Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

BÁO cáo đề dẫn tại hội nghị chuyên đề bàn về nếp sông văn minh trong việc cưới; việc tang, lễ hội năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.67 KB, 42 trang )

BÁO CÁO ĐỀ DẪN
Tại hội nghị chuyên đề bàn về nếp sông văn minh
trong việc cưới; việc tang, lễ hội năm 2015
I- QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ XÂY DỰNG NẾP SÔNG
VĂN MINH TRONG VIỆC CƯỚI, VIỆC TANG, LỄ HỘI .
Ngay từ khi Cách mạng tháng Tám mới thành công. Hồ Chủ tịch đã viết
cuốn “ Đời sống mới để hướng dẫn sửa đổi cách ăn, cách mặc, cách ở đi lại, cách
làm việc trong cán bộ và nhân dân nhằm xây dựng cuộc sống mới, trong đó chỉ
rõ: “ Đời sông mới không phải cái gì cũ củng bỏ hết. Không phải cái gì cũng làm
mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ. Cái gì cũ mà không xấu, nhưng nhiều phền
phức thì phải sửa đổi cho hợp lý. Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm.Cái gì
mới mà hay thì phải làm. Làm thế nào cho đời sông của dân ta, vật chất được đầy
đủ hơn, tinh thần được vui mạnh hơn. Đó là mục đích đời sống mới”
Những thập kỷ sau Cách mạng Tháng tám năm 1945, trong điều kiện đất
nước hoà bình hay đang có chiến tranh. Đảng và Nhà nước ta vẫn kiên trì chỉ đạo
thực hiện, Hướng dẫn Đời sống mới của Hồ Chủ tịch. Năm 1980 Ban Chỉ đạo
Nếp sống mới của Trung ương được thành lập để chỉ đạo thực hiện phong trào
vận động xây dựng Nếp sống mới. Gia đình văn hoá mới. Đây thực chất là cuộc
vận động cách mạng lớn, sâu rộng, trong đó một nội dung được coi là quan trọng
và thường xuyên là vận động xây dựng nếp sống mới trong việc cưới, việc tang, lễ
hội. Phong tục tập quán từ năm 1980 đến trước thời kỳ đổi mới cơ bản là lành
mạnh, nhiều hủ tục và tệ mê tín dị đoan bị đẩy lùi và xoá bỏ.
Khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới, do chuyển sang nền kinh tế thị
trường và mở rộng giao lưu quốc tế nhưng có phần buông lỏng chỉ đạo, quản lý
trên một số lĩnh vực văn hoá xã hôi, nhiều nơi đã phát sinh lối sống thực dụng ,
trục lợi, sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hoá và đạo lý của dân
tộc, tình nghĩa cộng đồng mà biểu hiện rất rõ trong việc cưới, việc tang, lễ hội .
Một bộ phận cán bộ công chức có chức quyền tổ chức đám cưới, đám tang linh
đình. Nhiều lễ hội bị biến dạng có động cơ thương mại hoá. Nhiều hủ tục đã phục
hồi và hình thành cả những hủ tục mới, cái lạ thiếu sự phê phán chọn lọc. Những
hiện tượng đó đã phá hoại thuần phong mỹ tục, ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh


thần và vật chất của nhân dân, là thách thức mới trong việc giữ gìn bản sắc văn
hoá dân tộc trong xu thế toàn cầu hoá.
Trước tình hình đó Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra
Chỉ Thị 27- CT/TW ngày 12 tháng 1 năm 1998 về việc thực hiện nếp sống văn
minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội để định hướng xây dựng nếp sống văn
minh trong phong tục tập quán, xoá bỏ hủ tục lạc hậu, giữ gìn bản sắc dân tộc .
Chỉ Thị 27- CT/TW đã chỉ rõ : “ Bảo tồn có chọn lọc, cải tiến, đổi mới
những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc, loại bỏ dần trong cuộc sống những
hình thức lỗi thời, lạc hậu, nghiên cứu xây dựng và hình thành dần những hình
thức vừa văn minh, vừa gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong việc
cưới, việc tang, lễ hội theo hướng lành mạnh, tiết kiệm, tránh xa hoa lãng phí,
phiền nhiễu; Chống khuynh hướng kinh doanh, vụ lợi; xoá bỏ hủ tục, bài trừ mê
tín dị đoan”
Ngày 16 tháng 7 năm 1998, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành
Nghị quyết Trung ương 5 ( khoá VIII ) về xây dựng và phát triển nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó có đề cập đến nhiệm vụ xây
dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Nghị quyết Trung
ương 5 của Đảng đã nhận định: “ Nhiều hủ tục cũ và mới lan tràn, nhất là trong
việc cưới, việc tang, lễ hội” đồng thời nêu những quan điểm chỉ đạo cơ bản, trong
đó chỉ rõ: “ Bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu
quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hoá các dân tộc
khác, giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống lạc hậu, lỗi thời trong phong
tục, tập quán, lề thói cũ” .
Vấn đề truyền thống và cách tân, dân tộc và hiện đại, kế thừa và sáng tạo là
những vấn đề mà Đảng ta đặt ra trong việc giữ gìn và phát huy các giá trị của
phong tục, tập quán, trong đó có việc cưới, việc tang, lễ hội. Nội dung cơ bản của
nó bao gồm việc loại bỏ những tập tục lạc hậu, phát huy những truyền thống tốt
đẹp, xây dựng những phong tục tập quán mới tiến bộ, văn minh và tiếp thu những
yếu tố tiến bộ trong văn hoá tiên tiến của nhân loại, ngăn chặn sự xâm nhập của
lối sống suy đồi.

- Báo cáo chính trị Đại hội IX của Đảng lại tập trung nhấn mạnh một lần
nữa về sứ mệnh và nhiệm vụ cao quý nhất của nền văn hoá, đó là “ Mọi hoạt động
văn hoá nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư
tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng
nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống văn hoá, quan hệ hài hoà trong
gia đình, cộng đồng và xã hội “ . Những phẩm chất về con người mới nêu trên
được Đại hội IX nhấn mạnh vừa là sự nối tiếp các giá trị tuyền thống tốt đẹp và
bền vững, vừa là những đòi hỏi mới đói với con người Việt Nam trong giai đoạn
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chủ trương xây dựng nếp sống văn minh và luận điểm xây dựng và phát
triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, là thành tựu lý luận
của Đảng ta trong lĩnh vực văn hoá. Đảng và Nhà nước ta đã luôn coi trọng việc
cải tạo và xây dựng phong tục tập quán lành mạnh, văn minh, phù hợp với tình
hình và điều kiện trong từng giai đoạn của đất nước. Đảng ta đã chỉ rõ tiên tiến và
đậm đà bản sắc là một thể thống nhất, vừa tiếp cận trình độ phát triển văn minh
của thời đại, vừa phải lấy nội lực là tinh hoa văn hoá dân tộc để tham gia vào quá
trình giao lưu văn hoá nhân loại.
Xây dựng nếp sông văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội là cuộc đấu
tranh gay gắt trên mặt trận tư tưởng và văn hoá để góp phần xây dựng con người
Việt nam mới, chống lại lối sống thực dụng, vị kỷ, coi thường những giá trị văn
hoá dân tộc.
II. VAI TRÒ CỦA VIỆC XÂY DỰNG NẾP SÔNG VĂN MINH TRONG VIỆC
CƯỚI, VIỆC TANG, LỄ HỘI ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM
TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC .
Phong tục, tập quán là nhân tố quan trọng của một nền văn hoá, là bộ phận
hợp thành bản sắc văn hoá dân tộc. Cha ông chúng ta trong lịch sử đã coi trọng
giữ gìn và phát huy tác dụng của phong tục tập quán, coi đó là nhiệm vụ lớn bới
có ý thức để không bị đồng hoá và đánh mất bản sắc dân tộc.
Làm nên bản sắc văn hoá của dân tộc, ngoài các giá trị vật thể, hữu hình
như đền, miếu, chùa, nhà thờ, thành quách, còn có những giá trị văn hoá phi vật

