Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

NHU cầu đào tạo về CHẨN đoán và điều TRỊ BỆNH VIÊM NHIỄM ĐƯỜNG SINH dục dưới của các cán bộ y tế THUỘC TRUNG tâm GIÁO dục LAO ĐỘNG xã hội, THÀNH PHỐ hà nội năm 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 5 trang )

Y học thực hành (806) số 2/2012




60
Vitreoretinal Surgical Simulator as a training tool. RETINA,
24;231-236, 2004
7. Richard P. Golden, MD, Rohit Krishna, MD, and
Peter W. DeBry, MD. Resident Glaucoma Surgical
Training in United States. Journal of The Royal Society of
Medicine. Volume 14, Number 3, June 2005.
8. Simon K. Law, MD, Diana A. Tamboli, BS, Yvonne
Ou, MD,w JoAnn A. Giaconi, MD and Joseph Caprioli,
MD. Development of a Resident Training Module for
Systematic Optic Disc Evaluation in Glaucoma. Journal of
Glaucoma,vol 00; No 00, 2011.


Nhu cầu đào tạo về chẩn đoán và điều trị bệnh viêm nhiễm đờng sinh dục dới
của các cán bộ y tế thuộc Trung tâm Giáo dục Lao động Xã hội,
Thành phố Hà Nội năm 2011

Nguyễn Minh Quang - Bnh vin Da Liu H Ni,
Bùi Văn Nhơn, Ngô Văn Toàn - Trng i hc Y H Ni

TểM TT
Mc tiờu: Xỏc nh nhu cu o to v chn oỏn
v iu tr bnh viờm nhim ng sinh dc di ca
cỏn b y t (CBYT) hin ang cụng tỏc ti Trung tõm
Giỏo dc Lao ng Xó hi (Tri 02) nm 2011. i


tng v phng phỏp nghiờn cu: Nghiờn cu mụ
t ct ngang, phi hp gia phng phỏp nh tớnh v
nh lng. Tt c 14 CBYT ca Tri 02 nm 2011 c
chn nghiờn cu. Kt qu: T l CBYT c o to
ban u v bnh viờm nhim ng sinh dc di
(VNSDD) l rt thp (7,1%). Trong 5 nm 2006-2010
cú 71,4% CBYT c o to v bnh VNSDD; tt c
l cỏc khúa ngn hn vi ni dung cha tt. Trỡnh
chuyờn mụn ca CBYT cũn yu, ch yu mc
trung bỡnh v kộm (k nng qun lý h s, cha bnh, t
vn, truyn thụng - giỏo dc sc khe v k nng khỏm
bnh mc trung bỡnh v kộm (100% v 85,7%). Cú
85,7% CBYT cú nguyn vng c o to thờm v
bnh viờm nhim ng sinh dc di. Kt lun: T l
CBYT c o to ban u v bnh VNSDD l rt
thp, trỡnh chuyờn mụn cũn nhiu hn ch. Nhu cu
o to v bnh viờm nhim ng sinh dc di cao.
T khúa: Nhu cu o to, bnh VNSDD, Trung
tõm Giỏo dc Lao ng Xó hi
TRAINING NEEDS IN DIAGNOSIS AND
TREATMENT OF LOWER SEXUAL TRACT
INFECTION AMONG HEALTH STAFFS IN HANOI
SOCIAL EDUCATION LABOR CENTRE IN 2011
SUMMARY
Objective: To identify the training needs in
diagnosis and treatment of lower sexual tract infections
among health staffs in the Hanoi Socila Education Labor
Centre (Camp 02) in 2011. Subjects and Methods: A
cross-sectional descriptive study using both qualitative
and quantitative methods was carried out in all 4 health

staffs in the Camp 02 in 2011. Results: The proportion
of health staff trained in diagnosis and treatment of lower
sexual tract infections was very low (7.1%). In the last 5
years (2006-2010), 71,4% health staffs was trained in
diagnosis and treatment of lower sexual tract infections
with short training course and poor quality.The
qualification of health staff was weak,100% had medium
and low levels of skill in terms of managerial of record,
and health education, 85.7% had examination and
diagnosis skills at low and medium levels. 85,7% health
staffs wanted to have additional training. Conclusion:
Quality of health staff in diagnosis and treatment of
lower sexual tract infections was limited and a majority of
health staff needs to have additional training.
Keywords: Training needs, lower sexual tract
infections
T VN
Nhu cu o to l nhng kin thc, thỏi v k
nng cn thit m ngi cỏn b y t cn cú hon
thnh c nhim v c phõn cụng sau khi ó c
o to. Nhu cu o to l nhng khong trng v cỏc
kin thc, thỏi v k nng cn so vi cỏc kin thc,
thỏi v k nng hin cú. Xỏc nh nhu cu o to
nhm phỏt hin ra nhng gỡ cũn thiu ht trang b
kin thc, thỏi v thc hnh cn thit cho ngi hc.
T ú cú th xõy dng mt chng trỡnh o to hiu
qu v mang tớnh ng dng cao.
Hin nay, ngnh Y t ó c cu nhõn lc y t hp lý
kin ton i ng cỏn b y t (CBYT) nhm nõng cao
cht lng v hiu qu cỏc hot ng chm súc sc

