Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Hoàn thiện chính sách sản phẩm của công ty cổ phần bảo hiểm toàn cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (561.25 KB, 29 trang )

Hoàn thiện chính sách sản phẩm của công ty cổ
phần bảo hiểm toàn cầu

Lại Mạnh Quân

Trường Đại học Kinh tế
Luận văn ThS ngành: Quản trị kinh doanh; Mã số: 60 34 05
Người hướng dẫn: PGS.TS. Vũ Phương Thảo
Năm bảo vệ: 2010

Abstract: Nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận cơ bản về chính sách sản phẩm
đối với các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm. Khảo sát thực trạng chính sách sản phẩm
tại công ty cổ phần bảo hiểm Toàn Cầu giai đoạn 2007-2009. Đề xuất một số giải pháp
hoàn thiện chính sách sản phẩm của công ty cổ phần bảo hiểm Toàn Cầu trong thời gian
tới
Keywords: Quản trị kinh doanh; Chính sách; Sản phẩm; Bảo hiểm

Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối với mỗi doanh nghiệp chính sách sản phẩm giữ vai trò hết sức quan trọng trong hoạt
động kinh doanh cũng như duy trì sự sống còn của doanh nghiệp, đặc biệt với nền kinh tế thị
trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Chính sách sản phẩm trả lời cho câu hỏi cần thỏa mãn nhu
cầu gì của khách hàng, do vậy nó quyết định đến việc có khách hàng hay không có khách hàng, khách
hàng mua hay không mua sản phẩm của doanh nghiệp.
Chính sách sản phẩm là biến số đầu tiên và quyết định đến hoạt động của các biến số
khác của marketing-mix là giá cả, phân phối và xúc tiến hỗn hợp. Hiện nay, do việc phân phối
hàng hóa ra ngoài thị trường của các doanh nghiệp ngày càng đa dạng và phong phú với giả cả rẻ
hơn các đối thủ, điều đó đã tạo ra một cuộc chiến thực sự giữa các doanh nghiệp nên tạo được lợi
thế cạnh tranh đã khó, việc duy trì lợi thế đó còn khó khăn hơn. Các biến số khác của marketing-
mix có thể tạo được những lợi thế trong ngắn hạn nhưng sẽ dẫn tới những cuộc cạnh tranh khốc


liệt hơn trong giá cả và cách thức phân phối hàng hóa. Do đó, doanh nghiệp buộc phải tập trung
nghiên cứu, xem xét để hoàn thiện chính sách sản phẩm nhằm xây dựng và duy trì lợi thế cạnh
tranh trong dài hạn so với đối thủ cạnh tranh.
Công ty cổ phần bảo hiểm Toàn Cầu (GIC) được thành lập vào giữa năm 2006. Sau khi
thành lập, trên cơ sở nghiên cứu, phân tích các thành qủa đạt được của các doanh nghiệp khác
hoạt động trong ngành bảo hiểm, công ty đã cố gắng lựa chọn đổi mới và hình thành chính sách
sản phẩm để đáp ứng một cách tốt nhất các nhu cầu của khách hàng. Bằng giải pháp này, công ty
đã phần nào đáp ứng được nhu cầu của khách hàng và từng bước tạo được vị thế cạnh tranh so
với các doanh nghiệp bảo hiểm khác. Tuy nhiên, bên cạnh vẫn còn nhiều hạn chế khác tồn tại,
đặc biệt là vấn đề về sắp xếp, phát triển sản phẩm mới lại nổi nên như là vấn đề cần phải giải
quyết ngay. Bên cạnh đó là vấn đề quản lý chính sách sản phẩm như thế nào để đảm bảo chất
lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí và tính linh hoạt của chính sách đang là vấn đề thách thức đối
với lãnh đạo Công ty cổ phẩn bảo hiểm Toàn Cầu.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của chính sách sản phẩm và tính cấp thiết của vấn đề này
đối với Công ty cổ phần bảo hiểm Toàn Cầu, tác giả lựa chọn đề tài cho luận văn tốt nghiệp là:
“Hoàn thiện chính sách sản phẩm của Công ty cổ phần bảo hiểm Toàn Cầu”
2. Tình hình nghiên cứu
Trên thế giới hiện nay đã có nhiều giáo trình, sách tham khảo đề cập đến các vấn đề
marketing trong ngành bảo hiểm như: cuốn “Marketing Insurace” (paperback - 2008) do tác giả
Bajpai của Ấn độ viết; cuốn “Introduction to Insurance marketing” (hardcover - 2007) do tác giả
Ashish Barua viết; cuốn “The guide to understanding insurance marketing” của A.M.Best viết
năm 2009 và đang được bán rộng rãi trên thế giới; hay một số bài báo như: “Trend and
innovations in the marketing of insurance” của tác giả David L. Bickelhaupt đăng trên tạp chí
The Journal of Marketing, Vol. 31, No. 3 (Jul.,1967), pp. 17-22; hoặc John N. Coagrove,
compelition in insurance marketing (Cincinnati: The National Underwriter Company, 1960), pp.
1-2; Donald M. Witmeyer, “Marketing on the March” The Annals of the society of Chartered
Property and Casualty Underwriter, Vol. 18 (Summer, 1966), pp. 115-53, at p. 131
Còn ở Việt Nam chưa có giáo trình, sách tham khảo hay công trình nghiên cứu nào đề
cập đến vấn đề marketing trong bảo hiểm một cách hệ thống và đầy đủ, mà chỉ có một số bài viết
ở các tạp chí hay sách chuyên khảo đề cập đến một phần vấn đề mang tính chất cung cấp thông

