoạt
và uyển chuyển. Nếu “siết” quá chặt, chúng ta đạt được mục tiêu hạn chế nhập khẩu mặt
hàng vẫn được coi là xa xỉ này, song sẽ gây ảnh hưởng, thậm chí “giết chết” một ngành
nghề kinh doanh và tác động tiêu cực đến giá ô tô lắp ráp trong nước.
Phần 3 Một số giải pháp quản trị rủi ro chính trị nhằm đẩy mạnh sự phát triển ngành
công nghiệp sản xuất ô tô Việt Nam nói chung và công ty Ford Việt Nam nói riêng
Để xây dựng và phát triển một ngành công nghiệp có quy mô lớn như ngành công
nghiệp ô tô đòi hỏi cần có sự nỗ lực của toàn xã hội mà quan trọng nhất là từ phía Chính
phủ và các doanh nghiệp trong ngành. Sau khi nghiên cứu thực trạng và ảnh hưởng của
những rủi ro chính trị ( điển hình là chính sách thuế ) vào quá trình phát triển của ngành
công nghiệp ô tô Việt Nam nhóm em xin mạnh dạn đưa ra các giải pháp và phương án lí
thuyết để quản trị rủi ro và đề xuất một số giải pháp quản trị rủi ro chính trị mà theo em
sẽ rất hữu ích cho việc phát triển ngành.
Các giải pháp và phương án lí thuyết để quản trị rủi ro:
1. Đề phòng
Năm 2007, Bộ Tài chính đã 3 lần giảm thuế nhập khẩu ô tô nguyên chiếc với lý do được
đưa ra là để giảm giá bán xe nhập khẩu, tạo áp lực buộc các liên doanh sản xuất, lắp ráp ô
tô trong nước phải giảm giá bán để cạnh tranh, từ đó người tiêu dùng được lợi. Vào thời
điểm tháng 8-2007, sau khi quyết định giảm thuế nhập khẩu ô tô nguyên chiếc xuống còn
70% có hiệu lực, giá bán mặt hàng này sau đó đã giảm đáng kể.
Công ty liên doanh vì dự báo rằng Thuế Nhập khẩu xe nguyên chiếc sẽ tiếp tục giảm, nên
lúc này có xu hướng không “rút quân” hẳn mà chỉ là chuyển sang nhập khẩu và phân
phối xe từ tập đoàn mẹ và từ các nhà máy khác.”
Công ty TNHH Ford Việt Nam cho biết đã gửi văn bản lên Chính phủ đề nghị được nhập
khẩu xe nguyên chiếc. (2007)
Ford đã là liên doanh thứ 3 thuộc hiệp hội các nhà sản xuất ôtô Việt Nam (VAMA) bày
tỏ mong muốn được nhập khẩu xe nguyên chiếc từ các nhà máy sản xuất khác cùng tập

đoàn.
Ford Việt Nam vừa tăng thêm 1 năm bảo hành hoặc 50.000 km trong chương trình bảo
hành mới áp dụng cho các khách hàng mua xe từ 1/7/2008.