khe, y mnh vic a cỏn b i o to nõng cao
nc ngoi, khuyn khớch CBYT t tỳc kinh phớ i o
to nõng cao trỡnh chuyờn mụn ca bn thõn [1]. Tuy
nhiờn, vi cỏc c s chm súc sc khe tuyn ban u
thỡ o to li cho CBYT cũn rt thp. Mt s nghiờn
cu gn õy cho thy ti 11 tnh c B Y t v Qu
dõn s liờn hip quc h tr cng nh ti 4 bnh vin
H Ni ch cú 1/3-2/3 CBYT c o to ớt nht 1 ln
k t lỳc ra trng, cú cỏn b cụng tỏc gn 30 nm
cha c o to li [9], [10]. c bit, cỏc CBYT ti
phũng y t ca cỏc Trung tõm Giỏo dc Lao ng Xó hi
cú rt ớt c hi c i o to nõng cao nng lc
chuyờn mụn nhng h li chu trỏch nhim khỏm cha
bnh cho nhng ph n bỏn dõm mc nhiu bnh
nhim trựng ng sinh sn. Nghiờn cu ny c tin
hnh vi mc tiờu xỏc nh nhu cu o to v viờm
nhim ng sinh dc di ca cỏc cỏn b y t hin
ang cụng tỏc ti Trung tõm Giỏo dc Lao ng Xó hi
nm 2011.
I TNG V PHNG PHP NGHIấN CU
1. i tng nghiờn cu: Tt c CBYT ang cụng
tỏc ti Phũng Y t Tri 02 bao gm: bỏc s, y s, y tỏ,
dc s.
2. Phng phỏp nghiờn cu: Nghiờn cu mụ t
ct ngang, phi hp gia phng phỏp nh tớnh v nh
Y häc thùc hµnh (806) – sè 2/2012





61
lượng, nhằm xác định nhu cầu đào tạo cho các CBYT tại
Phòng Y tế Trại 02 năm 2011. Mẫu nghiên cứu được
chọn theo kỹ thuật chọn mẫu toàn bộ. Tất cả 14 CBYT
tham gia nghiên cứu đều được tiến hành phỏng vấn
theo bộ câu hỏi, phỏng vấn sâu và được quan sát theo
bảng kiểm về các kỹ năng quản lý và chuyên môn (được
đánh giá theo các mức độ tốt, khá, trung bình và kém).
KẾT QUẢ
1. Thực trạng đào tạo về quản lý và chuyên môn
của các CBYT tại Trại 02
1.1. Đặc trưng cá nhân
CBYT tại Trại 02 có tuổi từ 24-48, trung bình là 31,5
tuổi, hầu hết ở độ tuổi ≤40 (85,7%). Trong đó, tỷ lệ nam:
nữ là đồng đều (1: 1). CBYT là y sỹ chiếm tỷ lệ cao nhất
(50%), tiếp đến là y tá (21,4%) và bác sỹ (14,3%). Tỷ lệ
dược sỹ và hộ lý còn thấp (7,1%). Đa số CBYT làm việc
tại Trại 02 <5 năm, có 3 cán bộ mới nhận công tác được
gần 1 năm. Số cán bộ làm việc tại Trại 02 trong khoảng
thời gian 5-10 năm và 11-20 năm tương đối đều nhau
(lần lượt là 21,4% và 28,6%). Không có cán bộ nào làm
việc tại đây >20 năm. Phần lớn CBYT Trại 02 được đào
tạo ở các trường trung cấp (85,7%), còn lại được đào
tạo ở trường đại học (14,3%). Đa số thời gian đào tạo
của CBYT từ 2-3 năm (78,6%). Hầu hết CBYT Trại 02
không được đào tạo ban đầu về bệnh viêm nhiễm
đường sinh dục dưới (VNĐSDD) (92,9%). Chỉ có một
CBYT cho biết mình đã được đào tạo về bệnh VNĐSDD
khi còn học tại trường đại học (7,1%). CBYT này cho
biết: “Trong quá trình học tập tại trường đại học, tôi có

được học về một số bệnh VNĐSDD như lậu, giang mai,
HIV/AIDS… trong khoảng thời gian 2 tuần. Cũng chỉ
được tiếp cận với một số khái niệm cơ bản trên bài
giảng lý thuyết, việc thực hành trên lâm sàng thì rất ít và
không được trực tiếp tham gia điều trị các bệnh này.”
(Bác sỹ, nam, 16 năm công tác).
1.2. Thực trạng trình độ quản lý và chuyên môn
của CBYT
Bảng 1: Thực trạng về kỹ năng quản lý và năng lực
chuyên môn của CBYT Trại 02 trong phòng và điều trị
bệnh VNĐSDD
Mức độ Tốt Khá
Trung
bình
Kém
Tần số 0 0 4 10 Kỹ năng
quản lý hồ
sơ sức khỏe

Tỷ lệ
(%)
0 0 28,6 71,4
Tần số 0 2 7 5 Kỹ năng
khám và
chẩn đoán
bệnh
Tỷ lệ
(%)
0 14,3 50,0 35,7
Tần số 0 0 8 6