tin về một khía cạnh nhất định của chính sách sản phẩm như: “Bạn đã quan tâm đến chính sách
sản phẩm?” của tác giả Thanh Bình đăng trên tạp chí bảo hiểm và tái bảo hiểm Việt Nam năm
2005 của Vinare; hay trong cuốn marketing sản phẩm (sách chuyên khảo) của PGS.TS Lưu Văn
Nghiêm, nhà xuất bản Đại học kinh tế quốc dân, năm 2008
Đối với công ty cổ phần bảo hiểm Toàn Cầu, đề tài “Hoàn thiện chính sách sản phẩm của
công ty cổ phần bảo hiểm Toàn Cầu” là một đề tài hoàn toàn mới, chưa có bất kỳ một công trình
nghiên cứu một cách hệ thống về chính sách sản phẩm nào được thực hiện tại Công ty trong suốt
những năm qua.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Mục đích: Hoàn thiện chính sách sản phẩm nhằm làm cho chính sách sản phẩm trở
thành công cụ đắc lực cho việc thực hiện mục tiêu kinh doanh của công ty cổ phần bảo hiểm
Toàn Cầu.
- Nhiệm vụ:
 Nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận cơ bản về chính sách sản phẩm đối
với các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm
 Khảo sát thực trạng chính sách sản phẩm tại công ty cổ phần bảo hiểm Toàn
Cầu giai đoạn 2007-2009
 Kinh nghiệm của một số hãng đã thành công trong việc lựa chọn chính sách sản
phẩm phù hợp
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động quản lý chính sách sản phẩm tại công ty cổ phần bảo
hiểm Toàn Cầu
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu tình hình quản lý chính sách sản phẩm trong giai đoạn
2006-2009 của GIC trên phạm vi toàn lãnh thổ Việt Nam được sử dụng cho những đối tượng
khách hàng tiêu dung sản phẩm bảo hiểm của công ty cổ phần bảo hiểm Toàn Cầu
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, luận văn đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác
nhau, cụ tthể là:
- Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac - Lênin được sử
dụng rộng rãi trong luận văn như những phương pháp nghiên cứu chủ đạo.

- Bên cạnh đó, luận văn cũng sử dụng kết hợp các phương pháp như: phương pháp xây
dựng giả thuyết, mô hình hóa và hệ thống hóa trong quá trình nghiên cứu và phân tích.
- Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: so sánh, thống kế, phân
tích, tổng hợp, bảng hỏi-thông tin ở dạng sơ cấp…để nghiên cứu các nội dung cụ thể.
6. Dự kiến đóng góp của Đề tài
* Đóng góp về mặt lý thuyết:
Tác giả mong muốn góp phần hệ thống hóa một số vấn đề liên quan đến chính sách sản
phẩm và chỉ rõ tầm quan trọng của chính sách sản phẩm đối với sự tồn tại và phát triển của công
ty cổ phẩn bảo hiểm Toàn Cầu
* Đóng góp về mặt thực tiễn:
+ Khảo sát, phân tích để chỉ rõ những mặt tích cực, những mặt hạn chế đồng thời làm
rõ những nguyên nhân ảnh hưởng đến chính sách sản phẩm của công ty cổ phần bảo hiểm Toàn
Cầu.
+ Từ những nguyên nhân đó, tác giả đề xuất một số giải pháp hoàn thiện chính sách sản
phẩm của công ty cổ phần bảo hiểm Toàn Cầu trong thời gian tới.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được kết cấu thành ba chương như sau:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về chính sách sản phẩm của doanh nghiệp kinh
doanh bảo hiểm phi nhân thọ.
- Chương 2: Thực trạng hoạt động chính sách sản phẩm tại công ty cổ phẩn bảo hiểm Toàn
Cầu (GIC)
- Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách sản phẩm của công ty cổ phần
bảo hiểm Toàn Cầu (GIC)

CHƢƠNG I:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH SẢN PHẨM CỦA DOANH
NGHIỆP KINH DOANH BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ

1.1 Đặc thù doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm và vai trò của chính sách sản phẩm.
1.1.1 Đặc thù doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm

1.1.1.1 Kinh doanh bảo hiểm luôn gắn liền với hoạt động đầu tư tài chính
Như chúng ta đã biết bản chất của doanh nghiệp bảo hiểm là một định chế tài chính và
phải đứng vững được trên “hai chân” của mình: “một chân” là kinh doanh bảo hiểm gốc còn
“chân còn lại” là đầu tư tài chính và chỉ khi nào “hai chân” này hoạt động trơn chu, nhịp nhàng
thì lúc đó doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm mới có khả năng phát triển bền vững trong tương
lai
1.1.1.2 Đặc điểm về sản phẩm
Mục đích của bảo hiểm là đem lại sự an tâm, sự an toàn về mặt tài chính cho người tham
gia bảo hiểm trước những rủi ro có thể xảy ra. Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm trừu tượng nên
không thể thấy được và không dễ gì nhận biết được lợi ích cơ bản, đặc tính, công dụng của sản
phẩm.
Sản phẩm bảo hiểm là lời hứa, là sự cam kết của doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bồi thường
hoặc trả tiền bảo hiểm cho khách hàng khi xảy ra tổn thất, như vậy công tác chăm sóc khách
hàng, tư vấn khách hàng phải được xây dựng theo từng loại sản phẩm khác nhau nhằm phụ vụ
khách hàng một cách tốt nhất.
Đối với người tiêu dùng thì không bao giờ mong muốn được sử dụng sản phẩm
Sản phẩm bảo hiểm có chu trình kinh doanh ngược.
1.1.1.3 Đặc điểm về khách hàng
Bất kỳ ai cũng có thể trở thành khách hàng được dù đó là cá nhân hay tổ chức thì cũng
luôn có những sản phẩm phù hợp để cung cấp cho khách hàng.
Khách hàng của các doanh nghiệp bảo hiểm được phân bổ với phạm vi không gian địa lý
rộng khắp vì khách hàng ở bất kỳ đâu cũng có thể tham gia bảo hiểm hoặc khách hàng tham gia
bảo hiểm tại một địa điểm cụ thể và di chuyển sang một địa điểm khác…
1.1.1.4 Hoạt động nhận và nhượng tái bảo hiểm
- Nhận tái bảo hiểm: doanh nghiệp bảo hiểm nhận (mua) dịnh vụ bảo hiểm từ các doanh
nghiệp bảo hiểm khác để cùng chia sẻ rủi ro và phải gánh chịu tổn thất.
- Nhượng tái bảo hiểm: doanh nghiệm bảo hiểm nhượng (bán) sản phẩm bảo hiểm cho
các doanh nghiệp bảo hiểm khác để san sẻ rủi ro và giảm bớt phần trách nhiệm khi tổn thất xảy
ra.


