Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm ở nông thôn Hà Tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.97 KB, 72 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giải quyết việc làm là vấn đề xã hội mang tính toàn cầu và cấp bách không
chỉ ở nước ta mà ở cả nhiều nước trên thế giới và khu vực. Đối với nước ta mặc dù
nông thôn chiếm hơn 70% dân số và 75% tổng lực lượng lao động cả nước nhưng
chủ yếu tập trung sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, năng suất lao động thấp,
phương thức sản xuất lạc hậu, hiệu quả sản xuất không cao. Hiện nay 90% số
người nghèo của cả nước vẫn đang sống ở nông thôn, tỷ lệ thời gian nhàn rỗi ở
nông thôn chiếm 28,9%, thất nghiệp thành thị 6,9%. Như vậy thất nghiệp, thiếu
việc làm cho người lao động đang diễn ra khá phức tạp kìm hãm quá trình vận
động và phát triển kinh tế đất nước. Không những thế thất nghiệp, thiếu việc làm
còn là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến đói nghèo, một trong những nhân tố gây ra
mất ổn định kinh tế chính trị, xã hội của đất nước. Tạo việc làm cho người lao
động là vấn đề nóng bỏng, cấp thiết cho từng ngành, từng địa phương và ngay cả
trong mỗi gia đình. Việc làm phù hợp và có hiệu quả góp phần quan trọng trong
việc thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn thời
gian qua, một số nơi đã làm tốt giải quyết việc làm, tạo điều kiện cho lao động
nông thôn có điều kiện và cơ hội tìm được việc làm. Tuy nhiên quá trình giải quyết
việc làm cho lao động nông thôn đang còn nhiều vấn đề cần phải được nghiên cứu,
bổ sung, sửa đổi nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý, sử dụng lao động và khả năng
tạo nhiều việc làm cho lao động nông thôn thời gian tới.
Hà Tĩnh là một tỉnh ở vùng Bắc Trung Bộ với quy mô dân số xấp xỉ 1,2 triệu
người, tốc độ phát triển dân số bình quân 1,18 % năm, nguồn lao động bổ sung vào
lực lượng lao động hàng năm trên 3 vạn người.
Trong nhiều năm qua, vận dụng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước, Hà Tĩnh đã có nhiều chính sách giải quyết việc làm cho người lao
động. Song thực tiễn đặt ra còn nhiều khó khăn, đó là tình trạng người chưa có việc
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368


làm và thiếu việc làm còn lớn, đặc biệt là ở nông thôn. Điều đó đòi hỏi cần có sự
nghiên cứu và xây dựng hệ thống chính sách giải quyết việc làm đồng bộ và hiệu
quả hơn trong giải quyết việc làm nói chung và ở nông thôn nói riêng.
Xuất phát từ áp lực về lao động, việc làm ngày càng gia tăng và có ảnh
hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội ở Hà Tĩnh nên tôi chọn đề tài: “Giải pháp
chủ yếu nhằm giải quyết việc làm ở nông thôn Hà Tĩnh”. Với mong muốn góp
một phần công sức nhỏ bé vào sự phát triển bền vững của Hà Tĩnh trong thời gian
tới.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nông thôn Việt Nam có nguồn lao động dồi dào và tiềm năng, là nơi cung
cấp và hậu thuẫn đắc lực cho các khu đô thị và khu công nghiệp. Lực lượng dồi
dào như vậy nhưng trình độ chuyên môn của lao động nông thôn chưa cao. Hầu hết
các thị trường lao động chỉ tập trung chủ yếu ở các tỉnh, thành phố có nhiều khu
công nghiệp, khu chế xuất và ở ba vùng kinh tế trọng điểm. Ở vùng nông thôn,
vùng sâu vùng xa, thị trường lao động lại chưa phát triển nên dẫn đến thực trạng là
nơi thừa, nơi thiếu lao động. Đây cũng chính là hạn chế lớn nhất của lao động nông
thôn làm cho việc khai thác nguồn nhân lực ở đây vẫn còn yếu kém.
Những vấn đề trên là thách thức đối với chính lao động nông thôn và các
nhà hoạch định chính sách. Chính vì vậy mà giải quyết việc làm được nhiều cơ
quan, ban, ngành và các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu như:
Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (1993): Thị trường lao động ở nông
thôn, Hà Nội.
Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (1997): Kinh tế đại chúng với vấn đề
tạo mở việc làm, Hà Nội.
Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (1998): Giải quyết việc làm với tăng
trưởng kinh tế, Hà Nội.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (1999): Phương hướng, biện pháp
hình thành sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm trong giai đoạn hiện nay,

Hà Nội
Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (2001): Thực trạng lao động – việc
làm ở Việt Nam, Hà Nội.
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. Viện Khoa học lao động và xã hội
(2009): Lao động việc làm trong thời kỳ hội nhập. NXB Lao động – Xã hội.
Bộ Lao động - Thương binh và xã hội là cơ quan quản lý nhà nước về lao
động việc làm. Việc nghiên cứu về lĩnh vực lao động - việc làm thường được tập
trung vào điều tra, khảo sát phản ánh trung thực về thực trạng lao động - việc làm
của đất nước. Từ đó đưa ra các mô hình giải quyết việc làm có hiệu quả.
Các viện nghiên cứu, các trường đại học cũng như các cá nhân cũng đã có
nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này. Về cơ bản các công trình nghiên cứu
đi từ tổng kết thực tiễn để đưa ra các giải pháp trong việc giải quyết việc làm.
Trần Đình Hoan, Lê Mạnh Khoa (1991): Sử dụng nguồn lao động và giải
quyết việc làm ở nông thôn Việt Nam, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội.
Lê Văn Lương (1995): Giải quyết việc làm cho người Hà Tĩnh, Hà Tĩnh.
Lê Văn Lương, Thái Ngọc Tịnh (1995): Giải quyết việc làm cho người lao
động Hà Tĩnh trong thời gian tới, Chương trình nghiên cứu khoa học đề tài cấp
tỉnh.
Thái Ngọc Tịnh (1997): Lao động việc làm ở Hà Tĩnh, Tạp chí lao động xã
hội số 128.
Chu Tiến Quang (2001): Việc làm ở nông thôn, thực trạng và giải pháp. Nhà
xuất bản Nông nghiệp.
Đào Quang Vinh (2005): Kết quả giải quyết việc làm giai đoạn 2001-2004 và
phương hướng giải quyết việc làm giai đoạn 2006-2010. Tạp chí quản lý kinh tế
-CIEM.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Viện khoa học lao động và xã hội (2006): Dự báo xu hướng việc làm tại Việt
Nam giai đoạn 2005-2015, Báo cáo của Dự án SIDA-CIEM, Hà Nội.
Chương trình giải quyết việc làm (2005-2009), Hà Tĩnh

