Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

BÀI KIỂM TRA GIỮA kỳ học phần đánh giá trong giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.71 KB, 17 trang )

BÀI KIỂM TRA GIỮA KỲ
Học phần Đánh giá trong giáo dục
ĐỀ BÀI:
Hãy chứng minh đánh giá là một khoa học. Mô tả việc sử dụng
một trong những thành tựu của khoa học đánh giá để quản lý. Bình
luận.
1
BÀI LÀM
1. Đánh giá là một khoa học
Đánh giá giáo dục là một quá trình thu thập, chỉnh lý, xử lý,
phân tích thông tin một cách toàn diện, khoa học, hệ thống những
thông tin về sự nghiệp giáo dục, để rồi phán đoán giá trị của nó
nhằm thúc đẩy công cuộc cải cách giáo dục, nâng cao trình độ phát
triển của giá dục, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của cộng đồng xã
hội. Đánh giá không chỉ là công cụ của quản lý giáo dục mà bản
thân nó cũng chính là một khoa học với đầy đủ các đặc trưng vốn có
của một khoa học, cũng có những thành tựu to lớn và những thành
tựu đó lại được ứng dụng vào quản lý để quay trở lại đánh giá.
Đánh giá là một khoa học, điều này được thể hiện qua những
luận điểm sau đây:
1.1. Đánh giá có những đặc trưng cơ bản, khác biệt với các khoa
học khác
Cũng giống như các lĩnh vực khoa học khác, đánh giá cũng có
những đặc trưng dưới đây:
- Tính khách quan: Đánh giá trong giáo dục bao giờ cũng cần
các thông tin thu thập về đối tượng được đánh giá, thông tin đó phải
đảm bảo tính toàn diện, tính hệ thống. Nghĩa là thông tin cần phải
được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau có liên quan đến đối tượng
đánh giá.
- Tính khoa học: Trong đánh giá, thông tin đầu vào và đầu ra
của đánh giá phải đảm bảo xử lý khoa học, chính xác, được phân


tích và lưu trữ thuận tiện.
2
- Tính thích ứng phổ biến: Khái niệm đánh giá trong giáo dục
phải thích ứng và dễ sử dụng trong toàn bộ hệ thống giáo dục.
- Tính mục đích: Đánh giá bao giờ cũng có mục đích, kết quả
đánh giá phải được sử dụng cho mục đích của cá nhân, tổ chức để
có những kế hoạch, chiến lược cải cách, nâng cao chất lượng giáo
dục.
1.2. Đánh giá có hệ thống các khái niệm phạm trù liên quan
Bên cạnh các đặc trưng, đánh giá còn có hệ thống các khái
niệm liên quan:
- Giá trị:
Khi một sự vật hiện tượng có những đặc trưng phù hợp với
mong muốn, mục tiêu của con người thì nó mới có giá trị. Mỗi sự
vật, hiện tượng, càng có nhiều đặc trưng phù hợp thì càng có giá trị.
Khái niệm giá trị có tính lịch sử và tính tương đối.
Đánh giá bao giờ cũng gắn liền với giá trị, vì đánh giá là thước
đo phản ảnh giá trị của sự vật hiện tượng. Phải thống nhất được
quan niệm về giá trị thì mới tạo được sự đồng thuận trong đánh giá.
Trong đánh giá, giá trị phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể và khách
thế đánh giá.
- Nhận thức:
Đánh giá là một hoạt động nhận thức, thông qua đánh giá, con
người nhận thức được bản chất của thế giới khách quan và xác định
được trạng thái của con người đối với thế giới khách quan. Chỉ khi
nào có nhận thức luận đúng đắn, một quan điểm lịch sử, khoa học,
3
khách quan trong đánh giá mới có thể đảm bảo xác định được tính
chỉnh thế của giá trị sự vật, mới có những kết luận đánh giá có giá
trị, có tác dụng đối mới, cải tạo hoặc thích ứng với sự vật, hiện