thể như phong tục tập quán, tín ngưỡng, nghệ thuật dân gian Văn hoá phi vật thể
thấm sâu vào nếp nghĩ, lối sống hàng ngày của cộng đồng, dân tộc, trong đó
phong phú nhất, sâu đậm nhất, được mọi thời đại, mọi xã hội quan tâm, đó là văn
hoá trong việc cưới, việc tang và lễ hội.
Người Việt Nam coi việc cưới, việc tang là sự chuyển đoạn hệ trọng của
đời người, và lễ hội là gắn với nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng, hoà nhập cộng đồng.
Việc cưới, việc tang và lễ hội là một bộ phận quan trọng, là nền tảng góp phần
làm nên bản sắc văn hoá dân tộc. Nhìn vào việc tổ chức lễ tang, lễ cưới và các lễ
hội có thể thấy được tính nhân văn, bản sắc văn hoá và trình độ văn minh của một
dân tộc
Việc cưới, việc tang, lễ hội tuy là việc riêng của từng người, từng gia đình,
từng cộng đồng nhưng lại có ảnh hưởng chung đến xã hội, là lĩnh vực dễ. Con
người mới, lối sống thể hiện rất ẽo trong việc ứng xử với cộng đồng thông qua
việc cưới, việc tang, lễ hội. nẩy sinh tệ nạn, hủ tục, mê tín dịi đoan. Tổ chức việc
cưới, việc tang, lễ hội phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội sẽ góp phần hoàn
thiện nếp sống, phong tục của dân tộc, trong thời kỳ công nghệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
Chúng ta xây dựng đất nước Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội với thói quen của những người sản xuất nhỏ, cá
thể. Cuộc sống công nghiệp hiện đại đòi hỏi con người Việt nam phải dũng cảm
rũ bỏ những trở ngại do nếp tư duy cũ, thiếu hiểu biết và chưa quen sống và hành
động theo luật pháp. Xây dựng nếp sông văn minh càng cần đến trình độ của văn
hoá pháp luật.
Xây dựng nếp sông văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội và trong nếp
sống nói chung là một bộ phận quan trọng của cách mạng tư tưởng và văn hoá ở
nước ta hiện nay. V.l . Lê- nin đã nói “ Sức mạnh tập quán ở hàng triệu và hàng
chục triệu người là sức mạnh ghê gớm nhất “ . Phát huy sức mạnh to lớn ấy để
xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một mục tiêu
chiến lược của Đảng ta. Vì vậy Xây dựng nếp sông văn minh trong việc cưới, việc
tang, lễ hội và trong nếp sống nói chung là một yêu cầu tất yếu của cách mạng

Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
III- THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG NẾP SỐNG VĂN MINH
TRONG VIỆC CƯỚI, VIỆC TANG, LỄ HỘI Ở HUYỆN QUẢNG XƯƠNG
1- Kết quả đạt được :
* Việc cưới :
Song song với việc mở các lớp tập huấn nhằm phổ biến quán triệt cho cán bộ
đảng viên và các tầng lớp nhân dân về tìm hiểu và thực hiện tốt Luật hôn nhân và
Gia đình. Cấp uỷ, Chính quyền các cấp đã có nhiều biện pháp chỉ đạo về thực
hiện các hình thức tuyên truyền, đã từng bước nâng cao nhận thức cho các tầng
lớp nhân dân về thực hiện tôt Luật Hôn nhân và Gia đình. các ban ngành chức
năng đã làm tốt công tác phối hợp với các đơn vị xã, thị trấn để xây dựng quy chế
về tổ chức cưới theo NSVM và xây dựng các mô hình điểm. Tuy bước đầu thực
hiện còn gặp nhiều khó khăn, bất cập, song đến nay đã có một sô đơn vị dần dần
đi vào nề nếp, điển hình như : Quảng Lợi , Quảng Đại, Quảng Trung, Quảng
Vọng, Quảng Lộc…
Qua khảo sát thực tế và báo cáo của cơ sở, có khoảng 50% số đám cướido
đoàn thanh niên chủ trì tổ chức, trong đó có 20% số đám cưới được tổ chức tại
nhà văn hoá thôn hoặc hội trường UBND xã, với hình thức tổ chức nàyđã tiết
kiệm được cả thời gian và kinh phí, điều quan trong là từng bước giữ gìn và xây
dựng được phong tục tập quán tốt đẹp ở từng địa phương, Nét mới trong thực
hiện việc cưới theo NSVM ở huyện Quảng Xương là :
- Không hút thuốc lá, Không tổ chức dài ngày, Không ăn uống linh đình, gây
lãng phí tốn kém, Không trao quà cho cô dâu, chú rể của 2 bên gia đình có tính
chất phô trương, chỉ mang tính đại diện và được diễn ra trong thời gian ngắn gọn,
mang tính trang trọng.
Từ những việc làm cụ thể trong thực hiện NSVM trong việc cưới đã từng bước
tạo được tâm lý ổn định cho các tầng lớp nhân dân, nhất là trong thanh niên, từng
bước xoá đi mặc cảm giầu nghèo.
* Việc tang :
Nhìn chung các địa phương trong cả huyện đã thực hiện và thu được những

kết quả đáng khích lệ. Điển hình trong tổ chức tang lễ, nhiều giá trị văn hoá
truyền thống tốt đẹp của từng địa phương được bảo tồn, kế thừa và phát huy, thực
tế trên địa bàn huyện trong những năm qua đã có nhiều mô hình tốt, kinh nghiệm
hay, các hoạt động nhân đạo từ thiện xuất hiện ngày càng nhiều trong tang lễ,
chính quyền địa phương cùng với các đoàn thể đã tổ chức các hội hiếu, hội tang,
các ban tang lễ ở các cộng đồng dân cư, giúp đỡ những gia đình có việc tang bớt
đi những khó khăn trong việc hiếu, xây dựng tình cảm gắn bó cộng đồng tương
thân, tương ái.
Sự chuyển biến tích cực trong việc tang những năm trở lại đây đã thực sự
góp phần đẩy lùi những hủ tục tập quan lạc hậu ảnh hưởng đến môi trường sống
của con người. Các lễ thức rườm rà như : lăn đường, rải vàng mã, đi lùi trước
quan tài, linh cữu, hiện tượng ăn uống linh đình, phúng viếng bằng thức ăn chín,
bằng đối trướng đã giảm hẳn và hình thành một số lễ thức lành mạnh. văn minh,
tiến bộ được nhân dân đồng tình hưởng ứng thực hiện. .
* Về lễ hội : Quảng Xương là huyện có nhiều di tích lịch sử văn hoá( gần
50 di tích đã được xếp hạng ) nhìn chung hầu hết các lễ hội được tổ chức theo
Quy chế tổ chức lễ hội của Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin. Các Lễ hội trong
huyện đã thể hiện khá sinh động bản sắc riêng, thể hiện nội dung, ý nghĩ của từng
di tích, góp phần tôn vinh các bậc tiền nhân, giáo dục lòng tự hào dân tộc; bảo tồn
và phát huy các giá trị văn hoá tinh thần của cộng đồng các dân tộc Việt nam, bởi
lễ hội là một loại hình sinh hoạt văn hoá đã trở thành phong tục tập quán của dân
tộc Việt Nam, là nhu cầu lớn và không thể thiếu được trong đời sống văn hoá hiện
nay của nhân dân. Hoạt động lễ hội đã góp phần làm phong phú đời sống tinh
thần cho nhân dân và nâng cao đời sống văn hoá ở cơ sở.
Trong quá trình tổ chức lễ hội, lễ kỷ niêm, lễ dâng hương, lễ báo công tại
các di tích lịch sử văn hoá, di tích cách mạng; khu tưởng niệm đã thực hiện tốt
nếp sông văn minh, đảm bảo tính thiết thực về hình thức và nội dung.
2- TỒN TẠI HẠN CHẾ:
* Về việc cưới.:
Việc cưới là việc lớn và quan trọng nhất trong cuộc đời của mỗi con người

