Tải bản đầy đủ (.ppt) (37 trang)

Tìm hiểu nhà văn nguyễn công trứ cao bá quát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.22 KB, 37 trang )

Cao Bá Qúat

Cao Bá Quát (1809
-1855) tự Chu Thần, sinh
tại Phú Thị, Gia Lâm, Hà
Nội, mất giữa trận tiền
Quốc Oai trong cuộc khởi
nghĩa chống triều đình
thời Tự Đức.Tự Đức tru
di ba họ Cao Bá Quát,
thu hồi tiêu hủy văn
chương ông.

Năm 1841 Cao Bá Quát được triệu vào kinh sung chức Hành tẩu bộ
Lễ, sau thăng chức Lang trung.

Cuối năm 1841, ông được cử đi làm sơ khảo ở Trường thi Hương
Thừa Thiên cùng với Tiến sĩ Phan Nhạ. Phát hiện thấy một số
quyển thi hay nhưng phạm húy, mến tài thương người, ông đã tìm
cách giúp đỡ, song việc bại lộ, cả hai đều bị bắt giam, kết vào tội
chết, nhưng vua Thiệu Trị giảm tội cho ông, chỉ cách chức và phát
phối vào Ðà Nẵng.

Gặp khi có sứ bộ Ðào Trí Phú sang Indonesia công cán, ông được
tha cho đi theo lập công chuộc tội, gọi là đi “dương trình hiệu lực”
(1843). Xong việc bị thải hồi về quê mấy năm, sau được vua Tự
Đức phục chức cũ, bổ vào Viện Hàn lâm một thời gian ngắn (1847),
thăng làm chủ sự để sưu tầm và xếp đặt văn thư.

Mặc dù làm việc ở Kinh nhưng do tính tình
cương trực Cao Bá Quát không được lòng quan


trên.

Năm 1850, ông bị đổi ra làm Giáo thụ ở phủ
Quốc Oai tỉnh Sơn Tây, năm sau ông xin từ
chức với cớ mẹ già.

Năm 1854, ông làm quân sư cho Lê Duy Cự nổi
dậy chống lại triều đình. Cuộc khởi nghĩa "châu
chấu" ở Mỹ Lương thất bại, ông bị bắt rồi cùng
với 2 con trai bị hành quyết năm 45 tuổi.
TÁC PHẨM

Tên tuổi của Cao Bá Quát lẫy lừng trong văn
học nước nhà từ rất sớm, đương thời đã được
gọi là "Thánh Quát". Ông kết bạn và giao du với
những danh sĩ Hà Nội và Huế như
Vũ Tông Phan, Nguyễn Văn Siêu,
Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Hàm Ninh, Miên Trinh,
Miên Thẩm

Ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị, trong đó có
bộ sách Cao Chu Thần thi tập, Cao Chu Thần di
cảo, Mẫn Hiên thi tập và những bài ca trù xuất
sắc, nổi bật là Tài Tử Đa Cùng Phú.

Đông Tác Tuần Phủ tịch thượng ẩm
“Cố nhân hữu tửu mạc trù tướng,
Chước chước nguyện quân ẩm vô
lượng.
Quân bất kiến

hồng hộc cao phi thanh vân thượng,
Huyền hạc độc túc thanh sơn bạng.
Hoàng điểu hoàng điểu qui thực
trường,
Do lai bất cảm lưỡng tương kháng.
Cố nhân nỗ lực sự công danh,
Tản nhân qui khứ ngọa giang thành.
Tương khan bôi tửu tối phân minh.”

Dịch Thơ:

Trên chiếu rượu ở nhà ông Tuần
Phủ Đông Tác
“Chủ sẵn rượu xin đừng ngần ngại!
Hãy rót đi, rót mãi, uống đi anh!
Chẳng thấy ru?
Hồng hộc bay cao tít tận mây xanh,
Hạc đen ngủ một mình trên đỉnh núi.
Lũ hoàng điểu kiếm ăn sớm tối,
Từ xưa nay ai chống đối chi ai?
Cố nhân mải miết việc đời,
Nhàn nhân về khểnh ở nơi giang
thành.
Chén khuyên tình đã tỏ tình.”

Sống xa nhà có lần nhận được tấm áo bông của vợ gửi
cho, ông cảm động trước tình yêu thương của vợ, trong
từng mũi chỉ đường kim:
“Một phong thư đọc dưới ánh đèn, muôn hàng lệ chảy,
Đêm nay mảnh hồn tàn trở về quanh quẩn chốn buồng

thuê”
Ông thương vợ, sống trong cảnh nghèo khổ và tưởng
tượng lúc trở về bước qua cửa vào nhà, có lẽ chính là
lúc vợ đi giã gạo thuê cho hàng xóm.

