Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Thành tựu về khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật của Trung Quốc và Ấn Độ thời kì cổ trung đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.81 KB, 20 trang )

NHÓM 3
Bộ giáo dục và đào tạo Ngày 08 tháng 09 năm 2010
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội
BỘ MÔN
LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
BÀI TẬP NHÓM
NHÓM 3
1. Hoàng Ngọc Cảnh
2. Nguyễn Quỳnh Chi
3. Nguyễn Thị Thái Hà
4. Nguyễn Đình Nghiệp
5. Lã Bích Ngọc
6. Trần Thị Mai
7. Lê Thị Thanh Thanh
8. Trần Thị Thơm
9. Nguyễn Thu Trang
10. Lê Anh Tú
1
NHÓM 3
ĐỀ BÀI: Thành tựu về khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật của Trung
Quốc và Ấn Độ thời kì cổ - trung đại
BÀI LÀM
NỀN VĂN MINH ẤN ĐỘ CỔ TRUNG ĐẠI
Ấn Độ là một bán đảo hình tam giác, nằm ở phía Nam châu Á, nhưng hầu
như ngăn cách với châu lục này bởi dải núi cao nhất thế giới, Himalaya nên
còn được gọi là một « tiểu lục địa »
Ấn Độ được chia thành 3 miền : miền núi Himalaya nằm ở phía Bắc như
một bức tường thành che chắn cho Ấn Độ. Nơi đây còn là dãy núi linh
thiêng, dãy núi định mệnh của người Ấn Độ. Vùng đồng bằng Ấn – Hằng,
do hai con sông Ấn và sông Hằng bồi đắp phù sa tạo ra. Chính ở lưu vực hai
con sông này đã hình thành nhà nước Ấn Độ. Vùng cao nguyên Đecan, nằm


ở phía Nam Ấn Độ, chia Ấn Độ ra làm hai phần rõ rêt nhờ dãy núi Vindia.
Phía nam dãy Vindia là vùng đồng bằng Đecan không được trù phú, màu
mỡ ; phía Đông Đecan là núi Đông Gat, phía Tây Đecan là núi Tây Gat , là
mảnh đất cổ xưa nhất của Ấn Độ.
I. GIẢN LƯỢC VỀ LỊCH SỬ ẤN ĐỘ CỔ TRUNG ĐẠI:
Ấn Độ có một nền văn minh lớn và lâu đời, nên nguồn tài liệu cũng như quá
trình thành tựu nghiên cứu hết sức phong phú và đa dạng, không thể tóm gọn
trong mấy trang sách một cách đầy đủ những thành tựu đó, mà chỉ có thể là
mấy nét lớn. Trong phạm vi giới hạn cho phép, chúng tôi chỉ xin trình bày
những thành tựu của Ấn Độ về mặt khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật.
Tuy nhiên, trước khi đi tìm hiểu thành tựu văn minh Ấn Độ, chúng ta nên
tìm hiểu về lịch sử Ấn Độ cổ trung đại.
Thời kì văn minh lưu vực sông Ấn (đầu TNK III đến giữa TNK II
TCN) : Từ khoảng đầu TNK III TCN, nhà nước Ấn Độ đã ra đời.
Thời kì Veda (giữa TNK II đến giữa TNK I TCN) : thời kì này, lịch sử
Ấn Độ phản ánh các tập Veda nên gọi là thời Veda. Veda vốn là những tác
phẩm văn học có 4 tập : Rich Veda, Xâm Veda, Atacva Veda và Yagiva
2
NHÓM 3
Veda. Chủ nhân của thời kì Veda là người Arya (Người cao quý) mới di cư
từ Trung Á và Ấn Độ. Địa bàn sinh sống của họ trong thời kì này chủ yesu
là vùng lưu vực sông Hằng. Trong giai đoạn đầu của thời Veda, người Arya
đang sống trong giai đoạn tan rã của chế độ nguyên thủy đến khoảng cuối
TNK II TCN, họ mới tiến vào xã hội có nhà nước. Chính trong thời kì này,
Ấn Độ đã xuất hiện hai vấn đề có ảnh hưởng rất quan trọng và lâu dài trong
xã hội nước này : đó là chế độ đẳng cấp varna và đạo Balamon
1. Ấn Độ từ TK VI TCN đến TK XII :
- Sự hình thành các quốc gia ở miền Bắc Ấn Độ và sự xâm
lược của Alexandre Makedonia : Bắt đầu từ TK VI TCN, Ấn
Độ mới có sử sách ghi chép về tình hình chính sự ở đất nước

mình. Lúc bấy giờ, ở miền Bắc Ấn Độ có 16 nước, trong đó
mạnh nhất là người Magada hạ lưu sông Hằng. Năm 327
TCN, sau khi tiêu diệt Ba Tư, quân đội Makedonia do
Alexandre chỉ huy đã tấn công Ấn Độ, tiến đến tấn công
Magada, nhưng cuộc chiến trường kì khiến quân đội
Makedonia phải rút lui, để lại một lực lượng chiếm đóng ở
hai cứ điểm đã chiếm được
- Vương triều Morya (321 – 187 TCN) : ngay sau khi quan
của Alexandre lui binh, nhân dân Ấn Độ đã dấy lên phong
trào đấu tranh chống lại sự chiếm đóng của quan
Makedonia. Thủ lĩnh phong trào này là Sandragupta, biệt
hiệu là Morya (chim công). Quân Makedonia bị đuổi khỏi
Ấn Độ, Morya làm chủ cả vùng Pungiap, tiến quân về phía
Đông, giành được ngôi vui ở Magada, lập nên vương triều
Morya – triều đại huy hoàng nhất trong lịch sử Ấn Độ cổ đại
- Nước Cusan : trong khi Ấn Độ đang bị chia cắt nặng nề (TK
I), tộc Cusan từ Trung Á tràn vào chiếm miền Tây Bắc Ấn
Độ, lập thành một nước tương đối lớn. Vua Canixca của
Cusan rất sùng đạo Phật, nên thời kì này, đạo Phật rất phát
triển ở Ấn Độ. Sau khi Canixca chết, nước Cusan suy yếu
đến TK V thì diệt vong
- Vương triều Gupta và vương triều Hacsa : Trong TK III, Ấn
Độ lại bị chia cắt trầm trọng. Năm 320, vương triều Gupta
thành lập, đến năm 535, vương triều này diệt vong. Năm
606, vua Hacsa lại dựng lên một vương triều tương đối hùng
mạnh ở miền Bắc Ấn Độ. Chính trong thời kì này, nhà sư
3
NHÓM 3
Huyền Trang ở Trung Quốc đã sang Ấn Độ tìm kinh phật.
Năm 648, Hacsa chết, quốc gia này cũng tan rã.