được Nhà nước ta và xã hội rất coi trọng. Thực hiện nếp sống văn minh trong việc
cưới là vấn đề khó khăn nhất trong việc thực hiện nếp sống văn minh
Về thực hiện pháp luật, có nơi chấp hành luật hôn nhân và gia đình chưa
nghiêm túc, nạn tảo hôn vẫn còn và thường diễn ra ở các xã ven biển. Một số gia
đình việc cưới có biểu hiện đi ngược lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc bởi
mang nặng sự tính toán, thực dụng, thương mại hoá đám cưới là dịp trả nợ
thông qua hình thức tiền mừng, quà cưới v.v Hiện nay ở một số địa phương
trong huyện vẫn còn có những gia đình tổ chức cưới vẫn mang nặng xu hướng xa
hoa, lãng phí, trong khi cuộc sống còn nhiều khó khăn. Đây là hủ tục mới chứ
không chỉ là phục cổ. Trang phục dân tộc trong ngày cưới ở một số gia đình chưa
được coi trọng ( kể cả các gia đình không có điều kiện về kinh tế ) .những phong
tục mới như đặt hoa ở Đài tưởng niệm, trồng cây, cưới tập thể, báo hỷ sau ngày
cưới còn chưa phổ biến. (Toàn huyện có khoảng 50% số đám cưới do đoàn thanh
niên chủ trì tổ chức, trong đó có khoảng 20 % đám cưới được tổ chức tại nhà văn
hoá ( thôn, xã ). Đối tượng phải gương mẫu thực hiện nếp sống văn minh nhưng
lại hay vi phạm là cán bộ, công chức . chưa gắn trách nhiệm của thủ trưởng, phụ
trách cơ quan trong việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới. chưa có
hình thức xử lý đối với cán bộ , công chức vi phạm Chỉ thị của Đảng , vì vậy dự
cưới và tổ chức cưới đã trở thành mối lo cho người nghèo và công chức. xây dựng
mô hình đủ mạnh để có tính thuyết phục trên địa bàn huyện còn quá ít, toàn huyện
mới chỉ có 1/41 xã, thị trấn tổ chức thành công mô hình cưới tại hội trường
UBND xã.
* Việc tang: Tuy việc tang không có nhiều bức xúc như việc cưới nhưng
hiện còn tồn tại một số hủ tục, mê tín dị đoan, lãng phí, đó là việc xây mộ to, lấn
chiếm đất nghĩa địa hoặc xây sẵn dành phần cho người còn sống, vấn đề quy
hoạch khu an táng và cải táng chưa được chú trọng. Một số địa phương chưa làm
tốt công tác tuyên truyền vận động nhân dân đưa hài cốt người quá cố về nơi quy
định, vì vậy hiện tượng các ngôi mộ còn nằm gần khu dân cư, thậm chí cả trong
vườn, trong trường học. ảnh hưởng không tốt đến vệ sinh môi trường; Tệ nạn mê
tín dị đoan, đốt, rắc vàng mả trên đường đưa ma vẫn chưa được thực hiên một

cách nghiêm túc. .
Nhạc tang ở nhiều địa phương hoạt động còn quá giờ quy định ảnh hưởng
đến trật tự công đông. tệ nạn khóc mướn của các hội nhạc hiếu đã trở nên mối lo
và đã gây bức xúc cho nhân dân, ở một số địa phương tỏ ra bất lực trước tình
hình này.
Các dịp tuần tiết như 3 ngày, 49 ngày, 100 ngày, giỗ đầu, giỗ hết , cải táng
là dịp trả nợ miệng phiền phức và tốn kém, tình hình này đã và dang có nguy cơ “
Phát triển mạnh” ở một số địa phương.
*Về lễ hội :
Nhìn chung các lễ hội lịch sử cách mạng chưa được quan tâm tổ chức, Một
số lễ hội ở những di tích lớn bị mai một chưa được khôi phục.Một số lễ hội còn
do nhân dân tổ chức tự phát chưa có sự quản lý cụ thể của Nhà nước.
3- NGUYÊN NHÂN HẠN CHẾ :
* Việc cưới : Việc thực hiện Luật Hôn nhân và Gia đình chưa nghiêm túc.
Những mô hình mới, những phong tục mới chưa đủ sức thuyết phục và thay thế
cái cũ trong phong tục tập quán. Một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu
trong việc thực hiện nếp sống văn minh, tâm lý cá nhân chưa thắng nổi rào cản
của dư luận trong việc thực hiện nếp sống văn minh
* Việc tang : Chưa đình hình những nghi thức trong việc tang. trong đó có
nhạc tang và tang phục. Hình thức mai táng văn minh chưa được phổ biến.
Những người có điều kiện kinh tế, hoặc do mê tín dị đoan nên đã xây cất lăng mộ
lớn cho thân nhân, tạo nên sự mất công bằng trong xã hội.
* Lễ hội : Chính quyền một số địa phương chưa thực sự giữ vai trò quản lý,
điều hành lễ hội .Do sự tác động của cơ chế thị trường một bộ phận cán bộ và
nhân dân còn mang tư tưởng thương mại hoá lễ hội. ( ở một số di tích đã tự ý
thỉnh sư, đưa đồ thờ, tượng pháp vào di tích không đúng quy định, xây dựng trái
phép ở một số hạng mục trong khuôn viên di tích) . Việc tổ chức lễ họi chưa được
khoa học, văn minh.
IV. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CÔNG TÁC XÂY DỰNG NẾP SỐNG VĂN
MINH TRONG VIỆC CƯỚI, VIỆC TANG, LỄ HỘI.

