Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của một số loại phân bón lá đến sinh trưởng, phát triển hoa đồng tiền lùn (gerbera jamesonii bol) trồng chậu tại thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 53 trang )


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM


LÃ THÀNH ĐẠT

Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA MỘT SỐ LOẠI PHÂN BÓN LÁ
ĐẾN SINH TRƢỞNG, PHÁT TRIỂN HOA ĐỒNG TIỀN LÙN
(Gerbera Jamesonii Bol) TRỒNG CHẬU TẠI THÁI NGUYÊN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Hoa viên cây cảnh
Khoa : Nông học
Khóa học : 2011 - 2015



THÁI NGUYÊN - 2015


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM


LÃ THÀNH ĐẠT

Tên đề tài:


NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA MỘT SỐ LOẠI PHÂN BÓN LÁ
ĐẾN SINH TRƢỞNG, PHÁT TRIỂN HOA ĐỒNG TIỀN LÙN
(Gerbera Jamesonii Bol) TRỒNG CHẬU TẠI THÁI NGUYÊN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Hoa viên cây cảnh
Lớp : K43 - HVCC
Khoa : Nông học
Khóa học : 2011 - 2015
Giảng viên hƣớng dẫn : TS. Nguyễn Thúy Hà


THÁI NGUYÊN - 2015

i
LỜI CẢM ƠN

Được sự nhất trí của Ban giám hiệu trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên và ban chủ nhiệm khoa Nông học, em tiến hành thực hiện đề tài
“Nghiên cứu ảnh hưởng của một số loại phân bón lá đến sinh trưởng,
phát triển hoa Đồng tiền lùn (Gerbera Jamesonii Bol) trồng chậu tại
Thái Nguyên”.
Để có được kết quả quả nghiên cứu này em xin chân thành cảm ơn Ban
giám hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa Nông học, cùng các thầy giáo, cô
giáo trong trường, trong khoa đã truyền đạt lại cho em những kiến thức quý
báu trong suốt thời gian học tập và rèn luyện tại nhà trường, đặc biệt là cô
giáo TS.Nguyễn Thúy Hà người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo em trong
suốt quá trình thực hiện đề tài. Đồng thời em cũng xin cảm ơn sự động viên

của gia đình và các bạn trong lớp đã luôn cổ vũ, động viên và đồng hành
cùng em trong suốt thời gian thực tập.
Do còn hạn chế về thời gian, về trình độ và kinh nghiệm thực tế của bản
thân nên không tránh khỏi thiếu sót, em rất mong được sự tham gia đóng góp ý
kiến của các thầy cô và các bạn để luận văn của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày 28 tháng 05 năm 2015
Sinh viên


Lã Thành Đạt



ii
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 4.1 Ảnh hưởng của một số loại phân bón lá tới động thái đẻ nhánh, ra
hoa của cây hoa đồng tiền lùn trồng chậu 21
Bảng 4.2 Ảnh hưởng của phân bón lá tới động thái ra lá của cây hoa đồng tiên
lùn trồng chậu.( đơn vị: lá) 23
Bảng 4.3 Ảnh hưởng của phân bón lá tới động thái đẻ nhánh của cay hoa
đồng tiền lùn trồng chậu.( Đơn vị: nhánh) 25
Bảng 4.4 Ảnh hưởng của phân bón lá tới động thái tăng trưởng kích thước
tán của cây hoa đồng tiền lùn trồng chậu( cm ) 27
Bảng 4.5 Ảnh hưởng của một số loại phân bón lá tới động thái ra hoa của cây
đồng tiền lùn trồng chậu. ( Đơn vị: bông) 30
Bảng 4.6 Tình hình sâu bệnh hại 33
Bảng 4.7 Ảnh hưởng của phân bón lá tới chất lượng hoa đồng tiền lùn trồng

chậu 34
Bảng 4.8 Đánh giá chậu hoa thương phẩm( chậu) 36
Bảng 4.9 Sơ bộ hoạch toán thu chi trong thí nghiệm( Triệu Đồng/30m
2
) 38






iii
DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 4.1 Ảnh hưởng của phân bón lá tới động thái ra lá của cây hoa đồng
tiền lùn trồng chậu. 24
Hình 4.2 Ảnh hưởng của phân bón lá tới động thái đẻ nhánh của cây hoa đồng
tiền lùn trồng chậu. 26
Hình 4.3 Ảnh hưởng của phân bón lá tới động thái tăng trưởng kích thước tán
của cây hoa đồng tiền lùn trồng chậu 28
Hình 4.4 Ảnh hưởng của một số loại phân bón lá tới động thái ra hoa của cây
đồng tiền lùn trồng chậu .30
Hình 4.5 Đánh giá chậu hoa thương phẩm 37


















iv
DANH MỤC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT

CT : Công thức
NXB : Nhà Xuất Bản







v
MỤC LỤC

PHẦN 1. MỞ ĐẦU 1
1.1Đặt vấn đề 1
1.2Mục đích, yêu cầu của đề tài 3
1.2.1. Mục đích 3
1.2.2. Yêu cầu 3

1.3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 3
1.3.1. Ý nghĩa khoa học 3
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn 3
PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
2.1 Cơ sở khoa học của đề tài 4
2.1.1 Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu phân bón lá. 4
2.1.2 Giới Thiệu Chung Về Cây Hoa Đồng Tiền lùn 7
2.2 Tình hình sản xuất hoa đồng tiền trên thế giới và ở Việt Nam. 8
2.2.1 Tình hình sản xuất hoa đồng tiền trên thế giới. 8
2.2.2 Tình hình sản xuất hoa đồng tiền ở Việt Nam. 9
2.3 Tình hình nghiên cứu hoa đồng tiền trên thế giới và ở Việt Nam. 11
2.3.1 Tình hình nghiên cứu hoa đồng tiền trên thế giới 11
2.3.2 Tình hình nghiên cứu hoa đồng tiền ở Việt Nam 13
PHẦN 3. NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 17
3.1.Vật liệu nghiên cứu 17
3.1.1 Giống hoa được dùng trong thí nghiệm là hoa đồng tiền lùn được nhập
nội từ Hà Lan. 17
3.1.2.Vật liệu dùng cho thí nghiệm gồm 4 loại phân bón lá là: Atonik, Thiên
Nông, Đầu trâu, phân NPK Trung quốc 17
3.2 Thời gian nghiên cứu 18