Kỹ năng
chữa bệnh
Tỷ lệ
(%)
0 0 57,1 42,9
Tần số 0 0 11 3
Kỹ năng tư
vấn
Tỷ lệ
(%)
0 0 78,6 21,4
Tần số 0 0 4 10
Kỹ năng TT-
GDSK
Tỷ lệ
(%)
0 0 28,6 71,4
Kỹ năng quản lý hồ sơ sức khỏe của học viên:
Phần lớn CBYT có kỹ năng ở mức độ kém (71,4%), có
28,6% cán bộ có kỹ năng ở mức độ trung bình và không
có CBYT nào có kỹ năng ở mức độ khá tốt. Khi tìm hiểu
về vấn đề này, một số CBYT cho biết: “Hồ sơ bệnh án
được để ở phòng khám bệnh, ai cần thì lên đó tìm. Ai
muốn tìm hồ sơ thì bảo một học viên tìm, một lúc là sẽ
lấy được. Việc này cũng không có ai chịu trách nhiệm
cả” (Y sỹ, nữ, 11 năm công tác).
Kỹ năng khám và chẩn đoán bệnh: 1/2 CBYT có
kỹ năng ở mức độ trung bình (50,0%), cán bộ có kỹ
năng ở mức độ kém chiếm tỷ lệ lớn (35,7%). Chỉ có
14,3% CBYT có kỹ năng này ở mức độ khá, và không

có CBYT nào có kỹ năng ở mức độ tốt. Thực trạng này
đã tồn tại nhiều năm, một CBYT cho biết: “Chúng tôi gặp
rất nhiều khó khăn trong khám và chẩn đoán bệnh, thiếu
các thiết bị y tế thiết yếu. Xét nghiệm thì không đầy đủ,
chủ yếu là xét nghiệm soi tươi và test nhanh, cán bộ xét
nghiệm thì chưa tuyển được. Vì vậy, đứng trước bệnh
nhân chúng tôi chủ yếu chẩn đoán dựa vào kinh nghiệm
là chính. Mặt khác, các đối tượng bệnh nhân ở đây
nhiều khi không hợp tác nên quá trình khám chữa bệnh
gặp rất nhiều khó khăn” (Bác sỹ, nam, 3 năm công tác).
Kỹ năng chữa bệnh: Tất cả CBYT đều có kỹ năng
ở mức độ trung bình, kém (lần lượt là 57,1% và 42,9%).
Không có CBYT nào có kỹ năng ở mức độ tốt, khá.
Trong quá trình điều trị, CBYT chủ yếu dựa vào kiến
thức tự tích lũy: “Trong 19 năm công tác, tôi chữa bệnh
chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của mình, ít khi có xét
nghiệm hỗ trợ. Đôi khi bệnh nhân chỉ cần có biểu hiện
triệu chứng của bệnh ví dụ như ngứa bộ phận sinh dục
là tôi điều trị kháng sinh ngay. Thường thì triệu chứng
của bệnh nhân sẽ giảm” (Y sỹ, nữ, 19 năm công tác).
Kỹ năng tư vấn: Khoảng 4/5 CBYT có kỹ năng tư
vấn về bệnh VNĐSDD ở mức độ trung bình (78,6%).
Khoảng 1/5 CBYT còn lại có kỹ năng ở mức độ kém
(21,4%). Không có CBYT nào có kỹ năng ở mức khá,
tốt. Một CBYT cho biết: “Trong quá trình khám bệnh,
thỉnh thoảng tôi có tư vấn cho một vài bệnh nhân khi họ
hỏi, nhưng cũng ít. Tôi chỉ khám bệnh, kê đơn thuốc, rồi
sau đó họ được đưa xuống xưởng để học tập và cải tạo”
(Y sỹ, nữ, 11 năm công tác).
Kỹ năng truyền thông - giáo dục sức khỏe (TT-

GDSK): Phần lớn CBYT có kỹ năng TT-GDSK ở mức
độ kém (71,4%). Có 28,6% CBYT còn lại có kỹ năng này
ở mức độ trung bình. Không có CBYT nào có kỹ năng ở
mức độ khá, tốt. Một số CBYT cho biết: “Mặc dù được
sự hỗ trợ của Ban giám đốc Trại 02 nhưng hoạt động
TT-GDSK còn gặp rất nhiều khó khăn. Tất cả CBYT
chưa từng được học và tập huấn về các kỹ năng cơ bản
của TT-GDSK. Ngay cả bản thân tôi, tuy được giao phụ
trách mảng TT-GDSK nhưng tôi không có kinh nghiệm
cũng như không có kiến thức trong lĩnh vực này. Các
phương tiện và tài liệu truyền thông tại đây thì rất hạn
chế” (Y sỹ, năm, 9 năm công tác).
2. Xác định nhu cầu đào tạo của CBYT
2.1. Công tác đào tạo về bệnh VNĐSDD trong 5
năm gần đây (2006-2010)
Trong vòng 5 năm gần đây (2006-2010), đa số
CBYT đã được đào tạo về bệnh VNĐSDD bao gồm đào
tạo cơ bản và đào tạo bổ sung (chiếm 71,4%). Tất cả
khóa đào tạo về bệnh VNĐSDD cho CBYT đều là các
khóa ngắn hạn ≤6 tháng. Phần lớn là các khóa đào tạo
dưới 2 tháng (70,0%), chủ yếu là tập huấn từ 2 ngày - 7
ngày. Không có khóa đào tạo nào dài hạn (>6 tháng).
Khi phỏng vấn, một số CBYT cho biết: “Đa số chúng tôi
chỉ được tiếp cận với các khóa tập huấn ngắn ngày. Còn
khóa đào tạo dài hạn thì rất ít khi được tham gia. Đa số
vì thiếu thông tin về các khóa đào tạo dài hạn và thời
Y häc thùc hµnh (806) – sè 2/2012