- Từ đó cho đến TK XII, Ấn Độ bị chia cắt càng trầm trọng
hơn và nhiều lần bị ngoại tộc xâm lược, đặc biệt là sự xâm
lược của vương triều Hồi Giáo ở Apganixtan từ đầu TK XI.
2. Ấn Độ từ TK XIII đến TK XIX :
- Thời kì Xuntan Deli (1206 – 1526) : năm 1206, tổng đốc của
Apganixtan đã tách miền Bắc Ấn Độ thành một nước riêng,
tự lập mình thành vua (Xutan), đóng đô ở Deli, gọi là nước
Xutan Deli (Vương triều Hồi giáo Deli)
- Thời kì Mogon (1526 – 1857) : nước Mông Cổ do Thành
Cát Tư Hãn thành lập năm 1206. Sau khi Thành Cát Tư Hãn
chết (1227) đế quốc Mông Cổ chia thành nhiều nước, dòng
dõi của người Mông Cổ ở Trung Á đều Tuốc hóa và theo
đạo Hồi. Từ TK XIII, người Mông Cổ ở Trung Á nhiều lần
tấn công Ấn Độ. Năm 1526, họ chiếm được Deli, thành lập
vương triều Mogon, đến năm 1857, thì vương triều này bị
diệt vong
II. THÀNH TỰU VỀ KHOA HỌC TỰ NHIÊN CỦA ẤN ĐỘ
CỔ - TRUNG ĐẠI :
Ấn Độ là một trong những nền văn minh rực rỡ ở phương Đông nói riêng
và là một trong những đỉnh cao của văn minh nhân loại nói chung.Nền văn
minh Ấn Độ nảy nở từ rất sớm với những thành tựu hết sức quý giá, trong
đó có những thành tựu về khoa học tự nhiên mà chủ yếu là các thành tựu
trên các lĩnh vực: thiên văn-lịch pháp, toán học, vật lí, y dược học.
1. Về thiên văn và lịch pháp :
Về thiên văn và lịch pháp, Ần Độ là quê hương của các tôn giáo và tôn
giáo đã chi phối rất lớn đến tư tưởng, hành động của người dân Ấn Độ. Họ
tin vào các vị thần linh, tin vào trời, họ thờ phụng các vì tinh tú nên đã quan
sát bầu trời, quan sát các vì sao để cúng tế… Từ đó dần dần họ có các kiến
thức về thiên văn. Như vậy “thiên văn là đứa con ngẫu nhiên của môn chiêm
tinh” (Will Durant - Lịch sử văn minh Ấn Độ).

Các nhà thiên văn Ấn Độ cổ đại đã biết quả đất và mặt trăng đều hình cầu,
biết được quỹ đạo của mặt trăng và tính được các kỳ trăng tròn, trăng
4
NHÓM 3
khuyết. Họ tính được trực kính của mặt trăng, các ngày nhật thực, nguyệt
thực,vị trí của các lưỡng cực. Họ biết được năm hành tinh: Thuỷ, Hoả, Mộc,
Kim, Thổ. Họ còn biết được một số chòm sao và sự vận hành của một số vì
sao chính. Về sau, Aryabhata (thế kỷ V) có giảng về nhật thực, nguyệt thực,
hạ chí, đông chí, xuân phân, thu phân. Ông còn biết được Trái Đất tự quay
quanh trục: “Thiên cầu đứng yên vì quả đất quay chung quanh trục của nó
nên ta thấy các tinh tú mọc mỗi ngày mỗi đêm”. Điều đó cho thấy người Ấn
Độ khá hiểu biết về thiên văn và ngày càng phát triển.
Tác phẩm thiên văn cổ nhất của Ấn Độ được biết đến ngày nay là quyển
Siddhantas ( khoảng 425 TCN).
Trên cơ sở hiểu biết về thiên văn, người Ấn Độ cũng đã sớm đặt ra lịch.
Họ chia một năm thành mười hai tháng, mỗi tháng ba mươi ngày, mỗi ngày
ba mươi giờ. Cứ năm năm thì có một tháng nhuận. Lịch có vai trò rất quan
trọng trong đời sống của người dân Ấn Độ, nhất là trong sản xuất nông
nghiệp.
2. Về toán học :
Về toán học, Ấn Độ cũng có nhiều phát minh về toán học tương đối toàn
diện.
Về số học: thành tựu nổi bật của họ là phát minh ra hệ thống các con số
gồm mười chữ số (các con síp-chiffre). Trong đó phát minh vĩ đại nhất là số
0. Nhờ nó mà người ta biểu thị được tất cả các số lượng. Tuy nhiên, nhười ta
thường lầm lẫn và quen gọi các con số này là số Ả rập vì người ta tìm thấy
chúng đầu tiên ở các tài liệu của người Ả rập. Nhưng thực tế, các con số đó
đã được khắc trên phiến đá của Asoka sớm hơn nhiều (256 TCN) và người
ta đã thừa nhận phát minh ra số 0 là thành tựu của người Ấn Độ.
Đánh giá về thành tự vĩ đại này, nhà bác họ Pháp Laplace (1749-1827) viết:

« Chính nhờ Ấn Độ mà chúng ta biết được phương pháp tài tình chỉ dùng
mười chữ số mà viết đủ các số, mỗi chữ số vừa có một giá trị tuyệt đối vừa
có một giá trị số tuỳ theo vị trí của nó. Ý đó tế nhị mà quan trọng, ngày nay
chúng ta cho là đơn giản quá nên không thấy được công lao của người Ấn
Độ. Mà chính nhờ nó đơn giản mà làm toán hoá ra hết sức dễ dàng và hệ
thống số học đáng được kể là sang kiến ích lợi nhất. Nếu có nghĩ rằng hai vị
thiên tài bậc nhất thời cổ đại là Achimede và Apollonius mà cũng không tìm
ra được hệ thống đó thì mới nhận định nổi sang kiến của người Ấn Độ tài
tình đến như thế nào ».
5
NHÓM 3
Về đại số: người Ấn Độ đã có ý niệm về số âm, đặt ra các quy tắc về
hoán vị, tổ hợp, tính được căn bậc hai của số 2, họ còn sáng tạo nên các bài
toán đố đại số rất hay…
Về hình học, người Ấn Độ tính được số pi (π = 3,1416), tính được diện
tích hình vuông, hình chữ nhật, tam giác, đa giác; biết được mối quan hệ các
cạnh của tam giác vuông…
3. Về vật lý :
Về Vật lí, bên cạnh các thành tựu về thiên văn và toán học, người Ấn Độ
còn đạt được một số thành tựu rất quý giá trên lĩnh vực vật lí học.
Các nhà khoa học kiêm triết học Ấn Độ đã sớm nêu ra thuyết nguyên tử.
Kanada, ngưới sáng lập triết lí vaisheshika cho rằng vạn vật do các nguyên
tử tạo nên, mỗi hành (như ngũ hành của Trung Hoa: nước, lửa, đất…) có
một thứ nguyên tử khác nhau, tạo nên sự khác nhau của vật chất. Còn các
nhà triết học đạo Jain cho rằng nguyên tử nào cũng như nhau, chỉ có cách tổ
hợp là khác nhau nên tác động khác nhau.
Người Ấn Độ cũng sớm có hiểu biết về quang, nhiệt học: Kanada cho rằng
ánh sáng và nhiệt là một biến thể của một bản thể. Udayana thì cho rằng mọi
sức nóng đều do Mặt trời phát ra. Vachaspati lại cho rằng ánh sáng gồm
những phần tử li ti từ các vật phát ra và đập vào mắt ta. Đây là một sự hiểu