1.1.1.5 Đặc điểm về quy mô vốn đầu tư
- Bảo hiểm không cần phải bỏ vốn để đầu tư dây chuyền sản xuất, máy móc, … trừ
những thiết bị cần thiết cho hoạt động văn phòng;
- Bảo hiểm không có tồn kho nên doanh nghiệp cũng không cần phải đầu tư vào kho chứa
- Vốn đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm chủ yếu là để dự phòng bồi thường trong giai
đoạn đầu doanh nghiệp đi vào hoạt động mà chưa có quỹ dự phòng bồi thường và quỹ dự phòng
tài chính.
1.1.1.6 Mối quan hệ giữa doanh nghiệp bảo hiểm với doanh nghiệp khác.
- Liên kết, phối hợp với các doanh nghiệp giám định về tài sản để xác định nguyên nhân
tổn thất và mức độ tổn thất để làm căn cứ giải quyết bồi.
- Phối hợp với bên Công an để xác định nguyên nhân tổn thất, kiểm tra và ngăn chặn việc
trục lợi bảo hiểm
- Phối hợp chặt chẽ với các Bệnh viện, trung tâm y tế, các giáo sư, bác sỹ, chuyên gia
trong lĩnh vực y tế để có căn cứ bồi thường chính xác đối với các loại hình bảo hiểm con người.
1.1.2 Vai trò của chính sách sản phẩm
Sản phẩm mà doanh nghiệp tung ra trên thị trường không được khách hàng chấp nhận và
mua sắm thì doanh nghiệp sẽ không tồn tại hoặc sẽ phải rút lui khỏi thị trường.
Sản phẩm quyết định đến việc có tạo ra khách hàng và phát triển khách hàng của doanh
nghiệp, nó quyết định sự sống còn của doanh nghiệp trên thị trường hay nói cách khác trước khi
nghĩ đến các chiến lược kinh doanh thì doanh nghiệp phải tập trung nguồn lực để xây dựng sản
phẩm tốt nhất trước khi tung ra thị trường.
Ngoài ra, chính sách sản phẩm chính là xương sống, là nền tảng của chiến lược kinh
doanh, là cơ sở để hoạch định các hoạt động marketing-mix tiếp theo của doanh nghiệp. Nếu
không có sản phẩm thì mọi hoạt động marketing khác của doanh nghiệp đều không có ý nghĩa.
1.2 Quản lý chính sách sản phẩm
1.2.1 Lựa chọn chính sách sản phẩm
1.2.1.1 Cơ sở để hoạch định chính sách sản phẩm
Ngày nay, do nhiều nguyên nhân khác nhau như thị phần của các sản phẩm đang có xu
hướng bão hòa, mức độ trunh thành của khách hàng đối với sản phẩm ngày càng giảm, đặc biệt
là sản phẩm bảo hiểm. Cơ sở để hoạch định chính sách sản phẩm thể hiện ở các điểm sau:

Thứ nhất là dựa vào nhu cầu của khách hàng luôn luôn thay đổi với tốc độ ngày càng
nhanh, bên cạnh đó mức sống và thu nhập được nâng lên vì vậy nhu cầu về an toàn được quan
tâm đặc biệt.
Thứ hai là dựa vào nguồn lực của doanh nghiệp, mỗi doanh nghiệp bảo hiểm có những
thế mạnh, đặc thù riêng của mình và luôn tận dụng những thế mạnh đó để thúc đẩy hoạt động
kinh doanh. Những doanh nghiệp với nguồn lực dồi dào có thể đề nghị với thị trường một chính
sách sản phẩm khá đầy đủ tất cả các sản phẩm bảo hiểm
Thứ ba là dựa vào tình hình cạnh tranh trên thị trường, phải nói rằng bảo hiểm và ngân
hàng là hai ngành có mức độ cạnh tranh khốc liệt nhất tại thị trường Việt Nam hiện nay. Các
doanh nghiệp hoạt động trong ngành bảo hiểm đã lên đến con số 40
Thứ tư là dựa vào quy định của Pháp luật trong lĩnh vực bảo hiểm. Với vai trò quan trọng
nhất là bảo vệ và chia sẻ rủi ro ngành bảo hiểm phi nhân thọ được Pháp luật “hỗ trợ” bằng những
sản phẩm bắt buộc người dân phải tham gia bảo hiểm, nếu không tham gia sẽ bị chế tài.
1.2.1.1 Các dạng chính sách sản phẩm
- Chính sách đa dạng hóa (hay còn gọi là chính sách phối hợp theo chiều rộng): được
hình thành trên cơ sở phối hợp nhiều tuyến sản phẩm khác nhau trong danh mục sản phẩm mà
doanh nghiệp đưa ra cho khách hàng. Có hai hình thức đa dạng hóa, đó là đa dạng hóa đồng tâm
và đa dạng hóa kết hợp.
- Chính sách chuyên môn hóa (hay còn gọi là chính sách phối hợp theo chiều sâu): có
nghĩa là doanh nghiệp chỉ đưa ra thị trường một tuyến sản phẩm với các đơn vị sản phẩm trong
tuyến khác nhau về cấp độ chất lượng, kích cỡ, kiểu dáng và mẫu sắc… Chính sách này còn
được gọi là chính sách chuyên môn hóa.
- Chính sách tạo dựng ưu thế cho sản phẩm: chính sách này tạo ưu thế hay xác định lại vị
trí cho sản phẩm là cách gây ấn tượng với người tiêu thụ về sản phẩm của doanh nghiệp khi so
sánh với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh.
1.2.2 Quản lý danh mục sản phẩm và tuyến sản phẩm
Hiện nay, các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước cũng như quốc tế đều lựa chọn chính
sách đa dạng hóa sản phẩm để đáp ứng nhu cầu đa dạng và liên tục thay đổi của khách hàng.
Trên thực tế hiện nay, các doanh nghiệp lựa chọn chính sách đa dạng hóa sản phẩm với
danh mục và tuyến sản phẩm rất phong phú.

1.2.3 Quản lý thƣơng hiệu sản phẩm
* Vai trò của thương hiệu
Có thể nói thương hiệu là một tài sản vô hình quý giá của một doanh nghiệp. Thương
hiệu có thể mang lại cho doanh nghiệp những lợi ích như tạo ra sự trung thành lớn hơn từ phía
khách hàng.
Đối với doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm thì vai trò của thương hiệu càng quan trọng vì
sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm vô hình.
* Lựa chọn chiến lược thương hiệu
- Chiến lược thương hiệu dẫn dắt chiến lược sản phẩm (chiến lược (1))
- Chiến lược thương hiệu phụ thuộc vào chiến lược sản phẩm (chiến lược (2))
- Chiến lược Hybrid (chiến lược (3)): trên thực tế thị trường, có nhiều doanh nghiệp khởi
đầu bằng chiến lược (1), sau đó do sức ép cạnh tranh, họ buộc phải điều chỉnh chiến lược thương
hiệu và áp dụng cả chiến lược (2) để duy trì vị trí thị trường.
* Định vị thương hiệu
- Lựa chọn định vị rộng cho thương hiệu
- Lựa chọn định vị đặc thù cho thương hiệu sản phẩm
- Lựa chọn định vị giá trị cho thương hiệu sản phẩm
* Bảo vệ thương hiệu
Các doanh nghiệp bảo hiểm hiện nay đều đang dành rất nhiều công sức và tiền của để bảo
vệ thương hiệu của mình
* Phát triển thương hiệu
Khi đã bảo vệ thương hiệu thành công thì việc khai thác, phát triển, tận dụng thương hiệu
để đem lại cho doanh nghiệp những lợi ích lơn hơn nữa từ đó tăng khả năng tạo ra lợi nhuận cho
doanh nghiệp.
1.2.4 Quản lý sản phẩm mới
* Sự cần thiết phải phát triển sản phẩm mới/sản phẩm mới
Sản phẩm bảo hiểm cũng giống như sản phẩm vật chất khác, nó cũng có chu kỳ sống của
nó nên ở giai đoạn cuối của chu kỳ đời sống của sản phẩm, khả năng sinh lợi của sản phẩm bảo
hiểm
Bên cạnh đó, sự thay đổi hay xu hướng mới của nhu cầu khách hàng đối với sản phẩm