tượng của thế giới khách quan.
Quá trình nhận thức bao gồm 6 giai đoạn: Biết (tái hiện), Hiểu,
Vận dụng, Phân tích, Tổng hợp, Đánh giá. Như vậy, đánh giá là bậc
cao nhất của quá trình nhận thức.
- Thực tiễn:
Nhận thức của con người không thể tách rời thực tiễn. Thực
tiễn là nguồn gốc của nhận thức và cũng là mục đích của nhận thức.
Thực tiễn là nơi xuất phát của đánh giá và cũng là điểm kết
thúc của quá trình đánh giá. Sự kiểm nghiệm này được thể hiện:
Mức độ phát triển của khách thể giá trị có phù hợp với kết quả đánh
giá không? Mức độ thỏa mãn nhu cầu của chủ thể có giá trị có phù
hợp với kết quả đánh giá không? Nguyện vọng chủ quan của chủ
thể đánh giá có được đáp ứng không?
Đánh giá trong giáo dục về thực chất cũng là quá trình phán
đoán mức độ cao thấp của sự nghiệp giáo dục. Giá trị của sự nghiệp
giáo dục ở đây nhằm chỉ mối quan hệ giữa đặc tính, tính chất của sự
nghiệp giáo dục với nhu cầu của con người chủ thể trong thực tiễn
xã hội.
1.3. Đánh giá có những chức năng quan trọng
Đánh giá có các chức năng sau:
- Chức năng định hướng:
Đánh giá giáo dục được tiến hành trên cơ sở của mục tiêu giáo
4
dục. Nó tiến hành phán đoán độ sai lệch giữa hiện trạng thực tế và
mục tiêu đề ra trước đó, làm cho khoảng cách này ngày một ngắn
hơn.
Chính vì vậy đánh giá giáo dục có khả năng chỉ ra phương
hướng về mục tiêu, tôn chỉ giúp các trường lập kế hoạch dạy và học.
Đánh giá giáo dục chỉ ra phương hướng phấn đấu cho giáo viên và
học sinh, cho các cơ sở giáo dục và đào tạo nói chung.

Chức năng định hướng của đánh giá tồn tại khách quan, không
bị ý chí cá nhân của con người chi phối . Ngoài ra đánh giá giáo dục
còn có khả năng tác động và bảo đảm tính thông suốt cho quá trình
thực hiện các mục tiêu, chính sách giáo dục.
- Chức năng đốc thúc, kích thích, tạo động lực:
Thông qua đánh giá, giáo dục có thể kích thích tinh thần học
hỏi và vươn lên không ngừng của những đối tượng được đánh giá,
từ đó tạo ra một môi trường cạnh tranh chính thức hoặc phi chính
thức.
Trong quá trình quản lí dạy và học, căn cứ vào đặc đIểm công
việc và qui luật hoạt động của ngành giáo dục chúng ta có thể sử
dụng đánh giá để đôn đốc, tăng cường tinh thần cạnh tranh giữa các
đối tượng được đánh giá. Từ đó có thể giúp cho những đối tượng
này thực hiện được những mục tiêu đề ra trong tương lai.
- Chức năng sàng lọc, lựa chọn:
Trong thực tế chúng ta phải thường xuyên tiến hành lựa chọn,
sàng lọc, phân loại đối tượng.
Kết quả của quá trình đánh giá sẽ giúp phân loại, sàng lọc đối
5
tượng và từ đó sẽ có những chiến lược phù hợp với từng loại đối
tượng, giúp đối tượng tiến bộ không ngừng.
- Chức năng cải tiến, dự báo:
Nhờ có đánh giá mới phát hiện được những vấn đề tồn tại
trong công tác dạy và học, từ đó tiến hành sử dụng các biện pháp
thích hợp để bù đắp những chỗ thiếu hụt hoặc loại bỏ những sai sót
không đáng có. Đó chính là chức năng cải tiến và dự báo của đánh
giá. Ví dụ, nhờ có phân tích và nghiên cứu từng khâu, từng bước
trong quản lí giáo dục và kiểm tra đánh giá tính chính xác, độ thích
hợp của các hoạt đọng giáo dục, chúng ta mới có thể phán đoán
hoặc dự báo các vấn đề hoặc các khâu còn yếu kém trong công tác