vi
3.3 Nội dung nghiên cứu 18
3.4Phương pháp nghiên cứu 18
3.4.1 Phương pháp bố trí thí nghiệm 18
3.4.2 Chỉ tiêu và phương pháp theo dõi 19
3.5.Phương pháp xử lý số liệu 20
PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 21
4.1 Kết quả nghiên cứu. 21
4.1.1 Ảnh hưởng của một số loại phân bón lá tới động thái đẻ nhánh, ra hoa

của cây hoa đồng tiền lùn trồng chậu 21
4.2.2 Ảnh hưởng của phân bón lá tới động thái ra lá của hoa đồng tiền. 22
4.2.3 Ảnh hưởng của phân bón lá tới động thái đẻ nhánh của hoa đồng tiền
lùn trồng chậu 25
4.2.4 Ảnh hưởng của phân bón lá tới động thái tăng trưởng kích thước tán
của cây hoa đồng tiền lùn trồng chậu 27
4.2.5 Ảnh hưởng của phân bón lá tới dộng thái ra hoa của cây đồng tiền 29
4.2.6 Ảnh hưởng của phân bón lá đến mức độ sâu bệnh của hoa đồng tiền lùn
trồng chậu. 32
4.2.7 Ảnh hưởng của phân bón lá tới chất lượng hoa đồng tiền lùn trồng chậu 34
4.2.8 Ảnh hưởng của phân bón lá tới tỷ lệ chậu hoa thương phẩm 35
4.2.9 Hiệu quả kinh tế của việc sử dụng phân bón lá trên cây hoa đồng tiền
lùn trồng chậu. 38
PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 40
5.1 kết luận 40
5.2 Đề nghị 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1 Đặt vấn đề
Hoa là một sản phẩm vừa có giá trị hàng hóa vừa có giá trị tinh thần.
Chơi hoa và tặng hoa là nét đẹp truyền thống văn hóa, thú chơi tao nhã của
dân tộc ta. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu hoa tươi cho cuộc sống hàng
ngày càng đòi hỏi cao cả về chất và lượng. Ở nước ta nghề trồng hoa có từ lâu
đời. trước kia trồng hoa chủ yếu mang tính tự túc tự cấp. từ khi Đảng Cộng
Sản Việt Nam khởi xướng sự nghiệp đổi mới, nền kinh tế đất nước chuyển
sang cơ chế thị trường, nghề trồng hoa , nghề trồng hoa trở thành ngành sản
xuất hàng hóa có giá trị cao, mang lại nguồn thu nhập lớn cho nhiều nông hộ.

Nhiều vùng hoa chuyên canh, tập trung đã được hình thành ở các địa phương
tỉnh thành trên cả nước: Đà Lạt ( Lâm đồng ); Mê Linh ( Vĩnh Phúc ); Tây
Tựu ( Hà Nội ); Đằng Hải (Hải Phòng )… tập trung sản xuất các loại hoa
truyền thống có sức tiêu thụ cao: Hồng; Cúc; Lay Ơn; Đồng Tiền. Trong đó
Đồng Tiền luôn giữ một phần quan trọng chiếm 10% trong cơ cấu chủng loại
hoa của Việt Nam. Hoa Đồng Tiền có ưu thế dễ trồng, dễ nhân giống, màu
sắc phong phú, độ bền hoa cao có thể trồng nhiều vụ trong năm, rất thuận tiện
cho việc đầu tư khoa học công nghệ, sản xuất quy mô lớn, đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng và xuất khẩu.
Nước ta có lợi thế: đất đai có độ phì đa dạng, tài nguyên khí hậu phong
phú, đặc biệt ở miền bắc có một mùa Đông tương đối lạnh rất thích hợp cho
việc trồng hoa Đồng tiền. Đa số cư dân sống bằng nghề nông nghiệp, nguồn
lao động nhiều và rẻ, rất thuận lợi cho nghề trồng hoa phát triển. Thực tế
những năm qua hưởng ứng chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng của nhà
nước. Ngoài các vùng trồng hoa truyền thống, nhiều vùng trồng hoa chuyên
canh mới đã và đang được hình thành khắp đất nước. Tuy nhiên do đầu tư

2
khoa học kĩ thuật chưa đúng mức nên năng suất chất lượng hoa còn thấp,
chưa thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng hoa cao cấp trong nước và xuất khẩu.
Trong sản xuất nông nghiệp nói chung và nghề trồng hoa nói riêng, một
trong những biện pháp hàng đầu để đẩy mạnh sản xuất là sử dụng phân bón.
Theo thông báo của FAO, phân bón làm tăng năng suất cây trồng nông nghiệp
35-45%, phần còn lại do giống và các yếu tố khác, trong đó phân bón qua lá
và trồng cây trong giá thể chiếm vị trí quan trọng trong nền nông nghiệp sạch
và thâm canh tăng năng suất, chất lượng cây trồng nhất là trong lĩnh vực Rau-
Hoa-Quả. Tuy nhiên, hiện nay đa số các vùng trồng hoa nước ta đều lạm dụng
việc sử dụng phân hóa học, nhất là phân đa lượng N, P, K riêng rẽ. Làm cây
phát triển không cân đối, tỉ lệ ra hoa dị dạng cao, độ bền hoa cắt thấp, hiệu
quả sản xuất kinh doanh không cao, ngoài ra còn làm ôi nhiễm môi trường

đất, nước và không khí, đặc biệt đất canh tác bị thái hóa, tái chua, chai cứng…
Vì vậy bón phân qua lá và trồng cây trên giá thể là một giải pháp chiến lược
an toàn dinh dưỡng cây trồng, có ý nghĩa lớn lao trong phát triển nông nghiệp
bền vững. Hiện nay thị trường phân bón lá nước ta rất phong phú. Một số loại
do các công ty, cơ sở trong nước sản xuất, còn lại phần lớn là nhập khẩu từ
nước ngoài. Việc khuyến cáo sử dụng loại phân bón lá nào? Trên đối tượng
cây trồng nào? Trồng trên giá loại giá thể nào cho hiệu quả cao nhất, đang là
vấn đề cấp thiết đặt ra cho các nhà khoa học và các cơ quan nghiên cứu. Xuất
phát từ yêu cầu thực tế trên, em được sự đồng ý của nhà trường và các thầy cô
đã tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu ảnh hưởng của một số loại phân bón lá đến sinh
trưởng, phát triển hoa Đồng tiền lùn (Gerbera Jamesonii Bol) trồng chậu
tại Thái Nguyên.”