bảo hiểm.
* Quy trình phát triển sản phẩm mới
Trong quá trình phát triển của doanh nghiệp bảo hiểm việc phát triển sản phẩm bảo hiểm
mới là việc làm diễn ra thường xuyên liên tục.
1.3 Đánh giá chính sách sản phẩm
1.3.1 Mục đích
Đánh giá chính sách sản phẩm để biết được mức độ phù hợp của chính sách sản phẩm đối
với mục tiêu phát triển của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó đánh giá chính sách sản phẩm còn giúp doanh nghiệp xem xét mức độ phù
hợp của chính sách sản phẩm với yêu cầu của thị trường.
Ngoài ra, việc đánh giá chính sách sản phẩm còn giúp doanh nghiệp có thể cải thiện được
vị trí cạnh tranh cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm và uy tín thương hiệu vì một chính
sách.
Đề nghị với thị trường một danh mục sản phẩm hoàn toàn mới để mang lại hiệu quả cao
hơn.
1.3.2 Phƣơng pháp đánh giá
Phương pháp so sánh thực hiện với kế hoạch giúp doanh nghiệp có thể nhận biết được
bằng trực quan về thực trạng chính sách của mình
Phương pháp so sánh năm trước với năm sau giúp doanh nghiệp phân tích mức độ tăng
doanh thu trong cùng một thời kỳ của năm sau so với năm trước tăng bao nhiêu phần trăm.
Phương pháp so sánh với doanh nghiệp khác để biết được vị trí cạnh tranh của doanh
nghiệp so với đối thủ cạnh tranh
* Chỉ tiêu đánh giá định tính:
Thứ nhất, chính sách sản phẩm phù hợp với mục tiêu phát triển của doanh nghiệp: mỗi
doanh nghiệp bảo hiểm đều xác định cho mình một mục tiêu tổng quát, lâu dài và xuyên suốt
trong quá trình phát triển của doanh nghiệp tuy nhiên tại mỗi thời kỳ doanh nghiệp đều xác định
những mục tiêu khác nhau để cân đối nguồn lực nhằm đạt được mục tiêu đó.
Thứ hai, chính sách sản phẩm phù hợp với yêu cầu thị trường: một danh mục sản phẩm
tốt, phù hợp với thị trường sẽ tạo ra số lượng khách hàng lớn và góp phần tăng doanh thu và lợi
nhuận cho doanh nghiệp và ngược lại.

Thứ ba, chất lượng sản phẩm và uy tín thương hiệu: chất lượng sản phẩm tốt, uy tín
thương hiệu mạnh sẽ là một trong các yếu tố giúp doanh nghiệp đánh giá chính sách sản phẩm
của mình một cách tốt nhất.
Thứ tư, tính nhạy bén, linh hoạt (khả năng thích ứng) của các quyết định về chính sách
sản phẩm đối với sự thay đổi của thị trường: danh mục sản phẩm bảo hiểm cũng giống như danh
mục các sản phẩm khác phải có “tính mở” trong các quyết định liên quan đến sản phẩm.
Thứ năm¸ sự cải thiện vị trí cạnh tranh trên thị trường: một chính sách sản phẩm phù
hợp, hiệu quả sẽ mang đến cho doanh nghiệp một vị trí cạnh tranh mạnh mẽ.
* Chỉ tiêu đánh giá định lƣợng:
Một là thị phần của doanh nghiệp: thị phần là thước đo sự hài lòng của khách hàng đối
với sản phẩm bảo hiểm của doanh nghiệp doanh thu phí bảo hiểm là chỉ tiêu quan trọng nhất để
sắp xếp thứ tự của các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường.
Hai là đóng góp của từng sản phẩm vào doanh thu và lợi nhuậnd: doanh nghiệp bảo
hiểm cũng cần xem xét và nghiên cứu hai vấn đề là: doanh thu bảo hiểm của từng sản phẩm
trong tổng doanh thu của doanh nghiệp và chi phí tương ứng để triển khai sản phẩm đó của
doanh nghiệp.
Ba là hiệu qủa vốn đều tư phát triển sản phẩm mới: công tác phát triển sản phẩm mới và
việc làm rất quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm.
Bốn là chất lượng của sản phẩm: trong bài viết này, tác giả đề cập đến thời gian cung cấp
sản phẩm bảo hiểm và thời gian giải quyết bồi thường cho khách hàng khi không may xảy ra tổn
thất.

CHƢƠNG II:
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY CỔ PHẨN BẢO HIỂM
TOÀN CẦU (GIC)

2.1 Khái quát chung về công ty cổ phần bảo hiểm Toàn Cầu (GIC)
2.1.1 Hình thành và phát triển
2.1.1.1 Quá trình thành lập doanh nghiệp
- Công ty cổ phần bảo hiểm Toàn Cầu được thành lập ngày 19 tháng 06 năm 2006 theo

giấy phép số 37/GP/KDBH do Bộ trưởng Bộ tài chính cấp với các thông tin về doanh nghiệp như
sau:
+ Tên doanh nghiệp: CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM TOÀN CẦU
+ Tên tiếng anh: GLOBAL INSURANCE COMPANY
+ Tên viết tắt: GIC

+ Logo:

+ Phương châm hoạt động (Slogan): Vì quyền lợi khách hàng để phát triển
+ Hình thức doanh nghiệp: doanh nghiệp cổ phần bảo hiểm
+ Địa chỉ trụ sở chính: Lầu 2, tòa nhà ITAXA HOUSE, 126 Nguyễn Thị Minh Khai,
Phường 6, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.
+ Địa chỉ Hội sở phía Bắc: tầng 4, số 141 Lê Duẩn, phường Cửa Nam, quận Hoàn
Kiếm, Thành phố Hà Nội
+ Chi nhánh và phòng giao dịch: GIC có 13 chi nhánh và hơn 40 phòng kinh doanh trên
cả nước.
- Phạm vi hoạt động của Công ty cổ phần bảo hiểm Toàn Cầu (GIC): kinh doanh bảo
hiểm và tái bảo hiểm phi nhân thọ và đầu tư tài chính. Chuyên tư vấn, cung cấp khoảng 20 nhóm
sản phẩm bảo hiểm thương mại bao gồm gần 100 sản phẩm bảo hiểm cho kỹ thuật, Hàng hải, Tài
sản, Trách nhiệm, Con người, Xe cơ giới
- Định hướng hoạt động của Công ty cổ phần bảo hiểm Toàn Cầu (GIC): Mục tiêu tổng
quát: “Xây dựng và phát triển GIC thành một Công ty bảo hiểm phi nhân thọ hàng đầu của Việt
Nam hoạt động đa ngành trong lĩnh vực sản phẩm tài chính, có thương hiệu, có uy tín và thị phần
lớn về kinh doanh bảo hiểm”
- Nguồn nhân lực: GIC có khoảng 300 CBCNV năng động, nhiệt tình, có kinh nghiệm
trên thị trường bảo hiểm, làm việc với quan điểm “Giỏi chuyên môn nghiệp vụ, giữ nghiêm đạo
đức nghề nghiệp”
- Vốn và các cổ đông chính:
+ Vốn thực góp năm 2007: 300.000.000.000 đồng
Đến năm 2012: 1.000.000.000.000 đồng

+ Các cổ đông chính:
Tập Đoàn Điện Lực Việt Nam (EVN)
Tổng công ty CP Tái Bảo hiểm Quốc gia (VINARE)
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đông Á (EAB)
Công ty đầu tư phát triển đô thị và khu CN Sông Đà (SUDICO)
Tổng Công Ty Bay Sản phẩm Việt Nam (SFC)





2.1.1.2 Quá trình phát triển doanh nghiệp
- Tháng 06/2006: Bộ tài chính cấp giấy phép thành lập và hoạt động
- Tháng 10/2006: đăng ký bộ sản phẩm bảo hiểm với Bộ tài chính
- Tháng 11/2006: chính thức cung cấp sản phẩm ra ngoài thị trường và khách hàng.
- Năm 03/2007: triển khai chương trình hợp tác toàn diện với Tập đoàn Điện lực Việt
Nam (EVN); đây là một lợi thế của GIC là dựa vào tiềm lực và mạng lưới rộng khắp của EVN để
tăng doanh thu và thị phần
- Tháng 04/2007: phát triển kênh phần phối sản phẩm thông qua hệ thống của EVN trên
cả nước, một hướng đi mới trong công tác kinh doanh bảo hiểm là sử dụng lợi thế của một đơn vị
liên kết để phát triển kinh doanh.
- Năm 2007: trở thành doanh nghiệp đứng thứ 6 trên thị trường bảo hiểm trên tổng số 22
Công ty bảo hiểm phi nhân thọ.
- Năm 2008: giữ vững vị trí thứ 6 trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ; giải thưởng Top
Trade & Service năm 2008
- Năm 2009: đứng vị trí thứ 7 trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ; giải thưởng Top
Trade & Service năm 2009
- 6 tháng đầu năm 2010: đứng vị trí thứ 10 trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ
2.1.1 Hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần bảo hiểm Toàn Cầu (GIC)
EVN

VINARE
NHĐA
SUDICO
SFC
Thể nhân
* Hoạt động đầu tư tài chính của GIC
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động đầu tư tài chính, GIC cũng chú trọng vào
công tác đầu tư tài chính ngay từ những năm đầu tiên doanh nghiệp được thành lập và hoạt động
và số liệu cụ thể như sau 296 triệu đồng (năm 2006), 35.637 triệu đồng (năm 2008), 29.000 triệu
đồng (năm 2009)
* Đặc điểm sản phẩm
GIC lựa chọn chính sách đa dạng hóa sản phẩm với khoảng 100 sản phẩm khác nhau:
- Nhóm sản phẩm bảo hiểm xe cơ giới: bao gồm năm sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm dân
sự bắt buộc của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba và hành khách, bảo hiểm tai nạn lái phụ xe
và người ngồi trên xe, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với hàng hóa trên xe, bảo
hiểm vật chất toàn bộ xe/bảo hiểm thân vỏ xe.
Bảng 2.2: Doanh thu bảo hiểm xe cơ giới qua các năm
Đơn vị: triệu đồng
Nội dung
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
6 tháng năm
2010
Doanh thu phí bảo hiểm gốc
(DTBHG)
3.476
112.818
193.369

261.444
163.347
Doanh thu phí bảo hiểm xe cơ
giới (BHXCG)
1.118
25.124
50.751
76.790
44.866
BHXCG/DTBHG (%)
32.2%
22.3%
26.2%
29.4%
27.5%
Nguồn: - Báo cáo tài chính qua các năm của GIC
- Nhóm sản phẩm Tài sản - kỹ thuật: bao gồm bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, bảo hiểm cháy
nổ tự nguyện và các rủi ro đặc biệt, bảo hiểm mọi rủi ro tài sản, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh,
bảo hiểm mọi rủi ro xây dựng/lắp đặt, bảo hiểm trách nhiệm,…

Bảng 2.4: Doanh thu bảo hiểm tài sản - kỹ thuật qua các năm (2006-2010)
Đơn vị: triệu đồng
Nội dung
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
Năm

2009
6 tháng năm
2010
Doanh thu phí bảo hiểm gốc
(DTBHG)
3.476
112.818
193.369
261.444
163.347
Doanh thu phí bảo hiểm tài sản -
kỹ thuật (BHTSKT)
1.874
32.652
40.907
72.896
55.387
BHTSKT/DTBHG (%)
54%
29%
21.2%
28%
34%
Nguồn: - Báo cáo tài chính qua các năm của GIC

- Nhóm bảo hiểm con người: bao gồm bảo hiểm tai nạn 24/24, bảo hiểm kết hợp con
người, bảo hiểm chăm sóc sức khỏe toàn diện, bảo hiểm học sinh, giáo viên, bảo hiểm du lịch,…
Bảng 2.6: Doanh thu bảo hiểm con ngƣời qua các năm (2006-2010)
Đơn vị: triệu đồng
Nội dung

Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
6 tháng năm
2010
Doanh thu phí bảo hiểm gốc
(DTBHG)
3.476
112.818
193.369
261.444
163.347
Doanh thu phí bảo hiểm con
người (BHCN)
209
5.279
13.367
25.375
16.327
BHCN/DTBHG (%)
6.1%
4.7%
7%
9.7%
10%

