Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Trọn bộ tài liệu ôn thi văn đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (710.53 KB, 122 trang )

TÂY TIẾN
- Quang Dũng -
A. KHÁI QUÁT
1. Tác giả:
Quang Dũng là một nghệ sỹ đa tài: làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc, viết văn… nhưng hơn hết ông
vẫn là một nhà thơ xuất sắc của thi ca Việt Nam hiện đại, một nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng
chiến chống Pháp, một hồn thơ phóng khoáng và tâm huyết, tinh tế và lãng mạn.
2. Tác phẩm:
2.1. Vị trí:
Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ của Quang Dũng, trong đó thể hiện tập trung những nét
đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Tây Tiến cũng là một trong những bài thơ hay
nhất trong số những bài viết về đề tài người lính thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
2.2. Cảm hứng sáng tác:
Với sự kết hợp bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn, bài thơ đã trở thành khúc ca bi tráng phản
ánh chân thực cuộc sống, chiến đấu gian khổ, sự hy sinh anh dũng và vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của
người chiến sỹ Tây Tiến.
- Cảm hứng lãng mạn: thường tô đậm cái “tôi” tràn đầy cảm xúc, tô đậm sự phi thường, dữ dội,
những vẻ đẹp thơ mộng, tuyệt mỹ, thường lý tưởng hóa, thi vị hóa hiện thực.
- Cảm hứng lãng mạn luôn sử dụng bút pháp đối lập để tạo ra những hình tượng tương phản,
đem đến những ấn tượng sâu đậm cho người đọc.
- Cảm hứng bi tráng: sự kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và bút pháp hiện thực đã tạo ra chất
bi tráng rất đặc biệt cho bài thơ, đem đến những màu sắc và âm hưởng mạnh mẽ, hào hùng cho sự hy
sinh, mất mát của người chiến sỹ Tây Tiến.
a) Hoàn cảnh sáng tác:
- Đoàn quân Tây Tiến:
+ Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội
Lào bảo vệ biên giới Việt - Lào, đánh tiêu hao lực lượng của quân đội Pháp ở Thượng Lào và miền Tây
Bắc bộ của Việt Nam.
+ Địa bàn đóng quân và hoạt động của Trung đoàn là một miền rừng núi rộng lớn và hiểm trở
của biên giới Việt - Lào gồm các tỉnh: Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa và Sầm Nứa.
+ Sau một thời gian hoạt động, đoàn quân Tây Tiến trở về Hòa Bình, thành lập trung đoàn 52.


- Chiến sỹ Tây Tiến:
+ Chiến sỹ Tây Tiến phần đông là học sinh thanh niên Hà Nội nên tâm hồn mang đậm nét hào
hoa lãng mạn.
+ Bài thơ được viết trong thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, đời sống bộ đội gặp rất nhiều khó
khăn, đặc biệt đơn vị Tây Tiến chiến đấu trong hoàn cảnh hết sức gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật
chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy nhiên họ vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm với
tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”
- Quang Dũng (vị trí tác giả trong hoàn cảnh):
+ Năm 1947, Quang Dũng là đại đội trưởng trong trung đoàn Tây Tiến. Tới cuối 1948, ông được
lệnh chuyển sang đơn vị khác. Một thời gian sau, khi đang ở Phù Lưu Chanh, một làng thuộc tỉnh Hà
Đông, nhớ đơn vị cũ, Quang Dũng đã viết bài thơ “Nhớ Tây Tiến”.
+ Năm 1957, khi in lại trong tập “Mây đầu ô”, tác giả đổi nhan đề bài thơ thành “Tây Tiến”
=> Hoàn cảnh sáng tác cho thấy rõ hơn nỗi nhớ da diết của nhà thơ với đơn vị cũ và mảnh đất
miền Tây đầy kỷ niệm, nỗi nhớ đã trở thành cảm xúc trữ tình xuyên suốt bài thơ.
Hoàn cảnh sáng tác cũng đồng thời giúp người đọc hiểu rõ hơn vẻ đẹp hòa hoa, hào hùng của chiến sỹ
Tây Tiến, hiểu được ng/x bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn - những yếu tố làm nên chất bi
tráng rất đặc biệt cho bài thơ.
B. TÌM HIỂU TÁC PHẨM:
Nỗi nhớ về chặng đường hành quân gian lao vất vả của chiến sỹ Tây Tiến
qua vùng núi rừng miền Tây
1. Hai câu đầu: thể hiện cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ và của bài thơ
- Câu thơ đầu chia thành 2 vế trong nhịp ngắt 4/3:
“Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!”
+ Sông Mã là dòng sông chảy dọc theo địa bàn biên giới Việt - Lào thuộc tỉnh Mộc Châu, Sầm
Nưa, Mai Châu, Quan Hóa… Đây là dòng sông nhiều ghềnh thác, đổ dốc dữ dội, một mình băng băng
giữa núi rừng hùng vĩ, hai bên bờ sông còn rải rác mồ chiến sỹ Tây Tiến. Vì thế, Sông Mã vừa là 1 cảnh
sắc thiên nhiên hùng vĩ, vừa là hình ảnh của vùng đất miền Tây. Sông Mã còn là 1 dòng sông gắn liền
với chặng đường hành quân của trung đoàn, từng chứng kiến và chia sẻ những buồn vui, những mất
mát hy sinh, từng “gầm lên khúc độc hành” tiễn đưa tử sỹ. Sông Mã là 1 hình ảnh thiên nhiên miền Tây
đựng đầy kỷ niệm về trung đoàn Tây Tiến. Hành hương về quá khứ, Quang Dũng đã nhắc đến Sông Mã

như 1 biểu tượng đầu tiên của nỗi nhớ nhung.
+ Bài thơ được viết khi Quang Dũng đang ở Phù Lưu Chanh, xa trung đoàn, xa đồng đội, xa núi
rừng miền Tây và dòng sông Mã thân yêu. Nhịp 4/3 với dấu ngắt giữa dòng tạo cảm giác như có 1 phút
ngừng lặng để cảm nhận sự trống trải mênh mông trong thực tại bởi “Sông Mã xa rồi”, để rồi sau đó
hiện tại mờ đi, nỗi nhớ ùa vào trong tiếng gọi tha thiết hướng về quá khứ: “Tây Tiến ơi!”. Tiếng gọi ấy
không dừng lại trong câu 1 mà như được ngân nga, nối tiếp trong những vần “ơi” của từ láy “chơi vơi” ở
câu 2 - phép điệp vần tinh tế khiến tiếng gọi như âm vang, đập vào vách đá, dội lại lòng người, da diết,
bâng khuâng…
- Câu sau: Sau tiếng gọi ấy, nỗi nhớ ào ạt, trào dâng trong câu thơ tiếp theo:
“Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
+ Từ “nhớ” điệp lại ở đầu 2 vế câu diễn tả nỗi nhớ da diết, ám ảnh, không thể nguôi ngoai.
+ Vế đầu của câu thơ xác định đối tượng của nỗi nhớ “nhớ về rừng núi” - đó là không gian mênh
mông của miền Tây với những địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông…, những địa danh vừa
gợi lên kỷ niệm về con đường hành quân gian truân, vất vả, vừa gây ấn tượng mạnh mẽ về miền đất
heo hút, hoang sơ; và vì thế nỗi nhớ không chỉ dừng lại ở rừng núi, nỗi nhớ còn hướng tới những năm
tháng quá khứ đầy kỷ niệm và những người đồng đội thân yêu, nay kẻ còn, người mất…
+ Vế sau câu thơ dành miêu tả trạng thái của nỗi nhớ. “Chơi vơi” là 1 từ láy vần, gợi độ cao
phiêu du, bay bổng, là 1 từ láy rất phù hợp để miêu tả nỗi nhớ nhung về miền núi cao. Hơn nữa, từ láy
“chơi vơi” gợi cảm giác về một nỗi nhớ vô hình, vô lượng, không thể đo đếm, một nỗi nhớ da diết, mơ
hồ, đầy ám ảnh, một nỗi nhớ lơ lửng, ăm ắp, không nguôi…
=> Hai câu thơ đầu đã thể hiện cảm hứng chủ đạo của cả bài thơ, đó là nỗi nhớ tha thiết hướng
về những kỷ niệm không thể nào quên trong quá khứ với miền Tây và trung đoàn Tây Tiến.
2. Mười hai câu sau: trong 12 câu sau, nỗi nhớ ấy chủ yếu hướng về vùng đất miền Tây qua chặng
đường hành quân gian nan vất vả của trung đoàn Tây Tiến. Thông qua những kỷ niệm về thiên nhiên và
con người, Quang Dũng khắc họa vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của người chiến sỹ Tây Tiến.
a) Nỗi nhớ về thiên nhiên miền Tây:
Thông qua những nét phác tài hoa, vừa hiện thực, vừa thấm đẫm chát lãng mạn, Quang Dũng đã làm
hiện lên bức tranh thiên nhiên miền tây heo hút, hiểm trở nhưng cũng hùng vĩ, thơ mộng, biết bao kỳ
thú.
- Sương: Nét đặc sắc đầu tiên về thiên nhiên miền Tây qua ký ức của Quang Dũng chính là màu

sương rừng mờ ảo. Sương phủ dày ở Sài Khao, sương bồng bềnh ở Mường Lát, nhưng đó không chỉ là
màn sương của thiên nhiên mà còn là màn sương mờ của kỷ niệm, của nỗi nhớ thương:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
+ Bút pháp hiện thực trong câu trên đã mô tả một đoàn quân dãi dầu, mệt mỏi, thấp
thoáng ẩn hiện trong sương. Nhịp ngắt 4/3 khiến trọng tâm câu thơ rơi vào từ “lấp” ở cuối vế đầu. Với
việc này, nhà thơ đã cho thấy màn sương rừng miền Tây mênh mông, dày đặc, che kín cả một đoàn
quân, trùm phủ, khuất mờ rừng núi, khiến con đường hành quân của các chiến sỹ thêm vất vả, gian
nan.
+ Với câu sau, hiện thực khắc nghiệt đã được thi vị hóa bởi cảm hứng lãng mạn: Đêm
sương thành “đêm hơi” bồng bềnh, những ngọn đuốc soi đường di chuyển dọc theo hàng quân được
nhìn như những đóa hoa chập chờn, lung linh, huyền hoặc… Những thanh bằng nhẹ bẫng trong câu thơ
càng làm đậm thêm sắc hư ảo của màu sương rừng. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã được cảm nhận
một cách thi vị bởi những tâm hồn lãng mạn, hào hoa…
- Dốc núi: Nhắc đến miền Tây không thể nào quên sự hiểm trở và hùng vĩ vô cùng của dốc núi.
Đoạn thơ mô tả dốc núi miền Tây đã làm hiện ra sắc nét khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ và hiểm trở ấy,
qua đó cũng đồng thời làm hiện ra cuộc hành quân gian lao và vất vả, ý chí bất khuất kiên cường, tinh
thần lạc quan, yêu đời của người lính Tây Tiến.
Đọc đoạn thơ mô tả dốc núi của Quang Dũng, người đọc có thể nhớ tới con đường khó khăn lên
xứ Thục của Lý Bạch xưa:
“Thục đạo nan! Thục đạo nan
Nan ư hướng thiên thanh”
Nghĩa là:
Đường lên xứ Thục khó thay
Khó như đi lên trời xanh
+ Câu thơ đầu trực tiếp miêu tả dốc núi miền Tây:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”
. Câu thơ ngắt nhịp 4/3, từ “dốc” điệp lại ở đầu 2 vế câu thể hiện sự trùng điệp, chồng
chất, nối tiếp như tới vô tận của những con dốc, cũng phần nào gợi ra những nỗi nhọc nhằn của người
lính trên đường hành quân: con dốc này chưa qua, con dốc khác lại đợi sẵn, núi rừng miền Tây như