3
1.2 Mục đích, yêu cầu của đề tài
1.2.1. Mục đích
- Lựa chọn được loại phân bón lá phù hợp cho cây sinh trưởng, phát
triển tốt mang lại hiệu quả kinh tế cao đối với hoa đồng tiên lùn trồng chậu tại
Thái Nguyên.
1.2.2. Yêu cầu
- Đánh giá được ảnh hưởng của một số loại phân bón lá đến từng giai
đoạn sinh trưởng, phát triển của giống hoa Đồng Tiền lùn.
- Đánh giá tác động của phân bón lá đến hiệu quả kinh tế đối với cây
hoa Đồng tiền lùn.
- Đề xuất được loại phân bón lá tốt nhất từ kết quả nghiên cứu, khuyến cáo
cho sản xuất đại trà, đảm bảo khả năng ứng dụng rộng rãi, hiệu quả thiết thực.
1.3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo

về ảnh hưởng của phân bón lá tới cây trồng nói chung, hoa cây cảnh nói riêng
và là tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu sau.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần hoàn chỉnh quy trình thâm
canh trên chậu của cây hoa Đồng Tiền lùn đạt hiệu quả kinh tế cao hơn, tại
Thái Nguyên nói riêng và tại Việt Nam nói chung.
- Bổ sung giống hoa đồng tiền có triển vọng vào tập đoàn hoa đồng tiền
nhằm phục vụ sản xuất tại Thái Nguyên.





4
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Cơ sở khoa học của đề tài
Cây trồng không chỉ hấp thụ dinh dưỡng qua rễ mà còn hấp thụ qua lá.
Với ưu điểm cung cấp chất dinh dưỡng cho cây nhanh hơn, hiệu suất sử dụng
dinh dưỡng cao hơn ( tới 95%), chi phí thấp hơn, ít ảnh hưởng đến môi trường
và đất trồng, phân bón qua lá ngày càng được nhiều người nông dân sử dụng
trong sản xuất.
Từ lâu các nhà khoa học đã chứng minh được rằng cây xanh hút các chất
dinh dưỡng ở dạng khí như Co2. O2, SO2, NO2 và NH3 từ khí quyển qua lỗ
khí khổng. Ngoài bộ phận lá các bộ phận khác như thân, cành, hoa, quả đều
có khả năng hấp thụ dinh dưỡng. ( Weigh và Ziegler - dẫn theo Nguyễn Hạc
Thúy, 2001) [27].
Bằng nhiều thực nghiệm khác nhau các nhà khoa học đã chứng minh
được rằng việc phun các chất dinh dưỡng hòa tan vào lá, chúng xâm nhập vào
cây xanh qua lỗ khí khổng cả ngày lẫn đêm. Tổng diện tích bề mặt lá tiếp xúc

với phân bón thường cao hơn 8 -10 lần diện tích tán cây che phủ, các chất
được vận chuyển tự do theo chiều từ trên xuống dưới với vận tốc 30cm/h. Do
đó, năng lực hấp thụ dinh dưỡng qua lá cũng cao hơn gấp 8 – 10 lần qua rễ. (
dẫn theo Trần Đại Dũng, 2004) [28].
2.1.1 Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu phân bón lá.
Ở Việt Nam từ những năm 80 của thế kỷ XX, viện hóa công nghiệp đã
tiến hành tách chiết acid Humix từ than bùn để điều chế một số loại Humat
dùng làm chất kích thích sinh trưởng phun cho cây trồng và đã được thị
trường chấp nhận ( Nguyễn Huy Phiêu, Đặng Ninh và cộng sự, 1993) [22].

5
Tác giả Đường Hồng Dật (2003) [23] cho biết: khi bón qua lá, phân
phát huy hiệu lực nhanh, hiệu suất sử dụng dinh dưỡng qua lá của cây đạt từ
90 - 95%, trong khi phân bón qua đất chỉ sử dụng 40 – 50%.
Hiện nay, trung tâm sinh học thực nghiệm ( Viện ứng dụng công nghệ -
Bộ khoa học và công nghệ) đã và đang phối hợp với công ty Hunnia –
Zholdinh, Hungary thực hiện dự án “ Nghiên Cứu Sản Xuất Và Sử Dụng
Phân Bón Lá Bio – Hunnia có thành phần chiết xuất từ thực vật”. Năm 2007
dự án được triển khai trên cây dưa hấu, cây cà chua, súp lơ. Kết quả cho thấy,
việc sử dụng phân bón lá Bio – Hunnia đã rút ngắn thời gian sinh trưởng, tăng
khả năng chống chịu sâu bệnh và làm tăng năng suất phẩm chất của cây rõ rệt.
riêng đối với cây dưa hấu năng suất quả tăng từ 26.3 -30%, độ brix cũng cao
hơn so với đối chứng [24].
Theo Hà Thị Thanh Bình và cộng sự (1998) [25] phân vi lượng cho cây
đậu tương và lạc trên đất mai sơn – Hòa Bình ở các giai đoạn 3,5,7 lá đã có
tác dụng tốt đến quá trình sinh trưởng, phát triển của cây ( làm tăng hàm
lượng diệp lục trong lá, tăng chiều cao cây, tăng năng suất và chất lượng hạt (
năng xuất tăng từ 13.8 -20.2%, protein, lipit tăng so với đối chứng)).
Đối với hoa cây cảnh, việc nghiên cứu sử dụng phân bón lá trong
những năm gần đây đã trở thành phổ biến và cho hiệu quả rõ rệt. khi khảo