Nguồn: - Báo cáo tài chính qua các năm của GIC
- Nhóm bảo hiểm hàng hải: bao gồm bảo hiểm hàng hóa vận chuyển nội địa, bảo hiểm
hàng hóa xuất nhập khẩu, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tầu, bảo hiểm than tầu.
Bảng 2.8: Doanh thu bảo hiểm hàng hải qua các năm (2006-2010)
Đơn vị: triệu đồng
Nội dung
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
6 tháng năm
2010
Doanh thu phí bảo hiểm gốc
(DTBHG)
3.476
112.818
193.369
261.444
163.347
Doanh thu phí bảo hiểm hàng hải
(BHHH)
275
5.262
47.486
59.582
34.098

BHHH/DTBHG (%)
7.9%
4.7%
24.5%
22.8%
20.9%
Nguồn: - Báo cáo tài chính qua các năm của GIC
* Đặc điểm về khách hàng
Nói chung, đặc điểm khách hàng của GIC phân bố rộng khắp trên cả nước nhưng chủ yếu
tập trung ở một số tỉnh/thành phố: Hà Nội, TP.HCM, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Đồng Nai, Hải
Phòng…
Bên cạnh đó, với sự hợp tác với EVN nên các khách hàng của GIC cũng tập trung nhiều
vào các công ty trực thuộc EVN và một số khách hàng là đối tác của EVN trên cả nước.
* Hoạt động nhận và nhƣợng tái bảo hiểm
Ngay từ ngày đầu đi vào hoạt động, GIC đã chú trọng đến hoạt động tái bảo hiểm (TBH)
và đã thành lập một ban với tên gọi ban tái bảo hiểm để thu xếp nhận và nhượng tái bảo hiểm với
các doanh nghiệp, tổ chức khác. Ban tái bảo hiểm chịu sử quản lý của Ban tổng giám đốc và
“đứng đằng sau” các ban/bộ phận của GIC để thu xếp nhận/nhượng tái bảo hiểm.
Bảng 2.10: Doanh thu nhận/nhƣợng tái bảo hiểm qua các năm (2006-2010)
Đơn vị: triệu đồng
Năm
Nhận TBH trong
nƣớc
Nhận TBH
nƣớc ngoài
Nhƣợng TBH
trong nƣớc
Nhƣợng TBH
nƣớc ngoài
2006

0
0
0
0
2007
6.991
0
109.883
0
2008
16.537
0
81.923
0
2009
19.467
0
91.567
0
2010
6.807
0
31.345
0
Nguồn: - Báo cáo tài chính qua các năm của GIC
- Số liệu của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam
* Đặc điểm về quy mô vốn đầu tƣ
Quy mô vốn đầu tư của GIC không lớn năm 2006 theo quy định của pháp luật vốn điều lệ
của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ là 80 tỷ đồng, năm 2007 quy định này nâng lên là
300 tỷ đồng và GIC cũng đã đáp ứng đúng yêu cầu của pháp luật về vốn điều lệ của công ty.

* Mối quan hệ giữa GIC với doanh nghiệp khác.
GIC có mối quan hệ khá tốt với các đối tác cụ thể như các công ty giám định, các trung
tâm tư ván sức khỏe, các công ty môi giới bảo hiểm, các công ty bảo hiểm ,…
2.2 Chính sách sản phẩm của công ty cổ phần bảo hiểm Toàn Cầu (GIC)
2.2.1 Định hƣớng chính sách sản phẩm của GIC
* Kế hoạch xây dựng chính sách sản phẩm
GIC mong muốn cung cấp tất cả các sản phẩm bảo hiểm hiện có trên thị trường để đáp
ứng nhu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của khách hàng,.
Ngoài ra, đối với những loại hình bảo hiểm phức tạp, đồi hỏi trình độ nghiệp vụ cao GIC
cũng đã chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
* Căn cứ lựa chọn chính sách sản phẩm của GIC
Trước những thay đổi liên tục trong nhu cầu của khách hàng
Bên cạnh đó, hiện nay GIC đang có một nguồn nhân lực chất lượng khá cao phụ trách tất
cả các nhóm sản phẩm quan trọng của công ty.
Với tình hình cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm hiện nay cũng đã đặt ra yêu cầu đối với
GIC là phải xây dựng một chính sách sản phẩm phù hợp.
Hơn thế nữa, với sự quy định của Pháp luật cũng là một căn cứ quan trọng để GIC và các
doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam xây dựng chính sách sản phẩm phù hợp.
Ngoài ra, vấn đề tài chính cũng là một trong những yếu tố quan trọng để GIC nghiên cứu
đưa ra chính sách sản phẩm của mình.
* Lựa chọn giải pháp thực hiện chính sách sản phẩm của GIC
Với kế hoạch, định hướng và căn cứ như trên, GIC đã lựa chọn giải pháp thực hiện chính
sách sản phẩm của mình là “tận dụng những gì mình có” chứ không “thuê ngoài”.
Ngay sau khi được cấp phép thành lập GIC đã đi vào hoạt động ngay và có doanh thu
ngay trong tháng đầu tiên được cấp phép thành lập và thành lập thì không có giải pháp nào tối ưu
hơn giải phảp sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp bảo hiểm đi trước đã thành công trên thị
trường.
2.2.2 Tổ chức thực hiện chính sách sản phẩm của GIC
* Công tác phát triển sản phẩm mới của GIC
Công tác phát triển sản phẩm mới được GIC gia cho bộ phận phi hàng hải (phụ trách bảo