dạy và học. Đây sẽ là căn cứ đáng tin cậy để tiến tới việc xác lập
mục tiêu cải tiến giáo dục.
Để tiến tới mục tiêu cuối cùng là nâng cao chất lượng dạy và
học, không thể thiếu đánh giá: đó chính là một trong những ý nghĩa
thực tế quan trọng nhất của công tác đánh giá.
1.4. Đánh giá có nội dung nghiên cứu
Những nội dung nghiên cứu chủ yếu của đánh giá giáo dục
như một ngành khoa học, bao gồm:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động đánh
giá: Loại hình đánh giá, quy trình đánh giá, chỉ đạo thực hiện đánh
giá
- Nghiên cứu tìm ra các phương pháp thực thi cụ thể, như:
Phương pháp xác định chuẩn cho các loại hình đánh giá, phương
6
pháp thu thập, xử lý thông tin của các loại hình đánh giá, nghiên
cứu áp dụng công nghệ tiên tiến vào quá trình đánh giá
- Nghiên cứu các loại hình đánh giá cụ thể như đánh giá kết
quả học tập, đánh giá giảng viên đại học, đánh giá phổ cập giáo dục.
1.5. Đánh giá có đối tượng nghiên cứu
Với tư cách là một ngành khoa học, đối tượng nghiên cứu của
đánh giá là các loại hình hoạt động giáo dục, mối quan hệ của
chúng, các chức năng của hoạt động giáo dục và nhu cầu thực thi
các chức năng ấy trong hệ thống xã hội. Điều đó có nghĩa là đánh
giá giáo dục nghiên cứu các phương thức hiệu quả nhất để giáo dục
có thể phát huy cao nhất hiệu quả của các nguồn lực để đạt các mục
tiêu về dân trí, nhân lực, nhân tài và nhân cách con người.
Nói cách khác, đối tượng nghiên cứu của đánh giá giáo dục là
hệ thống các mục tiêu của giá dục, cách thức và mức độ đạt được
mục tiêu của các cơ sở giáo dục, tác động vào việc đạt được mục
tiêu đối với nhu cầu phát triển của hệ thống xã hội.

1.6. Đánh giá có phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu của đánh giá giáo dục, bao gồm:
- Phương pháp lịch sử: Đây là phương pháp nghiên cứu, tìm
kiếm và phát hiện quy luật, bản chất của sự vật, hiện tưởng trong
quá trình chúng hình thành, phát triển và triển vọng. Phương pháp
lịch sử được sử dụng để thu thập, xử lý các thông tin mang tính hệ
thống, tính quy luật để tìm hiểu quy luật phát triển đặc thù, xu thế
phát triển của đối tượng nào đó trong sự nghiệp giáo dục.
7
- Phương pháp điều tra: Đây là phương pháp thường dùng
trong việc thu thập thông tin đánh giá từ các nguồn khác nhau,
nhằm xác định độ tin cậy và giá trị của thông tin đánh giá.
- Phương pháp quan sát: Quan sát là một phương pháp dễ
dùng nhất trong đánh giá. Tuy nhiên trong đánh giá giáo dục, quan
sát chỉ cung cấp các thông tin trên bề mặt các sự kiện. Cần thêm
thông tin từ nhiều nguồn khác nhau mới có được cơ sở khoa học
cho các phán đoán giá trị
- Phương pháp thực nghiệm: Phương pháp này cho phép thử
nghiệm một biện pháp, một giả thuyết trong điều kiện thực có đối
chứng với một mẫu ở tình trạng bình thường. Sau một thời gian nhất
định so sánh, đối chiếu kết quả của 2 cơ sở có thực nghiệm và cơ sở
đối chứng từ đó có những kết quả về một kết luận đánh giá nào đó.
- Phương pháp toán thống kê: Các phương pháp thường dùng
là thống kê, mô hình toán…có sử dụng máy tính và các thành tựu
khác của công nghệ thông tin.
1.7. Đánh giá có những thành tựu quan trọng
Đánh giá cũng giống như các ngành khoa học khác, đều có
những thành tựu nhất định trong lịch sử phát triển của mình, những
thành tựu đó được con người vận dụng vào trong thực tiễn quản lý
(để quay trở lại đánh giá). Các thành tựu của khoa học đánh giá