nghiệm phân bón lá Agriconik trên hoa hồng và hoa thược dược ở Hà Nội cho
kết quả: số lượng và đường kính hoa đều tăng so với đối chứng phun nước
sạch, phun phân bón lá Komix-Fl cho hoa cây cảnh làm tăng số hoa, đường
kính hoa, giữ cho hoa lâu tàn ( Vũ Cao Thái, 2000) [26].
Xử lý phân bón lá SNG, Antonik cho cây hoa cúc đã tác động mạnh đến
giai đoạn sinh trưởng sinh thực của cây, làm tăng tỉ lệ hoa hữu hiệu ( 11% so
với đối chứng không phun), tăng năng suất, chất lượng, kéo dài tuổi thọ của
hoa, còn sử lý SNG và BPF, nồng độ 10ml/l cho cây hoa cúc lúc bắt đầu nên

6
nụ, đã làm tăng đường kính hoa lên đáng kể, màu sắc hoa tươi hơn, thân lá
xanh đậm, cuống hoa to cứng hơn…( Nguyễn Quang Thạch, 2002) [27].
Theo Nguyễn Thị Kim Lý (2001) [2], xử lý phân bón lá “Thiên Nông”,
GA3 Thiên Nông, Kích phát tố hoa trái Thiên Nông cho cây hoa cúc CN97
trong hai vụ Đông Xuân 1999 và 2000 tại Hà Nội, trong đó phân bón lá GA3
phun liên tục 7 ngày/lần từ sau trồng 15 ngày đến khi cây chớm phân hóa
mầm hoa. Kích phát tố hoa trái xử lý khi cây bắt đầu phân hóa mầm hoa đến
khi nụ nứt cánh. Kết quả: các loại chế phẩm trên đều ảnh hưởng tốt đến sinh
trưởng phát triển của cây, cho hiệu quả kinh tế gấp 1.23 lần so với đối chứng.
tác giả kết luận: GA3 tác dụng mạnh ở giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng,
Kích phát tố hoa trái Thiên Nông có hiệu quả ở giai đoạn sinh trưởng sinh
thực, phân bón lá tác dụng điều hòa cả hai quá trình này.
Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón lá phức hữu cơ Pomior trên các cây
hoa cúc, hoa đồng tiền và hoa hồng, Hoàng Ngọc Thuận (2005) [28] cho thấy:
Khi sử dụng phân bón lá Pomior 0,3% cho cây hoa cúc trong vườn ươm
nhân giống nuôi cấy mô tế bào, tỉ lệ sống khi ra ngôi cây non trong ống
nghiệm tăng 35% so với đối chứng phun nước sạch, cây con mập, sau 10 ngày
ra ngôi, tốc độ tăng trưởng chiều cao tăng nhanh gấp 1.45 lần.
Thí nghiệm sử dụng phân bón lá Pomior 0,4% cho cây hoa cúc vàng hè
Đà Lạt, kết quả năng suất, chất lượng, độ bền hoa cắt, khả năng chống chịu

sâu bệnh đều cao hơn đối chứng. đặc biệt có thể sử dụng phân bón la
Pomior để bón thúc cho cây hoa cúc mà không phải bón thêm loại phân
khoáng nào khác.
Trên cây hoa đồng tiền, thí nghiệm bón thúc phân bón lá Pomior ở các
nồng độ: 0.2%, 0.3%, 0.4%, 0.5% đều cho khả năng sinh trưởng và năng suất
cao hơn, ở nồng độ 0.4% cho hiệu quả cao nhất, đường kính hoa tăng gấp
1,14 lần so với đối chứng.

7
2.1.2 Giới Thiệu Chung Về Cây Hoa Đồng Tiền lùn
Cây hoa Đồng Tiền lùn có tên khoa học là Gerbera Jamesonii Bol. Cây
có nguồn gốc từ Nam Phi, thuộc họ Compositae, được Robert Jamme Son
người Scotland tìm thấy vào năm 1880, và du nhập vào nước anh năm 1886,
lấy tên khoa học là Gerbera Jamesonii Bol. Trong hệ thống phân loại thực vật
, cây hoa Đồng Tiền được phân loại: thuộc lớp hai lá mầm ( Dicotyledonec ),
phân lớp cúc ( Asteridae ), Bộ cúc ( Asterales ), Họ cúc ( Asteraceae ), chi
(Gerbera ) ( Hoàng Thị Sản, 1999 [1] ).
Đầu những năm 20 của thế kỷ XX hoa cúc Gerbera được sản xuất
nhiều ở Bắc Mỹ, trong suốt những năm 1970 ở Mỹ, Califonia và Florida là
những bang dẫn đầu trong việc sản xuất loại hoa này ( Đặng Thị Thanh
Hương, 2002 [4]).
Hiện nay hoa Đồng Tiền được trồng hầu hết ở các nước trên thế giới,
một số nước đi đầu về ngành công nghiệp sản xuất hoa Đồng tiền phải kể đến
là: Hà lan; Mỹ; Nhật; Trung Quốc; Nam Phi.
Ở Việt Nam, hoa Đồng Tiền được người pháp đưa vào từ thế kỷ XX
và được phát triển cho đến nay. Tuy nhiên, hoa được trồng chủ yếu là hoa
Đồng Tiền cao để cắt cành, có rất ít hoa đồng tiền lùn được trồng chậu tại
Việt Nam.
Trong hệ thống phân loại thực vật, cây hoa đồng tiền thuộc lớp cây hai
lá mầm ( Dicolyledonae), phân lớp cúc ( Asteralae ) họ cúc ( Asteraceae ), chi

Gerbera ( Hoàng Thị Sản, 1999) [1]
Chi Gerbera rất phổ biến (khoảng hơn 40 loài ), được trồng làm cây
trang trí trong nhà, các mảnh vườn hay cắt cành để cắm. các giống phổ biến
ngày nay chủ yếu là lai ghép chéo giữa G. jamesonii với G. viridifilia schult.
Bip hoặc các giống lai tự nhiên ở nam phi [3] các giống lai chéo này có tên