62
gian có nhiều hạn chế. Cả Trại 02 có 14 cán bộ, mỗi
buổi trực cần 4 người vì thế chúng tôi phải thay nhau
trực, nên không có thời gian đi học dài ngày” (Bác sỹ,
nam, 16 năm công tác).
Trong đó, nội dung các khóa đã được đào tạo lại dàn
trải, không tập trung. Chủ yếu là các khóa tập huấn về
HIV/AIDS (71,4%), các nội dung đào tạo khác chiếm tỷ
lệ lớn như sơ bộ truyền nhiễm nhi khoa, nghiệp vụ sư
phạm, phòng và điều trị lao phổi… Nội dung đào tạo về
bệnh VNĐSDD ít được chú trọng: chỉ có 21,4% cán bộ
được đi tập huấn về vấn đề này.
2.2. Nhu cầu đào tạo thêm
Biểu đồ 1: Đánh giá nhu cầu đào
tạo thêm của CBYT Trại 02
85,7 %
14,3 %

Không

Đa số CBYT đều có nguyện vọng được đào tạo
thêm (85,7%). Có 2 CBYT không có nguyện vọng đi đào
tạo thêm, trong đó có 1 CBYT đã lớn tuổi sắp nghỉ hưu
và 1 CBYT đang có thai. Khi phỏng vấn sâu một số
CBYT cho biết: “Chúng tôi rất mong muốn được đi đào
tạo thêm. Nếu có lớp thì tôi sẽ đăng ký đi học. Nhưng do
số lượng học viên đông, công việc nhiều, mặt khác
ngoài chuyên môn chúng tôi cũng phải tham gia quản lý
học viên cùng quản giáo. Vì vậy chúng tôi chưa thể đi

học ngay được”. (Bác sỹ, nam, 16 năm công tác). Đây
cũng là nguyện vọng của đa số các CBYT tại đây.
Bảng 2: Những nội dung mong muốn được đào tạo
thêm của CBYT Trại 02
Có Không
Nội dung mong muốn
đào tạo thêm
Tần số

Tỷ lệ
(%)
Tần số

Tỷ lệ
(%)
Đào tạo lên bậc học cao
hơn
9 64,3 5 35,7
Nâng cao kỹ năng chẩn
đoán và điều trị bệnh
VNĐSDD
8 57,1 6 42,9
Đào tạo kiến thức cơ bản
về tư vấn và TT-GDSK
8 57,1 6 42,9
Nội dung đào tạo khác 3 21,4 11 78,6
Nội dung mong muốn được đào tạo thêm nhiều nhất
là đào tạo lên bậc học cao hơn (64,3%). Tiếp đến là nội
dung đào tạo nâng cao kỹ năng khám, chẩn đoán và
điều trị bệnh; đào tạo kiến thức cơ bản về tư vấn và TT-

GDSK về bệnh VNĐSDD được nhiều CBYT đề xuất
(57,1%). Đa số y sỹ, y tá được phỏng vấn đều mong
muốn được học lên “tôi rất mong muốn được học lên để
nâng cao trình độ chuyên môn, được tiếp cận với các
phương pháp chẩn đoán và điều trị mới”.
“Tôi mong muốn được đào tạo thêm về chẩn đoán và
điều trị về bệnh VNĐSDD, tốt nhất là được đào tạo theo
hình thức “cầm tay chỉ việc”. Như vậy tôi sẽ tiếp thu
nhanh hơn, tự tin và vững vàng hơn trong điều trị bệnh
VNĐSDD” (Y sỹ, nữ, 11 năm công tác).
BÀN LUẬN
Tất cả các CBYT đều được đào tạo chính quy, trong
đó phần lớn được đào tạo từ các trường trung cấp
chiếm tỷ lệ 85,7%, còn lại CBYT được đào tạo ở trường
đại học (14,3%). Điều này chưa phù hợp với cơ cấu
nhân lực y tế theo học vấn của Bộ Y tế năm 2008 với tỷ
lệ CBYT có trình độ cao đẳng và trung cấp chiếm
khoảng 55%, đại học chiếm 26% [4]. Có sự khác biệt
này là do điều kiện làm việc tại Trại 02 khó khăn, cơ hội
phát triển nâng cao trình độ chuyên môn và nghiên cứu
khoa học còn hạn chế; nên mặc dù Ban giám đốc Trại
02 đã hỗ trợ về nơi ở và 1 phần kinh tế nhưng vẫn chưa
thu hút được CBYT có trình độ cao như bác sỹ.
Hầu hết CBYT Trại 02 không được đào tạo ban đầu
về các bệnh VNĐSDD (92,9%). Chứng tỏ công tác đào
tạo ban đầu về các bệnh VNĐSDD còn yếu và chưa
được quan tâm đúng mức; tạo ra khoảng trống về kiến
thức, cũng như thực hành về điều trị các bệnh VNĐSDD
cho CBYT tại đây. Phần lớn kiến thức về các bệnh
VNĐSDD của CBYT được tích lũy từ các khóa đào tạo