được thể hiện qua các bộ chuẩn đánh giá và các mô hình đánh giá:
- Các bộ chuẩn:
+ Chuẩn kiến thức, kỹ năng
8
Chuẩn kiến thức kỹ năng là một thành tựu của khoa học đánh
giá. Nó là các yêu cầu cơ bản, tối thiểu về kiến thức, kỹ năng của
môn học, hoạt động giáo dục mà học sinh cần phải và có thể đạt
được sau từng giai đoạn học tập. Chuẩn kiến thức, kỹ năng là căn cứ
để biên soạn sách giáo khoa, quản lý dạy học, đánh giá kết quả giáo
dục ở từng môn học, ngành học, hoạt động giáo dục nhằm bảo đảm
chất lượng và hiệu quả của quá trình giáo dục. Đồng thời nó là cơ sở
pháp lý cho công tác chỉ đạo, quản lý, dạy học, đặt ra mức độ cần
đạt để nhà trường thực hiện dạy học đảm bảo những yêu cầu cơ bản,
tối thiểu của chương trình giáo dục.
Đối với chuẩn kiến thức, kỹ năng bậc phổ thống, Bộ giáo dục
đã ban hành Quyết định 16/2006/QĐ-BGD ĐT ngày 5/5/2006 ban
hành chương trình giáo dục phổ thông. Đối với giáo dục đại học,
chuẩn kiến thức kỹ năng thể hiện ở khung chương trình giáo dục các
ngành do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, và các trường phải tuân
thủ.
+ Chuẩn chức danh
Bên cạnh các tiêu chuẩn về kiến thức và kỹ năng, khoa học
đánh giá cũng có thành tựu xây dựng các chuẩn chức danh: Chuẩn
hiệu trưởng các cấp, chuẩn giáo viên các cấp…
+ Bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục các cấp
Bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục các cấp do Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành là một thành tựu quan trọng của khoa
học đánh giá giáo dục ở Việt Nam. Dựa trên một bộ chuẩn đã xác
định một cách khách quan đảm bảo độ tin cậy, chủ thể đánh giá so
9

sánh với các đổi tượng để đánh giá mức độ phù hợp chuẩn của các
đối tượng. Đây là cách đánh giá đảm bảo độ tin cậy và độ giá trị
cao, cung cấp cho các đối tượng đánh giá độ chênh lệch so với
chuẩn để có kế hoạch phấn đầu đạt chuẩn. Hiện nay, từ mầm non,
tiểu học, THCS, THPT cho đến cao đẳng, đại học đã có các bộ
chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục.
- Bộ test
Các bộ test là một trong các thành tựu quan trọng của khoa
học đánh giá. Các bộ test nhằm đo các chỉ số phát triển của con
người về các khía cạnh khác nhau, có thể kể tên một số bộ test dưới
đây:
IQ: Chỉ số thông minh
EQ: Chỉ số thông minh cảm xúc
AQ: Chỉ số vượt khó
SQ: Chỉ số thông minh xã hội
PQ: Chỉ số đam mê
CQ: Trí thông minh sáng tạo
SQ: Trình độ biểu đạt ngôn ngữ
MQ: Chỉ số đạo đức
- Các mô hình đánh giá:
Ngoài các thành tựu kể trên, khoa học đánh giá còn để lại
thành tựu là các mô hình đánh giá. Có thể kể đến các mô hình chủ
yếu sau đây:
+ Mô hình đánh giá theo mục tiêu (Goal-based), hay mô hình
E B Taylor
10
+ Mô hình CIPP
+ Mô hình đánh giá sự khác biệt (Discrepancy Evaluation
Model)
+ Mô hình đánh giá không theo mục tiêu (Goal – Free model)