8
gọi là Gerbera hybrida. Hiện nay tồn tại hàng trăm giống khác nhau, chúng
giao động mạnh về hình thái kích thước, màu sắc hoa và nhị hoa rất đa dạng.
Hoa đồng tiền thuộc giống hoa lưu niên, ra hoa quanh năm và gồm hai
loại là hoa đồng tiền đơn và hòa đồng tiền kép.
Hoa đồng tiền đơn: hoa chỉ có một hoăc hai tầng cánh xếp xen kẽ,
mỏng và yếu hơn hoa kép. Màu sắc hoa ít điển hình là màu trắng, đỏ, tím,
hồng…
Hoa đồng tiền kép: hoa to, có nhiều tầng cánh xếp sát vào nhau tạo thành
nhiều vòng rất đẹp, màu sắc hoa rất đa dạng. [4].
2.2 Tình hình sản xuất hoa đồng tiền trên thế giới và ở Việt Nam.
2.2.1 Tình hình sản xuất hoa đồng tiền trên thế giới.
Hiện nay, trên thế giới hoa đồng tiền là 1 trong 10 loại hoa cắt quan
trọng sau hoa Hồng, Cúc, Lan, Cẩm Chướng, Lay Ơn. Các nước có sản lượng
lớn là Hà Lan, Colômbia, Pháp, Trung Quốc… ở các nước này, đồng tiền
được trồng trong nhà lưới có mái che, có trang bị hệ thống điều chỉnh nhiệt
độ, ẩm độ, ánh sáng, tưới nước, bón phân bằng chế độ tự động hoặc bán tự
động. Do đó, năng suất và chất lượng hoa đồng tiền ở các nước này rất cao,
đạt 4,8 triệu bông/ha/năm ( Đặng Văn Đông 2004) [7].
Hà Lan là một nước sản xuất và nghiên cứu hoa đồng tiền lớn nhất thế
giới. theo Hà Tiểu Đệ, Triệu Thống Lợi. Lỗ Kim Vũ ( 2000) [5], Hà lan có
diện tích trồng hoa đồng tiền là 8.017 Ha, giá trị sản lượng là 3.590 triệu
USD. Nghề trồng hoa đồng tiền ở Hà Lan đã áp dụng rộng rãi công nghiệp
hóa, tự động hóa trên 80%, hoa được trồng trong môi trường không cần đất.

Trình độ tạo giống của Hà Lan rất cao, phần lớn các giống đồng tiền mới hoa
to được trồng rộng rãi trong sản xuất là do các nhà chọn tạo giống Hà Lan lai
tạo ra. Công Florist của Hà Lan là cơ sở dẫn đầu về tạo giống, nghiên cứu, sản
xuất và buôn bán hoa đồng tiền…Công ty có lực lượng rất mạnh về nghiên

9
cứu khoa học, thiết bị sản xuất, tạo ra rất nhiều giống, sản lượng ngày càng
nhiều, việc xử lý sau thu hoạch, bảo quản, đánh giá…đều ở trình độ rất cao.
Ơ Ba Lan, hoa đồng tiền là loại hoa cắt quan trọng nhất và cũng là cây
trồng chính của sản xuất và nuôi cấy mô, chiếm khoảng 90% tổng sản phẩm
nuôi cấy mô năm 1984. Thời vụ hoa đồng tiền chỉ kéo dài trong tháng 6 và
tháng 7. Do đó việc bảo quản cây invitro đã ra rễ được khai thác tốt[37].
Ở Trung Quốc, ngay từ năm 1920 đã sản xuất hoa đồng tiền cắt cành ở
Mai Loang – Thượng Hải, do vận dụng được kĩ thuật nuôi cấy mô nên khắc
phục được tình trạng thoái hóa giống, khi đó hoa đồng tiền mới khôi phục và
phát triển. Hiện nay, Thương Hải là nơi có diện tích trồng hoa đồng tiền lớn
nhất, đạt 35 ha. Sau thượng hải, Giang Tô cũng là nơi phát triển mạnh cây hoa
đồng tiền. Năm 1995 mới có trên 6ha, đến năm 1999 đã có tới 600ha. Ngoài
ra viện nghiên cứu rau hoa, viện nghiên cứu khoa học nông nghiệp và nông
trường Liên Văn là những đơn vị có diện tích trồng hoa đồng tiền lớn, kỹ
thuật tương đối cao.[5]
2.2.2 Tình hình sản xuất hoa đồng tiền ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, giống hoa đồng tiền đơn được nhập về trồng đầu tiên
khoảng từ năm 1940. Đặc điểm của giống hoa đơn này là cây sinh trưởng
mạnh khỏe, thích nghi tốt với điều kiện tự nhiên nước ta. Nhưng nhược điểm
là hoa nhỏ cánh đơn, màu sắc đơn điệu nên hiện nay chúng ít được trồng. từ
năm 1990, một vài công ty và người sản xuất hoa Việt Nam đã bắt đầu nhập
các giống hoa đồng tiền lai ( hoa kép) từ Đài Loan, Hà Lan, Trung Quốc về
trồng. một số giống tỏ ra có ưu điểm như hoa to, cánh dày, gồm nhiều tầng
hoa xếp lại với nhau, màu sắc phong phú, hình dáng hao cân đối, rất đẹp, cho

năng suất cao. Vì vậy, những giống này đã được tiếp nhận và phát triển mạnh
mẽ ở khắp các tỉnh thành trên cả nước. bên cạnh đó cũng có không ít giống
hoa đồng tiền do không thích hợp với điều kiện khí hậu ở Việt Nam, cây sinh