hiểm xe cơ giới và con người) để nghiên cứu ý tưởng và cách thức triển khai.
* Công tác quản lý thương hiệu của GIC
- Lựa chọn chiến lược thương hiệu: không thay đổi trong suốt quá trình phát triển của
GIC tên gọi, tên viết tắt, logo, màu sắc thương hiệu, Slogan của thương hiệu,…
- Định vị thương hiệu: GIC dựa vào khả năng khả năng tốt nhất của sản phẩm để định vị
và xác định đó là chất lượng giải quyết bồi thường cho khách hàng.
- Bảo vệ thương hiệu: xây dựng thương hiệu đã khó bảo vệ thương hiệu còn khó hơn. Do
vậy, GIC đã đăng ký thương hiệu của mình tại Cục sở hữu trí tuệ để bảo vệ cho thương hiệu của
mình.
- Phát triển thương hiệu: công tác khai thác, phát triển thương hiệu cũng được GIC chú
trọng và triển khai trang bị biển, bảng, Pano…tại tất cả các đơn vị của EVN xuống đến tận cấp
huyện để nâng cao hình ảnh và thương hiệu của GIC đối với khách hàng.
* Công tác tổ chức mạng phân phối sản phẩm của GIC
Hiện nay, GIC đang triển khai phân phối, cung cấp sản phẩm bảo hiểm của mình thông
qua hai hệ thống là khai thác bảo hiểm trực tiếp và khai thác bảo hiểm thông qua đại lý.
2.2.3 Kết quả thực hiện chính sách sản phẩm của GIC
* Xây dựng chính sách sản phẩm của GIC
Đến thời điểm hiện tại GIC đã có những thành công nhất định trong việc xây dựng
chính sách sản phẩm theo chiến lược đa dạng hóa sản phẩm với khoảng 100 sản phẩm.
* Lựa chọn chính sách sản phẩm của GIC
Trước những thay đổi liên tục trong nhu cầu của khách hàng, GIC đã khá thành công khi
lựa chọn cho mình chính sách đa dạng hóa sản phẩm với danh mục khá đầy đủ các sản phẩm
hiện có trên thị trường.
* Công tác sản phẩm mới
Trong quá trình hình thành danh mục sản phẩm của mình, GIC đã xây dựng, thiết được
một số các sản phẩm mới để bổ sung vào danh mục cũng như tăng thêm sự lựa chọn dành cho
khách hàng.
2.3 Nội dung đánh giá chính sách sản phẩm của GIC
2.3.1 Mục đích đánh giá chính sách sản phẩm của GIC
Biết được mức độ phù hợp của chính sách sản phẩm đối với mục tiêu phát triển của GIC.

Mức độ phù hợp của nó đối với yêu cầu của thị trường hiện tại và tương lai mà GIC tham
gia với tư cách là một đơn vị cầu thành thị trường bảo hiểm phi nhân thọ.
Thay đổi các sản phẩm trong danh mục sản phẩm của mình cho phù hợp với nhu cầu của
khách hàng và thị trường.
Chính việc đánh giá chính sách sản phẩm sẽ giúp GIC có thể cải thiện được vị trí cạnh
tranh của mình cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm và uy tín thương hiệu.
2.3.2 Phƣơng pháp đánh giá chính sách sản phẩm của GIC
Phương pháp so sánh thực hiện với kế hoạch giúp GIC có thể nhận biết được bằng trực
quan về thực trạng chính sách của mình.
Đối với GIC thì phương pháp so sánh thực hiện với kế hoạch khá chính xác.
Ngoài ra phương pháp so sánh năm trước với năm sau cũng sẽ giúp GIC phân tích mức
độ tăng doanh thu trong cùng một thời kỳ của năm sau so với năm trước tăng bao nhiêu phần
trăm.
Pháp so sánh GIC với doanh nghiệp khác trên thị trường để biết được vị trí cạnh tranh
của GIC so với đối thủ cạnh tranh của mình trên thị trường.
Đánh giá đóng góp của từng sản phẩm vào doanh thu và lợi nhuận giúp GIC xác định
được tính đúng đắn của chính sách sản phẩm hiện tại của mình.
* Chỉ tiêu đánh giá định tính:
Chính sách sản phẩm phù hợp với mục tiêu phát triển của doanh nghiệp: như đã phân
tích, GIC đã thể hiện điều này tương đối rõ nét trong việc xây dựng, thiết kế chính sách sản phẩm
với mục tiêu phát triển của mình
Chính sách sản phẩm phù hợp với yêu cầu thị trường: sau một thời gian tham gia vào thị
trường bảo hiểm phi nhân thọ GIC đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của thị trường.
Chất lượng sản phẩm và uy tín thương hiệu: GIC đã có những nỗ lực trong việc nâng cao
chất lượng sản phẩm.
Tính nhạy bén, linh hoạt (khả năng thích ứng) của các quyết định về chính sách sản
phẩm đối với sự thay đổi của thị trường: bảo hiểm là sản phẩm vô hình và không thể định lượng
được khi mua sản phẩm, chính vì vậy ngay trong bản thân các sản phẩm đã có sự linh hoạt, nhạy
bén.
Sự cải thiện vị trí cạnh tranh trên thị trường: chúng ta thấy rằng chính sách sản phẩm của

GIC khá đúng đắn so với xu thế chung của thị trường và có sức cạnh tranh tương đối tốt.
* Chỉ tiêu đánh giá định lượng:
Thị phần của doanh nghiệp: việc so sánh thị phần của GIC sẽ chính xác hơn khi chúng ta
xem xét thị phần của GIC với các doanh nghiệp ra đời cùng thời điểm đó.
Đóng góp của từng sản phẩm vào doanh thu và lợi nhuận. GIC cần xem xét, phân tích
những đóng góp của từng nhóm sản phẩm trong tổng doanh thu của doanh nghiệp để có cách
ứng xử cho từng nhóm sản phẩm đó.

Hiệu qủa vốn đầu tư phát triển sản phẩm mới: GIC chưa thực sự thành công và đầu tư
mạnh mẽ cho công tác phát triển sản phẩm mới trong khi các sản phẩm bảo hiểm mới đầu đem
lại doanh thu khá tốt và đóng góp vào lợi nhuận chung của doanh nghiệp.
Chất lượng của sản phẩm: GIC đã có những quy định trong công tác phân cấp bồi
thường và thời gian giải quyết bồi thường, tuy nhiên GIC vẫn chưa thực sự thành công trong
công tác này.
* Nhận xét chung
- Những thành công trong chính sách sản phẩm của GIC
o GIC đã có những thay đổi, điều chỉnh chính sách sản phẩm của mình để phù hợp với
chiến lược, mục tiêu kinh doanh.
o Thị trường luôn có những nhu cầu mới và chính sách sản phẩm của GIC đã phần nào có
những động thái tích cực để đáp ứng những nhu cầu đó.
o Chất lượng giải quyết bồi thường đã được GIC quan tâm, chú trọng và tập trung ngay từ
khi GIC được thành lập và đã tạo được những ấn tượng ban đầu cho khách hàng.
o Chính sách sản phẩm của GIC được thiết kế khá linh hoạt, dễ dàng thay đổi cho phù hợp
với những thay đổi của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam.
o Hiện nay, GIC đã tham gia vào tất cả những vĩnh lực bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam và
trong các nhóm sản phẩm chính của thị trường bảo hiểm hiện nay GIC đều có thị phần trên thị
trường.
o GIC đang triển khai hầu hết các sản phẩm trên thị trường và mỗi sản phẩm đều có những
đóng góp doanh thu nhất định cho GIC từ đó góp phần tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp.
o Những sản phẩm mới GIC nghiên cứu, triển khai cũng đã mang lại những kết quả nhất