2. Mô tả việc sử dụng một trong những thành tựu của khoa học
đánh giá để quản lý tại đơn vị đang công tác
Trường Cao đẳng Vĩnh Phúc là cơ quan hiện nay em đang
công tác. Trường được thành lập ngày 23/4/1997 theo Quyết định số
384/QĐ-UBND của tỉnh Vĩnh Phúc. Ngày 15/10/2010, Bộ Giáo dục
và Đào tạo ban hành Quyết định số 4680/QĐ-BGDĐT đổi tên
trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Phúc thành trường Cao đẳng Vĩnh
Phúc.
Trường CĐ Vĩnh Phúc là cơ sở đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục của tỉnh, cung cấp nguồn nhân
lực cho tỉnh, đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ
thông và yêu cầu phát triển KT-XH của tỉnh.
Trường CĐ Vĩnh Phúc luôn phấn đấu đạt mục tiêu chất lượng
trên mọi mặt hoạt động đáp ứng với chuẩn giáo dục chung của cả
nước. Muốn vậy, điều quan trọng trước hết là phải đánh giá được
những mặt mạnh, những mặt còn tồn tại, từ đó, xây dựng kế hoạch
hành động để tiếp tục phát huy mặt mạnh, khắc phục mặt tồn tại,
không ngừng cải tiến và nâng cao chất lượng đào tạo của nhà
trường.
Trên tinh thần đó, trường CĐ Vĩnh Phúc đăng ký kiểm định
chất lượng đợt 1 cùng 14 trường CĐ trong cả nước. Trong quá trình
11
thực hiện công tác tự đánh giá, trường đã được Cục Khảo thí &
Kiểm định chất lượng Bộ GD&ĐT tạo điều kiện bồi dưỡng, tập
huấn, cung cấp tài liệu, tổ chức hội thảo về công tác Tự đánh giá.
Trường đã thành lập Hội đồng tự đánh giá để chỉ đạo công tác
tự đánh giá và kiểm định chất lượng của nhà trường. Hội đồng tự
đánh giá của trường do Hiệu trưởng làm Chủ tịch, có 15 thành viên
gồm: Ban Giám hiệu, Chủ tịch công đoàn, Bí thư Đoàn TNCS Hồ
Chí Minh, một số trưởng, phó các phòng khoa và một số CBGV.

Ban thư kí của Hội đồng gồm 7 thành viên do Trưởng phòng Khảo
thí và đảm bảo chất lượng làm trưởng ban và một số cán bộ, giảng
viên làm uỷ viên. 5 nhóm công tác chuyên trách của Hội đồng gồm
31 thành viên có trách nhiệm nghiên cứu, đánh giá 10 tiêu chuẩn với
55 tiêu chí của bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng trường CĐ.
Trường tiến hành nghiên cứu, phân tích kỹ từng tiêu chuẩn,
tiêu chí trong Bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng trường cao đẳng
do Bộ GD&ĐT ban hành kèm theo Quyết định số 66/2007/QĐ-
BGD&ĐT ngày 01/11/2007, huy động tất cả cán bộ, giảng viên,
công nhân viên của trường vào việc thu thập minh chứng phục vụ
cho công tác tự đánh giá.
Trong Báo cáo tự đánh giá của trường, các minh chứng được
mã hóa theo thứ tự Ha, b, c, trong đó:
- Ha: kí hiệu tiêu chuẩn.
- b: kí hiệu tiêu chí.
- c: kí hiệu số thứ tự minh chứng.
12
Ví dụ: H02.02.02 có nghĩa là: minh chứng thứ hai của tiêu chí 2,
tiêu chuẩn 2 như sau:
Tiêu chuẩn 2: Tổ chức và quản lý
Tiêu chí 2.2. Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng đáp ứng các tiêu
chuẩn và thực hiện đầy đủ quyền hạn, trách nhiệm được quy
định.
- Mô tả:
Hiệu trưởng là ông Hoàng Văn Bình – 54 tuổi, được bổ nhiệm
Hiệu trưởng năm 2009 ở tuổi 48, là người có phẩm chất chính trị,
đạo đức tốt, có uy tín, sức khỏe và năng lực công tác tốt. Hiệu
trưởng có học vị Tiến sỹ. Việc bổ nhiệm Hiệu trưởng được thực
hiện theo quy trình của Sở Nội vụ Vĩnh Phúc.
Phó hiệu trưởng phụ trách công tác liên kết đào tạo; công tác