muốn thử thách nghị lực của các anh.
. Sự hiểm trở của dốc núi miền Tây đã hiện ra trong ý nghĩa tạo hình của biểu cảm
của các từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”. Từ láy “khúc khuỷu” miêu tả sự gồ ghề, gập ghềnh ngay dưới
chân chiến sỹ, còn từ láy “thăm thẳm” lại gợi độ cao, độ xa vời vợi khi đưa mắt nhìn tiếp con đường
hành quân vẫn cheo leo ngút ngàn như không cùng, con đường lên miền Tây quả là “nan ư hướng thiên
thanh” (Lý Bạch)
. Sự hiểm trở ấy còn được hiện ra trong nhạc điệu bởi sự phối hợp dày đặc 5 thanh
trắc ghập ghềnh trong một câu 7 chữ
+ Câu thơ thứ hai: Dốc núi miền tây còn được gợi tả gián tiếp trong câu thơ sau với việc
tô đậm ấn tượng về độ cao chót vót:
“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
. Từ láy “heo hút” được đảo lên đầu cao nhấn mạnh sự hoang sơ xa vắng, thăm thẳm
như vô tận
. “Cồn mây” là một ẩn dụ đặc sắc cho thấy mây núi miền Tây bộn bề, chồng chất,
dựng lên thành cồn, thành dốc. Từ đó câu thơ dán tiếp cho thấy dốc núi cao đến mức con đường như
lẫn vào mây, bao phủ đường núi, mây mờ mịt trập trùng, mây khiến con đường hành quân của chiến sỹ
càng cheo leo, hiểm trở, hoang vu…
. Vế sau của câu thơ cũng tiếp tục gợi tả độ cao của dốc núi khi người lính đi trong
mây, mũi súng như chạm tới đỉnh trời. Đây là một cảm nhận chính xác của nhà thơ về địa hình heo hút,
hiểm trở trên đường hành quân của chiến sỹ. Sự hiểm trở ấy đã làm tăng thêm những gian truân vất vả
cho người lính. Nhưng bằng cách nói tếu táo, hóm hỉnh, đầy chất lính trong hình ảnh “súng ngửi trời”
Quang Dũng đã cho thấy tâm hồn trẻ trung của những người lính phong trần, coi thường mọi gian lao
vất vả. Vũ Quần Phương còn cho rằng hình ảnh “súng ngửi trời” là: “Trung tâm hùng tráng của bức
tranh hiểm trở, bởi ở chỗ cao ấy có con người”. Và do vậy, câu thơ không chỉ gợi sự hiểm trở của dốc
núi, sự tươi trẻ lạc quan của chiến sỹ Tây Tiến, nó còn khiến các anh hiện ra trong dáng vẻ ngang tàng
kiêu dũng của những chàng trai chinh phục độ cao.
+ Câu thơ thứ ba: Dốc núi tiếp tục được miêu tả trong một nét vẻ sắc sảo, gân guốc:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
. Điệp ngữ “ngàn thước” là một ước lệ nghệ thuật có tính định lượng đã khắc họa vẻ
đẹp kỳ vĩ, chênh vênh, kỹ thú của núi rừng miền Tây. Yếu tố tương đồng của điệp ngữ “ ngàn thước”

cộng chất tương phản của các động từ “ lên”, “xuống” trong hai vế câu đã tạo ra một nét gập đột ngột,
dữ dội đặc tả độ cao của dốc, độ sâu của vực, bên này đường lên núi dựng đứng vút cao, bên kia vực
đổ xuống hun hút hiểm trở
=> Trong 3 câu thơ đặc biệt giàu chất tạo hình, dốc núi miền Tây đã được miêu tả một cách trực
tiếp hoặc gián tiếp nhưng đều khắc họa được đồng thời cả sự hiểm trở lẫn vẻ đẹp ký thú, thông qua bức
tranh thiên nhiên có thể thấy những vẻ đẹp trong tâm hồn người lính Tây Tiến: Họ lạc quan, mạnh mẽ,
coi thường mọi gian truân, những khó khăn thử thách của thiên nhiên chỉ làm rõ hơn ý chí, sức mạnh
tâm hồn trẻ trung và tư chất nghệ sỹ của họ
- Mưa rừng: Sau những câu thơ hun hút nhọc nhằn miêu tả dốc núi, câu thơ tả mưa miên man
trong 7 thanh bằng với rất nhiều âm thanh mở, câu thơ đã gợi tả một không gian mênh mông, dàn trải,
nhạt nhòa trong mưa:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
+ Hình ảnh “mưa xa khơi” có thể coi là một ẩn dụ cho thấy cả thung lũng mờ mịt như
loãng tan trong biển mưa, không gian bỗng như mênh mông, xa vời hơn. Sau những chặng đường hành
quân gian khổ, người lính như đang dừng chân đâu đó đưa mắt nhìn cảnh núi rừng chìm trong mưa.
Ánh mắt những người lính xa nhà bâng khuâng hướng tới những ngôi nhà bồng bênh thấp thoáng trong
màn mưa hư ảo… Sắc thái phiếm chỉ khiến cụm từ “nhà ai” trở nên mơ hồ, xa xăm; sắc thái nghi vấn
gợi nỗi trăn trở trong lòng người. Cả câu thơ chỉ có duy nhất tiếng “nhà” mang thanh huyền như một
thoáng trầm lắng suy tư để rồi sau đó tất cả là những thanh không chơi vơi trong nỗi nhớ.
+ Giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi rừng mênh mông, hình ảnh những ngôi nhà đã gợi
cảm giác ấm áp, nhớ nhung, dễ làm xao xuyến lòng người xa quê.
- Núi rừng thâm u: Núi rừng miền Tây được miêu tả trong những nét vẽ đầy ấn tượng:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
+ “Thác gầm thét” và “cọp trêu người” là hai hình ảnh nhân hóa thể hiện sự dữ dội, hoang
sơ đầy bí hiểm của núi rừng miền Tây. Bút pháp đối lập của cảm hứng lãng mạn được sử dụng trong
phép đối thanh rất tinh tế ở hai câu thơ này: nếu câu trên có “thác”, “thét” mang thanh trắc ở âm vực cao
thì âm dưới là “hịch”, “cọp” cũng mang thanh trắc nhưng thuộc âm vực thấp. Những dấu sắc trong câu
trên như gợi âm thanh tiếng thác nước man dại ở vòm cao thăm thẳm, những dấu nặng liên tiếp trong
câu dưới lại như mô phỏng bước chân nặng nề của thú dữ, gợi cái thâm u, bí ẩn đầy đe dọa ở vòm tối

thấp của núi rừng.
+ “Chiều chiều” và” đêm đêm” là những trạng ngữ chỉ thời gian lặp lại những miên viễn,
vĩnh hằng, những sức mạnh thiên nhiên khủng khiếp đã ngự trị nơi núi rừng miền Tây không phải một
chiều, một đêm mà là chiều chiều, đêm đêm - sự ngự trị muôn đời! Nhưng cũng chính điều này lại càng
khiến chân dung người chiến sỹ Tây Tiến thêm hào hùng, mạnh mẽ. Họ đã hành quân qua những vùng
đất hoang sơ, dữ dội, vắng bóng con người, họ đã vượt qua tất cả những gian truân vất vả bằng ý chí
kiên cường và lòng dũng cảm
b) Nỗi nhớ về người chiến sỹ Tây Tiến trong chặng đường hành quân
Sự vất vả gian truân cũng như vẻ đẹp trong tâm hồn người lính đã ít nhiều thể hiện trong những câu thơ
miêu tả cảnh thiên nhiên miền Tây và hành trình qua miền Tây; Ngoài ra còn có những câu thơ trực tiếp
miêu tả hình ảnh người lính cũng như những kỷ niệm của họ trên đường hành quân
- Trước hết là một ký ức sâu đậm của Quang Dũng về hình ảnh một người chiến sỹ Tây Tiến
trên đường hành quân
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
+ Từ láy “dãi dầu” đã thể hiện tất cả những vất vả nhọc nhằn của các anh khi hành quân
qua miền Tây, khi phải vượt qua những núi cao vực thẳm, những thác ghềnh dữ dội, những sương gió
nắng mưa.
+ Hai câu thơ tựa như một bức ký họa đầy ấn tượng về người lính. Có thể hiểu đây là
hình ảnh người lính phong trần buông mình vào giấc ngủ hiếm hoi trong phút dừng chân, một giấc ngủ
mệt nhọc, vô tư, trẻ trung; Cũng có thể hiểu đây là câu thơ miêu tả thực tế đau xót trên chiến trường khi
người lính kiệt sức, gục ngã, không thể bước tiếp cùng đồng đội. Cũng có thể thấy người lính quỵ xuống
khi đang đi giữa hàng quân nhưng “súng mũ” vẫn bên mình - như vậy là dù không vượt qua được khó
khăn nhưng anh cũng không thoái lui, chùn bước, không đầu hàng khó khăn, không rời bỏ đội ngũ. Và
nhất là hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh đã được Quang Dũng biểu hiện bằng cách nói thật lãng
mạn để qua đó làm hiện lên không phải khó khăn mà là tinh thần dũng cảm vượt lên khó khăn, đó chính
là vẻ đẹp hào hùng của người chiến binh Tây Tiến.
- Con đường hành quân của chiến sỹ Tây Tiến không chỉ có gian truân vất vả mà còn có cả
những kỷ niệm ngọt ngào, thắm thiết ân tình. Miền Tây không chỉ có núi cao, rừng sâu…, miền Tây còn
còn có những bản làng nên thơ với khói lam chiều ấm áp quện bên sườn núi, có hương thơm quyến rũ

của xôi nếp hương và nhất là có những sơn nữ tình tứ và xinh đẹp:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
+ Hai câu thơ là những cụm từ ngữ đã được xóa đi các yếu tố kết nối khiến cho nó mang
dáng dấp như một bức tranh ấn tượng, một bức tranh của nghệ thuật sắp đặt, trong đó ghi lại tổng hợp
những ấn tượng của cả thị giác, thính giác, khứu giác và thậm chí cả xúc giác.
+ Mở đầu bằng cụm từ “nhớ ôi…”, câu thơ đã bộc lộ cảm xúc nhớ nhung dâng trào mãnh
liệt sau những chặng đường hành quân giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa những tiếng chân thú rình rập
đầy đe dọa, bát cơm mới thơm ngào ngạt cùng làn khói bếp mỏng manh vương vấn quấn quýt phút
dừng chân ở Mai Châu, một bản làng miền Tây, tất cả đã đem đến cảm giác thanh bình thật hiếm hoi,
quý giá trong chiến tranh. Giống như âm thanh tiếng gà trưa trên đường hành quân của anh chiến sỹ
trong bài thơ Xuân Quỳnh, hương thơm bát xôi nếp đầu mùa ở Mai Châu sẽ mãi là một kỷ niệm khó
quên về tình cảm quân dân ấm áp trong cả đời người lính chiến.
+ Câu “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” gợi ra nhiều cách hiểu. Có thể hiểu các chiến sỹ
Tây Tiến dừng chân ở Mai Châu giữa mùa lúa chín, đón nhận bát xôi ngào ngạt hương nếp đầu mùa và
tình em thơm thảo… Cũng có thể hiểu theo một nét thật lãng mạn của cụm từ “mùa em”. Người ta
thường chỉ nói “mùa hoa”, “mùa quả”… Đó là thời điểm căng tràn, sung mãn, đầy ắp sắc hương của hoa
trái… Quang Dũng đã tạo ra một nghĩa mới mẻ, táo bạo và thật đa tình về mùa em khiến cho Mai Châu
không chỉ là một địa danh với kỷ niệm thơm thảo của hương nếp đầu mùa, Mai Châu còn gợi nhớ hình
ảnh về những cô gái miền Tây duyên dáng. Có người lính nào quên được giây phút dừng chân ở Mai
Châu, khi nồng ấm xung quanh các anh là dân làng, là các sơn nữ sóng sánh ánh mắt, rạng rỡ nụ cười,
nồng nàn hương sắc… Những thanh bằng trong câu thơ đã gợi tả tinh tế cảm giác bồng bênh, xao
xuyến tới đê mê của những chàng trai Hà thành hòa hoa và lãng mạn.
 Với sự kết hợp uyển chuyển giữa họa và nhạc, giữa bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn, 14
câu thơ trong bài Tây Tiến của Quang Dũng đã tái hiện sinh động và biểu cảm về một vùng đất hiểm
trở, khắc nghiệt mà thơ mộng kỳ thú, gắn liền với chặng đường hành quân của người chiến sỹ Tây Tiến
qua miền Tây. Từ những kỷ niệm hiện lên trong nỗi nhớ da diết về quá khứ, Quang Dũng đã thể hiện
chân thực bức chân dung của những người lính Tây Tiến kiêu dũng và hào hoa, góp phần làm đậm
thêm cảm hứng chủ đạo của bài thơ Tây Tiến.
Bình giảng đoạn thơ sau đây trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng (8 câu đoạn 2)