Ở địa bàn Hà Tĩnh cũng đã có nhiều cá nhân có chương trình nghiên cứu
nhằm giải quyết việc làm, tuy nhiên các chương trình nghiên cứu đã khá lâu và
hiện nay trong điều kiện phát triển của đất nước nói chung và Hà Tĩnh nói riêng đã
có nhiều thay đổi và không còn phù hợp nữa. Dựa trên các vấn đề lý luận và thực
tiễn thực trạng việc làm và giải quyết việc làm hiện nay, tôi sẽ đưa ra một số giải
pháp khác phù hợp với điều kiện phát triển hiện nay của Hà Tĩnh, nhằm nâng cao
thu nhập và đời sống cho người dân nông thôn.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng giải quyết việc làm ở nông thôn Hà Tĩnh từ
đó đưa ra các giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động phù hợp với điều
kiện cụ thể ở vùng nông thôn Hà Tĩnh, nhằm tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động
ở vùng nông thôn, từng bước nâng cao thu nhập, cải thiện mức sống dân cư.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài như: lao động, người lao động,
việc làm và giải quyết việc làm…
- Đánh giá đúng thực trạng lao động và việc làm ở nông thôn Hà Tĩnh
- Đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm giải quyết việc làm cho người lao động ở
nông thôn Hà Tĩnh.
4. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu vấn đề lao động việc làm trên địa bàn nông thôn Hà Tĩnh.
Thời gian: từ năm 2006 đến năm 2008.
Không gian: Huyện Thạch Hà.
5. Mẫu khảo sát
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, địa điểm nghiên cứu phải đại diện cho
vùng nghiên cứu trên phương diện điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và đặc điểm
sinh thái vùng.
Căn cứ vào tình hình đặc điểm cụ thể của vùng nông thôn Hà Tĩnh, và năng

lực của cá nhân tác giả chọn Huyện Thạc Hà làm địa điểm nghiên cứu.
Thạch Hà là một huyện thuộc vùng ven biển của Hà Tĩnh, cách trung tâm
tỉnh lỵ 5km. Đây là một huyện vừa có biển, đồng bằng và miền núi, hoạt động sản
xuất bao gồm: đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, trồng trọt, làm muối. Hộ thuần
nông của toàn huyện chiếm 60%, hộ chuyên ngành dịch vụ chiếm hơn 10%, hộ
nông kiêm ngành dịch vụ chiếm 20%, hộ chuyên ngư chiếm 5%, hộ diêm nghiệp
chiếm 5%.
Căn cứ vào đặc điểm kinh tế của sự phân vùng địa lý và sinh thái, tác giả
chọn 6 xã đại diện cho 3 vùng nghiên cứu giải quyết việc làm ở nông thôn Hà Tĩnh
bao gồm: đại diện cho vùng ven biển: xã Thạch Hải, xã Thạch Văn; đại diện cho
vùng đồng bằng: Thạch Việt, Thạch Kênh ; đại diện cho vùng núi: xã Thạch Vĩnh,
Thạch Ngọc.
6. Câu hỏi nghiên cứu
Vấn đề nghiên cứu được trình bày dưới dạng câu hỏi:
Thực trạng lao động việc làm ở nông thôn Hà Tĩnh hiện nay như thế nào?
7. Giả thuyết nghiên cứu
Hiện nay ở nông thôn Hà Tĩnh còn hơn 70.000 lao động thiếu việc làm. Lao
động thiếu việc làm và có thời gian nhàn rỗi cao chủ yếu tập trung ở miền núi và
vùng ven biển. Chất lượng nguồn lao động nông thôn chủ yếu là chưa qua đào tạo
lao động chân tay là chính…Thời gian qua tỉnh Hà Tĩnh đã thực hiện nhiều giải
pháp giải quyết việc làm như: phát triển kinh tế xã hội, tạo nguồn và nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn, đào tạo nghề cho người, xuất khẩu lao động…Tuy nhiên giải
quyết việc làm ở nông thôn Hà Tĩnh còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế chưa đáp
ứng được nhu cầu của người dân.
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
8. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp sau:
- Nghiên cứu tài liệu: Sinh viên tiến hành thu thập thông tin, tài liệu, số liệu liên
quan đến đề tài. Những số liệu được thu thập từ các nguồn khác nhau như: Cục

thống kê Hà Tĩnh, điều tra lao động và việc làm, số liệu từ các báo cáo sơ kết, tổng
kết của Sở Lao động thương binh và xã hội Hà Tĩnh và một số sách báo, tài liệu
khác…
- Khảo sát thực tế: sinh viên tiến hành khảo sát bằng bảng hỏi các đối tượng liên
quan là các hộ gia đình ở nông thôn để làm rõ thực trạng việc làm ở nông thôn.
- Tổng hợp phân tích: dựa trên việc nghiên cứu tài liệu liên quan đến đề tài và việc
tìm hiểu thực tế ở địa phương sinh viên tiến hành phân tích tổng hợp vấn đề từ đó
đưa ra giải pháp cho việc giải quyết việc làm ở nông thôn Hà Tĩnh.
9. Kết cấu của Khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2 chương,
6 tiết:
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan trực tiếp đến giải quyết việc làm
1.1.1. Khái niệm liên quan đến lao động và người lao động
1.1.2. Khái niệm về việc làm và giải quyết việc làm
1.1.3. Khái niệm thất nghiệp và thiếu việc làm
1.2. Đặc điểm lao động, việc làm ở nông thôn
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm cho lao động nông thôn.
1.3.1. Nhân tố liên quan đến chính sách
1.3.2. Nhân tố liên quan đến giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ
1.3.3. Nhân tố về dân số
1.3.4. Nhân tố quốc tế
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾTVIỆC LÀM
CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN HÀ TĨNH.
2.1. Tông quan về địa bàn nghiên cứu
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
2.1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội

2.2. Thực trạng lao động, việc làm ở nông thôn Hà Tĩnh.
2.2.1. Hiện trạng lao động, việc làm nói chung
2.2.2. Tình hình thiếu việc làm hiện nay ở Hà Tĩnh
2.3. Những giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn ở Hà Tĩnh trong thời gian tới
2.3.1. Các giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế
2.3.2. Giảm sức ép về nhu cầu giải quyết việc làm ở Hà Tĩnh
2.3.3. Nâng cao trình độ nguồn nhân lực
2.3.4. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động
2.3.5. Tăng cường sự quản lý nhà nước về lao động, củng cố và phát triển
hệ thống sự nghiệp giải quyết việc làm.
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan trực tiếp đến giải quyết việc làm
Việc làm và giải quyết việc làm luôn luôn là mối quan tâm của toàn xã hội,
đặc biệt là đối với người lao động nói chung và đối với người lao động nông thôn
nói riêng. Để có những chính sách, biện pháp phù hợp trong giải quyết việc làm
cho người lao động chúng ta cần làm rõ được một số khái niệm liên quan đến đề
tài:
1.1.1. Khái niệm liên quan đến lao động và người lao động
- Lao động:
Trong lời nói đầu của Luật lao động đã ghi rõ: “ Lao động là hoạt động quan
trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội.
Lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát
triển của đất nước”. [5,1]
Với ý nghĩa này, chúng ta có thể hiểu hoạt động của con người ở đây như là
những công nhân đang làm việc ở nhà máy, công trường; những người nông dân

đang làm việc trên đồng ruộng; những cán bộ, công chức, nhân viên làm việc trong
các cơ quan, đơn vị, xí nghiệp; những người hoạt động nghệ thuật…
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Người lao động:
Người lao động là những người trong độ tuổi lao động theo quy định của
pháp luật. Trong Bộ Luật lao động ghi rõ: “Người lao động là người ít nhất đủ 15
tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động” [5, điều 6].
Trong Luật lao động không quy định độ tuổi của người lao động, tuy nhiên
trong các văn bản luật pháp khác liên quan như Luật bảo hiểm xã hội, Luật công
chức… đã có quy định tuổi lao động đối với nam là đủ 60 tuổi và nữ đủ 55 tuổi.
Đây là quy định chung cho mọi lao động ở các ngành, các lĩnh vực khác nhau.
Riêng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn thì thực tế người lao động có thể
tham gia lao động độ tuổi còn thấp hơn 15 tuổi vầ cao hơn 60 tuổi đối với nam và
55 tuổi đối với nữ.
- Lực lượng lao động
Trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về lực lượng lao động
Từ điển thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Liên Xô (cũ) (1977): lực
lượng lao động là khái niệm định lượng của nguồn lao động.
Từ điển thuật ngữ Pháp (1977-1985): lực lượng lao động là số lượng và chất
lượng những người lao động được quy đổi theo các tiêu chuẩn trung bình về khả
năng lao động có thể sử dụng.
Theo quan niệm của Tổ chức lao động quốc tế (ILO): Lực lượng lao động là
một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định thực tế đang có việc làm và những
người thất nghiệp.
Từ những quan niệm trên có thể đưa ra quan niệm về lực lượng lao động
như sau: lực lượng lao động bao gồm toàn bộ những người từ 15 tuổi trở lên đang
có việc làm hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm
việc.
Từ những khái niệm trên ta có thể đưa ra khái niệm lao động nông thôn như

sau: lao động nông thôn là những người trong độ tuổi lao động do luật quy định
nhưng sống và làm việc trong khu vực nông thôn trong đó chủ yếu là những nông
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
dân chuyên sản xuất nông nghiệp, những người làm nghề thủ công, buôn bán nhỏ,
các hoạt động dịch vụ ở nông thôn…
- Thị trường lao động
Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường định
hướng chủ nghĩa xã hội thì thuật ngữ “Thị trường lao động” đã được nhiều nhà
nghiên cứu đề cập đến với nhiều khái niệm khác nhau.
Giáo trình giảng dạy của khoa Kinh tế lao động trường Đại học kinh tế quốc
dân Hà Nội đưa ra khái niệm về thị trường lao động như sau:
- Là không gian trao đổi tiến tới thỏa thuận giữa người sở hữu sức lao động và
người cần có sức lao động để sử dụng.
- Là mối quan hệ xã hội giữa người lao động có thể tìm việc làm để có thu nhập và
người sử dụng lao động để có thể thuê được công nhân bằng cách trả công để tiến
hành sản xuất kinh doanh.
- Là toàn bộ quan hệ kinh tế hình thành trong lĩnh vực thuê mướn lao động.
Theo ILO: “thị trường lao động là thị trường trong đó các dịch vụ lao động
được mua và bán thông qua một quá trình để xác định mức độ có việc làm của lao
động cũng như mức độ tiền công tiền lương”.[13,22]
Các nhà khoa học Mỹ cho rằng: “Thị trường mà đảm bảo việc làm cho người
lao động và kết hợp giải quyết trong lĩnh vực việc làm, thì được gọi là thị trường
lao động”. [13,22]
Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng các nhà nghiên cứu đều
thống nhất với nhau về những nội dung cơ bản để hình thành nên thị trường lao
động đó là không gian, người cần bán sức lao động, người cần mua sức lao động,
giá cả sức lao động và những ràng buộc giữa các bên về nội dung này.
Thị trường sức lao động ở nông thôn thực tế đã có từ lâu nhưng kém phát
triển. Hình thức trao đổi sức lao động diễn ra tự phát theo quan hệ truyền thống

trong cộng đồng, thiếu một cơ chế điều tiết thống nhất, và không được pháp chế
hóa. Vì vậy giá trị cộng lao động thường được đánh giá theo thỏa thuận trực tiếp,
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
việc thanh toán kết hợp cả giá trị và hiện vật. Quan hệ thuê mướn dựa trên mối
quan hệ thân quen là chủ yếu, vừa kết hợp làm thuê, vừa theo thời vụ. Lao động
thủ công cơ bắp là chính. Một số nơi do chưa phát triển ngành nghề, dẫn đến dư
thừa lao động, nhất là thời vụ nông nhàn, người lao động phải đi làm thuê vùng
khác, xã khác hoặc ra đô thị tìm kiếm việc làm.
1.1.2. Khái niệm về việc làm và giải quyết việc làm
- Việc làm
Giải quyết việc làm cho lao động xã hội là một trong những nội dung cơ bản
của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội được toàn thế giới cam kết trong tuyên bố
về chương trình hành động toàn cầu.
Hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm việc làm:
Việc làm đã được ILO quan tâm ngay từ khi nó được thành lập năm 1919.
Theo ILO “ Việc làm là những hoạt động được trả công bằng tiền và hiện vật”[12]
Quan điểm xem xét việc làm như một tế bào, một đơn vị nhỏ nhất phân chia
từ các hoạt động sản xuất kinh doanh thì cho rằng: “ Việc làm là một phạm trù để
chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, hoặc những phương
tiện để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần của xã hội”.
Những năm gần đây, tiếp thu có chọn lọc các khái niệm của Tổ chức Lao
động quốc tế (ILO) và một số nước lân cận, nước ta đã có những thay đổi trong
quan niệm về việc làm. Bộ luật Lao động ghi rõ: “Mọi hoạt động lao động tạo ra
nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm” [5, điều
13].
Ngoài những khái niệm trên còn có rất nhiều khái niệm về việc làm được các
nhà nghiên cứu đưa ra như:
Tác giả Đặng Xuân Thao trong cuốn sách “Mối quan hệ giữa dân số và việc
làm” đã định nghĩa việc làm như sau: “Việc làm là hoạt động có ích, không bị pháp