học sinh sinh viên; công tác quân sự, quốc phòng; công tác đoàn
thể…là ông Trần Thanh Tùng, 42 tuổi, Tiến sỹ Sinh học, được bổ
nhiệm năm 2013 ở tuổi 41 sau 2 năm làm việc ở cương vị trưởng
phòng Đào tạo và Nghiên cứu khoa học của trường. Phó hiệu trưởng
là người có bề dày kinh nghiệm và thành tích, là người có phẩm
chất chính trị, đạo đức tốt, có uy tín, sức khỏe và năng lực công tác
tốt. Phó hiệu trưởng được bổ nhiệm thông qua quá trình thăm dò ý
kiến tín nhiệm tại trường [H02.01.02].
Phó hiệu trưởng phụ trách công tác đào tạo và nghiên cứu
khoa học, công tác khảo thí và đảm bảo chất lượng, công tác hành
chính…là ông Trần Văn Thuận, 49 tuổi, Thạc sỹ Quản lý giáo dục
được bổ nhiệm năm 2011, sau 6 năm làm Trưởng phòng Đào tạo và
13
Nghiên cứu khoa học. Đây cũng là một phó hiệu trưởng có bề dày
kinh nghiệm về công tác quản lý, có năng lực, phẩm chất và sức
khỏe tốt. Việc bổ nhiệm Hiệu trưởng được thực hiện theo quy trình
của Sở Nội vụ Vĩnh Phúc.
Xét theo điều 13 quy định về Hiệu trưởng trường Cao đẳng
trong Điều lệ trường Cao đẳng ban hành kèm theo Quyết định số
56/2003/QĐ-BGD&ĐT ngày 10 tháng 12 năm 2003 của Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo thì đội ngũ lãnh đạo của trường hiện tại đều
đáp ứng được các tiêu chuẩn về bổ nhiệm vị trí công tác của mình.
Giữa hiệu trưởng và 02 phó hiệu trưởng có sự phân công trách
nhiệm rõ ràng và cụ thể. Việc phân công này được thể hiện trong
bản Quy chế làm việc của trường ban hành chính thức tháng 11 năm
2007 [H02.02.04] và được thể hiện cụ thể trong công văn số
193/CĐVP – TB ngày 16/05/2011 gửi các phòng, khoa, tổ, trung tâm
của trường về phân công trách nhiệm của lãnh đạo.
Trên cơ sở các phạm vi công việc và trách nhiệm được phân
công hai phó hiệu trưởng phối hợp cùng hiệu trưởng quản lý và điều