I/ Mở bài:
- Tác giả (A.1), tác phẩm (A.2.1)
- Cả bài thơ là nỗi nhớ tha thiết của Quang Dũng hướng về những kỷ niệm không thể nào quên với
miền Tây và trung đoàn Tây Tiến. Tám câu thơ được bình giảng nằm trong đoạn thứ hai của bài thơ.
Đây là đoạn thơ tái hiện những ấn tượng sâu sắc về một đêm lửa trại và sau đó là nỗi nhớ của nhà thơ
về cảnh và người miền Tây. Thông qua những kỷ niệm và nỗi nhớ ấy, Quang Dũng đã khắc họa sinh
động vẻ đẹp lãng mạn và hào hoa của người chiến sỹ Tây Tiến.
II/ Thân bài:
Nếu 14 câu đầu chủ yếu thể hiện sức mạnh hào hùng của người chiến sỹ Tây Tiến trong cuộc hành
quân giữa núi rừng miền Tây hiểm trở thì tới đoạn 2, qua những kỷ niệm ngọt ngào tươi sáng, nhà thơ
đã tập trung miêu tả nét hào hoa nghệ sỹ trong tâm hồn những chàng trai Hà thành lãng mạn, mộng mơ.
1. Bốn câu đầu: Miêu tả những ấn tượng sâu sắc, những cảm nhận tinh tế của người chiến sỹ Tây Tiến
về một đêm lửa trại nơi trú quân giữa một bản làng nào đó ở miền Tây
- Câu thơ đầu tiên tựa như một tiếng reo vui:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
+ Đây là lần thứ hai “đuốc” được liên tưởng đến “hoa” - nếu trong đêm sương Mường
Lát, chiến sỹ Tây Tiến nhìn đuốc soi đường lung linh, huyền ảo như “hoa về trong đêm hơi” thì lần này,
trong một đêm lửa trại giữa bản mường miền Tây, bút pháp lãng mạn đã khiến ảnh lửa bập bùng nơi
đóng quân trở thành đuốc hoa rực rỡ, gợi những liên tưởng thú vị, đem đến sự náo nức, rạo rực trong
lòng người, khiến đêm liên hoan giữa bộ đội và dân làng trở thành đêm hội tưng bừng.
+ Cụm từ “bừng lên” là một nốt nhấn tươi sáng cho cả câu thơ, nó đem đến ấn tượng về
ánh sáng và đây là ánh sáng chói lòa, đột ngột của lửa, của đuốc, xóa đi cái tối tăm lạnh lẽo của núi
rừng, thể hiện niềm vui sướng, rạo rực trong lòng người. Người đọc còn có thể hình dung ra những ánh
mắt ngỡ ngàng, những gương mặt bừng sáng của các chiến sỹ, bừng sáng vì sự phản chiếu của ánh
lửa bập bùng đêm hội, bừng sáng còn vì ngọn lửa ấm nóng trong tâm hồn, ngọn lửa của niềm vui trẻ
trung, lạc quan, ngọn lửa của tình yêu với con người và mảnh đất miền Tây.
- Câu 2: Hình ảnh trung tâm của hội đuốc hoa là các thiếu nữ miền sơn cước:
“Kìa em xiêm áo tự bao giờ”
+ Từ “kìa” và cụm từ nghi vấn “tự bao giờ” đã bộc lộ cảm giác vừa ngỡ ngàng thú vị, vừa
ngưỡng mộ trìu mến của các chiến sỹ trước sự xuất hiện của các cô gái miền Tây. Đó là cảm giác rất

chân thực trong một dịp vui hiếm hoi sau bao ngày hành quân giữa rừng già với núi cao, dốc thẳm,
sương dày, với mua rừng và thú dữ. Với niềm vui tỏa ra từ câu thơ, Quang Dũng còn đưa người đọc
đến một cảm nhận thú vị khi liên tưởng tới câu thơ đầu. “Doanh trại bừng lên” hình như không chỉ vì ánh
sáng của lửa, của đuốc mà còn vì sự xuất hiện đột ngột của các sơn nữ miền Tây.
+ Các cô gái hiện lên với hai ấn tượng đẹp đẽ bởi bút pháp mỹ lệ hóa trong “xiêm áo”
lộng lẫy và nét “e ấp” đầy nữ tính. Những ấn tượng ấy khiến các cô đẹp hơn trước một đoàn quân “xanh
màu lá”, duyên dáng hơn trước những người lính “dữ oai hùm”. Nét tương phản của cảm hứng lãng
mạn đã tạo nên chất thi vị làm dịu đi rất nhiều hiện thực khắc nghiệp của chiến tranh.
+ Người lính Tây Tiến không chỉ ngỡ ngàng, say đắm trước vẻ đẹp của những thiếu nữ
miền Tây e ấp và duyên dáng mà còn mơ màng trong “man điệu” núi rừng. “Man điệu” có thể hiểu là vũ
điệu uyển chuyển của các sơn nữ, cũng có thể là giai điệu mới mẻ của vùng đất lạ trong tiếng “khèn lên”
mê hoặc lòng người. Với tâm hồn hào hoa nghệ sỹ, đặc biệt nhạy cảm với cái đẹp, người lính Tây Tiến
say đắm chiêm ngưỡng và cảm nhận những hình ảnh rực rỡ, những âm thanh ngọt ngào, những đường
nét duyên dáng… trong đêm lửa trại để được thả hồn phiêu diêu bay bổng trong thế giới mộng mơ với
những vẻ đẹp say người của phương xa đất lạ. Câu thơ có tới 6 thanh bằng đã diễn tả tinh tế cảm giác
mơ màng chơi với ấy.
2. Bốn câu sau: Thể hiện nỗi nhớ về cảnh của người miền Tây. Những hoài niệm rực rỡ và sống động
về một đêm lửa trại đã được thay bằng những bâng khuâng xa vắng trong nỗi nhớ tha thiết mênh mông
về cảnh sắc con người miền Tây
- Câu 1:
+ Nỗi nhớ miền Tây được gửi vào lời nhắn với “người đi”, nhưng đâu chỉ là nhắn với ai
đó mà thực ra nhà thơ đang để lòng mình hướng về Châu Mộc, hướng về núi rừng Miền Tây, trong một
chiều sương nhạt nhòa, màn sương huyền ảo của núi rừng, màn sương huyền ảo của hoài niệm, nhớ
nhung.
+ Trong tiếng Việt, “ấy” là một đại từ chỉ định luôn đem đến sắc thái xa xôi, mơ hồ cùng
nỗi nhớ tiếc cho những danh từ đứng cùng với nó như: thuở ấy, ngày ấy, người ấy… Và bây giờ, khi
đang ngồi ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng cũng nhắc về chiều sương ấy với bao nỗi nhớ thương lưu
luyến khi Châu Mộc trở nên nhạt nhòa trong sương khói và buổi chiều miền Tây với cảnh, với người…
đã bị đẩy về một quá khứ thật xa xăm.
- Câu 2, 3, 4: Sau lời nhủ thầm xao xuyến, nhà thơ cất lên những tiếng hỏi mà phép điệu trong

cấu trúc câu: “Có thấy hồn lau… có nhớ dáng người…” đã thể hiện nỗi nhớ nhung đầy trăn trở hướng
về cảnh và người miền Tây
+ Câu hỏi thứ nhất hướng về những hàng lau xám buồn bên bờ sông hoang dại:
“Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”
. Nét đặc sắc trong câu thơ chính là hình ảnh ẩn dụ về “hồn lau” thay vì bờ lau, hàng
lau hay rừng lau… Hoa lau có màu xám trắng, bông lau được tạo bởi muôn ngàn hạt nhỏ li li nên chỉ
cần một chút gió rất nhẹ hoa cũng xao động, cả bờ lau đung đưa mềm mại. Sắc trắng của hoa lau trong
chiều sương nhạt nhòa, mơ ảo, cái phơ phất của ngàn lau trong xạc xào gió núi… đã khiến rừng lau
như có hồn, như biết sẻ chia nỗi niềm với con người, sự giao cảm khiến nỗi nhớ càng mênh mông da
diết.
. Khi đã xa miền Tây, câu hỏi “có thấy hồn lau nẻo bến bờ” càng làm “xao xác” lòng
người. Hoa lau thường mọc ven bờ sông, triền núi, nơi vắng người qua lại. Trong những năm tháng quá
khứ, người chiến sỹ Tây Tiến hành quân giữa núi rừng miền Tây, bên dòng sông Mã, giữa phơ phất
ngàn lau, lau như linh hồn của rừng núi chia sẻ buồn vui với chiến sỹ trên đường hành quân. Nay người
đã đi xa, ngàn lau vẫn ở lại giữa mênh mông gió núi, cảm giác về những bờ lau cô đơn “nẻo bến bờ”
khiến nỗi nhớ càng xao xác trong lòng người đã chia xa miền Tây.
+ Câu hỏi thứ hai dành cho con người miền Tây:
“Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đung đưa”
Trong làn sương mờ của hoài niệm, con người miền Tây chỉ hiện lên như một bóng dáng
mờ xa huyền ảo. Dáng người ấy vừa cứng cỏi, kiên cường trên con thuyền “độc mộc” đè thác lũ băng
băng lướt tới, vừa mềm mại, duyên dáng trong hình ảnh ẩn dụ “hoa đung đưa”. Nếu “hoa đung đưa” gợi
hình hơn biểu cảm và chủ yếu gợi hình ảnh những cánh hoa dập dờn đôi bờ sông thì “hoa đung đưa”
không dừng lại ở nét nghĩa cụ thể ấy mà còn gợi tả tinh tế dáng vẻ dịu mềm, tình tứ của những sơn nữ
miền Tây - đó là một sáng tạo mới mẻ về ngôn từ, thể hiện chất lãng mạn rất đặc sắc của hồn thơ
Quang Dũng.
III/ Kết luận:
- Nghệ thuật: Đoạn thơ đã sử dụng những từ ngữ đặc biệt có giá trị biểu hiện và biểu cảm như
“bừng”, “hồn lau”, “đung đưa”… bút pháp thi trung hữu nhạc và thi trung hữu họa đã đem đến chất nhạc,
chất họa đặc sắc cho bài thơ, với những câu thơ tái hiện sinh động một không gian huyền ảo, với những

đường nét thi vị, tràn ngập âm thanh, lung linh ánh sáng; những câu thơ khi rạo rực hân hoan, khi bâng
khuâng xa vắng, khi mơ mộng bồng bềnh.
- Nội dung: Bút pháp lãng mạn đậm nét trong đoạn thơ đã khắc họa vẻ đẹp thơ mộng của cảnh
và người miền tây qua cảm nhận của những người lính phong trần có tâm hồn nghệ sỹ. Giữ được tâm
hồn mộng mơ lãng mạn ngay trong những năm tháng vất vả gian truân không chỉ thể hiện được nét hào
hoa mà còn là nhân tố quan trọng tạo nên sức mạnh hào hùng để các anh chiến đấu và chiến thắng.
Những giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc trong bài thơ đã góp phần khắc họa vẻ đẹp toàn vẹn cho
bức chân dung người lính Tây Tiến trong bài thơ cùng tên của Quang Dũng.
Bình giảng đoạn thơ sau đây trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng (đoạn 3 + 4 câu cuối)
I/ Mở bài:
- Tác giả (A.1), tác phẩm (A.2.1)
Đoạn thơ được bình giảng là phần cuối của bài thơ Tây Tiến. Thông qua nỗi nhớ về cuộc sống chiến
đấu gian khổ và sự hy sinh anh dũng của chiến sỹ Tây Tiến, đoạn thơ đã trở thành một bức tượng đài
về hình ảnh những người chiến binh miền Tây với vẻ đẹp hào hùng của lý tưởng cao cả, của ý chí kiên
cường, của sự hy sinh dũng cảm cùng vẻ đẹp hào hoa lãng mạn của những tâm hồn đằm thắm mộng
mơ.
II/ Thân bài:
1. Bốn câu đầu: Nhà thơ đã tái hiện chân thật cuộc sống chiến đấu gian khổ kiên cường của các chiến
sỹ Tây Tiến trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
a) Hai câu đầu:
- Trong ký ức của Quang Dũng, Tây Tiến là một “đoàn binh không mọc tóc”. Nét vẽ ngoại hình
này xuất phát từ một hiện thực trong cuộc sống của người lính Tây Tiến: họ phải cạo trọc đầu để giảm
bớt những bất tiện trong cuộc sống ở rừng; cũng có thể đó là hậu quả của những trận sốt rét liên miên
nơi rừng thiêng nước độc. Dù hiểu theo cách nào, hình ảnh ấy cũng gợi lên sự gian khổ, thiếu thốn,
nghiệt ngã của chiến tranh. Nhưng với cách diễn đạt độc đáo của Quang Dũng, cũng như trong câu thơ
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa”, câu thơ “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” đã chuyển hoàn toàn
tình thế bị động sang trạng thái chủ động. Sự chủ động khiến người lính Tây Tiến hiện lên không tiều
tụy, nheo nhếch mà kiêu bạc, ngang tàng. Hơn thế nữa, còn có thể coi hình ảnh “đoàn binh không mọc
tóc” là một nét vẽ phi thường làm đậm thêm cảm hứng lãng mạn cho hình tượng thơ.
- Câu 2: Chân dung người lính còn được vẽ tiếp trong một nét ngoại hình đặc sắc:

“Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
+ Có thể hiểu đây là màu xanh áo lính hay màu xanh của lá ngụy trang khiến cho cả đoàn
quân “xanh màu lá”. Nhưng theo mạch thơ, có lẽ nên hiểu đây là câu thơ miêu tả những gương mặt
xanh xao gầy ốm vì sốt rét, vì cuộc sống kham khổ ở rừng. Có thể nhận ra các diễn đạt tinh tế của
Quang Dũng khi nhà thơ miêu tả một đoàn quân “xanh màu lá” chứ không phải “xanh xao”, người lính
Tây Tiến như hòa với thiên nhiên cây lá - ốm mà không yếu, gầy ốm mà vẫn tràn đầy sức sống. Cũng
có thể thấy “không mọc tóc” và “xanh màu lá” là cách diễn đạt đẹp và thanh về một hiện thực thô ráp
nặng nề trong chiến tranh.
+ Và ngay trong vế sau của câu thơ đã là một tương phản độc đáo với hình ảnh “dữ oai
hùm” - trên những gương mặt xanh xao gầy ốm của người lính vẫn toát lên nét dữ dội kiêu hùng, vẻ uy
nghi lẫm liệt, tựa như những vị chúa tể rừng xanh! Cũng với hình ảnh về một “đoàn binh không mọc
tóc”, những gương mặt “dữ oai hùm” cũng là nét vẽ đặc sắc, ấn tượng của cảm hứng lãng mạn trong
bức chân dung phi thường về người chiến binh Tây Tiến.
+ Hình ảnh ẩn dụ “dữ oai hùm” còn gợi liên tưởng tới “cọp trêu người” ở đoạn trên - một
liên tưởng thú vị, tự hào: dường như ở miền đất có bóng hổ rình rập đe dọa với “cọp trêu người” thì
người lính cũng phải có “oai hùm” dữ dội, uy nghi để chế ngự và chiến thắng.
=> Miêu tả người chiến sỹ Tây Tiến trong gian khổ, bệnh tật nhưng Quang Dũng không
chú trọng vào gian khổ cùng hậu quả của nó mà nghiêng về ca ngợi vẻ đẹp phi thường, lãng mạn, hào
hùng
b) Hai câu sau:
Bức tượng đài chiến sỹ Tây Tiến không chỉ có nét ngang tàng oai phong trong dáng vẻ uy nghi dữ dội
mà còn được thể hiện ở chiều sâu đẹp đẽ trong tâm hồn:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiềm thơm”
+ “Mắt trừng” là ánh mắt mở to hướng thẳng về phía trước, ánh mắt ngời lên ý chí chiến
đấu, khát vọng chiến thắng, cái khát vọng gửi trong mộng chiến trường, giấc mộng cao đẹp của những
người trai thời loạn. Ánh mắt ấy thực chất là một hình ảnh ước lệ của cảm hứng lãng mạn nhằm tôn
thêm sự oai phong lẫm liệt trong dáng vẻ, nét kiêu hùng ngạo nghễ trong tâm hồn những người lính có
lý tưởng và khát vọng lớn lao, ra đi vì nghĩa lớn như những tráng sỹ xưa “Giã nhà đeo bức chiến bào -
Thét roi cầu vị ào ào gió thu”.

+ Những chàng trai Hà Nội ra đi vì sức vẫy gọi mãnh liệt của lý tưởng song trái tim của họ
vẫn dành một góc lưu luyến nhớ nhung về “Hà Nội dáng kiều thơm”. Theo cấu trúc câu, có thể hiểu
người lính miền viễn xứ khi xa quê vẫn mơ màng nhớ về Hà Nội, nhớ về thủ đô hoa lệ đẹp như một
dáng kiều thơm; cũng có thể hiểu theo một cách rất lãng mạn đó là nỗi nhớ về những thiếu nữ Hà thành
với vóc dáng đáng yêu, kiều diễm. Qua hình ảnh ẩn dụ về “dáng kiều thơm”, câu thơ đã gợi tả vóc dáng
sắc hương những cô gái Hà Nội hào hoa thanh lịch trong nỗi nhớ nhung của người lính xa nhà.
+ Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng: “hai câu thơ như chứa đựng cả hai thế giới”. Sự
tương đồng trong 2 nét nghĩa của “mộng” và “mơ”, sự tương phản của 2 thế giới nghĩa chung và tình
riêng đã làm nên vẻ đẹp toàn vẹn cho tâm hồn người lính: họ không chỉ có lý tưởng cao cả, ý chí kiên
cường, sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn mà còn là những chàng trai lãng mạn mộng mơ có trái tim chan
chứa tình yêu thương.
+ Cũng như hình ảnh: “Người ra đi đầu không ngoảnh lại - Sau lưng thềm nắng lá rơi
đầy” trong sáng tác mùa thu trước Cách mạng, và sau đó là người lính trong: “Những đêm dài hành
quân nung nấu - Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”, những chàng trai Hà Nội trong đoàn quân Tây
Tiến cũng thật lãng mạn, kiêu hùng; tình yêu thương trở thành động cơ đẹp đẽ để họ ra đi chiến đấu vì
những điều yêu thương, đó là những nét khắc họa chân thực, cảm động về cả một thế hệ người Việt
Nam dằn lòng gạt tình riêng ra đi vì nghĩa lớn.
2. Bốn câu sau: Trực tiếp miêu tả sự mất mát hy sinh anh dũng của người chiến sỹ
- Câu thơ đầu: Đem đến một cảm giác buồn bã, ảm đạm về cái chết:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ”
+ Có thể nhận ra một nét nghĩa tương đồng trong cả 4 từ của câu thơ khi tất cả đều ít
nhiều gợi tới sự xa xôi: “rải rác” gợi ra hình ảnh của những nấm mồ nằm xa nhau dọc đường hành
quân, “biên cương” là nơi cuối cùng của đất nước, cũng có thể coi là “viễn xứ”, xứ xa; “mồ” là hình ảnh
của cái chết gợi sự chia lìa xa cách của tử biệt sinh ly, của sự sống và cái chết, của cõi dương và cõi
âm, của những nấm mồ miền viễn xứ với những người thân yêu chờ đợi nơi quê nhà Những nét
nghĩa ấy cũng hướng tới miêu tả một thực tế: rất nhiều cái chết, rất nhiều nấm mồ của những con người
xa quê nằm lại miền viễn xứ - có lẽ đó chính là nguyên nhân đưa đến cảm giác ảm đạm lạnh lẽo cho cả
câu thơ.
+ Trong một câu thơ và đoạn thơ dùng rất nhiều từ Hán Việt thì “mồ" là một từ thuần Việt
có giá trị biểu hiện và biểu cảm thật xúc động. Không sử dụng từ “mộ” trang trọng, “mồ” là một danh từ

miêu tả chính xác thực tế chiến trường lúc đó khi các anh hy sinh trên đường hành quân, việc chôn cất
sơ sài, vội vã, đồng đội xót lòng để các anh lại trong những nấm đất hoang lạnh, hiu hắt, đơn sơ trên
đường. Bản thân cái chết đã gợi nên sự buồn bã, càng lạnh lẽo hơn khi các anh không được nằm bên
nhau, những nấm mồ cứ rải rác trên từng chặng đường hành quân gian khổ, những nấm mồ thiếu hơi
ấm của gia đình, quê hương - sự hy sinh của các anh càng làm đau lòng người sống. Tây Tiến là một
trong số ít những tác phẩm văn chương thời chống Pháp trực tiếp miêu tả sự mất mát hy sinh của
người lính, thậm chí bằng những câu thơ gợi nỗi bi thương, đau xót nhất.
- Câu thứ hai: Tuy nhiên Tây Tiến bi mà không lụy, ảm đạm mà không yếu mềm, cảm hứng bi
tráng đã trở thành âm hưởng chủ đạo của đoạn thơ và của bài thơ.
+ Một trong những yếu tố đem đến sắc thái mạnh mẽ và hào hùng cho đoạn thơ chính là
việc Quang Dũng đã sử dụng một loạt các từ Hán Việt như: biên cương, viễn xứ, chiến trường, độc
hành khiến sự hy sinh của chiến sỹ Tây Tiến được đặt vào một không khí thiêng liêng trang trọng tạo
tâm thế ngưỡng mộ đầy tôn kính cho người đọc.
+ Và cảm giác ảm đạm ngậm ngùi trong câu 1 đã nhanh chóng được xóa đi bởi tứ thơ
mạnh mẽ, rắn rỏi như một lời tuyên thệ trong câu 2:
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
. Hình tượng thơ đậm nét bi tráng, phảng phất hình ảnh những tráng sỹ xưa: “Gieo
Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao”, những con người sẵn sàng gạt tình riêng ôm chí lớn “ra đi không vương
thê nhi”. Cũng với cách diễn đạt chủ động trong kiểu câu phủ định,, câu thơ đã tô đậm lý tưởng cao cả
và khí phách kiên cường của những người chiến sỹ anh hùng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
. “Đời xanh” là hình ảnh ẩn dụ cho tuổi thanh xuân, thời gian đẹp nhất trong đời,
quãng thời gian một đi không trở lại; nhịp đi liền mạch trong câu thơ “chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh” cho thấy ý chí quyết tâm cao độ của những người thanh niên ưu tú sẵn sàng hiến dâng cuộc đời
và tuổi thanh xuân, cũng có nghĩa là sẵn sàng hiến dâng phần đời đẹp nhất cho đất nước, đó cũng là
tâm nguyện, là ý chí cao đẹp của những người thanh niên Việt Nam thời chống Mỹ đã được Thanh
Thảo thể hiện trong những câu thơ chânh thành, xúc động:
“Chúng tôi - đã đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc”
+ Như vậy, sau câu thơ đầu nói về cái chết, về những nấm mồ, câu thơ tiếp theo lại