ngắn hạn, tập huấn, hội thảo chuyên ngành và từ quá
trình công tác của họ. Vì vậy kiến thức của CBYT không
được hệ thống, gây nhiều khó khăn trong quá trình điều
trị bệnh VNĐSDD cho bệnh nhân tại Trại 02. Do đó,
trong đào tạo ban đầu tại hệ thống các trường đào tạo
nhân lực y tế cần chú trọng hơn về đào tạo ban đầu các
bệnh VNĐSDD cho học viên.
1. Thực trạng trình độ quản lý và chuyên môn
của CBYT
Kỹ năng quản lý hồ sơ sức khỏe học viên: Phần
lớn CBYT có kỹ năng ở mức độ kém (71,4%). Chứng tỏ
công tác quản lý hồ sơ sức khỏe còn chưa được chú
trọng, chưa đáp ứng được với yêu cầu nhiệm vụ của
CBYT cơ sở. Điều này tương đối phù hợp với Báo cáo
Y tế Việt Nam năm 2006: tỷ lệ CBYT được đào tạo về
quản lý còn rất ít, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động
của nhiều cơ sở y tế [3]. Nguyên nhân có thể do chưa
có sự quan tâm, cũng như chưa ý thức được tầm quan
trọng của vấn đề này. Hầu hết hồ sơ bệnh án của học
viên không được mã hóa nên việc tra cứu gặp nhiều khó
khăn, thông tin trong hồ sơ không được cập nhật, tình
trạng thất lạc hồ sơ còn diễn ra khá phổ biến. Do đó cần
có sự quan tâm hơn từ những người quản lý cũng như
từ các CBYT nơi đây.
Kỹ năng khám và chẩn đoán bệnh: >4/5 CBYT có
kỹ năng ở mức độ trung bình, kém (85,7%). Chứng tỏ
trình độ chuyên môn của CBYT còn thấp. Kết quả này
cao hơn so với kết quả nghiên cứu chất lượng chuyên
môn các bệnh viện tuyến dưới của Bộ Y tế năm 2003:
trình độ CBYT tuyến dưới thấp, khả năng đáp ứng với

dịch vụ chăm sóc sức khỏe kém và tỷ lệ sai sót trong
chẩn đoán và điều trị là khá phổ biến. Năm 2003, chỉ có
75% bệnh nhân chuyển tuyến từ bệnh viện tỉnh hoặc
huyện lên bệnh viện trung ương được chẩn đoán đúng
ở tuyến cơ sở, trong khi đó chỉ có 59% bệnh nhân
chuyển tuyến được chẩn đoán đúng từ tuyến huyện, tỷ
lệ chẩn đoán sai ở tuyến dưới còn rất cao [2]. Đa số
CBYT thiếu kiến thức về bệnh VNĐSDD do không được
đào tạo ban đầu; đồng thời quá trình cập nhật kiến thức,
nâng cao kỹ năng khám chẩn đoán bệnh cho CBYT
chưa thường xuyên, các khóa đào tạo mới dừng ở việc
tập huấn, giới thiệu lý thuyết chứ chưa đi sâu vào thực
hành. Mặt khác, tại Trại 02 còn thiếu các xét nghiệm hỗ
trợ trong chẩn đoán. Trong khi đó, nhiều bệnh nhân
không hợp tác, giấu bệnh, giả bệnh gây nhiều khó khăn.
Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng khám
chẩn đoán bệnh tại đây.
Kỹ năng chữa bệnh: Tất cả CBYT đều có kỹ năng
Y häc thùc hµnh (806) – sè 2/2012




63
ở mức độ trung bình, kém. Chứng tỏ, chuyên môn của
CBYT còn thiếu và yếu. Kết quả này phù hợp với nghiên
cứu về chất lượng chuyên môn của các bệnh viện tuyến
dưới năm 2003 với trình độ CBYT tuyến dưới thấp, khả
năng đáp ứng với dịch vụ chăm sóc sức khỏe kém, tỷ lệ
sai sót trong điều trị còn phổ biến [2]. Nguyên nhân là do