luật ngăn cấm, có thu nhập hoặc tạo điều kiện tăng thêm thu nhập cho người thân,
gia đình hoặc cộng đồng”. [12,11]
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Liên quan chặt chẽ với khái niệm việc làm, hai tác giả Nguyễn Hữu Dũng và
Trần Hữu Trung trong cuốn sách “ Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam”
đã đưa ra khái niệm về người có việc làm như sau: “Người có việc làm là người
đang làm việc trong những lĩnh vực ngành nghề, dạng hoạt động có ích, không bị
pháp luật ngăn cấm, đem lại thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình”. [8,9]
Tác giả TS Chu Tiến Quang và cộng sự trong cuốn “Việc làm ở nông thôn”
đã đưa ra khái niệm như sau: “ Việc làm có thể được hiểu ở hai trạng thái “tĩnh”
và “động”. Ở trạng thái “tĩnh” việc làm chỉ nhu cầu sử dụng sức lao động và các
yếu tố vật chất kỹ thuật khác nhằm mục đích tạo ra thu nhập hoặc kết quả có ích
cho cá nhân, cộng đồng… Ở nghĩa “động” thì việc làm là hoạt động của dân cư
nhằm tạo ra thu nhập có lợi cho cá nhân hoặc cộng đồng trong khuôn khổ pháp luật
cho phép”. [18,10]
Như vậy từ các khái niệm trên việc làm có thể được hiểu như sau: Việc làm
là hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, tạo thu nhập hoặc lợi ích cho
bản thân, gia đình người lao động hoặc cho một cộng đồng nào đó.
Với cách hiểu trên, nội dung của khái niệm việc làm được mở rộng và tạo ra
khả năng to lớn giải phóng sức lao động, giải quyết việc làm cho nhiều người lao
động được tự do hành nghề, tự do liên doanh, liên kết để tạo việc làm và tự do thuê
mướn lao động theo luật pháp của nhà nước để tạo việc làm cho mình và thu hút
thêm lao động xã hội theo quan hệ cung cầu về lao động trên thị trường.
- Việc làm tự tạo:
Đây là khái niệm mới được đưa ra từ TS Lê Xuân Bá và các cộng sự trong
đề tài “ Các yếu tố tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn
Việt Nam” (Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài khoa học do Viện nghiên cứu quản
lý kinh tế trung ương thực hiện 2006)
Theo nhóm tác giả này thì các hoạt động được xem là việc làm tự tạo “liên

quan đến sự quản lý và sở hữu một cơ sở sản xuất các hàng hóa và dịch vụ”. Ví dụ
những người có xưởng sản xuất, cửa hàng, cửa hiệu…chỉ có trách nhiệm với chính
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
bản thân họ. Báo cáo đề tài này cũng nói rõ thêm: ở các nước đang phát triển, sự
phân chia giữa lao động làm công ăn lương và việc làm tự tạo nhiều khi không rõ.
Có một khoảng trùng lặp giữa lao động được trả và lao động tự trả công mà ở đó
các hoạt động này có thể được xem là lao động được thuê vừa có thể là lao động tự
thuê.
Với ý nghĩa của khái niệm này, liên hệ với nông nghiệp, nông thôn có thể
thấy việc làm tự tạo trong nông nghiệp, nông thôn là rất lớn và rất quan trọng.
Tuyệt đại bộ phận nông dân làm việc trên đồng ruộng đều là những lao động tự trả
công hay nói một cách khác là người nông dân là những người tự tạo ra việc làm.
Đây là điều rất có ý nghĩa trong nghiên cứu tìm giải pháp giải quyết việc làm cho
lao động nông thôn.
- Việc làm ổn định:
Có thể nói, đến nay chưa có khái niệm về việc làm ổn định. Tuy nhiên trong
thực tế tại nhiều văn bản, báo cáo của chính phủ, các bộ, ngành thì cụm từ việc làm
ổn định đã được đề cập đến rất nhiều. Chúng ta vẫn thường nói: cần phải tạo việc
làm ổn định cho người lao động. Nhưng thế nào là việc làm ổn định? Tiêu chí nào
để xác định đó là việc làm ổn định?
Qua sự phân tích ở trên và qua thực tế, tác giả đưa ra khái niệm về việc làm
ổn định đó là những công việc mà người lao động có thể làm việc trong một thời
gian dài, có mức thu nhập (tiền công) đảm bảo cho cuộc sống người lao động và
cho con cái họ và có tích lũy. Trong nông nghiệp, nông thôn, đó là việc làm quanh
năm với thu nhập cao.
Từ các khái niệm về việc làm trên đây có thể đưa ra khái niệm giải quyết
việc làm như sau:
Giải quyết việc làm là quá trình tạo ra điều kiện và môi trường bảo đảm cho
mọi người có khả năng lao động có cơ hội làm việc với chất lượng việc làm ngày