khẳng định ý chí, lý tưởng và khí phách của chiến sỹ Tây Tiến. Phải chăng đây cũng là hàm ý sâu xa
của nhà thơ: các anh nằm lại trong những nấm mồ miền viễn xứ nhưng khí phách tinh thần vẫn sống
mãi tuổi hai mươi, và với Tổ quốc các anh là bất tử, vẻ đẹp hào hùng của các anh vẫn có sức cổ vũ
mãnh liệt tới muôn đời.
- Câu thứ ba: Không chỉ hình ảnh của cái chết, câu thơ miêu tả việc chôn cất tử sỹ cũng gây ấn
tượng rất mạnh mẽ cho người đọc:
“Áo bào thay chiếu anh về đất”
+ Cảm hứng lãng mạn trong bút pháp mỹ lệ hóa đã biến tấm áo quân phục sờn rách của
người lính chiến thành tấm áp bào đẹp đẽ, thiêng liêng. Quang Dũng có kể lại: “Khi tử sỹ nằm xuống
không đủ manh chiếu để liệm, nói áo bào thay chiếu là mượn cách nói của thơ trước đây để an ủi
những người đồng chí vừa ngã xuống”. Vượt lên trên hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh, trong cảm
nhận của Quang Dũng, những người đồng đội thân yêu của ông khi ngã xuống vẫn được khâm liệm
trong những tấm áo bào trang trọng vốn chỉ dành cho những tráng sỹ anh hùng xả thân vì đất nước.
+ Hình ảnh “áo bào thay chiếu” còn gợi liên tưởng đến lý tưởng cao quý một thời, coi việc
chết ngoài chiến địa lấy “da ngựa bọc thây” làm niềm tự hào của đấng trượng phu, coi “chí làm trai dặm
nghìn da ngựa” là điều thiêng liêng cao quý; những người lính Tây Tiến hôm nay cũng xem việc hy sinh
nơi chiến trường, được khâm liệm bằng tấm áo của chính mình là niềm vinh quang của những con
người “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
+ Sự bi thảm của cái chết đã được xóa đi không chỉ vì lý tưởng cao cả và khí phách hào
hùng mà còn bởi cách nói giảm khi coi chết chỉ là “về đất”. Không chỉ làm dịu nhẹ nỗi đau, hai chữ “về
đất” còn gợi ra những tầng nghĩa sâu sắc: “đất” là hình ảnh gợi sự bền vững muôn đời của non sông đất
nước, “về” gợi bao ấm áp bởi sự đón nhận và ấp ủ, nâng niu Các anh đã từ biệt gia đình, quê hương
ra đi về miền viễn xứ với mộng chiến trường cao cả, đã chiến đấu kiên cường, đã hy sinh anh dũng vì
Tổ quốc, nay Tổ quốc trìu mến, yêu thương, mở rộng vòng tay đón nhận những người con thân yêu trở
về thanh thản, yên nghỉ trong lòng đất mẹ, tựa như những người chiến sỹ trong thơ Tố Hữu: “vui vẻ chết
như cày xong thửa ruộng” (Trăng trối - Tố Hữu), Sự trở về này đã nhập các anh vào thế giới vĩnh hằng
của cha ông, thế giới của “những người chưa bao giờ khuất, đêm đêm rì rầm trong tiếng đất, những
buổi ngày xưa vọng nói về” (Đất nước - Nguyễn Đình Thi)
- Câu thứ tư: Âm hưởng bi tráng được gợi ra từ hình tượng người chiến sỹ Tây Tiến đã được
đẩy lên tới đỉnh điểm trong câu kết đoạn:

“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
+ Sông Mã đã từng xuất hiện trong tiếng gọi tha thiết ở đầu bài thơ “Sông Mã ” như một
biểu tượng của miền Tây, của chiến khu, nay trở lại với âm thanh dữ dội, hào hùng của cảnh tiễn đưa tử
sỹ. Không phải là “vang lên” hay “cất lên”, cụm từ “gầm lên” đã thể hiện trọn vẹn tính chất dữ dội trong
những cung bậc tình cảm mạnh mẽ và sâu sắc: bi phẫn, đau xót, tiếc thương, cảm phục
+ Sông Mã từng gắn bó với các anh trong suốt chặng đường hành quân gian khổ qua
miền Tây, nay Sông Mã lại là chứng nhân lịch sử thay lời cho cả thiên nhiên trời đất, núi sông, gầm
vang “khúc độc hành” bi tráng đưa tiễn những người con yêu quý trở về yên nghỉ trong lòng đất mẹ. Ý
nghĩa của khúc độc hành vừa mạnh mẽ, hào tráng, vừa phảng phất âm hưởng cô đơn gợi nỗi ngậm
ngùi buồn bã. Đây là cảm giác không tránh khỏi khi đứng trước cái chết, khi phải tiễn đưa những người
thân yêu trong chuyến ra đi cuối cùng đơn độc.
3. Đoạn kết: Khúc vỹ thanh nhớ nhung về Tây Tiến
- Trở về với hiện tại, Tây Tiến đã lùi xa trong ký ức, trong nỗi nhớ thương:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi”
+ Tác giả nhắc tới hình ảnh “người đi” trong những nét nghĩa mơ hồ: đó có thể là những
chiến binh Tây Tiến, những chàng trai Hà Nội năm xưa từ biệt quê hương, ra đi Tây Tiến “không hẹn
ước” ngày về, cách hiểu này gợi niềm thương mến, cảm phục với những “người chiến sỹ, mùa thu ấy ra
đi từ đó không về ” (lời một bài hát); cũng có thể hiểu đó là thời điểm cuối năm 1948 khi Quang Dũng
đang ở Phù Lưu Chanh, bâng khuâng nhớ về việc mình đã chia xa trung đoàn Tây Tiến “không hẹn
ước” ngày về, đã từ biệt miền Tây không biết bao giờ gặp lại.
+ Đoạn kết còn đồng thời mở ra một không gian thăm thẳm, xa xa, mịt mờ của “đường
lên” với miền Tây, với Tây Tiến - cái xa xăm mịt mờ ấy càng làm đậm thêm cảm giác “chia phôi” ngăn
cách với những người thân yêu nhất trong lòng nhà thơ, một cựu chiến binh Tây Tiến.
- Những năm tháng ngắn ngủi sống trong đoàn binh Tây Tiến đã để lại trong lòng nhà thơ những
hoài niệm không thể phai mờ. Bài thơ kết lại bằng lời nhắn nhủ da diết:
“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
+ Có thể hiểu nhà thơ đang thể hiện một tâm nguyện âm thầm mà thủy chung son sắt
của tất cả những “ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy” - trong lòng họ, thời gian gắn bó với trung đoàn, với

miền Tây từ mùa xuân ấy là những thời gian quý giá nhất trong đời, những thời gian vời vợi nhớ
thương. Dù có thể chia xa nhưng tâm hồn những người lính Tây Tiến sẽ mãi mãi ở lại với miền Tây, với
Sầm Nưa, Pha Luông, Mường Hịch những vùng đất xa xôi đựng đầy kỷ niệm với đồng đội, với trung
đoàn Tây Tiến trong những năm tháng gian khổ hào hùng bởi:
“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”
(Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên)
+ Cũng có thể hiểu nhà thơ đang xót xa nhắc tới những người đồng đội đã vĩnh viễn nằm
lại trong những nấm mồ cô đơn miền viễn xứ. Họ đã “lên Tây Tiến mùa xuân ấy”, đã chiến đấu kiên
cường và hy sinh dũng cảm; linh hồn và thân xác của họ đều ở lại với miền tây, để lại nỗi nhớ thương
da diết cho những người còn sống.
III/ Kết luận:
Đoạn thơ đã thể hiện những nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật của Quang Dũng, đó
là bút pháp tương phản đầy ấn tượng của cảm hứng lãng mạn, là chất họa và chất nhạc đậm nét với giá
trị biểu cảm mạnh mẽ, là chất bi tráng đưa tới những xúc động sâu sắc trong lòng người. Qua đó Quang
Dũng đã khắc họa sâu đậm hình ảnh người chiến binh Tây Tiến trong cả cuộc sống chiến đấu gian khổ
và sự hy sinh anh dũng, làm hiện lên vẻ đẹp toàn vẹn trong tâm hồn các anh, những người lính hào
hùng và hào hoa. Hình ảnh các anh càng làm rõ thêm cảm hứng chủ đạo của bài thơ: nỗi nhớ tha thiết
của người cựu chiến binh Tây Tiến hướng về miền Tây, về trung đoàn Tây Tiến, về những năm tháng
chiến khu không thể nào quên…
VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ CMT8 - 1945 ĐẾN HẾT THẾ KỶ XX
A. VĂN HỌC VIỆT NAM 1945 - 1975
1. Hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa:
- Nền văn học vận động và phát tiển dưới sự lãnh đạo của Đảng CS, thống nhất về khuynh
hướng tư tưởng, tổ chức và quan niệm nhà văn mới: nhà văn - chiến sỹ
- Đất nước diễn ra nhiều sự kiện lớn lao: cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và công cuộc xây
dựng cuộc sống, con người mới ở miền Bắc.
2. Quá trình phát triển và những thành tựu chủ yếu:
2.1. Chặng đường 45-54:
Văn học tập trung phản ánh cuộc kháng chiến chống Pháp với chủ đề bao trùm là ca ngợi Tổ quốc và

quần chúng Cách mạng, ca ngợi cuộc kháng chiến và con người kháng chiến, văn học gắn bó sâu sắc
với đời sống cách mạng, kháng chiến, hướng tới đại chúng, phản ánh sức mạnh của quần chúng nhân
dân, thể hiện niềm tự hào dân tộc, niềm tin vào tương lai tất thắng của cuộc kháng chiến.
+ Đôi mắt - Nam Cao
+ Làng - Kim Lân
+ Tập thể Việt Bắc - Tố Hữu
+ Cảnh khuya - Hồ Chí Minh
+ Tây Tiến - Quang Dũng
+ Bắc Sơn (kịch)
2.2. Chặng đường 55-64:
Đây là chặng đường văn học trong những năm xây dựng CNXH ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng dân
tộc ở miền Nam tiến tới thống nhất nước nhà. Văn học tập trung thể hiện hình ảnh cuộc sống mới, con
người mới trong bước đầu xây dựng CNXH với cảm hứng lãng mạn tràn đầy niềm vui, niềm lạc quan tin
tưởng, thể hiện tình cảm với miền Nam ruột thịt, ý chí thống nhất đất nước.
+ Vợ nhặt
+ Mùa lạc
+ Vợ chồng A Phủ
+ Ba người trên sân ga
2.3 Chặng đường 65-75:
Văn học chặng đường này tập trung viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ với chủ đề bao trùm là ca ngợi
tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
+ Chiếc lược ngà
+ Rừng xà nu; Những đứa con trong gia đình
+ Ra trận; Máu và Hoa
+ Đất nước - Nguyễn Khoa Điểm
3. Những đặc điểm cơ bản:
3.1. Nền văn học vận động chủ yếu theo hướng cách mạng hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung
của đất nước:
- Nền văn học 45-75 ra đời cùng sự khai sinh của nhà nước nhân dân, trải qua hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và Mỹ nên sớm được kiến tạo theo mô hình “văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt

trận” cùng kiểu nhà văn mới “nhà văn - chiến sỹ”. Khuynh hướng chủ đạo của nền văn hóa mới là tư
tưởng cách mạng. Văn học trước hết phải phục vụ sự nghiệp cách mạng, ý thức trách nhiệm công dân
của văn học được đề cao.
- Gắn bó sâu sắc với vận mệnh đất nước nên văn học gần như song hành với từng chặng
đường lịch sử dân tộc, theo sát từng nhiệm vụ chính trị của đất nước. Hai đề tài lớn của văn học 45-75
là Tổ quốc và CNXH, văn học phản ánh cuộc đấu tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc vói nhân vật trung
tâm là chiến sỹ. Văn học sau 54 còn phản ánh công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc với hình ảnh con
người mới với những khát vọng lớn lao và phẩm chất tốt đẹp.
3.2. Nền văn học hướng về đại chúng:
- Quần chúng nhân dân vừa là đối tượng phản ánh, đối tượng phục vụ, vừa là nguồn cung cấp
lực lượng sáng tác cho văn học cách mạng, quan niệm “đất nước của nhân dân” đã làm thay đổi hẳn
cách nhìn nhân dân của các nhà văn.
- Văn học tập trung phản ánh cuộc sống, số phận, con đường tất yếu đến với cách mạng của
những con người lao động bị áp bức, ca ngợi sức mạnh và những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân
khiến văn học có tính nhân dân sâu sắc và nội dung nhân đạo cao cả.
- Tính nhân dân trong văn học thời kỳ này không chỉ thể hiện ở nội dung mà còn ở hình thức
nghệ thuật với những sáng tác ngắn gọn dễ hiểu, ngôn ngữ trong sáng bình dị, vận dụng sáng tạo vốn
văn học dân gian
3.3. Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn:
- Văn học tập trung phản ánh những vấn đề cơ bản có ý nghĩa sống còn với vận mệnh đất nước.
Con người được khám phá ở những lẽ sống lớn, tình cảm lớn, thường là những đại diện ưu tú cho cộng
đồng, thể hiện phẩm chất, sức mạnh, vẻ đẹp và khát vọng của cả cộng đồng, có số phận gắn liền với số
phận cộng đồng. Lời văn mang giọng điệu trang trọng, ngợi ca, tráng lệ và hào hùng.
- Cảm hứng lãng mạn được thể hiện trong việc khẳng định vẻ đẹp lý tưởng của cuộc sống mới,
con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
B. VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ SAU 1975 ĐẾN HẾT THẾ KỶ XX
1. Hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa:
Sau chiến thắng của cuộc vệ quốc vĩ đại 1975, đất nước ta bước vào thời kỳ độc lập tự do và thống
nhất. Hậu quả nặng nề của chiến tranh khiến đổi mới trở thành một đòi hỏi bức thiết về mọi mặt, trong
đó có văn hóa nghệ thuật. Trong thời kỳ đổi mới, nền kinh tế thị trường và điều kiện tiếp xúc rộng rãi với