10
trưởng phát triển kém, sâu bệnh pháo hoại nặng gây thiệt hại cho người trồng
hoa ( Đặng Văn Đông, 2004) [7].
Trước năm 1975, hoa đồng tiền được trồng khá phổ biến tại đà lạt với
mục đích cắt cành, có nhiều màu khác nhau ( vàng, cam, đỏ, hồng…) năm
1980 có nhập thêm một số giống cánh kép từ Hà Nội. từ năm 1997 đã nhập
nội hơn 20 giống của Hà Lan, Hàn Quốc, Đài Loan. Trong đó các giống nhập
từ Hà Lan cho chất lượng cao nhất với nhiều màu sắc khác nhau.
Diện tích trồng đồng tiền nước ta ngày càng tăng. Theo Đặng Văn
Đông (2007) [14], năm 2005 trong tổng số diện tích trồng hoa của cả nước,
thì cây đồng tiền chiếm 9%, tăng 1,8 lần so với năm 1995, tăng xấp xỉ 1,3 lần
so với 5 2000.
Tại vùng trung du và miền núi phía bắc diện tích hoa của toàn vùng có
135,7 ha. Trong đó diện tích cây đồng tiền là 9,7 ha chiếm 0,07% trong cơ
cấu. sản lượng hoa của vùng đạt 44,08 triệu bông, hoa đồng tiền chiếm 3,1
triệu bông.
Tại Hà Giang, toàn tỉnh có 28 ha trồng hoa, sản lượng đạt 6,1 triệu bông
thì diện tích hoa đồng tiền là 1,2 ha sản lượng đạt 0.38 triệu bông tập trung
chủ yếu tại huyện Quản Ba và Đồng Văn.
Tại Sơn La, diện tích trồng hoa toàn tỉnh là 22ha, sản lượng đạt 6,86
triệu bông. Riêng cây đồng tiền có diện tích 3.5ha chiếm 0,16% tổng diện tích
trồng hoa, sản lượng đạt 1.12 triệu bông.
Do trồng hoa đồng tiền mang lại thu nhập rất cao nên những năm qua
nhiều địa phương, hộ gia đình đã tự tìm hiểu để phát triển trồng loại hoa này
với quy mô vài chục ha. Điển hình là Đà Lạt( Lâm Đồng ), Vĩnh Tuy ( Hà
Nội), Thị xã Bắc Ninh, Bắc Giang…[7].


11
Tại Hà Nội tổng diện tích các loại hoa cắt là 105 ha, đồng tiền chiếm
6,8% tập trung chủ yếu ở các huyện Từ Liêm, Thanh Trì, Đông Anh và quận
Tây Hồ.
Tại Bắc Ninh, nhiều hộ nông dân đã chuyển từ trồng lúa sang trồng các
loại hoa, cây cảnh đạt hiệu quả kinh tế cao. Riêng hoa đồng tiền cho thu lãi
trên 10 triệu đồng/sao/năm.
Nhìn chung, công tác nghiên cứu về hoa đồng tiền ở Việt Nam vẫn còn
nhiều hạn chế, việc nghiên cứu mới chỉ tập trung chủ yếu vào quy trình kỹ
thuật trồng, chăm sóc, nhân giống, các biên pháp phòng trừ sau bệnh. Việc
nghiên cứu lai tạo những giống có đặc điểm như mong muốn vẫn đang trong
giai đoạn tiền khởi.
2.3 Tình hình nghiên cứu hoa đồng tiền trên thế giới và ở Việt Nam.
2.3.1 Tình hình nghiên cứu hoa đồng tiền trên thế giới
Việc chọn tạo giống hoa đồng tiền ở Châu Mỹ chỉ bắt đầu từ năm 70
của thế kỷ XX tại trường đại học Califorlia với những chương trình tạo ra rất
nhiều giống hoa để trồng trong nhà kính. Còn ở Châu Âu, Châu Á và Nhật
Bản lại tạo giống có xu hướng cho trồng hoa cắt.
Từ năm 1975 Florist De Kwakel B.V đã tiến hành chọn tạo giống và
nhân giống hoa đồng tiền cho sản xuất hoa cắt tại Hà Lan. Tiếp theo, bà đã
chọn lọc và tạo giống hoa đồng tiền trồng chậu. Qua nhiều năm chọn tạo
giống cho trồng chậu bà đã tạo ra rất nhiều giống hoa trồng chậu ưu thế lai F1
đáp ứng yêu cầu thị hiếu của thị trường. Những đặc điểm của những giống
hoa đồng tiền ưu thế lại tập trung vào 5 nhóm chủ yếu:
+ Đồng nhất về màu hoa
+ Tập tính nở hoa
+ Số cây trên hoa
+ Chất lượng hoa


12
+ Thời gian sinh trưởng ngắn
Kết quả các giống hoa được trồng thử nghiệm và cho các kết quả rất
hứa hẹn. Bà đã chia sẻ đóng góp cho những người trồng hoa trên thế giới [29]
Đồng tiền rất khó kết hạt, hạt rất nhỏ, sức sống kém nên trước đây đồng
tiền chủ yếu được nhân giống bằng phương pháp tách chồi. Hiện nay, công
nghệ nuôi cấy mô tế bào được áp dụng rộng rãi trong nhân giống hoa đồng
tiền giúp cải thiện đáng kể trong vấn đề cây giống.
Giống đồng tiền cứng, hoa ngắn 6 inch trồng trong chậu được giới thiệu
ở Nhật Bản vào năm 1980, sau đó người ta sử dụng công nghệ nuôi cấy mô để
nhân giống. Hiện nay, chúng được trồng ở nhiều nước trên thế giới [30].
Năm 2000. viện nghiên cứu rau quả quốc tế đã lai tạo thàn công một
giống đồng tiền mới có tên Raon, đây là kết quả của việc lai giống Kippros có
màu vàng, hoa bán kép với giống Raon có màu vàng hoa đơn. Raon là giống
trồng để sản xuất hoa cắt, có đường kính hoa cắt lớn, màu cam sẫm, dang hoa
kép, độ bền hoa cắm khoảng 11 ngày, chúng đang được trồng phổ biến tại
Hàn quốc [31].
Phương pháp nuôi cấy mô tế bào là phương pháp chủ yếu trong nhân
giống hoa đồng tiền, chính vì thế từ lâu trên thế giới đã có rất nhiều nhà khoa
học nghiên cứu về vấn đề này.
Năm 1974 Murashige và cộng sự đã nghiên cứu nuôi cấy thành công
hoa đồng tiền trong môi trường MS + 0,5 mg/lit kinetin. Mẫu cấy được giữ
trong phòng nuôi ở nhiệt độ 27 độ C, thời gian chiếu sáng 12 -16 giờ/ngày,
cường độ chiếu sáng 1000 lux. Những chồi tách sẽ ra rễ sau khi được nuôi cấy
trên môi trường MS có bổ sung 10mg/lit IAA [32].
Pinto JEBP lại cho rằng môi trường tốt nhát cho tái sinh cây là MS có
bổ sung 3 – 9 mg/lit BA, môi trường nhân nhanh chồi là 1/2MS + 2,27 mg/lit
BA, còn môi trường tạo rễ tốt nhất là không có BA. [33].