biết rất tiến bộ, giống với ngày nay.
Người Ấn Độ còn sớm có ý niệm về sóng cơ học (các dao động cơ học của
sợi dây đàn): Trong các sách âm nhạc cổ của người Ấn Độ có ghi họ có đo
các sợi dây đàn từ chỗ cột đến chỗ có phím đàn và đã nhận thấy dây càng
ngắn thì số rung càng nhiều và nốt nhạc càng cao.
Ngoài ra người Ấn Độ còn biết xác định phương hướng bằng la bàn. Họ còn
biết được thuyết trọng lực: trong sách Siddhantas có ghi: « Quả đất, do trọng
lực của nó, hút tất cả mọi vật về nó ».
4. Về Y dược học :
Về y dược học, Người Ấn Độ cũng đã sớm hiểu biết và có nhiều phát
minh về y dược học. Từ thế kỉ VI TCN, các y sĩ Ấn Độ đã mô tả các dây
gân, cách chắp xương sọ, thần kinh tùng, cân mạc, chi võng, màng hoạt
dịch… Họ hiểu kỹ bộ tiêu hoá, các dịch vị, hiểu thức ăn biến hoá ở bao tử,
rồi biến thành dưỡng trấp ra sao, rồi dưỡng trấp hấp thụ vào máu như thế
nào.
Họ có nhiều cách xem bệnh và chữa bệnh rất phong phú. Đặc biệt đã biết
xem bệnh bằng nước tiểu. Họ có nhiều cách trị bệnh khác nhau: có cách trị
6
NHÓM 3
bệnh rất lạ lùng như nhịn ăn bảy ngày, có khi chưa đến ngày thứ bảy thì
bệnh đã hết. Nếu sau bảy ngày mà chưa hết thì họ mới cho bệnh nhân dùng
thuốc, nhưng rất ít. Họ trông cậy vào cách nhịn ăn, tắm rửa, tẩy, xông, chích
máu bằng đỉa hoặc bấu giác hơn là trông vào thuốc. Người Ấn Độ cũng đã
biết về vi trùng gây bệnh, chữa bệnh bằng thôi miên. Người Ấn Độ rất giỏi
về giải độc rắn cắn.
Cuốn sách thuốc cổ nhất của Ấn Độ ngày nay còn giữ được là kinh Atharna-
Veda, có nhiều đoạn kể về các bệnh và triệu chứng của mỗi bệnh.
Các nhà y học nổi tiếng của Ấn Độ thời đó là Sushruta và Charaka. Sushruta
sống vào khoảng thế kỷ V TCN, ông dạy y khoa ở Benares. Ông có viết sách
về chẩn bệnh và trị liệu bằng tiếng Phạn. Trong sách ông mô tả kỹ về các

môn giải phẫu, sản khoa, kiêng cử, tắm gội, dược phẩm, cách nuôi trẻ và vệ
sinh cho trẻ. Ông miêu tả nhiều về phép giải phẫu như cắt mày mắt, trị sán
khí, mổ bàng quang lấy sạn, mổ bụng lấy thai… Ông còn kể ra 121 đồ dùng
giải phẫu. Mặc dù gặp sự cản trở của những người theo đạo Balamon nhưng
ông vẫn kiên quyết theo con đường giải phẫu vì ông cho rằng đó là con
đường để y học phát triển. Sushruta đã chỉ rõ cách giải phẫu ra sao và
khuyên xông khói để trừ độc-cách đầu tiên mà nhân loại dùng để phòng hủ
trong môn giải phẫu. Ông còn nêu ra 1120 loại bệnh và chỉ ra cách chẩn
bệnh là: vọng, văn, vãn, thiết.
Như vậy,”Người Ấn Độ thời xưa đã biết hầu hết các thuật đại giải phẫu ngày
nay, trừ thuật nối lại động mạch. Họ cắt tay, chân, mổ bụng, nắn lại các chỗ
gãy xương, cắt trĩ”. Song song với thuật giải phẫu, người Ấn Độ còn chế tạo
được thuốc tê.
Còn Charaka đã soạn ra sách Samhita (tự điển y khoa), hiện nay vẫn còn giá
trị. Trong sách đó, ông định rõ thiên chức của người y sĩ: “Trị bệnh thì đừng
nghĩ tới mình, đừng vì lợi mà chỉ nên nghĩ đến nhiệm vụ cứu nhân độ thế
thôi”. Điều đó cho thấy người Ấn Độ đã có ý thức trách nhiệm về nghề thầy
thuốc, sớm quan tâm đến y đức. Quyển sách này đã được dịch ra tiếng Ả rập
và nhiều thứ tiếng khác.
Trên đây là một số thành tựu tiêu biểu trên một số lĩnh vực chủ yếu của
khoa học tự nhiên của văn minh Ấn Độ. Ngoài ra, họ còn đạt được nhiều
thành tựu về hoá học, sinh học… Về hoá học, người Ấn Độ nổi tiếng về nấu
sắt, kỹ nghệ: nhuộm, thuộc da, chế tạo xà phòng, thuỷ tinh, xi măng… Về
sinh học, họ sớm hiểu biết về tinh trùng.Atreya (khoảng 500 TCN) cho rằng
tinh trùng của người cha thoát khỏi cơ thể người cha, độc lập và tuy nhỏ tí
7
NHÓM 3
mà chứa đủ cơ thể của người cha rồi. Người Ấn Độ cũng khuyên hạn chế
sinh dục bằng những phương pháp hợp lí. Họ cũng nêu được sự phát triển
của thai nhi một cách chính xác, thậm chí có khi đoán được trai hay gái…

Tóm lại, nền văn minh Ấn Độ đã đạt được những thành tựu khoa học
tự nhiên hết sức rực rỡ, đa dạng trên các lĩnh vực.Các thành tựu trên
nhiều mặt của khoa học tự nhiên đã góp phần làm nên nền văn minh Ấn
Độ, đưa văn minh Ấn Độ lên đỉnh cao của văn minh nhân loại.
NỀN VĂN MINH TRUNG QUỐC CỔ TRUNG
ĐẠI
Trung Quốc ở về phía Đông Châu Á, bên ven bờ Tây Thái Bình Dương;
phía Đông giáp Triều Tiên; phía Bắc và Đông Bắc giáp Mông Cổ, Nga; phía
Tây Bắc giáp Cazactan, Kecghidia, Tatgikitxtan; phía Tây và Tây Nam giáp
Apghanixtan, Pakixtan, Ấn Độm Nepan, Sikkim, Butan; phía Nam giáp
Mianma, Lào, Việt Nam; phía Đông và Đông Nam Trung Quốc là biển.
Trung Quốc là một trong bốn trung tâm văn minh lớn của phương
Đông cổ đại. Cũng như ba trung tâm khác (Ai Cập, Ấn Độ, Hy Lạp – La
Mã), ở đây có hai dòng song lớn chảy qua là song Hoàng Hà ở phía Bắc và
song Dương Tử ở phía Nam.
- Hoàng Hà bắt nguồn từ vùng núi cao tỉnh Thanh Hải (miền Tây Bắc
Trung Quốc), dài 5.400km, chảy qua 9 tỉnh, tạo thành một lưu vực rộng đến
752.000km2; bao gồm nhiều vùng ruộng đất phì nhiêu, đồng cỏ bao la
Hoàng Hà từ xưa thương gây ra lũ lụt, nhưng do đó đã bồi đắp cho đất
đai thêm màu mỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp khi
công cụ sản xuất còn tương đối thô sơ. Chính vì vậy, nơi đây đã trở thành cái
nôi của nên văn minh Trung Quốc.
- Dương Tử (Trường Giang) dài 6.300km, cũng bắt nguồn từ vùng núi
thuộc tỉnh Thanh Hải, từ đó chảy qua 10 tỉnh, thành, khu vực rồi đổ vào biển
Đông. Lưu vực S. Dương Tử chiếm 1/5 diện tích toàn quốc, cũng là cái nôi
của nên văn mình Trung Hoa
Lịch sử cổ đại Trung Quốc kéo dài gần 2000 năm: từ khoẳng TK XXI
TCN đến năm 221 TCN. Trong quá trình đó, địa bàn của Trung Quốc từ lưu
vực Hoàng Hà đã dần dần được mở rộng.
8