văn hóa các nước đã chi phối mạnh tới văn học.
1.1. Sự phát triển và đặc điểm cơ bản:
- Thơ ca: Không còn sức hấp dẫn mạnh mẽ như thời kỳ trước, một loạt các bản trường ca ra đời
với xu hướng tổng kết, khái quát về chiến tranh thông qua những trải nghiệm của bản thân.
- Văn xuôi: Đặc biệt khởi sắc, có những đổi mới mạnh mẽ, quyết liệt trong cả nội dung và hình
thức thực hiện, có sức hút cao với người đọc. Đó là những tác phẩm có nhu cầu đổi mới cách viết về
chiến tranh, nhìn nhận lại hiện thực đời sống. Từ sau Đại hội Đảng VI 1986, văn học Việt Nam đã thực
sự đổi mới với những tác phẩm có giá trị cao ở nhiều thể loại: truyện ngắn và tiểu thuyết của Nguyễn
Minh Châu, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường, kịch của Lưu Quang
Vũ.
Nhìn chung văn học thời kỳ này vận động theo hướng dân chủ hóa mang tính nhân bản nhân văn sâu
sắc. Văn học đa dạng về đề tài, chủ đề, có tính hướng nội, đề cao cá tính sáng tạo của nhà văn, đổi mới
cách nhìn nhận, khám phá con người cà đời sống, đặc biệt chú ý tới số phận cá nhân trong cuộc sống
đời tư - thế sự.
NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH
A. QUAN ĐIỂM SÁNG TÁC:
Khái quát: Không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, HCM còn là nhà văn nhà thơ lớn với
nhiều tác phẩm có giá trị. HCM am hiểu sâu sắc quy luật và đặc trưng của văn học nghệ thuật từ
phương diện tư tưởng chính trị đến nghệ thuật biểu hiện. Điểu này được thể hiện trực tiếp trong quan
điểm sáng tác văn chương của Bác.
1. Hồ Chí Minh coi văn nghệ là một vũ khí chiến đấu phụng sự cho cuộc đấu tranh cách mạng. Nhà văn
phải có tinh thần xung phong như người chiến sỹ ngoài mặt trận:
“Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”
- Đây là một “tuyên ngôn về thơ” (Tố Hữu). Chất “thép” là cảm hứng đấu tranh xã hội tích cực, là
tính chiến đấu của thơ ca và văn học nghệ thuật. Văn học phải trở thành một hoạt động tinh thần phong
phú, phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng. Khi văn học trở thành vũ khí cách mạng
thì đương nhiên nhà văn phải là chiến sỹ cách mạng, phải ở giữa cuộc đời, trực tiếp góp phần vào
nhiệm vụ đấu tranh và phát triển xã hội.
- Quan niệm này đã được Bác nói rõ hơn trong thư gửi các họa sỹ nhân dịp triển lãm hội họa

năm 1951: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sỹ trên mặt trận ấy”. Quan
niệm của Bác vừa khẳng định vai trò to lớn, vừa thể hiện yêu cầu của xã hội với văn hóa nghệ thuật và
người nghệ sỹ trong công cuộc cải tạo và xây dựng xã hội. Họ phải là những chiến sỹ có tinh thần chủ
động, tích cực tấn công trên mặt trận đặc biệt là văn hóa nghệ thuật, với vũ khí đặc biệt là tác phẩm văn
chương.
2. Hồ Chí Minh đặt biệt quan tâm đến đối tượng tiếp nhận và mục đích sáng tác để quyết định nội dung
và hình thức tác phẩm. Trước khi viết, Bác thường đặt ra cho mình câu hỏi: viết cho ai (đối tượng tiếp
nhận), viết để làm gì (mục đích sáng tác) rồi sau đó mới quyết định: viết cái gì (nội dung) và cuối cùng là
lựa chọn cách viết như thế nào (hình thức). Những câu hỏi trên đã thể hiện quan niệm của HCM coi
sáng tác văn chương trước hết là một hành vi chính trị, coi trọng tính mục đích trong sáng tác, đặc biệt
lấy quảng đại quần chúng làm đối tượng phục vụ. Quan niệm này cũng được thể hiện rõ nét trong thực
tế sáng tác của Bác: khối lượng các tác phẩm trực tiếp dành cho mục đích tuyên truyền chính trị chiếm
vị trí lớn nhất trong sự nghiệp văn chương; bên cạnh những tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao là những
tác phẩm giản dị mộc mạc, gần gũi với cách cảm, cách hiểu của quần chúng nhân dân.
3. Hồ Chí Minh luôn đề cao tính chân thật và tính dân tộc của văn chương, coi đó là một tiêu chí quan
trọng để xác định vị trí của tác phẩm. Nhưng chân thật không có nghĩa là đơn giản, sơ lược mà phải có
tính nghệ thuật cao, Bác khuyên nghệ sỹ phải: “miêu tả cho hay, cho chân thật, cho hùng hồn” những
hiện thực phong phú của đời sống, phải “giữ tình cảm cho chân thật”, nên “phát huy cốt cách dân tộc…
giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”.
Kết luận: Hồ Chí Minh đã thể hiện một cách nhất quán những quan điểm ấy trong sáng tác của mình
khiến tác phẩm của Bác luôn có tư tưởng sâu sắc, nội dung thiết thực, hình thức nghệ thuật sinh động,
phong phú.
B. SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC:
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng vĩ đại đồng thời là một nhà văn hóa lớn. Bên cạng
sự nghiệp chính trị, Người còn để lại cho nhân dân ta một sự nghiệp văn chương lớn lao về tầm vóc tư
tưởng, phong phú về thể loại và đặc sắc về phong cách. Tác phẩm của Người được viết bằng tiếng
Pháp, tiếng Hán và tiếng Việt với 3 loại hình nổi bật: văn chính luận, truyện ký và thơ ca.
1. Văn chính luận:
- Nội dung và mục đích: trực tiếp tố cáo tội ác của kẻ thù hoặc thể hiện những nhiệm vụ chính trị
trong từng chặng đường lịch sử của cách mạng, kêu gọi quần chúng nhân dân thực hiện những nhiệm

vụ chính trị ấy.
- Nghệ thuật: Văn chính luận của HCM được viết không chỉ bằng lý trí sáng suốt, trí tuệ sắc sảo
mà còn bằng cả tấm lòng yêu ghét nồng nàn, được biểu đạt bằng những lời văn chặt chẽ, súc tích.
- Tác phẩm: Tuyên ngôn độc lập (1945), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946)
2. Truyện ký:
- Nội dung và mục đích: Tố cáo tội ác dã man, bản chất tàn bạo của bọn thực dân đế quốc, bọn
phong kiến tay sai đối với nhân dân các nước thuộc địa, ca ngợi những tấm gương yêu nước và cách
mạng.
- Nghệ thuật: Các tác phẩm truyện ký của Bác được viết bằng bút pháp hiện đại với nghệ thuật
trần thuật linh hoạt, tình huống truyện độc đáo, hình tượng sinh động…, thể hiện trí tưởng tượng phong
phú, vốn văn hóa sâu rộng, trí tuệ sắc sảo và trái tim tràn đầy nhiệt tình yêu nước và cách mạng
- Tác phẩm: Những trò lố hay là Va ren và PBC, Vi hành
3. Thơ:
3.1 Nhật ký trong tù (Ngục trung nhật ký):
- Là tập nhật ký bằng thơ, viết bằng chữ Hán, được sáng tác trong thời gian Hồ Chí Minh bị
chính quyền Tưởng Giới Thạch bứt giam ở Quảng Tây Trung Quốc từ mùa thu 1942 đến mùa thu 1943.
- Nội dung: Tập thơ phản ánh sinh động và tài hoa tâm hồn và nhân cách cao đẹp của người
chiến sỹ cách mạng trong hoàn cảnh khắc nghiệt chốn lao tù. Vì vậy có thể coi Nhật ký trong tù là bức
chân dung tinh thần tự họa của HCM - một bậc “đại trí - đại nhân - đại dũng” (Viên Ưng - TQ). Tập thơ
còn phản ánh chân thực bộ mặt tàn bạo của chế độ nhà tù Quốc dân đảng và một phần xã hội Trung
Quốc những năm 1942-1943 với ý nghĩa phê phán sâu sắc.
- Đây là tập thơ sâu sắc về tư tưởng, độc đáo và đa dạng về bút pháp, là kết tinh giá trị tư tưởng
và nghệ thuật thơ ca HCM.
3.2 Hai tập: Thơ Hồ Chí Minh (86 bài) và Thơ chữ Hán HCM (36 bài):
- Hoàn cảnh sáng tác: Đây là những bài thơ được Bác viết ở Việt Bắc từ 1941-1945 và trong thời
kỳ kháng chiến chống Pháp.
- Nội dung: Bên cạnh những bài thơ nhằm mục đích tuyên truyền cách mạng như: Hòn đá to, Ca
binh lính… là những bài thơ nghệ thuật vừa có màu sắc cổ điển, vừa mang tinh thần thời đại như: Pác
Bó hùng vĩ, Nguyên tiêu… Nổi bật trong thơ Bác là nhân vật trữ tình có tâm hồn hòa hợp với thiên
nhiên, có bản lĩnh vững vàngcủa một nhà cách mạng vĩ đại, phong thái ung dung của một bậc hiền triết,

khí phách kiên cường của người chiến sỹ cách mạng.
- Nghệ thuật: Đó là những bào cổ thơ thâm thúy có tứ thơ phóng thoáng ở nhiều đề tài, kết hợp
chất trữ tình cách mạng và cảm hứng anh hùng ca của thời đại mới.
C. PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT: (Phong cách nghệ thuật hết sức phong phú đa dạng)
1. Văn chính luận:
Thường ngắn gọn, súc tich, lập luận chặt chẽ, lý lẽ đanh thép, bằng chứng đầy sức thuyết phục, giàu
tính luận chiến, đa dạng về bút pháp. Văn chính luận của Bác rất giàu hình ảnh, thấm đượm cảm xúc,
văn phong linh hoạt, khi ôn tồn thấu tình đạt lý, khi đanh thép, mạnh mẽ, hùng hồn.
2. Truyện ký:
Tùy theo từng đối tượng tiếp nhận, Bác lựa chọn bút pháp, giọng điệu và văn phong thích hợp. Nhìn
chung, truyện ký Nguyễn Ái Quốc có phong cách rất hiện đại, thể hiện tính chiến đấu mạnh mẽ và nghệ
thuật trào phúng sâu sắc. Tác phẩm thường tạo ra tiếng cười trào phúng nhẹ nhàng hóm hỉnh nhưng …
thâm thúy sâu cay. Bên cạnh đó, Bác còn có những tác phẩm thắm thiết chất trữ tình làm xúc động lòng
người. Chất trí tuệ và tính hiện đại là nét đặc sắc của truyện ngắn Nguyễn Ái Quốc.
3. Thơ ca:
a. Thơ tuyên truyền cách mạng
Thường được viết theo hình thức bài ca với lời lẽ giản dị mộc mạc, dễ hiểu dễ nhớ, mang đậm màu sắc
dân gian. Loại thơ này cũng rất đa dạng về hình thức:
- Thơ châm ngôn
- Thơ chúc Tết mừng xuân theo tục lệ cổ truyền dân tộc
- Thơ tuyên truyền, kêu gọi
- Thơ tặng bạn (thơ cù bạn)
b. Thơ ca nghệ thuật:
Hầu hết là thơ tứ tuyệt cổ điển viết bằng chữ Hán, mang đặc điểm của thơ cổ phương Đông với sự kết
hợp hài hòa giữa màu sắc cổ điển và bút pháp hiện đại.
- Màu sắc cổ điển: Thể hiện ở thể loại, ngôn ngữ, thi liệu, thi tứ quen thuộc trong cổ thi, những
đề tài truyền thống như thiên nhiên, tình bạn, thế sự. Các bút pháp cổ điển như bút pháp chấm phá chủ
yếu gợi mà ít tả, chỉ vài nét vẽ đơn sơ mà ghi lấy linh hồn tạo vật, bút pháp tả cảnh ngụ tình khiến phong
cảnh trở thành tâm cảnh, khiến thiên nhiên luôn thấm đượm cảm xúc con người; Thơ Bác luôn đầy ắp
thiên nhiên, nhân vật trữ tình luôn gắn bó hòa nhập với thiên nhiên mang phong thái ung dung tự tại,