hành các hoạt động của nhà trường. Cụ thể là:
Duy trì tổ chức và hoạt động của trường đã được xây dựng
trình cơ quan chủ quản phê duyệt năm 1998, thực hiện đề án đổi tên
trường thành trường Cao đẳng Vĩnh Phúc năm 2010, tổ chức lại các
đơn vị trực thuộc Ban lãnh đạo trường: từ 3 phòng, 4 khoa, 3 tổ trực
thuộc (phòng: Hành chính, Đào tạo và Nghiên cứu khoa học, Tổ
chức và Công tác sinh viên; khoa: Tự nhiên, Xã hội, Tiểu học, Bồi
dưỡng; tổ: Bộ môn chung, Tài vụ, Thư viện – Thiết bị) thành 6
14
phòng, 4 khoa, 2 tổ trực thuộc và 1 trung tâm (phòng: Hành chính –
Tổ chức, Quản trị - Thiết bị, Đào tạo và Nghiên cứu khoa học, Khảo
thí và Đảm bảo chất lượng, Công tác học sinh sinh viên, Kế hoạch –
Tài chính; khoa: Tự nhiên, Xã hội, Tiểu học, Bồi dưỡng; tổ: Bộ môn
chung, Thư viện và Trung tâm Tin học – Ngoại ngữ) [H02.02.06].
Tổ chức và thực hiện nhiệm vụ quyền hạn và trách nhiệm của
nhà trường thể hiện ở việc: xây dựng chương trình, kế hoạch giảng
dạy, giáo trình học tập đối với các ngành nghề được phép đào tạo
trên cơ sở chương trình khung do Bộ GD&ĐT ban hành nhằm đào
tạo nguồn nhân lực có phẩm chất chính trị đạo đức tốt, có kiến thức
và kĩ năng nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức
khỏe, có năng lực thích hợp với việc làm trong xã hội đáp ứng với
yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương và đất
nước [H02.02.07]; tiến hành nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ phục vụ nhà trường và xã hội [H02.02.08]; quản lý
giảng viên, cán bộ nhân viên đủ về số lượng, cân đối về cơ cấu trình
độ, cơ cấu ngành nghề, tuổi và giới [H02.02.09]; quản lý về sử
dụng đất đai trường sở, tài chính theo đúng quy định của pháp luật
[H02.02.10]; xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch kế hoạch
phát triển nhà trường phù hợp với chiến lược phát triển giáo dục và
quy hoạch mạng lưới trường Cao đẳng của nhà nước [H02.02.11];

bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức Đảng trong nhà trường. Xây dựng
được mối quan hệ chặt chẽ với các đoàn thể, tổ chức xã hội trong
các hoạt động của trường thể hiện ở việc: luôn theo sát, phối hợp
15
các hoạt động của các tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên, ban nữ
công trong trường [H02.02.12]. Đồng thời đảm bảo trật tự, an ninh
trong trường.
- Điểm mạnh: Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng đáp ứng các tiêu
chuẩn và thực hiện đầy đủ quyền hạn và trách nhiệm được quy định.
- Tồn tại: Do quy mô nhà trường ngày càng phát triển, yêu cầu
công tác ngày càng rộng và phức tạp nên Hiệu trưởng và Phó hiệu
trưởng phải kiêm nhiệm nhiều việc.
- Kế hoạch hành động: Những năm học tới nhà trường sẽ đề
đạt với cấp trên bổ sung thêm 01 Phó hiệu trưởng để giảm bớt việc
kiêm nhiệm của lãnh đạo trường và để chất lượng quản lý của lãnh
đạo với nhà trường ngày càng tốt hơn.
- Tự đánh giá: Đạt
3. Bình luận
Kiểm định chất lượng giáo dục là một vấn đề khá mới mẻ ở
Việt Nam nhưng đến nay, một hệ thống kiểm định chất lượng giáo
dục đã được triển khai trong cả nước, từ cấp tiểu học đến đại học.
Nằm trong xu thế đó, trường Cao đẳng Vĩnh Phúc cũng đã
tham gia kiểm định chất lượng giáo dục với mong muốn xác định
được mức độ đáp ứng được các tiêu chuẩn của Bộ giáo dục và Đào
tạo, biết được điểm mạnh, điểm yếu của mình để từ đó có kế hoạch
cải tiến và nâng cao chất lượng.
Việc tham gia kiểm định chất lượng theo tiêu chuẩn của Bộ, là
một biểu hiện rõ nét cho việc sử dụng thành tựu của khoa học đánh
giá vào công tác quản lý của nhà trường. Bộ chuẩn kiểm định chất
16

lượng của từng trình độ đào tạo đã được các chuyên gia đầu ngành
nghiên cứu, tính toán vì thế đảm bảo độ tin cậy và giá trị của kết quả
đánh giá. Đương nhiên chuẩn cũng do con người đặt ra, khó đạt
mức độ khách quan hoàn toàn và nó không giúp xác định được sự
tiến bộ và vị trí của nhà trường trong hệ thống giáo dục đại học Việt
Nam.
17

×