NHÓM 3
Là một quốc gia rộng lớn nên khí hậu các nơi của Trung Quốc cổ đại
không giống nhau: miền Tây đất cao, nhiều núi, khí hậu khô hanh; miền
đông thấp hơn, lại gần biển nên khí hậu tương đối ôn hòa.
I. GIẢN LƯỢC LỊCH SỬ TRUNG QUỐC QUA CÁC
TRIỀU ĐẠI
1. Nhà Hạ (TK XXI – XVI TCN)
2. Nhà Thương (TK XVI – XI TCN)
3. Nhà Chu (TK XI – năm 221 TCN)
Theo sử sách cũ, mỗi triều đại trong Tam Đại đều được sáng lập
bởi một nhân vật kỳ tài hoặc đấng minh quân hiền đức, nhưng rốt
cục cả ba triều đại đều tan rã bởi những hôn quân ám chúa, hoang
dâm tàn bạo, đam mê tửu sắc. Ngoài ra, sự suy vi và đi tới diệt
vong của cả ba triều đại đều gắn với vai trò thúc đẩy của những
nhân vật phụ nữ: Nhà Hạ thì có bạo chúa Kiệt và nàng Muội Hỷ;
nhà Thương thì có Trụ Vương và nàng Đát Kỷ; nhà Chu thì có Lệ
Vương (vua tàn bạo), U Vương (vua tăm tối) và nàng Bao Tự, Sự
thật đó chẳng qua là cái nhìn lệch lạc của các nhà sử gia phong
kiến về thân phận của những phụ nữ tài sắc hơn người nhưng bất
hạnh
Các nhà sử học hiện đại cho rằng chưa có đủ chứng tích cụ thể để
nghiên cứu tỉ mỉ, kĩ lưỡng nhà Hạ - triều đại mở đầu Tam Đại. Tuy
nhiên, theo những di tích khảo cổ và sách sử cũ thì có thể tin rằng
“triều đại” nửa hư nửa thực này là cả một giai đoạn mở đầu cho sự
xuất hiện chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Hoa thời cổ đại
4. Xuân Thu – Chiến Quốc (Tây Chu – Xuân Thu – Chiến Quốc:
năm 770 – 475 TCN)
Đầu TK VII TCN, bốn nước Tề, Sở, Tấn, Tần thôn tính dần một số
nước nhỏ xung quanh, trở thành những nước mạnh đương thời,
chiếm cứ Bắc, Đông, lưu vực sông lớn, và phía Tây Trung Quốc.

Cho cuối thời Xuân Thu, nhiều nước nhỏ bị tiêu diệt, chỉ còn lại
bảy nước là Tề, Sở, Yên, Hàn, Triệu, Ngụy, Tần (Chiến Quốc thất
hùng)
5. Thời kì phong kiến ở Trung Quốc:
Khoảng năm 221 TCN, nước Tần tiêu diệt 6 nước còn lại, lập ra
Nhà Tần, chấm dứt thời kỳ Chiến Quốc, mở ra cục diện thống nhất
cho cả vùng Trung Nguyên, mở đầu thời kì Phong kiến kéo dài
hơn 2000 năm ở Trung Quốc.
Tuy nhiên, nhà Tần sụp đổ quá nhanh, nền thống trị chỉ duy trì vẻn
vẹn có 15 năm. Nhà Tần diệt vong, sau một thời kỳ hỗn chiến giữa
9
NHÓM 3
các phe phái, Trung Quốc lại được tái thống nhất dướ triều Hán
(năm 206 – 220 TCN)
Tiếp đó là một loạt các triều đại lần lượt thay thế nhau sau những
cuộc phân tranh giữa các thế lực cát cứ hoặc sự xâm nhập của
ngoại tộc:
6. Ngụy: 220 – 265
7. Tấn: 265 – 420
8. Nam – Bắc triều: 420 – 581
9. Tùy: 581 – 618
10.Đường: 618 – 907
11.Ngũ Đại: 907 – 960
12.Tống: 960 – 1279
13.Nguyên: 1271 – 1368
14.Minh: 1368 – 1644
15.Thanh: 1644 – 1911
II. NHỮNG THÀNH TỰU VỀ KHOA HỌC TỰ NHIÊN CỦA
TRUNG QUỐC CỔ - TRUNG ĐẠI:
Trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, người Trung Hoa cũng có những phát

minh vô cùng quan trọng.
1. Về toán học:
Về toán học: Theo truyền thuyết, từ thời Hoàng Đế, người Trung Quốc
đã biết phép đếm lấy 10 làm cơ sở. Đến thời Tây Hán, ở Trung Quốc đã xuất
hiện một tác phẩm toán học nhan đề là “Chu bề toán kinh”. Sách này nói về
lịch pháp, thiên văn, hình học (tam giác, tứ giác, ngũ giác), số học (phân số,
sô thường)… Đặc biệt, đâylà t ác phẩm toán học của Trung Quốc sớm nhất
nói về quan hệ giữa ba cạnh của tam giác vuông giống như định lí Pitago
Thời Đông Han xuất hiện một tác phẩm quan trọng trong lịch sử toán học
của Trung Quốc – tác phẩm: “Cửu chương toán thuật”. Tác phẩm này chia
thành 9 chương, trong đó, chứa đựng các nội dung như 4 phép tính, phương
pháp khai căn bậc hai và bậc ba, phương trình bậc một, số âm, sô dương,
cách tính diện tích các hình, thể tích các hình khối, diện tích xung quanh và
thể tích hình cầu, quan hệ giữa ba cạnh của tam giác vuông.
Đến thời Ngụy, Tấn, Nam – Bắc triều, Lưu huy và Tổ Xung Chi là hai
nhà toán học nổi tiếng nhất. Lưu Huy đã chú giải sách “Cửu chương toán
10
NHÓM 3
thuật”. Đặc biệt, ông còn tìm ra được số pi rất chính xác gồm 7 số lẻ nằm
giữa hai số 3.1415926 và 3.1415927
Đến thời Đường, Trung Quốc cũng có nhiều nhà toán học có tên tuổi như
nhà sư Nhất Hạnh đã nêu ra công thức phương trình bậc hai, Vương Hiếu
Thông soạn sách “Tập cổ toán kinh” dùng phương trình bậc ba để giải quyết
nhiều vấn đề toán học
Thời Tống, Nguyên, Minh, Thanh lại càng có nhiều nhà toán học, trong
số đó Giả Hiến, Thẩm Quát đời Tống có thể coi là những người tiêu biểu.
Giả Hiến đã tìm được phuwowg pháp giải các phương trình bậc cao, Thẩm
Quát đã nêu ra những ý kiến về cấp số, cách tính vòng tròn và chiều cao của
dây cung khi đã biết đường kính của vòng tròn và chiều cao của dây cung.
Đặc biệt, thời Tống, Nguyên, người Trung Quốc đã phát minh ra cái bàn