Việc thực hiện Chỉ Thị 27- CT/TW ngày 12 tháng 1 năm 1998 của Bộ
Chính trị về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội ở
huyện Quảng Xương trong những năm qua đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp, góp
phần làm lành mạnh phong tục tập quán, góp phần thiết thực bảo vệ và xây dựng
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để giúp các địa phương trong quá trình tổ
chức thực hiện một cách thuận lợi, trên cơ sở các văn bản quy định của nhà nước.
Ban Chỉ đạo phong trào “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” huyện
Quảng xây dựng một số nội dung có tính định hướng về thực hiện nếp sống văn
minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội như sau :
.1. Nội dung thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới.
Yêu cầu của việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới là đảm bảo
đúng pháp luật, trang trọng, tiết kiệm nhưng không đơn giản hoá, tạo được ấn
tượng tốt đẹp, phù hợp với cuộc sống hiện đại, tiết kiệm thời gian, không phục hồi
hủ tục mê tín dị đoan.
- Thực hiện đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã, Thị trấn, tổ chức trao
giấy đăng ký kết hôn cho công dân. Lễ trao Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn do
người đại diện cho chính quyền địa phương chủ trì. Đây là thủ tục bắt buộc và
chính thức của việc kết hôn, thể hiện sự thừa nhận và bảo hộ của Nhà nước đối
với việc kết hôn của công dân.
- Trong việc tổ chức cưới ở gia đình và cộng đồng cần gìn giữ những nét
đẹp trong phong tục tập quán của từng địa phương. để lại dấu ấn tốt đẹp cho đôi
vợ chồng và khách mời tham dự.
- Nhửng thủ tục rườm rà cần lược bớt, chỉ nên tiến hành các lễ thức cơ bản
như dạm ngõ, lễ hỏi và lễ cưới, hoặc chỉ 2 lễ là lễ hỏi và lễ cưới.
- Tổ chức lễ cưới có thể bằng hình thức mời dự tiệc trà, hình thức “ Tiệc
trà” chỉ uống nước, ăn trầu và bánh kẹo, không được uống bia, rượu trong trong
cuộc vui. hoặc mời dự tiệc mặn trong phạm vi gia đình, họ hàng bạn bè thân
thích, không tổ chức phô trương, lãng phí, không thương mại hoá đám cưới.
- Thực hiện những phong tục mới tốt đẹp trong việc cưới như báo hỷ, đặt

vòng hoa ở Đài tưởng niệm nghĩa trang liệt sỹ, trồng cây ở vườn cây hạnh phúc.
Một số mô hình cưới văn minh, tiết kiệm do đoàn viên thanh niên đi đầu thực hiện
có thể nhân rộng ở nhiều nơi như cưới tập thể, tổ chức mời dự cưới bằng tiệc trà
có khiêu vũ hoặc biểu diễn văn nghệ.
- Uỷ ban nhân dân các xã, thị trấn , cần đầu tư xây dựng các thiết chế văn
hoá phục vụ cho việc cưới như xây dựng phòng cưới, quan tâm thực hiện đăng ký
kết hôn cho công dân, tu bổ Đài tưởng niệm các anh hùng, liệt sỹ để các đôi tân
hôn đang hương tưởng niệm.
2. Những nội dung thực hiện nếp sống văn minh trong việc tang.
Tổ chức việc tang là thể hiện mối quan hê tình cảm sâu sắc giữa người sống
và người chết và cả mối quan hệ giữa những người đang sống.Vượt ra ngoài tình
huyết thống gia tộc, việc tang còn mang tính xã hội rất sâu sắc, vì vậy yêu cầu của
việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc tang là tổ chức chu đáo, trang
nghiêm,khoa học
- Khi có người chết, gia đình hoặc thân nhân thực hiện khai tử theo quy
định. Việc chôn cất người chết phải thực hiện đúng những quy của Bộ Ytế hướng
dẫn về thi hành Điều lệ giữ vệ sinh bảo vệ sức khoẻ, đặc biệt quy định về vệ sinh
trong chôn cất và cải táng.
Những kinh nghiệm dân gian nhưng có cơ sở khoa học trong mai táng để
bảo vệ môi trường sống của con người cần lưu giữ.
- Tổ chức việc tang vệ sinh, tiết kiệm, xoá bỏ mê tín dị đoan và các hủ tục
lạc hậu như : khóc mướn; lăn đường, luồn cữu, trừ tà, bắt ma. Không phúng viếng
bằng thức ăn chín. Hạn chế vòng hoa, đối trướng đắt tiền, phô trương, lãng phí.
Không tổ chức cỗ bàn trong ngày tang lễ, đưa tang không cản trở giao thông.
- Lễ cúng 3 ngày , 49 ngày,100 ngày, cúng giỗ, cải táng chỉ làm gọn trong
phạm vi gia đình, họ hàng.
- Về nhạc tang, có thể sử dụng đội nhạc tang( đội kèn trống phường bát âm)
, nhạc hồn tử sỹ đối với lễ tang trong quân đội và lễ tang ở các nhà tang lễ, .
Không dùng nhạc hành khúc, nhạc hội trong lễ tang. Đồng bào theo đạo có thể sử
dụng nhạc tang của Tôn giáo. Không sử dụng loa máy cho đội nhạc tang không

sử dụng nhạc tang trước 5 giờ sáng hoặc sau 23 giờ đêm.
-Về tang phục, có thể dùng tang phục mầu đen hay mầu trắng may cắt gọn
gàng, dùng bộ tang phục của các nhà tang lễ hoặc chỉ dùng khăn tang theo quy
cách truyền thống.
- Bỏ dần những tục lệ như đội mũ rơm, chống gậy, rắc vàng mả. Việc xây
dựng nghĩa địa phải có quy hoạch và tiến tới xây dựng nghĩa trang thành công
trình tưởng niệm tại các địa phương.
- Thực hiện theo những mô hình và cách tổ chức tang lễ văn minh ( không
mời khách ăn cố trong đám tang, mỗi gia đình có một người đi dự đmá tang,
không mời hút thuốc lá). Đưa việc tang vào quy ước nếp sống văn hoá của cộng
đồng để nhân dân tự điều chỉnh
- Dựa vào Ban tang lễ ở địa phương, các lực lượng nòng cốt để thực hiện
nếp sống văn minh trong việc tang như Mặt trận Tổ quốc, Hội bảo thọ, Hội người
cao tuổi.
3-Những nội dung thực hiện nếp sống văn minh trong tổ chức lễ hội
.Tổ chức lễ hội khoa học, văn minh là yêu cầu đặt ra đối với các lễ hội hiện
nay .Thực hiện quy chế tổ chức lễ hội gắn với thực hiện luật di sản văn hoá và
thực hiện những văn bản quản lý nhà nước có liên quan đến việc tổ chức lễ hội.
Nội dung lễ hội phải đảm bảo nghi thức trang trọng, thành kính, các hoạt
động VH trong lễ hội lành mạnh, hấp dẫn , thu hút đông đảo nhân dân hưởng thụ
và sáng tạo văn hoá. Khôi phục có chọn lọc những nghi thức truyền thống , những
diễn xướng, trò dấn gian phù hợp với cuộc sống hiện đại , bài trừ mê tín dị đoan
và các hủ tục. Bảo vệ tốt cảnh quan môi trường và di tích , tổ chức tốt dịch vụ đẻ
phục vu nhu cầu của nhân dân .
Để tăng thêm hiệu quả giáo dục cần đưa thêm những nội dung mới, những
trò chơi mới, các hoạt động thể thao, văn nghệ có chọn lọc và phù hợp vào nội
dung của từng lễ hội.
IV-MỘT SỐ BIỆN PHÁP CÔNG TÁC XÂY DỰNG NẾP SỐNG
VĂN MINH TRONG VIỆC CƯỚI, TANG, LỄ HỘI
Việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội trong những