càng cao.
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Như vậy, giải quyết việc làm phù hợp có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với
người lao động ở chỗ tạo ra việc làm cho người lao động để họ có thể nuôi sống
bản thân, gia đình và góp phần xây dựng quê hương đất nước.
1.1.3. Khái niệm thất nghiệp và thiếu việc làm
Để giải quyết việc làm những khái niệm quan trọng cần phải làm rõ đó là
khái niệm thất nghiệp và thiếu việc làm.
a. Thất nghiệp
Theo định nghĩa của Aigred Sanvy: “Người thất nghiệp là người khỏe mạnh,
muốn lao động để kiếm sống nhưng không tìm được việc làm”.
Theo quan điểm khác: một người được coi là thất nghiệp, nếu người đó
không có việc làm và đang cố gắng đi tìm việc làm nhưng không tìm được trên thị
trường.
Cũng có quan điểm cho rằng: thất nghiệp là hiện tượng gồm người mất thu
nhập, do không có khả năng tìm được việc làm trong khi họ còn trong độ tuổi lao
động có khả năng lao động muốn làm việc và đã đăng ký ở cơ quan môi giới về lao
động nhưng chưa được giải quyết.
Như vậy những người thất nghiệp tất yếu họ phải thuộc lực lượng lao động
hay dân số hoạt động kinh tế.
Người được coi là thất nghiệp phái có 3 tiêu chuẩn:
+ Đang mong muốn và tìm việc làm
+ Có khả năng làm việc
+ Hiện đang chưa có việc làm
Với cách hiểu như thế, không phải bất kỳ ai có sức lao động nhưng chưa làm
việc đều được coi là thất nghiệp. Do đó một tiêu chuẩn quan trọng để xem xét một
người được coi là thất nghiệp thì phải biết được người đó có muốn đi làm việc hay
không. Bởi lẽ trên thực tế nhiều người có sức khỏe, có nghề nghiệp song không có
nhu cầu làm việc, họ sống chủ yếu nhờ sự trợ cấp của gia đình, hay các nguồn tài

trợ khác…
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đây là khái niệm chung đối với các ngành, các lĩnh vực hoạt động kinh tế,
xã hội. Riêng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn có thất nghiệp hay không thì
còn có nhiều quan niệm khác nhau.
Theo giáo sư DaVid L Lindaver (Viện phát triển quốc tế Harvard) thì trong
nông nghiệp không có thất nghiệp, mà chỉ có bán thất nghiệp. Trong cuốn “Theo
hướng rồng bay – Cải cách kinh tế ở Việt Nam” ông đã viết: “Việt Nam đang đối
diện với một cuộc khủng hoảng về lao động. Nền kinh tế thực chất vẫn là một nền
kinh tế nông nghiệp có tỷ lệ bán thất nghiệp cao”. Tuy nhiên theo ông thì các định
nghĩa và cách thức đánh giá mức độ bán thất nghiệp thường khó có thể chính xác,
nhưng khu vực nông nghiệp Việt Nam với mật độ dân cư cao, cơ sở hạ tầng nông
thôn còn thấp đang phải tiếp nhận một lượng lao động lớn đáng ra có thể tìm được
công ăn việc làm ổn định hơn nếu nhu cầu về lao động tăng. Và ông cho rằng, do
kinh tế nông thôn có vị trí thống lĩnh nên vấn đề chủ yếu về lao động hiện nay là
tình trạng bán thất nghiệp ở nông thôn.
Điều này cũng trùng với suy nghĩ của cử nhân kinh tế Tạ Thị Xuân trong
cuốn: “Chống lạm phát – Lý thuyết và kinh nghiệm” cho rằng: “Việt Nam một đất
nước sau chiến tranh thì còn biết bao nhiêu việc phải làm cho sự cường thịnh của
quốc gia. Một quốc gia như vậy mà thiếu việc làm cho 10 triệu lao động thì thật là
điều nghi ngại và khó hiểu”… Theo bà thì cái thiếu nhất ở đây là: thiếu vốn đầu tư,
thiếu bí quyết và quyết tâm chiến thắng giặc đói nghèo, thiếu chính sách tài chính –
vốn – tiền tệ khôn ngoan, thiếu con đường làm giàu. [20,66].
Từ quan điểm của các tác giả nêu trên, chúng ta nhìn nhận vào nền nông
nghiệp Việt Nam thấy rằng: sản xuất nông nghiệp của Việt Nam cho tới nay vẫn
còn ở trình độ thấp kém, nền nông nghiệp Việt Nam tuy đã có bước phát triển khá,
nhưng sự phát triển đó chưa thực sự tương xứng với tiềm năng của nông nghiệp
nước ta
Bán thất nghiệp hay thiếu việc làm ở nông thôn có thể được hiểu như là “lao

động thời vụ”. Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp theo mùa vụ nên người lao
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
động có lúc rất bận rộn, họ phải lao động với cường độ lao động và thời gian lao
động cao. Vấn đề đáng quan tâm ở đây là mặc dù làm việc vất vả nhưng do nhiều
yếu tố khách quan và chủ quan nên năng suất lao động thấp, thu nhập không cao
không đảm bảo được đời sống của họ.
b. Thiếu việc làm
Theo ILO thì người thiếu việc làm là người trong tuần lễ tham khảo có số
giờ làm việc dưới mức quy định chuẩn cho người có đủ việc làm và có nhu cầu làm
thêm.
Theo ILO khái niệm thiếu việc làm được biểu hiện dưới dạng vô hình và
hữu hình.
Thiếu việc làm vô hình: là những người có đủ việc làm, làm đủ thời gian
thậm chí nhiều thời gian hơn mức bình thường nhưng thu nhập thấp.
Thiếu việc làm hữu hình: là khái niệm để chỉ hiện tượng người lao động làm
việc có thời gian ít hơn thường lệ, họ không đủ việc làm đang tìm kiếm việc làm và
sẵn sàng làm việc.
Ở Việt Nam theo hướng dẫn điều tra lao động của Bộ Lao động thương binh
và xã hội thì “người đủ việc làm bao gồm những người có số giờ làm việc trong
tuần lễ tính đến thời điểm điều tra lớn hơn hoặc bằng 40 giờ, hoặc những người có
số giờ làm việc nhỏ hơn 40 nhưng không có nhu cầu làm thêm hoặc những người có
số giờ làm việc nhỏ hơn 40 nhưng lớn hơn giờ quy định đối với người làm các công
việc nặng nhọc, độc hại theo quy định hiện hành”.
Người thiếu việc làm bao gồm “những người trong tuần lễ tính đến thời điểm
điều tra có tổng số giờ làm việc nhỏ hơn 40 giờ, hoặc có số giờ làm việc nhỏ hơn
giờ quy định đối với những người làm các công việc nặng nhọc, độc hại theo quy
định của nhà nước, có nhu cầu làm thêm giờ, sẵn sàng làm việc nhưng không có
việc làm”.[2,17]
16