tính, rất tiện lợi cho việc tính toán.
2. Về thiên văn và lịch pháp:
Thiên văn là một trong những lĩnh vực phát triển sớm nhất trong tiến
trình văn hóa của nhân loại.
Mặt trời và mặt trăng chắc hẳn là đối tường quan sát đầu tiên về mặt thiên
văn học của người Trung Hoa thượng cổ. Quan niệm về ngày và đêm nảy
sinh ra trên cơ sở nhận xét quy trình mọc lặn của mặt trời. Mặt trời lặn, mặt
trăng xuất hiện, khi tròn khi khuyết, quan sát lâu dài sẽ thấy quá trình tròn
khuyết đó tương ứng từ 29 đến 30 lần mặt trời mọc lặn. Đó chính là những
cơ sở đầu tiên để tính lịch ở thời cổ xưa. Trong sách Xuân Thu cũng có chép
trong vòng 242 năm có 37 lần nhật thực, nay đã chứng minh được 33 lần
hoàn toàn chính xác. Sách Xuân Thu còn chép năm 613 TCN, “Sao Bột
nhập vào Bắc Đẩu”. Đó là hiện tượng sao chổi Halley được ghi chép sớm
nhất trong lịch sử thế giới.
Thiên “Ngũ hành chí” sách Hán Thư thì chép ngày Ất Mùi tháng 3 năm 28
TCN, “Mặt trời hiện ra màu vàng, có điểm đen lớn như cục sắt hiện ra giữa
mặt trời”. Đó cũng là tài liệu sớm nhất ghi chép về điểm đen trong mặt trời.
Nhà thiên văn học nổi tiếng nhất Trung Quốc là Trương Hành (78 – 139).
Ông đã biết ánh sáng của mặt trăng là nhận được từ mặt trời. Lần đầu tiên
giải thích đúng đắn là nguyệt thực xảy ra là do mặt trăng nấp sau bóng của
Trái Đất. Tác phẩm thiên văn học của ông có nhan đề là “Linh hiến”, trong
đó tổng kết những tri thức về thiên văn học lúc bấy giờ. Trong “Linh hiến”,
ông đã nêu ra nhận thức đúng đắn như vũ trụ là vô hạn, sự vận hành của
11
NHÓM 3
hành tinh nhanh hay chậm là do cự li cách quả đất gần hay xa. Ông còn làm
ra một mô hình thiên thể dung sức nước để chuyển động gọi là “hồn thiên
nghi”, khi mô hình này chuyển động thì các vì sao trên trời cũng di chuyển
giống như tình hình thực ngoài bầu trời.
Nhờ sớm có những hiểu biết về thiên văn nên từ sớm Trung Quốc đã có

lịch. Theo truyền thuyết, Hoàng Đế đã sai Dung Thành đặt ra lịch, thời
Chuyên Húc sửa lại thành lịch mới, một năn chia thành 12 tháng. Đường
Nghiêu lại sai họ Hy, Hòa sửa lại lịch một lần nữa. Đén đời Hạ lại sửa lại
lịch của Nghiêu, lấy tháng giêng âm lịch ngày nay làm tháng đầu năm. Đến
đời Thương, Trung Quốc đã biết kết hợp vòng quay của mặt trăng xung
quan Trái Đất với vòng quay của Trái Đất xung quanh mặt trời để đặt ra
lịch. Loại lịch này có 12 tháng, mỗi tháng đủ 30 ngày, tháng thiếu có 29. Để
khớp với vòng quay của Trái Đất quanh mặt trời, người Thương đã thêm vào
tháng Nhuận
Năm Thái Sơ thứ nhất thời Hán Vũ Đế (104 TCN), Trung Quốc đổi dùng
một loại lịch cải cách gọi là lịch Thái Sơ. Lịch này lấy tháng giêng âm lịch
làm tháng đầu năm. Từ đó, loại lịch này về cơ bản được dung cho đến ngày
nay.
Một khi đã bước vào giai đoạn canh tác chăn nuôi, người cổ xưa không thể
không ra sức tìm tòi để nắm vững những quy luật thiên nhiên nhằm làm cho
cuộc sống thêm thuận lợi và hoạt động sản xuất thu được nhiều kết quả hơn.
Khoa học thiên văn học và lịch pháp cổ đại đã xuất hiện trên cơ sở đó. Ở
Trung hoa có hai câu ca dao:
“Nhật xuất nhi tác, nhật nhập nhi tức”
(Mặt trời mọc thì dậy đi làm, mặt trời lặn thì đi nghỉ”
Tường truyền, một vị thần dân của đế Nghiêu thường hát, đã phản ánh sự
phối hợp nhịp nhàng giữa cuộc sống con người với quy luật thiên nhiên ở
thời xa xưa.
Lịch sử thiên văn học cổ đại của Trung Hoa có thể được coi là một bộ
lịch sử lịch pháp. Hàng mấy nghìn năm trước đây, ngay từ thời nhà Ân, nghề
trồng trọt và chăn nuôi của Trung Hoa đã khá phát đạt. Nắm vững đặc điểm
và quy luật chuyển biến của thời tiết có tác dụng quyết định đối với việc
trồng trọt và thu hoạch cũng như đối với việc chăn nuôi. Chính vì thế mà
trong văn giáp cốt và một số thư tịch cổ thư như Kinh Thư chẳng hạn, đã
thấy có điều ghi chép tỉ mỉ, phong phú về thời gian, khí hậu, thời tiết. Ngay

12
NHÓM 3
từ thời đó, người Trung Hoa cổ đại đã nhận thức được sự thay đổi của bốn
mùa, nắm vững được quy luật “rét đi, ấm tới”, qua đó, đã định ra công việc
cho từng thời vụ như xuân canh (cày cấy vào mùa thu), hạ vân làm cỏ vào
mùa hạ), thu thu (mùa thu thu hoạch), đông tàng (cất giữ lương thực trong
mùa đông) Có thể nói rằng, thành tựu rực rỡ nhất về thiên văn học cổ
Trung Hoa biểu hiện ra ở việc định chế lịch pháp; đó là thành công của việc
kết hợp lý luận thiên văn học với thực tiễn sản xuất ở thời cổ đại.
3. Về y dược học:
Về y dược học: Nền y dược Trung Quốc có lịch sử phát triển lâu đời và
vẫn giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống hiện nay không những ở Trung
Quốc mà còn cả trên Thế Giới.
Từ thời Chiến Quốc, ở Trung Quốc đã xuất hiện một tác phẩm y học nhan đề
“Hoàng đế nội kinh”- một bộ sách xuất hiện cách ngày nay khoảng trên
2000 năm, được coi là tác phẩm kinh điển đóng vai trò xây đắp nền móng
cho sự hình thành và phát triển y dược học cổ truyền Trung Quốc đã nêu rõ:
“Âm dương là đạo của trời đất, là kỷ cương của muôn vật, là cha mẹ của
biến hóa, là cội nguồn gốc rễ của sự sống chết”
Đến cuối thời Đông Hán, kết hợp những thành tựu y học đời trước với
những kinh nghiệm của mình, Trương Trọng Cảnh đã soạn sách “Thương
hàn tạp bệnh luận” gồm hai phần: “Thương hàn luận” và “Kim quỹ ngọc
hàm kinh”. Cả hai phần này nội dung tương tự như nhau, chủ yếu nói về
cách chữa bệnh thương hàn. Đến thời Bắc Tống, qua hiệu đính, sách này
tách thành hai tác phẩm. Đến nay vẫn là một tài liệu tham khảo có giá trị
trong ngành Đông Y Trung Quốc.
Thầy thuốc nổi tiếng sớm nhất của Trung Quốc là Biển Thước, sống vào
thời Chiến Quốc. Ông vốn tên là Trần Việt Nhân, biết chữa nhiều loại bệnh,
đi nhiều nơi để hành nghề y, ở nước Triệu thì làm thầy thuốc phụ khoa, đến
nước Chu thì làm thầy thuốc chữa tai, mắt, mũi, đến nước Tấn thì làm thầy