năm qua đã góp phần làm thay đổi nhận thức, cách nghĩ, cách làm , thói quen
trong đời sống xã hội theo chiều hướng tích cực, góp phần làm lành mạnh phong
tục tập quán và đời sống xã hội.Tuy nhiên, trước xu thế toàn cầu hoá ngày càng
rộng rãi và mạnh mẽ hiện nay việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới,
tang, lễ hội và trong phong tục tập quán nói chung đang gặp những thuận lợi và
thách thức rất lớn .Trong những năm tới nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo văn hoá
trong đó có nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng Tôn giáo và các sinh hoạt van hoá cộng
đồng của nhân dân sẽ ngày một cao .Nhưng lối sống thực dụng chỉ coi trọng lợi
ích kinh tế vẫn chưa giảm .Xu hướng duy tâm, tệ mê tín dị đoan, nạn cờ bạc số đề,
lãng phí đang ngày càng gia tăng và lan rộng
Trước thực tế đó việc thực hiện nếp sống văn minh Chỉ thị 27-CT/TW phải
được xác định là một bộ phận trong cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá để xây
dựng nếp sống văn minh, tiến bộ với tinh thần gạn đục khơi trong, ngăn chặn việc
phục hồi các hủ tục, mê tín đang có nguy cơ lan rộng trong xã hội
Thực tế đã cho thấy đê xây dựng tốt nếp sống văn minh trong việc cưới,
tang, lễ hội cần thực hiện một số biện pháp công tac sau :
1- Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh, chúng ta phải kiên trì, lấy biện pháp giáo dục, vận động, thuyết phục đẻ
nhân dân tự giác thực hiện. Tranh thủ sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền các
cấp dối với công tác xây dựng nếp sống văn hoá .Ngành Văn hoá Thông tin từ
huyện đến cơ sở cần làm tốt công tác tham mưu cho chính quyền, làm trung tâm
cho quan hệ phối hợp giữa các ngành, đoàn thể, giữ vai trò chủ đạo trong việc
thực hiện nếp sống văn minh .
2- Lấy xây đẻ chống, đây là cuộc vận động lâu dài, phức tạp làm chuyển
biến nhận thức và hành động từ mỗi cá nhân, gia đình đến cộng đồng xã hội, vì
vậy cân phải xây dựng những mô hình, những điển hình mới tiến bộ, phù hợp, đặc
biệt là xây dựng những nghi thức mới trong việc cưới, việc tang, lễ hội nhưng
không xa lạ với truyền thống dân tộc. Những mô hình mới phải đủ sức khẳng
định, đứng vững, thật sự ưu việt.
3- Đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục, nâng cao ý thức nhân dân với việc thực

hiện nếp sống văn minh, đặc biệt là đối với cán bộ làm công tác quản lý và đội
ngũ cán bộ công chức. Biểu dương kịp thời những nhân tố tích cực, phê phán
những biểu hiện tiêu cực để bảo vệ cái đúng, cái tiến bộ, bài trừ cái sai trái, cổ hủ.
Định hướng dư luận, đề cao sự tự trọng và ý thức thực hiện pháp luật về nếp sống
văn minh trong nhân dân. Trong công tác tuyên truyền, cần tận dụng hoạt động
của mạng lưới Câu lạc bộ, Nhà văn hoá, Bưu điện văn hoá, hệ thống Thư viện,
phòng đọc sách báo làng, các đội thông tin lưu động, các hội thi, hội diễn chuyên
đề hoặc lồng ghép với nội dung tuyên truyền thực hiện nếp sống văn minh trong
việc cưới, việc tang, lễ hội và xây dựng đời sống văn hoá nói chung.
4- Xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước nếp sống văn hoá trong việc
cưới, việc tang, lễ hội. Tổ chức để nhân dân cam kết đăng ký xây dựng Gia đình
văn hoá, Làng Văn hoá, Khu phố văn hoá, Đơn vị đạt chuẩn văn hoá, phát huy
tính dân chủ, tinh thần tự quản, tham gia quản lý trật tự trị an, xoá bỏ hủ tục, xây
dựng phong tục tập quán tốt đẹp.Tránh những biện pháp cưỡng bức thô bạo, phạt
tiền nặng, vận động thực hiện theo nếp sống văn minh phải đảm bảo dân chủ, bình
đẳng. Nêu cao vai trò gương mẫu của cán bộ, Đảng viên, công chức. Xã hội hoá
để huy động nhiều nguồn lực cho việc xây dựng nếp sống văn minh, chú trọng
xây dựng lực lượng nòng cốt để vận động quần chúng, trong đó có vai trò của
Trưởng thôn, già làng, trưởng dòng họ, các thầy cúng, các hội nhạc hiếu
5- Tăng cường công tác thanh tra, đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý và tổ
chức lễ hội. Kết hợp biện pháp vận động giáo dục với việc cương quyết xử lý
bằng pháp luật đối với những trường hợp cố tình vi phạm nếp sống văn minh.
6- Thường xuyên cung cấp tài liệu, tổ chức tập huấn để nâng cao trình độ
kiến thức cho lực lượng cán bộ văn hoá thông tin cơ sở.Chính quyền các cấp có
chính sách hỗ trợ, tăng cường đầu tư vật chất phương tiện để thực hiện theo nếp
sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội như xây dựng và đầu tư thêm
phương tiện cho phòng cưới, phòng trao Giấy Đăng ký kết hôn, xây dựng và tu bổ
Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ. Quy hoạch nghĩa địa và tiến tới xây dựng
nghiã trang nhân dân thành công trình tưởng niệm tại các địa phương.
V- ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ

1- Đề nghị Ban Thường vụ huyện uỷ có Nghị quyết chuyên đề về chỉ đạo
các xã, thị trấn về thực hiện Chỉ Thị 27/CT-TW của Bộ Chính trị trong việc cưới,
việc tang, lễ hội. Gắn trách nhiệm thực hiện Chỉ thị với việc bình xét thi đua trong
danh hiệu Đảng bộ trong sạch vững mạnh hàng năm.
2- Đề nghị UBND huyện có văn bản chỉ đạo các xã, thị trấn trong việc thực
hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, đặc biệt trong việc xây
dựng mô hình cưới tập thể và quy hoạch nghĩa trang nhân dân.
3- Đề nghị UBND các xã, thị trấn cần xây dựng kế hoạch chỉ đạo và thực
hiện tốt Chỉ Thị 27/CT-TW của Bộ Chính trị trong việc cưới, việc tang, lễ hội.
Chỉ đạo điểm tại các thôn đã chọn để xây dựng làng văn hoá tiêu biểu việc tổ
chức cưới tại nhà văn hoá thôn.
VI- KẾT LUẬN :
Xây dựng nếp sông văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội và trong nếp
sống nói chung là một bộ phận quan trọng của cách mạng tư tưởng và văn hoá ở
nước ta hiện nay là cuộc đấu tranh gay gắt trên mặt trận tư tưởng và văn hoá để
góp phần xây dựng con người Việt nam mới, chống lại lối sống thực dụng, vị kỷ,
coi thường những giá trị văn hoá dân tộc. Xây dựng nếp sông văn minh trong việc
cưới, việc tang, lễ hội và trong nếp sống nói chung là một yêu cầu tất yếu của
cách mạng Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Nhằm rút kinh nghiệm và tăng cương vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, tìm ra
những biện pháp hữu hiệu cho những bước đi trong thời gian tới, đạt chất lượng
cao trong thực hiện nếp sông văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội .
Báo cáo đề dẫn và các bài tham luận tại hội nghị chuyên đề lần này mới chỉ
là tập hợp bước đầu, vì vậy chưa tổng hợp hết được những bài học hay, kinh
nghiệm giỏi ở các cơ sở để hội nghị tham khảo trao đổi và rút kinh nghiệm.
Ban Chỉ đạo Phong trào “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”
huyện Quảng Xương mong rằng các vị đại biểu đại diện Sở Văn hoá- Thể thao,
Du lịch- Thường trực huyện uỷ- Thường trực HĐND-UBND huyện, các đồng chí
lãnh đạo các xã, thị trấn, đại biểu các ban ngành cấp huyện sẽ trao đổi, giới thiệu