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Theo một số chuyên gia về chính sách lao động việc làm thì người thiếu việc
làm là những người đang làm việc có mức thu nhập dưới mức lương tối thiểu và họ
có nhu cầu làm thêm.
Như vậy thiếu việc làm là người thuộc lực lượng lao động đang có việc làm
nhưng thời gian làm việc ít hơn mức chuẩn quy định cho người đủ việc làm và
mang lại thu nhập thấp hơn mức lương tối thiểu.
1.2. Đặc điểm lao động, việc làm ở nông thôn.
Khu vực nông thôn của nhiều nước đang phát triển và của nước ta có đặc
điểm chung là dân số tăng nhanh, cấu trúc dân số trẻ, dẫn đến nguồn lao động tăng
với tốc độ cao hàng năm. Vì thế, khả năng tạo việc làm luôn thấp hơn nhu cầu việc
làm của lao động nông thôn. Ở Việt Nam, số việc làm tăng hàng năm ở nông thôn
chỉ đáp ứng được 60% nhu cầu.
Ở nông thôn sản xuất nông lâm ngư nghiệp là lĩnh vực tạo việc làm truyền
thống và thu hút nhiều lao động của cư dân nông thôn, nhưng bị giới hạn bởi diện
tích đất canh tác vốn rất hạn hẹp và có xu hướng giảm dần do quá trình đô thị hóa
và công nghiệp hóa đang phát triển mạnh ở các nước. Điều đó đã hạn chế khả năng
giải quyết việc làm ở nông thôn. Nếu tình trạng dân số còn gia tăng thì sự khan
hiếm đất nông nghiệp càng trầm trọng hơn, đưa đến hậu quả ngày càng thiếu việc
làm cho lao động nông nghiệp, nếu lực lượng này không được chuyển dần sang
khu vực sản xuất khác.
Khu vực nông thôn đang tập trung một số lượng lớn lực lượng lao động của
cả nước, giai đoạn 2000-2007, tốc độ tăng trưởng lao động của cả nước đạt 2,79%,
trong đó tốc độ tăng trưởng của lao động nông thôn là 2,18%. Ở nông thôn, tỷ lệ
lao động thiếu việc làm luôn ở mức cao, vì việc nhà nông có những đặc điểm rất
khác biệt so với thành thị. Cụ thể, theo điều tra của Bộ này, năm 2008, tỷ lệ lao
động thiếu việc làm ở nông thôn là 6,1%.
Lao động việc làm ở nông thôn có những đặc điểm riêng biệt sau đây:
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Ở nông thôn, người lao động chủ yếu sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp
tuy nhiên sản xuất nông nghiệp luôn chịu tác động và bị chi phối mạnh mẽ của các
quy luật sinh học và các điều kiện tự nhiên cụ thể của từng vùng như: đất đai, khí
hậu, thời tiết…Ngoài ra còn phụ thuộc vào các yếu tố cơ sở hạ tầng như: giao
thông, thủy lợi, và các hoạt động dịch vụ sản xuất như cung ứng giống, phân bón,
phòng trừ sâu bệnh, thu hoạch chế biến và tiêu thụ sản phẩm…Quá trình sản xuất
mang tính thời vụ rất cao, thu hút lao động không đồng đều, trong ngành trồng trọt
việc làm chỉ tập trung chủ yếu vào thời điểm gieo trồng và thu hoạch, thời gian còn
lại là rỗi rãi, không có việc làm, đó là lao động nông nhàn ở nông thôn.
Trong thời kỳ nông nhàn, một bộ phận lao động nông thôn thường chuyển
sang làm các công việc phi nông nghiệp hoặc đi sang các địa phương khác hành
nghề để tăng thu nhập. Phần lớn là di chuyển lao động từ nông thôn lên thành thị
để làm các công việc chân tay. Điều đó xuất phát từ tình trạng thời gian nông nhàn
cùng với thu nhập thấp trong sản xuất nông nghiệp.
Ở nông thôn các hoạt động sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp (công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ) thường bắt nguồn từ lao động của kinh tế hộ
gia đình. Các thành viên trong gia đình có thể chuyển đổi, thay thế để thực hiện
công việc của nhau. Vì thế, việc chú trọng thúc đẩy phát triển các hoạt động khác
nhau của kinh tế hộ gia đình là một trong những biện pháp tạo việc làm có hiệu
quả.
Khả năng thu hút lao động trong các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi với các
cây trồng vật nuôi khác nhau là khác nhau, đồng thời thu nhập cũng rất khác nhau,
vì vậy việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng thu dụng được nhiều
lao động cũng là biện pháp tạo thêm việc làm ngay trong sản xuất nông nghiệp.
Hoạt động dịch vụ ở nông thôn bao gồm những hoạt động cung ứng đầu vào
cho sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp và các mặt hàng nhu yếu phẩm cho đời sống
dân cư nông thôn và tạo ra thu nhập cao cho người lao động.
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nhìn chung việc làm ở nông thôn thường là những công việc giản đơn, thủ

công, ít đòi hỏi tay nghề cao. Tư liệu sản xuất chủ yếu trong ngành này chủ yếu là
đất đai và công cụ cầm tay, dễ học, dễ chia sẻ. Nhưng sản phẩm làm ra chất lượng
thấp nên thu nhập bình quân của lao động nông thôn nói chung không cao, tỷ lệ
nghèo đói ở nông thôn còn khá cao so với khu vực thành thị.
Ở nông thôn, có một số lượng khá lớn công việc tại nhà không định thời
gian như: trông nhà, trông con cháu, nội trợ, làm vườn…có tác dụng hỗ trợ tích
cực tăng thêm thu nhập cho gia đình.
Thị trường sức lao động ở nông thôn thực tế đã có từ lâu nhưng kém phát
triển. Hình thức trao đổi sức lao động diễn ra tự phát theo quan hệ truyền thống
trong cộng đồng, thiếu một cơ chế điều tiết thống nhất. Quan hệ thuê mướn dựa
trên mối quan hệ thân quen là chủ yếu.
Những đặc điểm trên có ảnh hưởng rất lớn đến chủ trương chính sách và
định hướng giải quyết việc làm ở nông thôn. Nếu có cơ chế phù hợp, mở rộng và
phát triển các biện pháp tạo việc làm thích ứng sẽ góp phần giải quyết tốt quan hệ
dân số-việc làm tại chỗ.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm cho lao động nông thôn.
1.3.1. Nhân tố liên quan đến chính sách
Chính sách việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản của mọi
quốc gia nhằm góp phần đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển xã hội. Chính sách
việc làm là nhân tố chủ quan có vai trò rất quan trọng đối với toàn bộ quá trình
phát triển việc làm trong xã hội. Chính sách giải quyết việc làm thực chất là một hệ
thống các biện pháp có tác động mở rộng cơ hội để lực lượng lao động của toàn xã
hội tiếp cận được việc làm.
Chính sách việc làm thuộc hệ thống chính sách xã hội nhằm giải quyết một
vấn đề xã hội vừa cấp bách vừa lâu dài ở mỗi nước là đảm bảo việc làm, đời sống
cho lao động toàn xã hội, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, nơi đang tồn tại tỷ lệ
người chưa có việc làm, thiếu việc làm khá cao.
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Cũng như những chính sách xã hội khác, chính sách việc làm cũng rất đa