kiến thức của CBYT còn hạn chế, việc cập nhật kiến
thức chưa thường xuyên.
Kỹ năng tư vấn: 4/5 CBYT có kỹ năng tư vấn về
các bệnh VNĐSDD ở mức độ trung bình (78,6%), còn lại
có kỹ năng ở mức độ kém (21,4%). Tương tự kết quả
của tác giả Nguyễn Văn Hiến: khả năng tư vấn của
CBYT chưa đáp ứng được nhiệm vụ thực tế của CBYT
cơ sở [8]. Tư vấn là một quá trình quan trọng trong điều
trị và phòng bệnh, tuy nhiên CBYT nơi đây không được
đào tạo về kỹ năng này nên việc thực hành gặp rất
nhiều khó khăn và còn yếu kém. Mặt khác, đối tượng
bệnh nhân là PNBD cải tạo nên họ được quản giáo chặt
chẽ, vì vậy có ít thời gian để được tư vấn về bệnh tật
của mình. Do đó cần có kế hoạch tập huấn, đào tạo phù
hợp cho CBYT Trại 02 về kỹ năng tư vấn.
Kỹ năng truyền thông - giáo dục sức khỏe: Phần
lớn CBYT có kỹ năng TT-GDSK ở mức độ kém (71,4%)
và chưa được đào tạo về vấn đề này. Kết quả thu được
cao hơn so với kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn
Văn Hiến với tỷ lệ 44,9% CBYT chưa được đào tạo kiến
thức và kỹ năng [8]. Chứng tỏ công tác TT-GDSK về
bệnh VNĐSDD còn yếu kém. Hoạt động TT-GDSK tại
Trại 02 thực hiện chưa đều, chưa xây dựng được kế
hoạch cụ thể. Tài liệu truyền thông rất nghèo nàn, nội
dung còn hạn chế chưa đi sâu về bệnh VNĐSDD.
Phương tiện truyền thông, kinh phí cho hoạt động truyền
thông tại Trại 02 cũng rất thiếu. Hiện nay tại Trại 02 thì loa
phát thanh là phương tiện duy nhất để TT-GDSK, tương
tự kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Hiến [8].
2. Xác định nhu cầu đào tạo của CBYT

2.1. Công tác đào tạo về bệnh VNĐSDD trong 5
năm gần đây (2006-2010)
Trong vòng 5 năm gần đây (2006-2010), đa số CBYT
đã được đào tạo về bệnh VNĐSDD bao gồm đào tạo cơ
bản và đào tạo bổ sung (71,4%). Tất cả khóa đào tạo về
bệnh VNĐSDD cho CBYT đều là các khóa ngắn hạn ≤6
tháng. Phần lớn là các khóa đào tạo dưới 2 tháng
(70,0%), tập huấn từ 2-7 ngày. Không có khóa đào tạo
nào dài hạn (>6 tháng). Kết quả này tương tự kết quả
nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Chi về “Nhu cầu
đào tạo cho khối cán bộ xạ trị bệnh viện K” năm 2010 [7].
Chứng tỏ, công tác đào tạo lại cho cán bộ hiện đang công
tác tại Trại 02 đã được chú ý và đề cao, tuy nhiên thời
gian đào tạo lại rất ngắn, chưa đáp ứng được nhu cầu
của người học. Nguyên nhân chủ yếu là do khó khăn
trong việc tiếp cận với thông tin của khóa học dài hạn của
CBYT và do điều kiện công tác khó khăn: số lượng cán
bộ y tế ít, thời gian làm việc liên tục, nhiều cán bộ trẻ làm
việc xa gia đình… Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến
hoạt động chuyên môn của CBYT tại Trại 02.
Nội dung các khóa đào tạo lại dàn trải, không tập
trung. Chủ yếu là tập huấn về HIV/AIDS (71,4%). Các
nội dung đào tạo khác chiếm tỷ lệ lớn như sơ bộ truyền
nhiễm nhi khoa, nghiệp vụ sư phạm, phòng và điều trị
lao phổi… nhưng chưa phù hợp với thực tế công việc
của CBYT tại đây. Trong khi đó, nội dung đào tạo về
bệnh VNĐSDD ít được chú trọng: chỉ có 21,4% cán bộ
được đi tập huấn về vấn đề này, chưa đáp ứng được
nhu cầu của CBYT và thực tế công việc tại Trại 02.
Tương tự báo cáo Tổng quan chung ngành Y tế năm

2007: nhiều lớp đào tạo ngắn hạn thường có chủ đề
trùng lặp nhiều, không đáp ứng được nhu cầu thực tế;
chất lượng đào tạo chưa cao, chủ yếu giảng dạy về lý
thuyết, ít có điều kiện thực hành [5], [6]. Nguyên nhân
chủ yếu do việc xác định nội dung đào tạo thêm cho
CBYT chưa được quan tâm và chưa phù hợp với thực
tế công việc của họ.
2.2. Nhu cầu đào tạo thêm
Nhu cầu đào tạo của CBYT là rất lớn. Đa số CBYT
đều có nguyện vọng được đào tạo thêm (85,7%). Nội
dung mong muốn được đào tạo thêm nhiều nhất là đào
tạo lên bậc học cao hơn (64,3%), nhất là với đối tượng y
sỹ, y tá. Điều này phù hợp với chủ trương đào tạo của
Bộ Y tế trong những năm gần đây. Nhằm tăng cường
bác sỹ, dược sỹ làm việc ở tuyến cơ sở, Bộ Y tế chủ
trương tuyển sinh hệ tập trung 4 năm dưới các hình
thức thi tuyển, cử tuyển, đào tạo địa chỉ, tạo điều kiện
thuận lợi cho y sỹ, dược sỹ đang công tác tại tuyến xã,
huyện được học lên bậc đại học để sau khi tốt nghiệp
trở về địa phương nơi đã cử đi học tiếp tục công tác tốt
hơn. Bộ Y tế cho phép tiếp tục đào tạo y sỹ cho các địa
phương còn gặp khó khăn về nhân lực y tế. Tiếp đến là
nội dung đào tạo nâng cao kỹ năng khám, chẩn đoán và
điều trị bệnh; đào tạo kiến thức cơ bản về tư vấn và TT-
GDSK về các bệnh VNĐSDD được nhiều CBYT đề xuất
(57,1%). Đây là những nội dung thiết thực thực tế với
công việc hàng ngày của các CBYT tại Trại 02, cũng là
những kiến thức và thực hành còn thiếu và cần được bổ
sung của CBYT. Vì vậy cần có những biện pháp can
thiệp phù hợp từ cơ quan quản lý để đáp ứng được nhu