những kinh nghiệm hay để từng bước nâng cao chất lượng xây dựng đời sống văn
hoá cơ sở, đáp ứng với yêu cầu thực tiễn của đất nước./.
BAN CHỈ ĐẠO PHONG TRÀO
“ TOÀN DÂN ĐOÀN KẾT XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ”
HUYỆN QUẢNG XƯƠNG




UỶ BAN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
XÃ QUẢNG LỢI Độc lập - Tự do -Hạnh phúc
Quảng Lợi, ngày 10/12/2015
THAM LUẬN
VỀ THỰC HIỆN NẾP SỐNG VĂN MINH TRONG VIỆC CƯỚI
Kính thưa các vị đại biểu về dự hội nghị.
Hội nghị chuyên đề về việc cưới, việc tang, lễ hội theo nếp sống văn minh
được tổ chức hôm nay, chúng tôi cho ràng đây là một hội nghị cần thiết và có ý
nghĩa rất lớn đối với việc xây dựng nếp sống văn hoá ở mỗi cơ sở hiện nay. Về dự
hội nghị chuyên đề Cưới ,tang và lễ hội hôm nay thay mặt các Cấp uỷ, chính
quyền và nhân dân xã Quảng Lợi tôi xin được tham luận về chuyên đề cưới theo
nếp sống văn minh, với những nội dung cụ thể sau:
kính thưa các đại biểu :
Hôn nhân là việc quan trọng trong cuộc đời của mỗi người, được Nhà
nước và xã hội coi trọng; được Pháp luật bảo hộ. Tổ chức việc cưới phù hợp với
điều kiện kinh tế- xã hội sẽ góp phần hoàn thiện Nếp sống- Phong tục của dân tộc
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xác định rõ ý nghĩa mục
đích của việc tổ chức cưới theo nếp sống văn minh là hết sức quan trọng đối với
một vùng quê còn nhiều khó khăn và vị trí địa lý lại rất xa trung tâm huyện ( gần
20 km ). Việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới theo tinh thần chỉ thị
27/CT và quyết định số 308/2005 của Chính phủ ban hành kèm theo quy định

thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới , việc tang và lễ hội đã được cán bộ
và nhân dân Quảng Lợi tổ chức chỉ đạo và thực hiện đạt kết quả và bước đầu
thành công từ tháng 3 năm 2006.
Để có được kết quả trong việc cưới thành công như hôm nay, trước hết là
vai trò lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện của cấp uỷ Đảng, sự chỉ đạo cương quyết
của chính quyền, sự phối hợp đồng bộ giữa các ban ngành đoàn thể từ xã đến
thôn. Đặc biệt là tinh thần trách nhiệm giám nghĩ giám làm trong công tác tham
mưu và tuyên truyền vận động nhân dân cũng như trong việc xử lý các tình huống
trong quá trình tổ chức thực hiện của các thành viên trong Ban chỉ đạo “ Phong
trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”.
Công tác xây dựng quy chế “ Thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới
“ được chỉ đạo một cách chặt chẽ, cụ thể, giao cho Ban văn hoá và Ban chấp hành
Đoàn thanh niên xây dựng kế hoạch chi tiết cho một đám cưới, phối hợp với cán
bộ tư pháp dự thảo thành quy chế, sau đó tổ chức hội nghị mở rộng đến ban vận
động xây dựng làng văn hoá ( Ban công tác Mặt trận các khu dân cư) xin ý kiến
bố sung, sửa đổi để hoàn thiện quy chế, trình bản quy chế “ Thực hiện nếp sống
văn minh trong việc cưới “ của Quảng Lợi đến Phòng Tư pháp huyện thẩm
địnênsau đó Chủ tịch UBND xã Quảng Lợi ra Quyết định ban hành ngày
15/4/2006.
Sau khi quy chế được ban hành giao cho Ban văn hoá thông tin tuyên
truyền nhiều buổi trên đài truyền thanh của xã phát đến các thôn, để rút kinh
nghiệm cho quá trình chỉ đạo - Ban chỉ đạo của xã đã thống nhất chọn một đám
cưới làm điểm, giao cho cán bộ văn hoá xây dựng kịch bản chương trình một lễ
cưới tổ chức tại hội trường UBND xã, Ban thường vụ thanh niên làm chủ hôn,
thời gian tổ chức không quá 60 phút ; nội dung, hình thức thực hiện nghiêm túc
theo quy chế đã đề ra .
Đám cưới đầu tiên ( chỉ đạo điểm ) ngoài những khách mời của gia đình nội
, ngoại, bạn bè của cô dâu và chú rể. Ban tổ chức còn mời toàn Ban chỉ đạo,
trưởng các ban nghành của xã, bí thư chi bộ, thôn trưởng 6/6 đơn vị đến dự.Và
đám cưới có khẩu hiệu “ Hôn trường không khói thuốc “ , việc trao quà của đám