thuốc cữa bệnh cho trẻ em. Ở nước Tần, ông bị quan thái y của vua Tần
ghen ghét nên bị ra lệnh giết chết. Về sau, ông được tôn sung là ông tổ của
ngành mạch học ở Trung Quốc.
Từ Hán về sau ở Trung Quốc càng có nhiều thầy thuốc giỏi, trong đó nổi
tiếng nhất là Hoa Đà (? – 208). Ông là một thầy thuốc đa năng, giỏi về các
khoa nội, ngoại, phụ, nhi và châm cứu. Song, sở trường của ông là khoa
ngoại. Hoa Đà đã phát minh ra phương pháp dung rượu gây mê trước khi mổ
cho bệnh nhân, mổ xong khâu lại, dung cao dán lên chỗ mổ. Hoa Đà chủ
13
NHÓM 3
trương muốn không có bệnh tật thì phải luyện thân thể để huyết mạch được
lưu thông, giống như cái trục của cánh cửa, sở dĩ không mục là do chuyển
động luôn. Chính ông đã soạn ra một bài thể dục gọi là “Ngũ cầm hý” (trò
chơi của năm loại muông thú), trong đó bắt chước các động tác của năm loài
động vật là hổ, hươu, gấu, vượn và chim. Về sau, vì ông không chịu làm
thầy thuốc riêng của Tào Tháo nên bị Tào Tháo giết chết.
Nhà y dược học nổi tiếng thời Minh là Lý Thời Trân (1518 – 1593). Ông
xuất than trong một gia đình nhiều đời làm nghề thầy thuốc. Ngoài chuyện
chữa bệnh, ông bỏ rất nhiều công sức để nghiên cứu các cây thuốc, do đó đã
soạn được một bộ sách thuốc nhan đề là “Bản thảo cương mục”. Trong tác
phẩm này, ông đã ghi chép 1892 loại cây thuốc, đã phân loại, đặt tên, giới
thiệu tính chất, công dụng và vẽ hình các cây thuốc đó. Vì vậy, tác phẩm này
không chỉ là một tác phẩm dược học có giá trị mà còn là một tác phẩm thực
học quan trọng
Ngoài ra, các mặt khác như địa lí, nông học cũng có những thành tựu rất
to lớn.
III. THÀNH TỰU VỀ KHOA HỌC KỸ THUẬT CỦA
TRUNG QUỐC CỔ - TRUNG ĐẠI:
Ở lĩnh vực khoa học kĩ thuật, người Trung Quốc đã có những phát minh
to lớn ảnh hưởng đến cả nhân loại.

1. Kỹ thuật làm giấy:
Thứ nhất, kĩ thuật làm giấy – một trong bốn phát minh lớn của Trung
Quốc cổ đại, tính đến nay đã có hai nghìn năm lịch sử. Trước khi làm được
giấy, người ta đã viết trên thẻ tre, thẻ trúc, phiến gỗ, lụa… những văn bản
này nặng nề, cồng kềnh hoặc đắt tiền, cho nên không thể dung một cách
rộng rãi. Trong quá trình nghiên cứu một số ngôi mộ cổ có niên đại Tây
Hán (206TCN – 235CN) ở Tây An, Cam Túc, các nhà khoa học đã tìm thấy
giấy, có loại thô ráp có lẽ chỉ dung để gói bọc, có loại trắng mịn, có thể dung
ghi chép. Đến khoảng cuối đời Hán, sử dách đã ghi việc dung giấy để sao
chép Kinh Phật. Tuy nhiên, nguyên liệu làm giấy ở thời đó vẫn còn hiếm,
giá thành cao, cho nên việc sản xuất giấy vẫn chưa đáp ứng nhu cầu xã hội.
Cần phải tìm ra một nguyên liệu làm giấy dồi dào hơn, dễ kiếm do giá rẻ
hơn và một kĩ thuật làm giấy tiên tiến hơn. Đó là một yêu cầu bức thiết của
thời đại mà các hoạt động ngôn ngữ viết đang trên đà phát triển mạnh mẽ.
Thái Luân – người ở thời Đông Hán (23 – 220) giữ chức Thượng phương
14
NHÓM 3
lệnh, chuyên quản việc chế tạo các vật phẩm dung cho triều đình đã dày
công tìm tòi nghiên cứu thí nghiệm, cuối cùng đã đáp ứng yêu cầu nói trên.
Ông dung xơ đay, giẻ rách, lưới đánh cá cũ hỏng ngâm nước cho mủn ra,
cho vào nồi nấu rồi đem giã thành bột nhuyễn, tiếp đó đem thứ bột nhuyễn
này dàn thành màng mỏng trên một tấm mành tre, rồi đem hong cho khô,
cuối cùng nhẹ tay bóc lớp màng mỏng đó ra khỏi mành, thế là thu được một
tờ giấy khá mịn.
Năm Nguyên Hưng thứ sáu thời Hán Hòa Đế (năm 105), Thái Luân dùng
loại giấy này dâng lên triều đình. Cách làm giấy của ông được phổ biến rộng
rãi vì nguyên liệu dễ kiếm, quy trình sản xuất đơn giản. Thái Luân được
phong tước Long Đình Hầu. Vì vậy, người đương thời gọi loại giấy được
chế tạo theo kỹ thuật do ông phát minh là “giấy Long Đình”
Khoảng từ TK III đến TK IV, giấy hầu như hoàn toàn thay thế các loại thẻ

tre, trúc. Kỹ thuật làm giấ tiếp tục được đổi mới và nâng cao. Đã xuất hiện
nhiều loại giấy có khuôn khổ rộng hẹp, độ dày mỏng, màu sắc khác nhau.
Nguyên liệu làm giấy được pha thêm các chat phụ gia làm cho mặt giấy trơn
nhẵn, dai bền hơn, hoặc pha thêm chất hoàng nghiệt (hoàng chủ) để chống
mối mọt, thường được dung để viết những văn kiện quan trọng. Cũng có
những loại giấy chuyên dung được trang trí thêm các hình rồng, phượng, hoa
lá rất đẹp. Đặc biệt, có loại giấy mang tên rất lạ: “hoàn hồn chỉ” (giấy hoàn
hồn). Đó là loại giấy tái sinh, dung giấy loại bỏ có chữ làm nguyên liệu chế
tạo. Có thể coi đây là một phát minh quan trọng, có giá trị kinh tế, kỹ thuật
rất lớn trong lĩnh vực sản xuất giấy. Tuy nhiên vấn chưa xác định được loại
giấy này được sản xuất lần đầu vào thời điểm nào.
Kỹ thuật làm giấy của Trung Quốc trước hết được truyền sang các nước
trong khu vực (Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản), tiếp đó truyền sang các
nước trong Ả Rập (khoảng giữa TK VIII). TK XII, kỹ thuật làm giấy của
Trung Quốc được truyền sang Tây Ban Nha, rồi từ đó sang một số nước
châu Âu khác.
2. Kỹ thuật ấn loát:
Thứ hai, kĩ thuật ấn loát: Theo sử sách còn ghi chép, kỹ thuật ấn loát đã
xuất hiện ở Trung Quốc vào thời Tùy (581 – 618), cách ngày nay khoảng
1300 năm, và in bằng ván khắc. Cách in bằng ván khắc có lẽ đã bắt đầu từ
việc in dập văn bia (làm thác bản) và việc sử dụng phổ biến con dấu (ấn
chương) thay cho chữ kí. Vì vậy, Trung Quốc là nước đầu tiên trên thế giới
biết đến nghề in sớm hơn các nước phương Tây gần 800 năm. Đầu TKXX,
đã tìm được ở Đôn Hoàng (Cam Túc) bộ kinh Kim Cương khắc in vào năm
15
NHÓM 3
868 (thời Đường). Có thể coi đây là bộ sách in cổ nhất trên Thế giới còn
được bảo tồn đến ngày nay.
Vào thời Tùy – Đường (từ TK VI đến TK X), ở vùng lưu vực song Dương
Tử, tại các thị trấn lớn, đã thấy có những cửa hàng dung ván khắc in sách