dạng, phong phú, có thể phân loại như sau:
Nhóm chính sách chung có quan hệ và tác động đến việc mở rộng và phát
triển việc làm cho lao động nông thôn như: chính sách tín dụng ưu đãi, chính sách
đất đai, chính sách thuế.
Nhóm chính sách khuyến khích phát triển những lĩnh vực, hình thức và vùng
có khả năng thu hút được nhiều lao động trong cơ chế thị trường (chính sách phát
triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, chính sách phát triển khu vực phi kết cấu, chính
sách di dân và phát triển vùng kinh tế mới, chính sách đưa lao động đi làm việc có
thời hạn ở nước ngoài, chính sách di chuyển lao động, chính sách khôi phục và
phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống.
Ngoài ra còn có các chính sách việc làm cho các đối tượng là người có công
và chính sách xã hội (thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, người tàn tật…)
Chính sách việc làm thuộc hệ thống chính sách xã hội, song phương thức và
biện pháp giải quyết việc làm mang nội dung kinh tế, đồng thời liên quan đến
những vấn đề thuộc tổ chức sản xuất kinh doanh như: tạo môi trường pháp lý, vốn,
lựa chọn và chuyển giao công nghệ, cơ sở hạ tầng, thị trường tiêu thụ. Vì thế bất cứ
chính sách kinh tế - xã hội nào của Nhà nước cũng ảnh hưởng và tác động đến vấn
đề giải quyết việc làm cho lao động nông thôn.
Ở Việt Nam nhiệm vụ của chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm là
phải góp phần hoàn thiện một hệ thống chính sách, đưa ra được các biện pháp hữu
hiệu, tiến hành các hoạt động đồng bộ, kết hợp lồng ghép với các chương trình
khác, cùng với hoạt động của các ngành, các cấp trong quá trình thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chính sự tác động mạnh mẽ của một
chương trình quốc gia liên quan trực tiếp đến vấn đề giải quyết việc làm sẽ mang
lại hiệu quả kinh tế cao trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.
1.3.2. Nhân tố liên quan đến giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ
+ Về giáo dục đào tạo
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tiềm năng kinh tế của một đất nước phụ thuộc vào trình độ khoa học, công

nghệ của đất nước đó. Trình độ khoa học, công nghệ lại phụ thuộc vào các điều
kiện giáo dục.
Giáo dục nằm ở trung tâm của sự phát triển. Giáo dục – đào tạo giúp cho
người lao động có đủ tri thức, năng lực, sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của công
việc và rõ ràng, người lao động qua quá trình đào tạo sẽ có nhiều cơ hội để thực
hiện các công việc mà xã hội phân công sắp xếp.
Giáo dục đào tạo là động lực thúc đẩy, là điều kiện cơ bản để bảo đảm việc
thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội. Giáo dục và đào tạo nhằm vào định
hướng phát triển, trước hết nhằm cung cấp cho xã hội một đội ngũ lao động mới đủ
về số lượng, nâng cao về chất lượng và phát huy hiệu quả để đảm bảo thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
+ Về khoa học công nghệ
Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần cùng với việc mở rộng hợp tác
liên doanh với các nước cũng như sự phát triển của công nghệ đã làm biến đổi cơ
cấu đội ngũ lao động.
Bên cạnh những ngành nghề truyền thống đã xuất hiện những ngành nghề
mới và cùng với nó là xu hướng tri thức hóa công nhân, chuyên môn hóa lao động,
giảm bớt lao động chân tay nặng nhọc.
Khoa học công nghệ trong tri thức của người lao động và trong thực tế sản
xuất trở thành động lực cho toàn bộ tương lai của nhân loại, thúc đẩy sự tiến bộ
vừa sâu vừa rộng của xã hội trên nền tảng khoa học và công nghệ để tạo ra bước
tăng trưởng kinh tế mới.
Trong nền kinh tế phát triển, người lao động muốn thích ứng với các công
việc xã hội yêu cầu, trước hết họ phải là những người được trang bị nhất định về
khoa học công nghệ. Tuy nhiên trong thực tế ở những nước sản xuất phát triển
thường có sự mâu thuẫn: nếu công nghệ sản xuất tiên tiến, với các dây chuyền sản
xuất tự động hóa, chuyên môn hóa cao mà trình độ người lao động chưa bắt kịp dễ
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
dẫn đến tình trạng một bộ phận người lao động bị gạt ra khỏi quá trình sản xuất

kinh doanh. Vì thế, bên cạnh công việc đào tạo nâng cao trình độ lành nghề cho
người lao động, vấn đề lựa chọn áp dụng mức độ công nghệ nào trong dây chuyền
sản xuất kinh doanh, phải tính toán rất kỹ, bởi lẽ khoa học công nghệ có tác động
mạnh mẽ đến vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động.
1.3.3. Nhân tố về dân số
Dân số, lao động, việc làm và nguồn nhân lực là yếu tố quyết định đến sự
phát triển kinh tế xã hội của một đất nước. Tăng trưởng dân số với tốc độ và quy
mô hợp lý là nguồn cung cấp nhân lực vô giá. Tuy nhiên nhiều quốc gia đã gặp
phải nhiều tình huống ngược lại. Tăng trưởng dân số không phải là yếu tố tích cực
mà lại là gánh nặng cho nền kinh tế. Đó chính là giai đoạn mà phát triển dân số quá
nhanh, quy mô phát triển vượt quá khả năng đáp ứng và yêu cầu của xã hội.
Tỷ lệ sinh, tỷ lệ chết, cơ cấu giới, tuổi của dân số đều ảnh hưởng đến quy mô
của lực lượng lao động. Nếu tỷ lệ sinh cao dẫn đến gia tăng nhanh chóng số lượng
người trong độ tuổi lao động tương lai. Mục tiêu của hầu hết các quốc gia là giảm
tỷ lệ chết, gia tăng tuổi thọ. Điều này cũng làm cho số người trong độ tuổi lao động
tăng lên, sức khỏe được cải thiện nên số người có khả năng cung cấp sức lao động
tăng.
Ngoài ra vấn đề di dân và các dòng di dân, đặc biệt là di dân từ nông thôn ra
đô thị gây ra các áp lực kinh tế - xã hội và chính trị còn nguy hiểm hơn so với tỷ lệ
gia tăng dân số nhanh chóng. Quá trình đô thị hóa gây ra hậu quả trực tiếp đến vấn
đề việc làm, để có thể thu hút hết số lao động này cần nhanh chóng tạo ra một số
lượng lớn chỗ làm việc. Một vấn đề khác là chất lượng của số lao động này về học
vấn, đào tạo, trình độ nghề nghiệp không đáp ứng được với yêu cầu công việc
trong khu vực đô thị.
Trong nhiều kế hoạch phát triển, việc khống chế mức gia tăng dân số được
gắn với vấn đề giảm áp lực đối với Việt Nam. Ở Việt Nam dân số và việc làm đã
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
được Đảng và Nhà nước thể hiện trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 –
2010 như sau:

“Tiếp tục giảm tốc độ tăng dân số, sớm ổn định quy mô dân số ở mức hợp lý
(khoảng 88 - 89 triệu người vào năm 2010); giải quyết đồng bộ, từng bước và có
trọng điểm chất lượng dân số, cơ cấu dân số và phân bố dân cư.
Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và
phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu
cầu bức xúc của nhân dân. Đến năm 2010, nước ta có 56,8 triệu người ở độ tuổi lao
động, tăng gần 11 triệu người so với năm 2000. Để giải quyết vấn đề việc làm cho
người lao động, phải tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho tất cả các thành
phần kinh tế đầu tư phát triển rộng rãi các cơ sở sản xuất, kinh doanh, tạo nhiều
việc làm và phát triển thị trường lao động. Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu
lao động xã hội phù hợp với cơ cấu kinh tế. Chú trọng bảo đảm an toàn lao động.
Đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Xây dựng và thực hiện đồng bộ, chặt chẽ cơ chế,
chính sách về đào tạo nguồn lao động, đưa lao động ra nước ngoài, bảo vệ quyền
lợi và tăng uy tín của người lao động Việt Nam ở nước ngoài.”[1]
Như vậy con người là mục tiêu và động lực chính của sự phát triển. Cần đặt
con người vào vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển, lấy lợi ích của con người
làm điểm xuất phát của mọi chương trình kế hoạch phát triển.
1.3.4. Nhân tố quốc tế
Bối cảnh quốc tế và khu vực là điều kiện bên ngoài tác động rất lớn đến giải
quyết việc làm của mỗi quốc gia. Tác động đó nhiều hay ít, mạnh hay yếu còn tùy
thuộc vào trình độ phát triển của tầng quốc gia trong những hoàn cảnh cụ thể.
Trong điều kiện thế giới ngày nay, để khai thác và sử dụng tốt các yếu tố bên ngoài
đồng thời phát huy tối đa nội lực, kết hợp nội lực với ngoại lực thành sức mạnh
tổng hợp trong giải quyết việc làm một cách năng động, hiệu quả, bền vững, tránh
được những rủi ro cần có những nghiên cứu mang tính hệ thống tình hình thế giới,
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khu vực và các mối quan hệ giữa các điều kiện bên trong và bên ngoài, nhận thức
và vận dụng đúng đắn các quan hệ đó khi xây dựng chiến lược việc làm.
Lao động, việc làm là vấn đề bức xúc không của riêng quốc gia nào, nó đang

là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các nước trên thế giới. Giải quyết
việc làm của cả nước nói chung và ở nông thôn nói riêng chịu ảnh hưởng của rất
nhiều nhân tố. Các nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến kết quả tạo
việc làm mới cho lực lượng lao động. Chính vì vậy để giải quyết việc làm ở nông
thôn được thực hiện tốt thì cần quan tâm nghiên cứu các yếu tố trên để tìm ra
những giải pháp tốt nhất.
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VIỆC LÀM VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN HÀ TĨNH.
2.1. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
a. Vị trí địa lý
Hà Tĩnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam, nằm trên tọa độ 17°54' đến
18°45' vĩ độ Bắc, 105°05' đến 106°30' kinh độ Đông. Diện tích tự nhiên 6.025 km²,
chiếm 1,8% diện tích cả nước, dân số hơn 1,2 triệu người.
Hà Tĩnh nằm ở phía Đông dãy Trường Sơn. Phía Bắc giáp tỉnh Nghệ An, có
ranh giới bởi dòng sông Lam và dãy núi Thiên Nhẫn. Phía Nam giáp tỉnh Quảng
Bình, có ranh giới bởi dãy núi Hoành Sơn. Phía Đông giáp biển đông, có chiều dài
bở biển 137 km. Phía Tây giáp tỉnh Bôlikhămxay và tỉnh KhămMuộn của nước
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào có chiều dài đường biên giới 145 km, ranh giới
bởi đỉnh của dãy núi Trường Sơn.
Hà Tĩnh có vị trí quan trọng trong tiến trình hội nhập quốc tế khu vực và thế
giới; có các trục giao thông: Bắc - Nam (quốc lộ 1, đường Hồ Chí Minh, đường
sắt), và Đông - Tây (quốc lộ 8A với cửa khẩu quốc tế Cầu Treo, đường 12 qua cửa
khẩu Cha Lo - Quảng Bình), nối với liên hợp cụm cảng biển nước sâu Vũng Áng.
b. Địa hình
Hà Tĩnh nằm trên một dải đất hẹp và dốc nghiêng từ Tây sang Đông với
chiều dài 122 km, chiều rộng trung bình 60 km với đầy đủ các dạng địa hình: rừng
núi, gò đồng, đồng bằng, trung du và biển… Phía Tây là núi cao (độ cao trung bình

1.500 m), kế tiếp là các dãy đồi thấp dần sang Đông, đến dải đồng bằng hẹp và
cuối cùng là bãi cát ven biển. Với đặc điểm địa hình này, Hà Tĩnh có điều kiện để
phát triển trồng rừng nguyên liệu, trồng cây công nghiệp dài ngày và phát triển
công nghiếp chế biến thủy sản và lâm sản.
25

×