Ưu: Theo quan điểm của ông Michael Pease, tân Tổng giám đốc Ford Việt Nam, nếu
được nhập khẩu các sản phẩm ôtô nguyên chiếc về nước để phân phối, chắc chắn giá bán
sẽ thấp hơn mức giá hiện nay của Ford Việt Nam, đặc biệt là khi thuế nhập khẩu xe
nguyên chiếc đã giảm xuống.
Nhược: Chính sách thuế của Việt Nam thường xuyên thay đổi và dự định của các nhà
FDI có thể không đúng. Nếu mức giảm thuế NK ngừng lại và trở nên tăng, thì công ty
liên doanh sẽ gặp phải khó khăn rất lớn, vì vừa đang chập chững bước vào phương thức
mới tại thị trường Việt Nam thì gặp phải mức thuế cao.
Thực tế: Vì sang 2008 thuế suất thuế nhập khẩu ôtô nguyên chiếc cũng có đến 2 lần liên
tiếp tăng trở lại vào tháng 3 và tháng 4 (Ngày 11/3, Bộ Tài chính tiến hành tăng thuế suất
thuế nhập khẩu ôtô nguyên chiếc lần đầu tiên, từ mức 60% lên 70%. Tiếp theo, ngày
17/4, Bộ Tài chính tiếp tục thực hiện tăng sắc thuế này lần thứ hai, từ mức 70% vọt lên
83%.)
=> Dài hạn: Tích cực làm việc với Chính phủ, các cơ quan ban ngành có liên quan như
Bộ Tài chính, Bộ Công Thương, để phát triển một lộ trình thuế thống nhất và dài hạn cho
mặt hàng ôtô.
2. Thảo luận về môi trường đầu tư
Liên kết chặt chẽ với sản xuất trong nước về trách nhiệm và quyền hạn của 2 bên. Hiện
tại, các công ty liên doanh ô tô đang được hưởng nhiều ưu đãi từ Chính Phủ để góp phần
thực hiện “ nội địa hoá”
Ưu: Công nghiệp ôtô là một trong những ngành được bảo hộ “kỹ lưỡng”nhất ở Việt Nam,
thể hiện qua biểu thuế quan và phi thuế quan đánh lên ôtô, cả mới lẫn cũ, nhập khẩu vào
Việt Nam như hiện nay. Nếu tạm thời Nhà liên doanh có thể thương lượng với Chính phủ
việc giảm thuế cho linh kiện nhập khẩu với cam kết sẽ giảm giá bán, và nếu thuyết phục
được, thì sẽ rất có lợi thế cạnh tranh so với các Nhà nhập khẩu xe nước ngoài.
Nhược: tuy nhiên, việc thuyết phục này là hoàn toàn không dễ. Vì nếu chỉ đánh thuế NK

nguyên chiếc mà bỏ qua cho nhập khẩu linh kiện, thì Việt Nam sẽ rất dễ bị tố cáo là “bảo
hộ ô tô trong nước”. Mặt khác, càng gần đến năm 2018, khi thuế suất thuế nhập khẩu linh
kiện, phụ tùng ô tô khu vực ASEAN bằng không thì việc đầu tư để nội địa hoá sản xuất
linh kiện, phụ tùng ô tô của các Liên doanh càng thiếu sự hấp dẫn cũng như tính cạnh
tranh.
Thực tế: Theo Quyết định số 37/2008/QĐ-BTC của Bộ Tài chính ban hành thì các loại
phụ tùng như bộ phận của hộp số, của cầu chủ động có vi sai và các trục không lái, của
hệ thống giảm chấn (kể cả giảm chấn kiểu hệ thống treo), két làm mát, của ống xả và bộ
tiêu âm, cụm bánh xe có thuế suất 15% thay cho mức 3%,
5% và 10% cũ.
3. Tối đa hoá lợi nhuận ngắn hạn:
+ Giữ nguyên giá: Lợi dụng tình hình nhu cầu mua ô tô trong nước tăng cao, trong khi
các doanh nghiệp nhập khẩu ô tô không đủ nguồn cung, các liên doanh ô tô thuộc Hiệp
hội các nhà sản xuất ô tô VN (VAMA) quyết không giảm giá. Khi ấy, Bộ Tài chính triệu
tập cuộc họp đề nghị các doanh nghiệp này giảm giá bán. Tuy nhiên, doanh nghiệp nào
cũng “kêu” lỗ và không doanh nghiệp nào đồng ý giảm giá.
Ưu: Giá xe vẫn giữ nguyên, không thay đổi, chờ động thái tiếp theo của Chính Phủ, mà
có hành động phù hợp.
Nhược: VAMA không giảm giá bán ô tô, trong khi lượng cầu hàng hóa quá mạnh đã
"thổi" giá mặt hàng này ở mức cao. Thế là, ô tô nhập khẩu nguyên chiếc, nhờ thế mạnh
về chất lượng, đã tràn vào VN (2 tháng đầu năm 2008 nhập khẩu hơn 6.000 chiếc, bằng
số lượng nhập cả 8 tháng năm 2007).

×