Cao Bá Quát có một tấm lòng yêu quý đặc biệt đối với quê hương.
Cao quan tâm tới cảnh ngộ của nhân dân, nhất là của những người
thiếu thốn, đói rét người đi ở bị đòn, người hàng xóm mất con.
Cao Bá Quát say mê những cảnh đẹp của đất nước, có thể nói hầu
hết những danh lam thắng cảnh của miền Bắc và miền Trung ông
đã tới thăm và đều có thơ ngâm vịnh. Đối với ông, thiên nhiên là
niềm tự hào của đất nước. Qua Ninh Bình ông mải mê nhìn:
“Sông tựa giải là cô gái đẹp,
Núi như chén ốc khách làng say ”

Nguy cơ ngoại xâm đã từ lâu đe dọa đất nước.
Chính trong thời kỳ Cao Bá Quát ở bộ Lễ, một
tầu Pháp đã đến Trà Sơn, còn tàu Anh thì lăm le
ngoài biển. Cao không thể không lo lắng cho Tổ
quốc mình. Có đêm gió to, sóng dữ ngoài cửa
Thuận An, nằm không ngủ ông tưởng đến hùng
khí của Chu Du từ ngàn thu trước như vẫn còn
hừng hực bốc lên, muốn đánh tan những chiếc
tầu đang lăm le ngoài cửa biển!

Đây là bước ngoặt lớn nhất trong đời Cao Bá Quát.

Cao đã từ ngục thất này đến ngục thất khác bị tra tấn và
chịu những nhục hình man rợ nhất, sống những ngày
buồn bực đau khổ, uất ức, căm thù. Nhưng ở Cao

những ngày trong tù là những ngày sống mãnh liệt. Sức
mạnh tinh thần đó vẫn tràn ngập trong những bài thơ
làm trong lúc đó.
Cao tự nhủ mình:
“Phải đem chí bên trong gìn giữ khí bên ngoài.
Không để cho những lo nghĩ nhỏ nhen kích thích.”
Giữa năm 1853 (Tự Đức năm thứ 7), ông xin thôi dạy học, lấy cớ về nuôi mẹ già
Cao Bá Quát đứng lên tụ tập nhân dân, bí mật chuẩn bị một cuộc khởi nghĩa tại Hà
Nội. Cao đã bị một số phần tử phản bội đi tố giác. Tự Đức sai Nguyễn Quốc Hoan
và Lâm Duy Thiết tìm mọi cách bắt cho được Cao.

Tư tưởng độc lập của Cao Bá Quát khác
cái chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ.
Ông Trứ lập nghiệp là để giúp vua, để chu
toàn nghĩa quân thần; còn ông Quát mang
cả cái mộng thay đổi thời cuộc và chuyển
vần số mệnh Về mặt nghệ thuật, sở
trường của ông là thể phú
[20]
và thể ca trù.
Hai thể này, với ông đã vươn tới một trình
độ nghệ thuật tuyệt vời.
Nguyễn Công Trứ

Tiểu sử

Nguyễn Công Trứ con quan
Đức Ngạn hầu
Nguyễn Công Tấn, quê ở làng

Uy Viễn, nay là xã Xuân Giang
huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh
. Ngay từ thuở còn hàn vi ông
đã nuôi lý tưởng giúp đời, lập
công danh, sự nghiệp:
«Làm trai đứng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.»

Năm 1820 khi đã 42 tuổi, ông mới đỗ Giải nguyên ở
trường thi hương trấn Nghệ An. Từ đây bắt đầu thời kỳ
làm quan đầy sóng gió của ông. Ông hoạt động trong
nhiều lĩnh vực từ quân sự, kinh tế tới thi ca.

Cuộc đời ông là những thăng trầm trong sự nghiệp. Ông
được thăng thưởng quan tước nhiều lần vì những thành
tích, chiến công trong quân sự và kinh tế, tới chức
thượng thư, tổng đốc; nhưng cũng nhiều lần bị giáng
phạt, nhiều lần giáng liền ba bốn cấp như năm 1841 bị
kết án trảm giam hậu rồi lại được tha, năm 1843 còn bị
cách tuột làm lính thú,…

Năm Tự Đức thứ nhất 1847 ông nghỉ hưu
với chức vụ Phủ doãn tỉnh Thừa Thiên.
Ông đúng là một vị quan văn - võ song
toàn đã đóng góp nhiều công lao cho đất
nước.