cưới chỉ dành riêng cho cô dâu và chú rể, lễ cưới có đại diện của Chính quyền đến
dự và trao Giấy chứng nhận kết hôn, đại diện hai họ phát biểu cảm tưởng, đám
cưới được tổ chức trang trọng, lịch sự đã tạo được ấn tượng tốt đẹp trong Đoàn
viên thanh niên, việc tiếp khách tại nhà diễn ra hết sức đơn giản, gọn nhẹ, không
loa đài ầm ĩ làm ảnh hưởng đến việc học hành của các cháu học sinh, sinh hoạt
của nhân dân và an ninh trật tự trong khu dân cư.
Tính ra một đám cưới thực hiện theo nếp sống văn minh đã tiết kiệm cho
hai họ từ 7-10 triệu đồng , thấy được lợi ích thiết thực đó mà nhân dân trong xã đã
hưổng ứng thực hiện quy chế một cách tích cực. Tuy nhiên trong quá trình chỉ đạo
và tổ chức thực hiện cũng gặp rất nhiều khó khăn đặc biệt là về cơ sở vật chất
chưa đáp ứng nhu cầu của thanh niên như âm thanh , ánh sáng, dàn nhạc và khó
khăn hơn cả là rào cản về nhận thức trong một bộ phận cán bộ và quần chúng
nhân dân, cán bộ, Đảng viên chưa thực sự quyết tâm cao trong chỉ đạo và thực
hiện, tư tưởng trả nợ miệng của gia đình cô dâu và chú rể còn nặng nề.một số
thanh niên thì cho rằng làm như thế là áp đặt, phải để thanh niên đựôc tự do thoải
mái, đời người chỉ có một lần và đặc biệt hơn cả là tư tưởng chống đối của các
“dịch vụ cưới”.
Nắm rõ đựơc điểm yếu đó Ban chỉ đạo của xã đã phân công địa bàn phụ
trách cho từng thành viên trực tiếp đến gia đình chuẩn bị dựng vợ gả chồng cho
con để làm công tác tuyên truyền, vận động . Có thành viên trong Ban chỉ đạo
phải trực tiếp cùng gia đình chú rể đón tiếp khách tại nhà.UBND xã kịp thời đầu
tư hệ thống âm thanh, ánh sáng, cương quyết xử lý các biểu hiện quậy phá với các
hình thức xử lý hành chính và thông qua hội nghị, thông qua hệ thống truyền
thanh của xã, đồng thời viết bài biểu dương trên đài truyền thanh những gia đình,
những cặp vợ chồng thực hiện tốt quy chế. Vì vậy sau 3 năm thực hiện nếp sống
văn minh trong việc cưới đã có 100% đám cưới đựơc tổ chức tại hội trường
UBND xã , nhân dân trong xã đồng tình ủng hộ và đã thực sự trở thành một nép
đẹp văn hoá của quê hương.
Kính thưa các vị đại biểu : Để có đựơc kết quả như trên là do có sự chỉ đạo
cương quyết , chặt chẽ từ khi xây dựng kế hoạch đến lúc quy chế đựôc ban hành

và tổ chức thực hiện. Ban chỉ đạo “ Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hoá”.đã tập trung chỉ đạo tích cực, sâu sát, sự phối hợp nhịp nhàng của
các thành viên trong Ban chỉ đạo các ban ngành liên quan. Công tác chỉ đạo kịp
thời, dứt khoát đi vào khuôn khổ ngay từ đầu ( nhưng không cứng nhắc ). Đặc biệt
là vai trò lãnh đạo của tập thể cùng bàn bạc đi đến thống nhất một quan điểm chỉ
đạo chung “ Không mạnh ai nấy làm “ trong quá trình chỉ đạo thực hiện quy chế
có đánh giá rút kinh nghiệm, kịp thời bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với tâm lý và
nhu cầu của nhân dân.
Kính thưa hội nghị
Việc cưới theo nếp sống văn minh ở Quảng Lợi đã duy trì và đi vào nề nếp
trong 3 năm qua, và có thể khẳng định rằng thực hiện việc cưới theo nếp sống
văn minh là thể hiện đựơc “ Ý Đảng đã hợp lòng dân “. Vì vậy đề nghị với
Huyện uỷ, UBND huyện cần có những văn bản quy định chỉ đạo chung trên địa
bàn toàn huyện, có chính sách khen thưởng , hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất cho công
tác thực hiện cưới theo nếp sống văn minh . Vì ngoài về lợi ích kinh tế còn tiết
kiệm cho nhân dân những lãng phí không đáng có, mà lớn hơn cả là xây dựng
được một nét văn hoá mới tốt đẹp trong quần chúng nhân dân , dặc biệt là góp
phần không nhỏ trong việc giáo dục thế hệ trẻ hướng tới chân - Thiện - Mỹ.
Đối với các xã lân cận chúng tôi cũng mong muốn: Các đồng chí lãnh đạo
Đảng, chính quyền cùng với chúng tôi chỉ đạo thực hiện nếp sống văn minh trong
việc cưới. Xây dựng một nét đẹp văn hoá mới ở tất cả các xã trong vùng, trong
huyện.
TM/UBND
CHỦ TỊCH
Nguyễn Thái Thời
UỶ BAN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
XÃ QUẢNG TRUNG Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
Quảng Trung, ngày 12/12/2008
THAM LUẬN
Về thực hiện “ Cưới theo nếp sống văn minh”

Kính thưa các vị đại biểu về dự hội nghị .
Được về tham dự hội nghị chuyên đề về thực hiện nếp sống văn minh trong
việc cưới, việc tang, lế hội , cho phép tôi thay mặt tuổi trẻ xã Quảng Trung xin
được gửi tới quý vị đại biểu, các vị khách quý lời chào trân trong, lời chúc sức
khoẻ và chúc hội nghị thành công tốt đẹp.
Kính thưa các đồng chí tên tôi là Lê Đình Ninh- Chức vụ: Bí thư đoàn xã
Quảng Trung.
Thời gian qua được sự quan tâm lãnh đạo của Cấp uỷm Chính quyền, sự
phối kết hợp chặt chẽ của các ban ngành, đoàn thể, công tác xây dựng nếp sống
văn hoá ở Quảng Trung đã có nhiều khởi sắc. Thành công trong công tác xây
dựng đời sống văn hoá trên địa bàn toàn xã, phải kể đến công tác tổ chức cưới
theo nếp sống văn minh. Tuy nhiên thành công mà chúng tôi đã đạt được mới chỉ
là bước đầu, song đã giúp chúng tôi có niềm tin và niềm tin đó giúp chúng tôi
vững vàng để tiếp tục tổ chức thực hiện thành công mô hình này trên địa bàn toàn
xã trong những năm tiếp theo. Chúng tôi xin được lược trích một số công việc cụ
thể trong bước đi ban đầu của đoàn xã Quảng Trung trong thực hiện cưới theo nếp
sống văn hoá.
1. Cách thức vận động:
Căn cứ Chỉ thị 27 của Bộ chính trị, Quyết định 1323 của Chủ tịch UBND
tỉnh Thanh Hoá về việc cưới.
Ngày 20/9/2007, UBND xã Quảng Trung ban hành Quy định tổ chức hoạt
động việc cưới, tang, lễ hội và tổ chức triển khai, học tập đến cán bộ, nhân dân.
Chính thức đi vào thực hiện Quy chế từ ngày 1/1/2008.
Được sự phân công giao nhiệm vụ của Ban chỉ đạo, Đoàn thanh niên đảm
nhận công tác tổ chức cưới, bản thân tôi cùng với tập thể BCH đã tham mưu, xây
dựng nội dung chương trình cho 1 đám cưới và thông qua Ban chỉ đạo gồm 2 mô
hình:
- Cưới tại nhà văn hoá
- Cưới tại gia đình
Do điều kiện cơ sở vật chất ở các nhà văn hoá còn khó khăn chưa đảm bảo