cầu đào tạo của các CBYT tại đây.
KẾT LUẬN
CBYT được đào tạo ban đầu về bệnh VNĐSDD là
rất thấp (7,1%). Trong 5 năm gần đây (2006-2010), số
CBYT được đào tạo về bệnh VNĐSDD gấp 2,5 lần số
CBYT không được đào tạo. Tuy nhiên, tất cả khóa đào
tạo đều là các khóa ngắn hạn (<6 tháng). Nội dung đào
tạo nghèo nàn, chủ yếu về HIV/AIDS (71,4%), trong khi
các bệnh VNĐSDD khác chưa được chú trọng.Trình độ
quản lý, chuyên môn của CBYT còn yếu, chủ yếu ở mức
độ trung bình và kém: kỹ năng quản lý hồ sơ, kỹ năng
chữa bệnh, kỹ năng tư vấn, kỹ năng TT-GDSK đều là
100%; kỹ năng khám chẩn đoán bệnh là 85,7%. Nhu
cầu đào tạo của CBYT là rất lớn. Đa số CBYT đều có
nguyện vọng được đào tạo thêm (85,7%). Nội dung
được mong muốn đào tạo nhiều nhất là đào tạo lên bậc
học cao hơn, tiếp đến là đào tạo kiến thức cơ bản về tư
vấn và TT-GDSK; đào tạo nâng cao kỹ năng chẩn đoán
điều trị bệnh VNĐSDD.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính phủ (2006). Quyết định của Chính phủ số
153/2006/QĐ-TTg: “Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát
triển hệ thống y tế Việt Nam giai đoạn đến năm 2010 và
tầm nhìn đến năm 2020”. Hà Nội.
2. Bộ Y tế (2003). Các kết quả nghiên cứu về chất
lượng chuyên môn ở các bệnh viện tuyến dưới ở Việt
Nam. Hội thảo về Hướng dẫn chuyên môn của bệnh
viện tuyến trên cho tuyến dưới năm 2003, Hà Nội.
3. Bộ Y tế (2007). Báo cáo Y tế Việt Nam 2006:
Công bằng, hiệu quả, phát triển trong tình hình mới.

Y học thực hành (806) số 2/2012




64
NXB Y hc, H Ni.
4. B Y t (2009). Niờn giỏm thng kờ y t 2008.
NXB Y hc, H Ni.
5. B Y t v nhúm i tỏc y t (12/2009). Bỏo cỏo
chung Tng quan ngnh y t nm 2009 v Nhõn lc y t
Vit Nam. H ni, trang 114-115.
6. Fields B, Duc NX (2008). Health workforce
training: Situation Analysis and Initial Identification of
Opportunities for Program Support ADB. Vietnam.
7. Nguyn Th Ngc Chi (2010). Nghiờn cu v nhu
cu o to cho khi cỏn b x tr bnh vin K. Lun
vn tt nghip BSK, i hc Y H Ni, trang 32-33.
8. Nguyn Vn Hin (2004). Nghiờn cu hot ng
giỏo dc sc khe ti mt s xó mt s huyn ng
bng Bc B v th nghim mụ hỡnh can thip giỏo dc
sc khe. Lun ỏn Tin s y hc, i hc Y H Ni,
trang 108-110, 129.
9. Lờ Th Kim Trang (2006). Nghiờn cu kin thc,
thc hnh phng phỏp da k da v nuụi con bng sa
m sm ti cỏc b m ti 4 bnh vin H Ni nm 2005.
Lun vn Thc s YTCC, H Ni.
10. Save the Children/US (2005). iu tra c bn v
chm súc sc khe b m v tr s sinh. Bỏo cỏo d ỏn
SC/US. H Ni.


NGHIÊN CứU CáC ĐặC TRƯNG TRÊN Xạ HìNH CủA U TUYếN GIáP TRạNG LàNH TíNH Và áC TíNH

Phan Sỹ An, Trần Giang Châu và CS.