13

Khi so sánh phương pháp nhân giống hoa đồng tiên bằng tách chồi với
phương pháp nuôi cấy mô tế bào, Osiecki đã tiến hành trên 50 giống và kết
luận: Những cây tách chồi cho hoa sớm hơn cây nuôi cây môi từ 2 – 4 tuần,
tùy thuộc vào từng giống [34]
Khi nghiên cứu ảnh hưởng của lai gần đến năng xuất hoa đồng tiền,
Hoang H cho rằng lai gần làm tăng năng xuất hoa từ 10,3 lên tới 28,3
bông/cây [35]
Điều kiện môi trường sống ảnh hưởng đến sinh trưởng và chất lượng
hoa đồng tiền. Điều này được thể hiện trong nghiên cứu của Hahn Eun
Joo[36]. Ông tiến hành nghiên cứu 6 giống đồng tiền ( Ensophy, Estel, Suset,
Rita, Tamara và Beauty ) với 2 phương pháp trồng: trồng trên giá thể và trồng
trực tiếp trên đất. trên giá thể cây được trồng trên 4 loại khác nhau. Tất cả các
cây thí nghiệp được trồng trong nhà lưới với điều kiện nhiệt dộ là 28 độ C vào
ban ngày và 23 độ C vào ban đêm. Kết quả là 2 giống Ensophy và Estel sau
trồng 50 ngày trên các loại giá thể đã cho hoa đầu tiên, còn trồng trực tiếp trên
đất thì khoảng 63 ngày mới bắt đầu cho hoa. Số hoa trên cây, chiều cao hoa,
đường kính hoa của hai giống này trồng trên giá thể tốt hơn trồng trực tiếp
trên đất. Trong đó, giống Ensophy trồng trên giá thể là bọt đá có số hoa trên
cây, chiều cao cây, trọng lượng cây và đường kính hoa lớn nhất. còn giống
Estel thì không có sự sai khác về các chỉ tiêu đó ở cả hai phương thức trồng.
Ensophy, Estel trồng trên sơ dừa cho số hoa trên cây cao hơn. Ensophy có vết
đen trên cánh hoa dưới điều kiện nhiệt độ mùa hè cao trong khi các giống
khác không có biểu hiện đó.
2.3.2 Tình hình nghiên cứu hoa đồng tiền ở Việt Nam
Cây đồng tiền ở Việt Nam đã được trồng từ rất lâu đời, song chủ yếu là
những loại đồng tiền đơn cho nên các kết quả nghiên cứu về giống hoa này
còn hạn chế. Từ những năm 1950 trở lại đây, với sự xuất hiện của nhiều giống

14
hoa đồng tiền nhập nội đã làm thay đổi cơ cấu đồng tiền ở nhiều vùng trồng

hoa và nhận được những sự quan tâm của nhiều nhà khoa học trong nước.
Năm 1996, Mai Kim Tâm và công sự [8] đã nghiên cứu phương pháp
nuôi cấy mô invitro giống hoa đồng tiền từ Tiệp Khắc bước đầu thu được một
số kết quả:
- Tạo được nguồn mẫu sạch ban đầu bằng nuôi cấy Meristem trên môi
trường MS – 62 cải tiến có bổ sung Auxin. Kytokinin với tỉ lệ là 1: 2 và kích
thước Meristem từ 1 – 2 mm cho khả năng tạo callus và cụm chồi tốt nhất.
- Môi trường tốt nhất để tạo chồi là MS + 15% nước dừa + (8 –
10mg)/l IBA + 0,5 mg/l IAA cho hệ số nhân giống đạt từ 6,3 -7 cây/tháng.
- Môi trường ra rễ tạo cây hoàn chỉnh hiệu của nhất là MS + (8 -10mg)/l
IAA +3% Saccaroza .
- Tiêu chuẩn cây con khi đưa ra đất cần đạt từ 4-5 lá, có từ 4-5 rễ, cao
4-5cm, giá thể thích hợp nhất là đất và phân chuồng hoai mục phối trộn với tỉ
lệ 1:2
Viện sinh học công nghệ - trường đại học nông nghiệp I Hà Nội đã
nghiên cứu thành công và đưa vào sản xuất các giống cúc đồng tiền nuôi cấy
mô tế bào nhằm đáp ứng phần nào cây giống chất lượng cao.
Công ty hoa Hasfarm ( Đà Lạt – Lâm Đồng ) đã ứng dụng công nghệ
trồng Hồng, cúc, đồng tiền, lily từ Hà Lan và xây dựng nhiều nhà lưới để
trồng các giống hoa này, hiệu quả cao gấp 10 – 15 lần so với trồng hoa thông
thường. ( Đặng Văn Đông, 2004) [7].
Bằng phương pháp lai giữa đồng tiền lâu năm ở Đà Lạt với các loại
mới du nhập vào Việt Nam từ Hà Lan, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật
Bản…một hộ nông dân ở Đà Lạt đã lai tạo được rất nhiều chủng giống mới.
Qua quá trình chọn lọc đã chọn được 20 giống có ưu thế và cung cấp hàng
chục vạn cây giống cho nhà sản xuất [9].