lịch, sách học chữ Hán, tác phẩm thơ ca… để bán. Đầu TK XII, nghề khắc
ván in sách tư nhân ở các tỉnh Chiết Giang, Phúc Kiến, Sơn Tây rất phát
triển… Trước đó, nhà nước Phong kiến đã tổ chức các cơ sở khắc ván, in
sách với quy mô lớn, tiêu biểu nhất là cơ sở ấn loát thuộc Quốc Tử Giám.
Đương thời, tuy vẫn in bằng ván khắc, nhưng kỹ thuật khắc in đã được cải
tiến, nâng cao rất nhiều. Ngoài sách in hai màu, in nhiều màu (có 5 loại màu
chữ khác nhau để phân biệt chính văn, chú thích, lời bình giải) còn có sách
in cả chữ lẫn tranh minh họa…
Từ thời Đường về sau, các sách kinh điển chủ yếu của Nho Gia hầy như đã
được in bằng ván khắc. Thời Ngũ Đại (907 – 960), 130 loại sách kinh điển
của Nho gia dã được khắc in. Thời Bắc Tống (960 – 1127), bộ “Đại Tạng
kinh” (kinh điển phật giáo) được khắc in. Ngoài ra, kinh điển Đạo giáo cũng
được khắc in, tiêu biểu là bộ “Chính Hòa Vạn Thọ Đạo tạng” được khắc in
vào thời Tống Huy Tông
Vào năm Khánh Lịch đời Tống Nhân Tông (1041 – 1048), một người thợ
làm nghề khắc ván in ở Hàng Châu tên là Tất Thăng, qua nhiều năm tìm tòi
nghiên cứu thử nghiệm đã phát minh ra kỹ thuật in bằng chữ rời. Tất Thăng
dung đất dẻo nặn thành từng phiến nhỏ vuông vắn, mỗi phiến khắc một chữ
(đảo ngược), xếp vào một khay sắt rồi cho vào lò nung rắn lại. Chữ bằng đất
dẻo cứng rắn đí được xếp theo âm vận, đặt vào các khay nhỏ để tiện tìm chữ
cần dung. Khi in, người ta chọn chữ theo bản thảo, xếp thành từng trang văn
bản vào một cái khay, chèn cho chặt, phết mực lên mặt chữ rồi in. In xong
lại tháo rời từng chữ ra để xếp in trang khác…
Kỹ thuật in bằng chữ rời vừa nhanh, vừa đỡ tốn công khắc ván nên được ứng
dụng rộng rãi, góp phần thúc đẩy việc truyền bá tri thức sách vở. Bên cạnh
chữ rời bằng đất nung, còn có chữ rời bằng gỗ. Bộ sách “Vũ Anh điện tụ
trân bảng tùng thư” in vào năm 1773, gồm hơn 2300 quyển, được in bằng
chữ rời gỗ táo. Ngoài ra, Trung Quốc cũng sớm đúc được chữ in bằng kim
loại (chì, đồng), in rõ hơn. Nhiều cuốn sách thời Minh – Thanh được in bằng
chữ đồng (sách in đồng bản), chữ nhỏ li ti như con kiến nhưng vẫn rõ và đủ

nét. Kèm theo các trang in chữ, nhiều sách còn in tranh minh họa, bản in
trước khắc bằng gỗm sau được đúc bằng kim loại nên tranh in sắc nét, rất
đẹp.
16
NHÓM 3
Trong nghề in của Trung Quốc, ngoài chữ Hán, còn có nhiều bộ chữ thuộc
ngôn ngữ các dân tộc thiểu số như bộ chữ của người Duy Ngô Nhĩ (Tân
Cương) tìm thấy ở Đôn Hoàng có niên đại vào khoảng TK XIV, hay bộ sách
“Tây Hạ văn phật kinh” (Khắc in bằng bộ chữ rời của người Tây Hạ) có niên
đại vào đầu TK XIV.
Ngay từ thời đường, kỹ thuật ấn loát của Trung Quốc đã truyền sang Nhật
Bản, Triều Tiên, Việt Nam và theo con đường tơ lụa truyền sang Iran, Ai
Cập và các nước Ả Rập, rồi tiếp tục truyền sang Châu Âu. Vào năn 1456.
một thợ in người Đức là Johannes Gutenberg đã dung con chữ rời để in cuốn
“Kinh thánh”. Đó là cuốn sách được in bằng chữ rời sớm nhất Châu Âu,
nhưng so với phát minh và ứng dụng thực tế của Tất Thăng thì còn muộn
hơn tới 400 năm.
3. Kim chỉ nam:
Thứ ba, kim chỉ nam: Qua việc khai thác kin loại luyện kim, người Trung
Quốc đã sớm biết đến đá nam châm (từ thạch). Sách Quản Tử, hoàn thành
vào thời ký Xuân Thu – Chiến Quốc có đoạn viết: “Trên có từ thạch thì dưới
có kim loại”; sách Lã Thị Xuân Thu còn ghi rõ tính năng của từ thạch: “Từ
thạch hút sắt”. Chậm nhất là vào khoảng Chiến Quốc, người Trung Quốc đã
biết đến tính năng chỉ phương hướng của từ thạch và đã dung từ thạch để
chế tạo một công cụ chỉ phương hướng, gọi là tư nam (dụng cụ chỉ định
phương nam). Sách “Quỷ Cốc Tử”, ra đời vào cuối thời Chiến Quốc có ghi:
“Người nước Trịnh đi tìm ngọc, tất mang theo tư nam để khỏi lạc đường”.
Sách “Hàn Phi Tử” cũng có viết: “Các bậc tiên vương đã dung tư nam để
xác định bốn phương”. Người ta dung từ thạch thiên nhiên để chế tạo tư
nam. Dụng cụ này gồm có một khối từ thạch được đẽo gọt thành hình cái