cho công tác tổ chức, Đoàn thanh niên đã tham mưu đồng thời tiến hành hợp đồng
dịch vụ cưới với người địa phương trực tiếp có loa máy để cùng tổ chức thực
hiện.
Đối với đôi nam nữ đến UBND xã đăng ký kết hôn, trực tiếp gặp cán bộ
đoàn để làm hợp đồng ngày, giờ cưới và nạp kinh phí đặt cọc cho cán bộ tư pháp.
Về kinh phí:
- Cưới tại nhà văn hoá: 1.200.000đ ( Bao gồm cả công tác phục vụ loa đài,
bàn ghế, bánh kẹo, chè nước). Đến tháng 10/2015lên 1.500.000đ
- Cưới tại gia đình ( áp dụng cho nhà trai): 1.200.000đ ( Bao gồm cả công tác
phục vụ loa đài, bàn ghế, rạp, không phục vụ bánh kẹo, chè nước). Đến tháng
10/2015lên 1.500.000đ
* Nếu tổ chức tại nhà văn hoá thì đại diện Ban chỉ đạo đến dự trao giấy kết
hôn và có quà mừng
2. Thuận lợi:
- Gia đình cũng như nam nữ thanh niên đỡ lo về công tác tổ chức, giảm chi
phí, không ồn ào ảnh hưởng đến cộng đồng dân cư, đảm bảo giờ giấc, công tác
ANTT.
- Tập thể và nhân dân chưa phải đầu tư cơ sở vật chất nhưng đã đi vào thực
hiện được, đảm bảo việc làm cho công dân địa phương ( người có loa máy)
- Nhân dân đồng tình ủng hộ, cán bộ tin tưởng vào năng lực tham mưu và thổ
chức của BCH đoàn xã.
3. Khó khăn:
- Một bộ phận thanh niên chưa nhận thức tốt, còn thích loa đài hoành tráng.
- Cơ sở vật chất cũng như phương tiện phục vụ đma cưới còn thiếu, chưa đáp
ứng nhu cầu thực tế.
4. Kiến nghị, đề xuất:
- Cấp uỷ, Chính quyền các cấp cần có Nghị quyết lãnh đạo toàn diện, đồng
bộ , các tổ chức chính trị xã hội, các ban ngành chức năng cần phối hợp chặt chẽ
để tạo ra sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi nhận thức cho các tầng lớp nhân dân
trong, góp phần giữ gìn bản sắc của dân tộc trong xây dựng nếp sống văn hoá.

- Tăng cường đàu tư cơ sở vật chất đảm bảo cho phòng cưới ( Tại nhà văn
hoá các thôn hoặc phòng cưới thanh niên đặt tại trung tâm của xã) tạo ấn tượng tốt
đẹp cho đôi vợ chồng trẻ và khách đến dự lễ cưới theo mô hình này.
- Phòng văn hoá huyện và Huyện đoàn cần có những buổi toạ đàm rút kinh
nghiệm ở những mô hình đã thực hiện thành công như xã Quảng Lợi để chúng tôi
học tập.
- Có đánh giá rút kinh nghiệm và bổ sung vào quy định cho phù hợp, có khen
thưởng để khích lệ động viên những đơn vị thực hiện tốt mô hình có tính chất khó
khăn này.
Xin được cảm ơn và chúc sức khoẻ các đại biểu đã chú ý láng nghe./.
TM/ BCH XÃ ĐOÀN
BÍ THƯ
LÊ ĐÌNH NINH

UỶ BAN NHAN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
XÃ QUẢNG VỌNG Độc lập - Tự do -Hạnh phúc
Quảng Vọng, ngày 05/12/2008
THAM LUẬN
VỀ THỰC HIỆN NẾP SỐNG VĂN MINH TRONG VIỆC CƯỚI
Kính thưa các đại biểu về dự hội nghị:
Lời đầu tiên cho phép tôi thay mặt cho các đồng chí lãnh đạo đảng, chính quyền
và nhân dân xã Quảng Vọng xin gửi tới các vị đại biểu, các vị khách quý lời chào
trân trọng, lời chúc sức khoẻ và chúc hội gnhị thành công tốt đẹp.
Kính thưa các đồng chí : Tôi là: Lê Huy Liêm
Chức vụ: Chủ tịch UBND xã Quảng Vọng. Tôi rất phấn khởi được về dự và
phát biểu tham luận tại hội gnhị hôm nay. Trước hết chúng tôi đánh giá cao về ý
nghĩa và tầm quan trọng của hội nghị chuyên đề về việc cưới, việc tang, lễ hội mà
huyện Quảng Xương đã tổ chức . Có thể nói đây là dịp để các đơn vị trao đổi, học
tập kinh nghiệm của những đơn vị đã thực hiện thành công mô hình cưới như xã
Quảng Lợi

Đối với Quảng Vọng chúng tôi là một xã xa Trung tâm văn hoá huyện
Quảng Xương Một xã tỷ lệ hộ nghèo chiếm hơn 30%, dân trí thấp. Toàn xã có
5600 khẩu, trong đó 1/3 dân số theo đạo Thiên Chúa Giáo, tín ngưỡng khác nhau.
Bên lương thờ tổ tiên, ông bà cha mẹ. Nhân dân theo đạo Thiên Chúa Giáo thờ
chúa Giê Su và các Thánh Tông đồ khác.
Các hủ tục tập quán lâu đời để lại trong việc hiếu cũng như việc hỷ, dân
nghèo hay đua đòi ăn uống tổ chức khá tốn kém trong việc cưới xin ở địa phương
Quảng Vọng.
Thực hiện Chỉ thị 27/1998/CT-TW của Bộ Chính trị về thực hiện nếp sống
văn minh trong cưới, tang, lễ hội. Ban thường vụ Đảng uỷ- UBND đã tổ chức
triển khai trong Đảng bộ, lãnh đạo các đoàn thể và nhân dân, vận động toàn dân
thực hiện nếp sống mới.
Qua thời gian tuyên truyền vận động, để Chỉ thị thực sự đi vào cuộc sống,
Đảng uỷ, HĐND, UBND xã đã có chủ trương tiếp xúc cử tri tại các thôn xin ý
kiến nhân dân trong xã, cấm tiếp thuốc lá trong các đám cưới, đám tang, lễ hội,
vận động nhân dân không tổ chức ăn uống linh đình trong các đám ma, không tổ
chức ăn nhiều ngày trong các đám cưới, chủ trương này được nhân dân trong xã
ủng hộ.
Tại kỳ họp thứ 3 HĐND xã khoá 17 nhiệm kỳ 1999-2004 đã có Nghị quyết
cấm tiếp thuốc lá trong các đám cưới, thanh niên đến đăng ký kết hôn gia đình cả
trai và gái nếu cùng trong xã mỗi gia đình gửi lại UBND xã số tiền là 500 ngàn
đồng giao cho Ban văn hoá giữ, sau đám cưới tổ chức xong nếu gia đình không vi
phạm thì Ban văn hoá xã trả lại số tiền tạm giữ. Trường hợp gia đình vi phạm thì
số tiền trên xung quỹ nhà nước, biện pháp này bước đầu cũng đã gặp một số ý
kiến chưa đồng tình, song đại đa số cán bộ, Đảng viên và các tầng lớp nhân dân
ủng hộ, từ đó cho đến nay chưa có gia đình nào vi phạm Nghị quyết mà HĐND xã
đề ra. Hiện nay quy định này chúng tôi không áp dụng nữa vì thói quen tốt đẹp
này đã được nhân dân chấp nhận như một phong tục tập quán. Như vậy một kinh
nghiệm rút ra cho thấy trong chỉ đạo điều hành cần phải có sự kiên trì, có lúc, có
khi cần kết hợp cả hình thức tự nguyện và hình thức bắt buộc, tất cả vì mục đích

tốt đẹp, đem lại lợi ích cho nhân dân và tạo ra nét đẹp văn hoá cho quê hương,
chắc chắn nhân dân sẽ đồng tình ủng hộ .
Trong đám tang việc tổ chức ăn uống 3 ngày của bà con bên lương và tổ
chức ăn linh đình sau đưa ma về của bà con vùng giáo cũng đã từng bước được tổ

×