15
Qua nghiên cứu quy trình nhân nhanh giống hoa đồng tiền bằng kỹ
thuật invitro, Đỗ Năng Vịnh và cộng sự [10]đã rút ra một số kết luận sau:

- Sử dụng HgCl2 ở nồng độ 0.1% với thời gian khử trùng 10 phút là
thích hợp cho hoa đồng tiền, tỉ lệ mẫu giống đạt 82%
- Môi trường tạo callus và tái sinh chồi: MS + TD ( 0.2 mg/l) + NAA (
0,1mg/l) + đường (50g/l) + thạch (6g/l) là cách tốt nhất để tạo mẫu chồi
invitro.
- Nhân nhanh chồi hiệu quả nhất là môi trường bán lỏng MS + BAP
(1,5mg/l) + 10% nước dừa + B1 ( 1mg/l) + đường (50g/l) + thạch (3g/l).
- Môi trường ra rễ thích hợp là MS + NAA (0,5mg/l) + đường (50g.l) +
thạch (6g/l). môi trường này đảm bảo tạo cây hoàn chỉnh, khỏe, có sức sống
tốt khi ra vườn.
- Công thức giá thể thích hợp cho ra cây con ở giai đoạn vườn ươm là: 1
đất + 1 cát + 1 trấu hun + ¼ phân vi sinh cho tỉ lệ cây con đạt 90% ( Hoàng
Ngọc Thuận, 2006) [11]
Theo Lê Kim Hoàn và cộng sự [12]. Môi trường tạo callus MS + 0,1
NAA + 0.25 mg/l TD.
- Môi trường nhân chồi ( nhân nhanh ) : MS + 2mg/l Ki + 0,01 mg/l
NAA + 0,05mg/l TD
- Môi trường tạo cây con hoàn chỉnh: ½ MS + 0,1mg/l IAA
- Nên tạo rễ ẽvitro đối với hoa đồng tiền kép sẽ thu được lượng rễ nhiều
hơn, và đặc biệt giá thành cho một cay con rẻ hơn so với cho ra rễ invitro.
Liều lượng xử lý ra rễ thích hợp với hoa đồng tiền kép là 1000 ppm IBA.
Đặng Văn đông và cộng sự (2007) [13] đã nghiên cứu một số biện
pháp kỹ thuật thâm canh tiên tiến sản xuất hoa đồng tiền tại miền bắc Việt
Nam cho biết:
- Thời vụ thích hợp trồng hoa đồng tiền là vào tháng 3 và tháng 9

16
- Khoảng cách trồng thích hợp nhất là cây cách cây 30cm, hàng cách
hàng 35cm, tương đương với mật độ là 5 – 6 vạn cây/ha
Tưới nước bằng hệ thống nhỏ giọt, hai ngày một lần, mỗi lần 60 phút là

thích hợp nhất cho hoa đồng tiền sinh trưởng, phát triển đồng thời cho năng
suất, chất lượng hoa cao nhất.
Với công thức bón 100kg đạm + 120kg lân + 100kg kali/ha/lần là phù
hợp nhất với cây hoa đồng tiền: thân, lá phát triển vừa phải, tỉ lệ nhiễm bệnh
thấp nhất, rễ phát triển tốt, hoa cứng, cành mập và thẳng.
Phun phân bón lá Antonik hoặc đầu trâu 902 cho hoa đồng tiền 10
ngày/lần, có tác dụng làm tăng năng suất, chất lượng hoa và hiệu quả kinh tế
tăng 2,5 lần.
Biện pháp kỹ thuật tỉa bỏ 30% lá ( sau trồng 6 tháng, mỗi tháng tỉa 1
lần) làm giảm mật độ nhện, giảm tỉ lệ bệnh, tăng hiệu quả phòng trừ bệnh,
tăng năng xuất hoa, chi phí bảo vệ thực vật giảm 50%.
Nguyễn Quang Thạch và cộng sự đã nghiên cứu chuyển gen vào cây
đồng tiền nhờ vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens nhằm tạo vật liệu ban đầu
cho công tác chọn tạo giống mang những đặc điểm mong muốn, bước đầu đã
cho kết quả [13]









17
PHẦN 3
NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1.Vật liệu nghiên cứu
3.1.1 Giống hoa được dùng trong thí nghiệm là hoa đồng tiền lùn được

nhập nội từ Hà Lan.
3.1.2.Vật liệu dùng cho thí nghiệm gồm 4 loại phân bón lá là: Atonik,
Thiên Nông, Đầu trâu, phân NPK Trung quốc.
Phân bón lá:
1) Phân Atonik là hợp chất kích thích sinh trưởng gồm “sidium-S-
Nitrogualacolate 0.03 + sodium-O- Nitrophenolete 0.06% + sodium-P-
Nitrophenolete 0.09%”. cây trồng sử dụng trên lúa, cây ăn trái rau màu và
hoa cây kiểng. Nồng độ phun 10ml/8l nước.
+ công dụng : Phun tưới trên cây con, cây đã trưởng thành làm cho cây
con, cây trưởng thành phát triển khỏe mạnh, phục hồi nhanh chóng sau khi
trồng và cho hoa. kích thích sự sinh trưởng phát triển, tạo điều kiện tốt cho
quá trình trao đổi chất của cây, kết quả là có thể thu hoạch sớm với năng suất
cao và chất lượng tốt.
2) phân bón lá Thiên Nông là hợp chất kích thích sinh trưởng cây trồng
có thành phần tổng hợp giữa Alpha-Naphthalene Acetic Acid 2%, Beta-
Naphtoxy Acetic Acid 0.5%, Gibberrellic Acid GA-3 0.1%. Nồng độ phun
10ml/8l nước.
+ Công dụng: Giúp cây trổ sớm, nhiều hoa, kết nhiều trái; trái có phẩm
chất tốt, ngăn ngừa rụng trái non. Lúa trổ sớm, bông lúa dài, chắc, nhiều hạt;
cây đâm rễ nhanh, mộng mọc sớm và dài hơn. Đối với hoa và cây cảnh giúp
cho cây phát triển tốt, nhiều hoa, hoa to, màu sắc đẹp…

×