thìa, đáy lồi như vỏ trứng. Đặt cái thìa từ thạch này lên trên một tấm mặt
phẳng hình vuông bằng đồng hoặc gỗ phủ sơn, trên đó có vẽ một vòng tròn
chia thành 24 ô đánh dấu bằng 8can (giáp, ất, bính, đinh, canh, tân, nhâm,
hợi) và tứ duy (càn, khôn, tốn, cấn), tổng cộng là 24 phương, gọi là địa bàn,
phối hợp với thìa từ thạch nói trên để xác định phương hướng. Đặt thìa từ
thạch vào giữa vòng tròn, đáy lồi của nó sẽ là điểm tựa để cả cái thìa xoay
chuyển, rồi đứng dừng lại, cái cán thìa sẽ chỉ về phương nam.
Vì chế tạo tư nam khá tốn công, qua quá trình đẽo mài lại có thể làm giảm
thiểu từ tính, xác định phương hướng không chuẩn xác, cho nên không được
dung rộng rãi. Đại khái là vào khoảng Đường (618 – 907), Ngũ Đại (907 –
960) thì kim chỉ nam và la bàn đã hoàn toàn thay thế tư nam.
17
NHÓM 3
Kim chỉ nam, một dụng cụ định phương hướng dựa trên cơ sở tư nam mà
sáng chế ra. Cái thìa từ thạch trong dụng cụ tư nam vốn là từ thạch thiên
nhiên đã chuyển thành từ thạch nhân tạo. Sắt được chế tác thành phiến mỏng
hình thoi nhỏ hơn rồi mài vào từ thạch thiên nhiên cho nhiễm từ (gọi là kim
chỉ nam)
Trong ứng dụng thực tế, kim chỉ nam phải phối hợp với la bàn (một mặt
phẳng có chia 24 ô, chia phương hướng như địa bàn của tư nam). Có hai loại
la bàn: la bàn nước và la bàn khô. La bàn nước, ở giữa có một chỗ trũng
đựng nước, kim chỉ nam được xâu qua các phao nhỏ (làm bằng bấc đèn) thả
nổi trên mặt nước. Kim chuyển động rồi chỉ hướng nam. La bàn khô, do la
bàn nước bất tiện, cho nên về sau thay chỗ cho trũng đựng nước là một cái
trụ nhỏ, đầu nhọn như cái đinh. Chính giữa kim chỉ nam (phiến sắt hình thoi
nhiễm từ như đã mô tả ở trên) có đục một lỗ, lồng vào đầu nhọn của cái trụ
đặt giữa la bàn. Kim chỉ nam sẽ chuyển động linh hoạt trên đầu trụ đó rồi chỉ
về hướng nam. Gần đây, trong một số ngôi mộ cổ thời Nam Tống (1127 –
1279) có phát hiện được một tượng nhỏ bằng sứ, tạo thành một người đàn
ông cầm la bàn khô.

Kim chỉ nam sau được phát minh hoàn thiện đã được sử dụng rộng rãi trong
các hoạt động quận sự, đo đạc đất đai, thuật phong thủy, đặc biệt trong lĩnh
vực hàng hải. Nhờ có la bàn, nghề hàng hải của TQ đã đạt được những bước
phát triển mới, nhiều tàu loại lớn đã thực hiện các chuyến đi đến tận bờ biển
Đông Phi và xa hơn nữa, trong đó, nổi bật nhất là những hành trình viễn
dương cảu Trinh Hòa (1371 – 1433) thời Minh thực hiện
4. Thuốc nổ :
Thứ tư, thuốc nổ - một trong bốn phát minh lớn của TQ cổ đại được thế
giới công nhận. Việc tạo ra chất chảy nổ (hỏa dược) là một kết quả ngẫu
nhiên, ngoài mong muốn của các phương sĩ – đạo sĩ dày công tu luyện, kiên
trì thực hiện thứ thuốc « trường sinh bất lão », được gọi là kim đan
Trong quá trình luyện đan, họ đã dùng nhiều chất liệu khác nhau, pha trộn
theo những cách thức riêng biệt rồi cho vào lò nung với nhiệt độ cao. Do
ngẫu nhiên, họ đã trộn lưu hoàng, diêm tiêu, than với nhau rồi cho vào lò
nung, dẫn đến hiện tượng bùng cháy phát nổ. Sách « Châu nguyên huyền
đạo yếu lược » chuyên bàn về thuật luyện kim đan, xuất hiện ở thời Đường
đã đưa ra lời cảnh báo : « Có người đem lưu hoàng, diêm tiêu, than mật trộn
lẫn với nhau rồi cho vào lò nung, kết quả là cháy sém cả mặt mũi, phát nổ
làm đổ cả nhà » và « diêm tiêu không được pha trộn lẫn với lưu hoàng rồi
cho vào lò nung ! (nếu cứ cố làm) sẽ lập tức gặp tai họa ». Sách « đan kinh
18
NHÓM 3
nội phục lưu hoàng pháp » cũng xuất hiện dưới thời nhà Đường, ghi cách
điều chế « thuốc đen » (thuốc súng) sớm nhất thế giới. Uy lực phá hoại của
thuốc cháy nổ vốn từ thuật luyện kim đan mà ra của Trung Quốc được dùng
trong việc quân. Đến khoảng đầu TK XIII, phát minh này của Trung Quốc
được truyền qua các nước Ả Rập, tiếp đó chuyển sang châu Âu vào khoảng
TK XIV, được cải tiến nhiều lần và áp dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực,
đặc biệt là trong lĩnh vực chế tạo đạn dược
Trung Quốc đã là một quốc gia có nền khoa học kĩ thuật phát triển.

Trung Quốc là quê hương của bốn phát minh lớn: kim chỉ nam, thuốc
sung, giấy và kĩ thuật in ấn loát. “Có lẽ tới hơn một nửa số phát minh và
phát triển quan trọng được lấy làm nền tảng cho sự phát triển “thế giới
ngày nay” xuất xứ từ Trung Hoa. Không có sự du nhập từ Trung Hoa các
phát kiến về hàng hải như bánh lái, la bàn và buồm nhiều lớp thì những
công việc thám hiểm vĩ đại của châu Âu có lẽ chẳng bao giờ được tiến
hành. Christophe Colombo có lẽ đã không thể đặt chân tới châu Mỹ và
nhiều người châu Âu có lẽ chẳng bao giờ lập ra các đế quốc thuộc địa.
Không có sự du nhập từ Trung Hoa chiếc bàn đạp đi ngựa thì các kị sĩ
thời xưa trong những bộ áo giáp lấp lánh có lẽ đã chẳng thể ngồi vững
trên lưng ngựa để phi tới cứu nguy cho các tiểu thư trong cơn hoạn nạn,
và đã chẳng có thời đại của hiệp sĩ. Và không có sự du nhập từ Trung
Hoa sung thần công và thuốc sung thì những kị sĩ ấy đã chẳng bị ngã
ngựa vì những viên đạn xuyên những áo giáp và do đó chấm dứt thời đại
hiệp sĩ kia. Không có sự du nhập từ Trung Hoa giấy và nghề in thì châu
Âu còn tiếp tục lâu dài việc phiên bản sách bằng cách chép tay, bởi vì
Johann Guitenberg không phải là người đã phát minh ra các con chữ rời.
Con chữ rời được phát minh tại Trung Hoa. William Hanvey không phải
là người đã tìm ra sự tuần hoàn của máu trong cơ thể. Sự tuần hoàn đó
đã được tìm ra tại Trung Hoa. Issac Newton không phải là người đầu tiên
tìm ra định luật thứ nhất về sự chuyển động. Định luật ấy đã được tìm ra
tại Trung Hoa” (Robert K.G Temple: Thiên tại khoa học Trung Quốc –
trích từ tạp chí thông tin UNESCO – số tháng 10 – năm 1988). Điều này
đủ để thấy rằng, khoa học tự nhiên và khoa học kĩ thuật của Trung Quốc
cổ trung đại đã đạt đến sự phát triển bậc nhất thế giới.
KẾT LUẬN :
Có rất nhiều những vấn đề mà nhóm chúng tôi chưa đề cập hết, trong
giới hạn cho phép, chúng tôi chỉ xin trình bày ngắn gọn những nét
chính trong lịch sử Trung Quốc - Ấn Độ cổ trung đại và những
19

NHÓM 3
thành tựu chính mà thôi. Bài luận của nhóm còn rất nhiều thiếu sót,
mong thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến.
Xin chân thành cảm ơn !

20

×