Sự nghiệp

Quân sự


Do chính sách hà khắc của nhà Nguyễn dưới triều đại
Gia Long và Minh Mạng nên đã xảy ra liên tiếp nhiều
cuộc khởi nghĩa nông dân.

Nguyễn Công Trứ tuy là quan văn nhưng phải cầm
quân, làm tướng, đánh đâu thắng đó: 1827 dẹp
Khởi nghĩa Phan Bá Vành, 1833 dẹp
Khởi nghĩa Nông Văn Vân, 1835 dẹp giặc Khách. Đến
đời vua Tự Đức thứ 11 (1858), khi thực dân Pháp tấn
công Đà Nẵng, thì ông đã 80 tuổi nhưng vẫn xin vua cho
đi đánh giặc.

Kinh tế
Ông có sáng kiến chiêu mộ dân nghèo, đắp đê lấn biển,
lập ấp, khai sinh các huyện Kim Sơn (thuộc tỉnh Ninh
Bình ngày nay), Tiền Hải (thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay)
vào những năm cuối thập niên 1820, đề xuất lập nhà học,
xã thương ở nông thôn nhằm nâng cao dân trí và lưu
thông hàng hóa

Thơ ca

Nguyễn Công Trứ là
người có tài. Là một
người của hành động, trải
qua nhiều thăng trầm,
Nguyễn Công Trứ hiểu
sâu sắc nhân tình thế thái
đương thời. Ông khinh bỉ

và ngán ngẩm nó.
«Thế thái nhân tình gớm
chết thay
Lạt nồng coi chiếc túi vơi
đầy»

Hay:
Tiền tài hai chữ son khuyên ngược
Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi

Hoặc:
Ra trường danh lợi vinh liền nhục
Vào cuộc trần ai khóc trước cười.

Trong xử thế ông cười nhạo sự thăng giáng, coi làm
quan thì cũng như thằng leo dây và không giấu sự ngạo
mạn:
Nào nào! Thằng nào sợ thằng nào
Đã sa xuống thấp lại lên cao.

Chán chường với chốn quan trường nhưng ông không
chán đời. Ông vốn yêu đời, là người chịu chơi, với ông
cái gì cũng có thể đem chơi kể cả tài kinh bang tế thế.
Trời đất cho ta một cái tài
Giắt lưng dành để tháng ngày chơi.

Nguyễn Công Trứ là người đào hoa, mê hát ả đào, ông viết nhiều
bài ca trù đa tình. Ngất ngưởng, ngông nghênh, về hưu đi chơi ông
không dùng ngựa mà dùng bò. Bảy mươi ba tuổi ông cưới vợ, trả
lời cô dâu khi nàng hỏi tuổi:

Năm mươi năm trước, anh hai ba
(Ngũ thập niên tiền, nhị thập tam)

Hoặc trong bài "Bỡn nhân tình" :
Tau ở nhà tau, tau nhớ mi
Nhớ mi nên phải bước chân đi
Không đi mi nói: răng không đến?
Đến thì mi nói: đến làm chi

Ngay lúc chua chát nhìn lại đời mình, ông
vẫn là người đầy khí phách:
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Giữa trời vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét thì trèo với thông

Cuộc đời Nguyễn Công Trứ là cuộc đời
của một người say mê hoạt động. Lúc nào
trong tâm khảm nhà thơ cũng hằn lên một
câu hỏi lớn:
“Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông”.

Năm 1803, khi còn là thư sinh, Nguyễn Công Trứ đã dâng lên nhà
vua Gia Long bản “ Thái Bình thập sách”, một cương lĩnh trị nước:
“Giữ lòng trung ái,
Chăm đạo dâu con,
Mở mang học hành,
Chuyên cần nghề nghiệp,
Phát triển nông trang,

Trừ bỏ dị đoan,
Sửa đổi phong tục,
Thanh thải tham tàn,
Tiến cử tài đức,
Giữ nghiêm luật lệ”.

Nguyễn Công Trứ là nhà thơ có một vị trí đáng
kể trong văn học Việt Nam. Thơ văn của ông
mang màu sắc thời đại rõ rệt. Nhìn tổng quát thơ
văn Nguyễn Công Trứ tập trung vào ba chủ đề
chính:

Những bài thơ xoay quanh chí nam nhi.

Những bài thơ xoay quanh cảnh nghèo và thế
thái nhân tình.

Những bài thơ xoay quanh triết lý hưởng lạc.

×