tiên phong đạo cốt.
- Bút pháp hiện đại:
+ Chất hiện đại trong thơ Bác được thể hiện ngay ở tính dân chủ, đưa thơ ca trở về gần
gũi với cuộc đời; nhân vật trữ tình luôn ở vị trí trung tâm của bức tranh thiên nhiên, không chịu sự chi
phối của thiên nhiên mà thậm chí còn có tác động tích cực trở lại thiên nhiên.
+ Chủ thể trữ tình mang phong thái ung dung tự tại, hòa nhập với thiên nhiên nhưng
không phải ẩn sỹ lánh đời mà là chiến sỹ cứu đời, yêu đời.
+ Hình tượng nghệ thuật trong thơ HCM không tĩnh tại mà luôn vận động mạnh mẽ
hướng về ánh sáng, sự sống, tương lai.
Kết luận: Nhìn chung phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh đa dạng, phong phú mà thống nhất. Sự
thống nhất thể hiện trong toàn bộ sáng tác văn thơ của Bác trên cơ sở nhất quán về quan niệm sáng
tác. Cách viết của Bác luôn ngắn gọn, trong sáng, giản dị, luôn chủ động trong việc sử dụng linh hoạt
các thể loại ngôn ngữ, bút pháp và thủ pháp nghệ thuật nhằm đạt tới mục đích thiết thực cho từng tác
phẩm. Sáng tác của Bác luôn kết hợp sâu sắc giữa chính trị và văn học, tư tưởng và nghệ thuật, truyền
thống và hiện đại. Với một di sản văn học đồ sộ và quý giá, Người đã góp phần đặt nền móng và mở
đường cho văn học cách mạng Việt Nam.
TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
- Hồ Chí Minh -
Trình bày hoàn cảnh ra đời và nội dung chính của Tuyên ngôn độc lập
1. Hoàn cảnh ra đời:
- Sau hàng ngàn năm dưới chế độ phong kiến, hàng trăm năm dưới chế độ thực dân, mùa thu
năm 1945, nhân dân Việt Nam đã làm cuộc cách mạng tháng Tám thắng lợi, giành độc lập tự do cho đất
nước, giành chính quyền về tay nhân dân.
- Ngày 26/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Việt Bắc trở về Hà Nội, tại ngôi nhà số 48 Hàng
Ngang, Bác đã soạn thảo Tuyên ngôn độc lập, và ngày 02/9/1045, tại quảng trường Ba Đình Hà Nội,
Bác đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Đây cũng là lúc hoàn cảnh nước ta rất phức tạp, bọn thực dân đế quốc đang âm mưu xâu xé
nước ta, nấp sau danh nghĩa quân Đồng minh vào tước khi giới quân đội Nhật: Phía Bắc là quân đội
Quốc dân đảng, tay sai của đế quốc Mỹ đã trực sẵn ở biên giới để đổ bộ vào Việt Nam, tiến vào từ phía
Nam là quân đội Anh, phía sau là lính viễn chinh Pháp

Ngày 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng đã nhận định mâu thuẫn giữa Anh, Pháp, Mỹ và
Liên Xô có thể khiến Anh, Mỹ sẽ nhân nhượng để cho Pháp trở lại Việt Nam. Còn Pháp, để chuẩn bị
cho cuộc xâm lược lần thứ hai, chúng đã đưa ra một chiêu bài rất dễ đánh lừa công luận quốc tế: Pháp
có công khai hóa Đông Dương, đây vốn là đất bảo hộ của Pháp bị Nhật chiếm. Nay Nhật đã đầu hàng
Đồng minh, Pháp đương nhiên có quyền trở lại Đông Dương thay thế quân đội Nhật.
 Hoàn cảnh ra đời đã cho thấy đối tượng và mục đích của bản Tuyên ngôn độc lập. Đối tượng của
bản Tuyên ngôn không chỉ là “đồng bào cả nước” như trong lời mở đầu mà còn là các nước trên thế
giới, chủ yếu là phe Đồng minh, trong đó có Anh, Mỹ, đặc biệt là Pháp. Như vậy mục đích của bản
Tuyên ngôn không chỉ là tuyên bố độc lập dân tộc, nội dung bản tuyên ngôn còn có thể coi là một cuộc
tranh luận ngầm đối với những đối tượng ấy để bác bỏ luận điệu kẻ cướp của thực dân Pháp. Xác định
được đối tượng và mục đích hướng tới của bản Tuyên ngôn độc lập, người đọc sẽ hiểu sâu sắc hơn nội
dung tư tưởng, giọng điệu và cách lập luận của tác phẩm.
2. Nội dung chính (mục đích sáng tác):
- Khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam trên cơ sở chân lý lẽ phải không thể chối
cãi, xuất phát từ thực tế Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập và sự thật đã chiến đấu ngoan cường
để trở thành một nước tự do độc lập.
- Lên án, tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở Đông Dương, kết hợp với những cứ liệu hùng hồn
để phủ nhận quyền của thực dân Pháp với Việt Nam, bác bỏ luận điệu xảo trá, sai trái của chúng trước
dư luận quốc tế, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới với sự nghiệp chính nghĩa của
nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc.
- Khẳng định quyết tâm chiến đấu của nhân dân Việt Nam để giữ vững quyền tự do độc lập.
Phân tích nghệ thuật lập luận trong đoạn mở đầu của Tuyên ngôn độc lập
I/ Mở bài
- Hồ Chí Minh là tác gia lớn của Văn học Việt Nam. Di sản văn học của Người gồm nhiều thể
loại, trong đó văn chính luận giữ một vị trí đặc biệt quan trọng.
- Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện có giá trị cao về lịch sử và văn học, cũng đồng thời là một
mẫu mực về nghệ thuật lập luận trong văn chính luận.
- Đoạn mở đầu của tác phẩm đã thể hiện rõ nét và sinh động điều đó
II/ Thân bài
1. Trình tự lập luận

Mở đầu bản tuyên ngôn, tác giả Hồ Chí Minh đã trích dẫn những lời bất hủ về quyền con người
trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ để từ cơ sở đó, tác giả đã “suy rộng ra” quyền dân tộc.
Tiếp theo là lời trích dẫn từ tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1791 để chốt lại bằng
một khẳng định đanh thép: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
2. Hiệu quả lập luận của những lời trích dẫn
- Khi mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam bằng việc trích dẫn 2 bản tuyên ngôn của
Pháp và Mỹ, tác giả HCM đã tạo ra một vị thế ngang hàng giữa cuộc cách mạng tháng 8-1945 của Việt
Nam với những cuộc cách mạng vĩ đại khác của thế giới như cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của
Mỹ 1776, cuộc cách mạng tư sản của Pháp 1789… Hơn thế nữa, tác giả còn kín đáo thể hiện niềm tự
hào dân tộc khi cách mạng Việt Nam đã cùng một lúc thực hiện nhiệm vụ của cả 2 cuộc cách mạng kia:
đó là nhiệm vụ dân tộc như cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của Mỹ khi “đánh đổ các xiềng xích thực
dân hàng trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập” và nhiệm vụ dân chủ như cách mạng
tư sản Pháp khi “đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa”. Đây
cũng là cách làm sáng tỏ tính chất hợp quy luật của cách mạng Việt Nam trong xu thế chung của cách
mạng thế giới, cũng là cách để nâng cao vị thế, tầm vóc của đất nước Việt Nam trên trường quốc tế.
- Lấy phần trích dẫn này làm tiền đề triển khai các lập luận, lý lẽ trong bản tuyên ngôn độc lập
của Việt Nam, tác giả đã khiến cho những luận điểm đúng đắn trong 2 bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ
vốn được thế giới thừa nhận như những chân lý lớn của nhân loại đã trở thành cơ sở pháp lý vững
vàng, mang tầm vóc quốc tế cho lời tuyên bố độc lập của dân tộc Việt Nam.
- Việc trích dẫn cũng thể hiện một nghệ thuật lập luận vừa khéo léo, vừa sắc sảo, kiên quyết của
người viết.
+ Khéo léo vì thái độ trân trọng với những cuộc cách mạng vĩ đại của 2 quốc gia Pháp và
Mỹ khi đặt lời tuyên bố bất hủ của tổ tiên họ vào phần mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam.
Khéo léo còn vì hàm ý khẳng định: Việt Nam sẵn sàng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ và thành quả
cách mạng vĩ đại của nhân loại, Cách mạng tháng Tám năm 1945 không phải sản phẩm của chủ nghĩa
dân tộc hẹp hòi, nó xứng đáng được nhận sự đống tình ủng hộ của nhân loại tiến bộ trên thế giới.
+ Việc trích dẫn cũng tỏ ra kiên quyết sắc sảo khi cảnh cáo thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ: họ không thể phản bội lý tưởng cao quý của chính tổ tiên mình, không thể chà đạp lên lá cờ tự do -
bình đẳng - bác ái mà tổ tiên họ từng giương cao.
Lời khẳng định sau khi trích dẫn: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” là cách lập luận

“vừa khôn khéo, vừa kiên quyết” của HCM, là thủ pháp “lấy gậy ông đập lưng ông” rất mạnh mẽ, đích
đáng.
3. Hiệu quả của những lời luận bàn, mở rộng nâng cao:
- Sự “suy rộng ra” từ quyền con người tới quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng của các
dân tộc trên thế giới đã thể hiện tư duy lý luận sáng tạo của Đảng, của HCM, nhờ đó, lời tuyên bố độc
lập của Việt Nam trở thành chân lý của mọi thời đại. Đó cũng là đóng góp lớn về tư tưởng của Chủ tịch
HCM đối với phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới - 1 dòng thác cách mạng sẽ phát triển
mạnh mẽ vào nửa sau thế kỷ XX.
- Một nhà hoạt động cách mạng thế giới đã khẳng định: “Cống hiến nổi tiếng nhất của cụ HCM là
ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi dân tộc, như vậy, tất cả mọi dân tộc
đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình”.
III/ Kết luận:
Nghệ thuật lập luận trong đoạn mở đầu đã cho thấy Tuyên ngôn độc lập là một áng văn chính luận chặt
chẽ, lý lẽ đanh thép, văn phong trang trọng và trong sáng.
Giá trị lịch sử và giá trị văn học của Tuyên ngôn độc lập
1. Giá trị lịch sử
- Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử đúc kết nguyện vọng sâu sắc của dân tộc Việt Nam
về quyền độc lập, tự do, cũng là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh gần 100 năm của dân tộc ta để
có thể có được quyền thiêng liêng và chính đáng ấy.
- Bản Tuyên ngôn độc lập đã tuyên bố chấm dứt chế độc thực dân phong kiến ở Việt Nam,
khẳng định quyền tự chủ và vị thế bình đẳng cho dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế, mở ra một kỷ
nguyên mới cho dân tộc ta: kỷ nguyên độc lập, tự do, kỷ nguyên nhân dân làm chủ đất nước.
2. Giá trị văn học
- Tuyên ngôn độc lập là áng văn chương yêu nước lớn của thời đại cách mạng. Tác phẩm đã
khẳng định mạnh mẽ quyền độc lập của dân tộc Việt Nam, gắn độc lập dân tộc với quyền sống của con
người, nêu cao truyền thống yêu nước, truyền thống nhân đạo củ người Việt Nam, đó cũng là những
cảm hứng bao trùm trong lịch sử văn học Việt Nam.
- Tuyên ngôn độc lập là áng văn chính luận mẫu mực. Dung lượng tác phẩm ngắn gọn hàm súc;
kết cấu tác phẩm chặt chẽ, mạch lạc; lập luận đanh thép giàu sức thuyết phục; chứng cứ cụ thể xác
thực; ngôn ngữ chính xác gợi cảm, tác động mạnh mẽ vào cả nhận thức và tình cảm của người đọc,