TểM TT:
Mc tiờu: So sỏnh hỡnh nh trờn x hỡnh v tp
trung I-131 trờn tuyn giỏp cú u lnh tớnh vi u ung th
tuyn giỏp trng nguyờn phỏt. i tng, phng
phỏp: Nhúm U giỏp trng lnh tớnh gm 52 bnh nhõn
(U tuyn, tuyn nang, U nang).Nhúm ung th tuyn giỏp
trng gm 62 bnh nhõn.ghi hỡnh Scanner,SPECT. Kt
qu v kt lun: - Nhõn lnh gp nhiu nht c 2
nhúm UTGT v UGT lnh tớnh (UTGT: 92,5%, U GT lnh
tớnh: 88%) Nhõn núng Khụng gp c hai nhúm
Nhõn m c hai nhúm vi t l thp v xp x nh
nhau (16,9% v 12%) UTGT cú hot tớnh phúng x
khụng u (39,6%) ln hn UGT lnh tớnh (24%).UTGT
phn ln khụng ng u cỏc loi nhõn tp trung
I-131 sau 2 gi nhúm UTGT thp hn nhúm UGT lnh
tớnh (TB: 12,7% UTGT, 15,4% UGT lnh tớnh), tuy nhiờn
s khỏc bit ny khụng cú ý ngha thng kờ vi p>0,05
tp trung I-131 ti tuyn giỏp sau 24 gi nhúm
UTGT thp hn nhúm UGT lnh tớnh (Giỏ tr TBca
UTGT l 28,53%, UGT lnh tớnh l 40,02%), s khỏc
bit ny cú ý ngha thng kờ vi p<0,05.
T khúa: X hỡnh tuyn giỏp, UTGT, UGT- SPECT.
SUMMARY:
Objective: Comparison of the radiation image and
the I-131 concentration in benign thyroid tumors with

thyroid cancer primary. Subjective, method: Benign
tumor group: 52 Pt.Cancertumor:62Pt Scanner,SPECT
imaging. Results,conclusions: Cold nodules were
in most of two groups malign and benign tumor
(malign: 92.5%, benign: 88%) Hot tumor were not seen
in both groups Warm tumor in two groups with low
and approximately the same (16.9% and 12%) Thyroid
tumors in the cancer group with irregular radioactive,
proportion(39.6%) greater than benign tumor (24%).
Thyroid cancer were mostly irregular in nodules types. -
The concentration of I-131 in the thyroid gland after 2
hours in group thyrid cancer lower tumor benign groups
(Thyroid cancer is 12.7%, benign tumor 15.4%), but this
difference is not statistically significant with p> 0.05. I-
131 concentration in the thyrid gland after 24 hous in
thyroid cancer group lower than benign tumor (Average
of cancer group: 28.53 %, benign tumor: 40.02 %) this
difference is statistically significant with p <0.05.
Keywords: Radiationthe thyroid, UTGT, UGT-
SPECT.
T VN .
chn oỏn ung th tuyn giỏp trng nguyờn
phỏt,trờn th gii ó cú nhiu phng phỏp cn lõm
sng c ng dng nh xột nghim t bo hc, mụ
bnh hc, nh lng cỏc hooc mụn trc yờn giỏp, cỏc
cht ch im khi u (Tumor marker). Bờn cnh ú cũn
cú cỏc phng phỏp siờu õm tuyn giỏp, ghi hỡnh tuyn
giỏp nh chp X quang c ngc, chp ct lp vi
tớnh,cng hng t ht nhõn, c bit cỏc phng phỏp
y hc ht nhõn ghi hỡnh (Ghi hỡnh nhp nhỏy phúng

x:Radio-Scintigraphy) nh Scanner, Gamma-camera,
SPECT, PET cho cỏc hỡnh nh cú nhy, phõn
gii, c hiu cao. Do ú ó phỏt hin c chớnh xỏc
v trớ, kớch thc,khi lng v chc nng ca cỏc khi
u trong tuyn giỏp. ng thi cũn tớnh c tp trung
I-131 tuyn giỏp.
Vit Nam, mt s phng phỏp ghi hỡnh tuyn
giỏp bng nhp nhỏy phúng x cng ó c Phan Vn
Duyt ng dng t nhng nm 1980. Sau ny ó cú
nhiu phng phỏp hin i c nghiờn cu ng dng
rng rói v hiu qu hn.Tuy nhiờn cỏc cụng trỡnh
nghiờn cu v c im trờn nhp nhỏy
(Scintigramme) ca u lnh tớnh (ULT) v u ỏc tớnh (UAT)
trong tuyn giỏp trng cha nhiu.Trong nghiờn cu ny
chỳng tụi tp trung vo mc tiờu chớnh l:
So sỏnh hỡnh nh trờn x hỡnh (Hay Scintigramme)
v tp trung I-131 trờn tuyn giỏp cú u lnh tớnh vi u
ung th tuyn giỏp trng nguyờn phỏt.
I TNG, PHNG PHP NGHIấN CU
i tng nghiờn cu
Bao gm 114 bnh nhõn c chia thnh 2 nhúm:
- Nhúm 1: Nhúm U giỏp trng(UGT) lnh tớnh gm 52
bnh nhõn. Cỏc bnh nhõn c chn oỏn vi kt qu
mụ bnh hc xỏc nh l U giỏp trng lnh tớnh (U tuyn,
tuyn nang, U nang) ti bnh vin K H Ni.
- Nhúm 2: Nhúm ung th tuyn giỏp trng(UTTGT)
gm 62 bnh nhõn. Cỏc bnh nhõn c chn oỏn mụ
bnh hc xỏc nh l ung th giỏp trng ti bnh viờn K
H Ni.
Phng phỏp nghiờn cu.

Ghi hỡnh tuyn giỏp bng Rectilinear Scanner v
SPECT vi dc cht phúng x tp trung c hiu vo
t bo tuyn giỏp l NaI-131 hoc.c kt qu trờn x
hỡnh da vo s phõn b ca mt hot tớnh phúng x
phõn loi nhõn m,núng,lnh, ng u. ng thi

×