người nghe.
Nghệ thuật lập luận sắc bén của tác giả HCM trong phần 2 của bản Tuyên ngôn độc lập nhằm bác bỏ
luận điệu kẻ cướp của thực dân Pháp, khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam
I/ Mở bài
- HCM là tác giả lớn văn học Việt Nam. Di sản văn học của Người gồm nhiều thể loại, trong đó
văn chính luận giữ một vị trí đặc biệt quan trọng.
- Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện có giá trị cao về lị sử và văn học cũng đồng thời là một
mẫu mực về nghệ thuật lập luận của văn chính luận
- Với nghệ thuật lý luận sắc bén, phần hai của bản Tuyên ngôn độc lập đã bác bỏ luận điệu kẻ
cướp của thực dân Pháp, khẳng định quyền độc lập tợ do của dân tộc Việt Nam
II/ Thân bài
1. Luận điệu - chiêu bài:
Để chuẩn bị cho cuộc xâm lược lần thứ hai, thực dân Pháp đã đưa ra một chiêu bài rất dễ đánh lừa
công luận quốc tế: Pháp có công “khai hóa” Đông dương, đây vốn là đất “bảo hộ” của Pháp bị Nhật
chiếm, nay Nhật đã đầu hàng Đồng minh, Pháp đương nhiên có quyền trở lại Đông Dương thay thế
quân đội Nhật.
2. Cuộc tranh luận ngầm:
Nội dung của bản Tuyên ngôn độc lập có thể coi như một cuộc tranh luận ngầm nhằm bác bỏ hoàn toàn
luận điệu xảo trá của thực dân Pháp
- Thực dân Pháp vừa lừa bịp thế giới bằng lá cờ “tự do - bình đẳng - bác ái” khi chúng “đến
cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta”. Bản Tuyên ngôn lần lượt đưa ra những bằng chứng cho thấy ở
Việt Nam không hề có tự do khi thực dân Pháp “tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ
nào”, khi “nhà tù nhiều hơn trường học”; không hề có bình đẳng khi thực dân Pháp “giữ độc quyền in
giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng”, khi “chúng không cho các nhà tư sản của ta ngóc đầu lên”; không có
bác ái khi thực dân Pháp “tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”, khi chúng “thẳng tay
chém giết những người yêu nước thương nòi của ta”.
- Thực dân Pháp kể công khai hóa Việt Nam, bản Tuyên ngôn kể tội chúng “thi hành chính sách
ngu dân… bóc lột dân ta tới xương tủy… đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý làm cho dân ta, nhất là dân cày
và dân buôn trở nên bần cùng”. Cùng với phát xít Nhật, thực dân Pháp cũng là thủ phạm gây ra nạn đói
khủng khiếp 1945 giết chết hơn 2 triệu đồng bào ta từ Bắc kỳ tới Quảng Trị.

- Thực dân Pháp kể công bảo hộ Việt Nam, bản Tuyên ngôn lên án chúng trong 5 năm đã “bán
nước ta hai lần cho Nhật”.
- Thực dân Pháp khẳng định Việt Nam là thuộc địa của chúng bị Nhật chiếm, nay Nhật đã đầu
hàng Đồng minh thì Pháp đương nhiên có quyền trở lại Đông Dương thay thế quân đội Nhật. Tuy nhiên,
bản tuyên ngôn đã chỉ rõ một cách hùng hồn, đanh thép: “Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã
thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa… Sự thật là dân ta đã lấy lại nước
Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”.
- Thực dân Pháp nhân danh Đồng minh tuyên bố Đồng minh tuyên bố đã thắng Nhật và chúng
có quyền lấy lại Đông dương, bản Tuyên ngôn chỉ rõ chúng là kẻ phản bội Đồng minh, đã hai lần dâng
Đông Dương cho Nhật. Trong khi đó Việt minh lãnh đạo nhân dân Việt Nam đứng lên đánh Nhật giải
phóng đất nước, Việt minh cũng nhiều lần kêu gọi Pháp liên minh đánh Nhật nhưng Pháp cũng không
hề đáp ứng, như vậy Pháp không đủ tư cách là một nước thuộc phe Đồng minh.
- Bản tuyên ngôn cũng lên án tội ác dã man và tư cách đê tiện của thực dân Pháp: hèn hạ quỳ
gối trước phát xít Nhật, khủng bố Việt minh, khi chạy trốn còn nhẫn tâm giết tù chính trị, trong khi đó,
Việt minh đã tỏ rõ lòng nhân đạo khi giúp quân Pháp chạy qua biên giới
 Tất cả những lý lẽ đanh thép, những bằng chứng hùng hồn trên đã bác bỏ hoàn toàn luận điệu của
thực dân Pháp và đưa ra một kết luận không ai có thể phủ nhận được: “Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do độc lập và thực sự đã thành một nước tự do, độc lập”.
VIỆT BẮC
- Tố Hữu -
A. KHÁI QUÁT:
1. Tác giả:
Tố Hữu là nhà thơ lớn của thi ca Việt Nam hiện đại. Các chặng đường thơ của Tố Hữu gần như song
hành với các giai đoạn đấu tranh cách mạng của đất nước khiến thơ ông mang tính biên niên sử với nội
dung trữ tình chính trị đậm nét
2. Tác phẩm:
2.1. Vị trí - giá trị:
- Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu, cũng là một trong những thành công xuất sắc của thơ ca
Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
- Việt Bắc được coi là khúc hùng ca và bản tình ca về cách mạng, cuộc kháng chiến và con

người kháng chiến. Bài thơ đã thể hiện những nét tiêu biểu nhất trong phong cách nghệ thuật thơ Tố
Hữu.
2.2. Hoàn cảnh sáng tác.
- Việt Bắc là căn cứ địa vững chắc của cách mạng Việt Nam từ đầu những năm cách mạng tới
khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp. Nơi đây người dân Việt Bắc che chở, đùm bọc và đã sát
cánh bên bộ đội, cán bộ để giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc.
- Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, tháng
10/1954, các cơ quan trung ương của Đảng và chính phủ từ biệt căn cứ địa Việt Bắc trở về Hà Nội. Một
loạt những vấn đề đặt ra trong đời sống tình cảm của dân tộc: liệu những người chiến sỹ có giữ được
tấm lòng thủy chung với đồng bào Việt Bắc và quê hương. Có nhớ những tháng ngày gian khổ, hào
hùng và sâu nặng nghĩa tình trong kháng chiến? Việt Bắc sẽ có vị trí như thế nào trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước thời kỳ mới?
- Nhân sự kiện thời sự có tính lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác Việt Bắc. Bài thơ gồm có 2 phần:
Phần đầu tái hiện hình ảnh của cách mạng và kháng chiến ở Việt Bắc, phần sau gợi ra viễn cảnh tươi
sáng của đất nước và ca ngợi công ơn của Đảng, của Bác Hồ đối với dân tộc. Qua đó, nhà thơ đã thể
hiện nghĩa tình thắm thiết với Việt Bắc - quê hương cách mạng, với đất nước và nhân dân, với cuộc
kháng chiến nay đã trở thành kỷ niệm khiến niềm vui trong hiện tại luôn gắn kết với nghĩa tình trong quá
khứ và niềm tin ở tương lai. Bài thơ là khúc hát tâm tình của con người Việt Nam trong kháng chiến mà
chiều sâu của nó là truyền thống ân nghĩa, là đạo lý thủy chung của dân tộc.
2.3. Cấu tứ chung của bài thơ:
- Bài thơ được đặt vào trong hoàn cảnh đặc biệt của một cuộc chia tay đầy nhớ thương lưu
luyến giữa những con người từng gắn bó lâu dài, từng chia sẻ mọi ngọt bùi cay đắng. Nay trong giờ
phút chia tay cùng nhau gợi lại những kỷ niệm đẹp đẽ trong quá khứ, khẳng định nghĩa tình bền chặt, sự
thủy chung và hẹn ước về tương lai.
- Nhưng đây lại là một cuộc chia tay rất đặc biệt vì người ra đi thưc chất lại là người trở về, cuối
chặng đường của người đi không phải là chân trời góc bể xa xôi mà là tổ ấm gia đình, là thủ đô hoa lệ,
là cuộc sống hòa bình…, và vì thế trong lòng người ở lại, ngoài nỗi nhớ thương còn là niềm trăn trở về
sự thủy chung của người đi.
- Hình ảnh này thường dùng để diễn tả những tình cảm riêng tư như tình bạn, tình yêu…, nay
thể hiện những nghĩa tình thiêng liêng lớn lao của cách mạng. Cách cấu tứ đặc biệt này khiến chuyện

nghĩa tình cách mạng, kháng chiến được diễn tả bằng ngôn ngữ và giọng điệu ngọt ngào của tình yêu,
đưa người đọc vào khoảnh khắc xúc động của ân tình lưu luyến, của hồi tưởng và hoài niệm, của tin
tưởng và ước vọng… Đây cũng là nét riêng đặc sắc trong phong cách thơ Tố Hữu.
- Với hai nhân vật trữ tình là người đi - kẻ ở, bài thơ được kết cấu theo hình thức đối đáp tựa
như những câu hát giao duyên trong ca dao xưa. Thực ra, bên trong lớp đối thoại của kết cấu là lời độc
thoại của tâm trạng: kẻ ở - người đi, câu hỏi lời đáp cũng chỉ là sự phân thân của chủ thể trữ tình, là thủ
pháp để nhà thơ bộc lộ nỗi niềm tâm trạng, tạo ra sự hô ứng, đồng vọng, vang ngân… Để thể hiện sự
phân thân ấy, bài thơ đã sử dụng sáng tạo và tinh tế hai đại từ “mình” và “ta”. Trong tiếng Việt, “mình” có
thể là đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất để chỉ bản thân người nói, cũng có thể là ngôi thứ hai để chỉ
những đối tượng giao tiếp thân yêu, gần gũi, thường hay xuất hiện trong các quan hệ tình yêu, vợ
chồng. Trong bài thơ Việt Bắc, “mình” lại chủ yếu được dùng ở ngôi thứ hai cho thấy sự gắn bó thân
thiết vô cùng giữa hai nhân vật đối đáp - “mình” có thể là người ra đi trong câu hỏi của người ở lại:
“Mình về có nhớ ta”, có khi là người ở lại trong những xao xuyến của người đi: “Ta về mình có nhớ ta”;
tuy nhiên “mình” cũng có lúc chuyển hóa đa nghĩa, vừa là người đi, vừa là người ở lại trong sự hòa
nhập, gắn kết: “mình đi mình có nhớ mình?”. Đại từ “ta” cũng được sử dụng rất linh hoạt, độc đáo chủ
yếu ở ngôi thứ nhất - người phát ngôn, nhưng nhiều khi lại dùng để chỉ chung người đi, kẻ ở với nghĩa
“chúng ta” như “rừng cây, núi đá, ta cùng đánh tây”…
B. TÌM HIỂU BÀI THƠ:
Bình giảng 24 câu đầu trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
I/ Mở bài:
- Tác giả, tác phẩm
- Đoạn thơ bình giảng nằm ở phần đầu bài thơ Việt Bắc, chủ yếu thể hiện nỗi niềm tâm trạng của
người ở lại trong sự thấu hiểu, đồng cảm, đồng vọng của người ra đi, qua đó khẳng định tình cảm son
sắt của người dân Việt Bắc với kháng chiến cũng như sự thủy chung của những người cán bộ kháng
chiến với Việt Bắc.
II/ Thân bài:
1. Bốn câu đầu: Là khúc dạo đầu ân tình thủy chung và niềm nhớ thương đầy trăn trở của người ở lại
với người ra đi
- Nội dung chủ yếu trong 2 cặp câu lục bát này là hai câu hỏi láy lại da diết:
“Mình về mình có nhớ ta

… Mình về mình có nhớ không?”
- “Mình” và “ta” là những đại từ nhân xưng quen thuộc trong ca dao xưa, là lối xưng hô bình dị,
thương mến vô cùng của tình yêu đôi lứa. Hai câu hỏi trong đoạn mở đầu đã gợi nhắc tới những câu ca
dao nói về cảnh chia tay bịn rịn, nhớ nhung của đôi lứa:
“Mình về mình nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”
Hoặc:
“Mình về ta dặn câu này

×