định

- Những hạn chế trong chính sách sản phẩm của GIC
o GIC mới chỉ dừng lại ở việc bổ sung sản phẩm mới mà chưa có bất kỳ một điều chỉnh,
thay đổi gì chính sách sản phẩm của mình nên GIC chưa đạt được mục tiêu kỳ vọng của mình.
o GIC đã có những điều chỉnh tương ứng nhưng cũng chưa thực sự mạnh mẽ và triệt để nên
vẫn có những nhu cầu của thị trường mà GIC chưa đáp ứng được như đã phân tích ở phần trên
o Chất lượng bồi thường của GIC đã được quan tâm, chú trọng nhưng GIC chưa thiết kế
một mô hình, hệ thống giải quyết bồi thường một cách khoa học, chặt chẽ và hiệu quả.
o Những sản phẩm chính của GIC hiện nay mới đạt thị phần khoảng 1% trên thị trường -
đây là con số khá khiêm tốn và chưa đạt mức bình quân chung của thị trường 3,6%
o Khả năng cạnh tranh của GIC đã được nâng lên đáng kể và thị trường cũng đã biết đến
thương hiệu của GIC nhưng mới chỉ dừng lại trong lĩnh vực bảo hiểm cho ngành điện EVN
o So với những doanh nghiệp ra đời cùng thời điểm thì đã có những doanh nghiệp vượt qua
GIC khá xa về thị phần.
o Tính đến thời điểm hiện tại GIC mới chỉ có khoảng 3 - 4 sản phẩm mới trong khi một số
doanh nghiệp mỗi tháng có một sản phẩm mới.
- Một số nguyên nhân của thành công trong chính sách sản phẩm của GIC
o Đối với GIC, ngay từ khi thành lập đã xác định chiến lược kinh doanh của mình là đa
dạng hóa sản phẩm nên việc thiết kế danh mục sản phẩm tương đối phù hợp với mục tiêu kinh
doanh.
o Hiện nay, GIC đang xây dựng và thế lập một hệ thống phân phối sản phẩm khá rộng khắp
trên cả nước, vì vậy việc phát hiện ra những nhu cầu mới của thị trường và khách hàng tương đối
kịp thời.
o GIC đã xác định việc giải quyết bồi thường cho khách hàng chính là yếu tố quan trọng
nhất trong việc duy trì và phát triển khách hàng mới.
o Thực tế kinh doanh hiện nay, chính sách sản phẩm của các doanh nghiệp bảo hiểm đều có
tính mở để thuận lợi cho việc thay đổi, điều chỉnh danh mục sản phẩm phù hợp với nhu cầu của
thị trường.
o GIC đã bắt kịp xu hướng phát triển của thị trường và tranh thủ khai thác được bảo hiểm

trong ngành EVN
o GIC đã tạm giao cho bộ phận bảo hiểm phi hàng hải (gồm bảo hiểm xe và con người) để
nghiên cứu và đề xuất các phương án phát triển sản phẩm mới.
- Một số nguyên nhân của hạn chế trong chính sách sản phẩm của GIC
o GIC chưa thực sự hiệu quả khi xây dựng một danh mục với đầy đủ các sản phẩm ngay từ
khi thành lập vì rõ ràng có rất nhiều sản phẩm nằm trong danh mục nhưng chưa bao giờ được
khai thác.
o Trong danh mục sản phẩm của mình, GIC chưa sẵn sàng cho việc loại bỏ những sản
phẩm không phù hợp ra khỏi danh mục.
o GIC chưa thiết kế được một mô hình, hệ thống giải quyết bồi thường một cách có hệ
thống
o Trong các sản phẩm truyền thống, GIC chưa có bất kỳ sự khác biệt nào trong những sản
phẩm tung ra thị trường
o Khả năng cạnh tranh của GIC mặc dù đã có những kết qủa khá tốt nhưng nhìn chung vẫn
chưa thực sự mạnh trên thị trường vì GIC không có sản phẩm mang tính khác biệt, cũng chưa
xây dựng một hệ thống giải quyết bồi thường cho khách hàng một cách chuyên nghiệp và hiệu
quả.
o GIC chưa có bộ phận phụ trách công tác đầu tư mà đang giao kế hoạch đầu tư cho bộ
phận tài chính kế toán vốn không phải là thế mạnh trong lĩnh vực đầu tư tài chính.
o Tính đến thời điểm này, GIC vẫn chưa có bộ phận marketing và phát triển sản phẩm mới
để nghiên cứu thị trường và đề xuất các xu hướng mới của thị trường trong tương lai.

CHƢƠNG III:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH SẢN PHẨM CỦA CÔNG
TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM TOÀN CẦU (GIC)

3.1 Định hƣớng kinh doanh của GIC trong thời gian tới
3.1.1 Dự báo những thay đổi nhu cầu thị trƣờng và môi trƣờng kinh doanh
* Thay đổi trong môi trường kinh doanh
Xu hướng mới đối với doanh nghiệp bảo hiểm là có thể chấp nhận lỗ trong một số sản

phẩm bảo hiểm gốc để có được nguồn vốn phục vụ cho công tác đầu tư tài chính và bù đắp được
khoản lỗ do kinh doanh bảo hiểm gốc gây ra.
Khách hàng còn yêu cầu về cách thức tham gia bảo hiểm ngày một thuận tiện và đơn giản
như: mua bảo hiểm thông qua tin nhắn trên điện thoại di động, mua bảo hiểm tại ATM của ngân
hàng,…
Các doanh nghiệp bảo hiểm mở rộng kênh phân phối sản phẩm và xây dựng hệ thống
chăm sóc khách hàng để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng và những thay đổi
của thị trường.
* Thay đổi trong môi trường pháp luật
Trong thời gian vừa qua đã có rất nhiều những quy định của pháp luật liên quan đến việc
kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ. Có những quy định pháp luật sẽ mở ra cơ hội cho doanh
nghiệp nhưng cũng có những quy định sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc chủ động
khai thác và chăm sóc khách hàng
* Thay đổi quốc tế
Trong thời gian tới các quy định về điều khoản, điều kiện, phí bảo hiểm, mức trách
nhiệm,… cũng được các doanh nghiệp tái bảo hiểm quốc tế quy định cụ thể hơn, chi tiết hơn,
đầy đủ hơn và yêu cầu các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước phải thực hiện đúng.
3.1.2 Mục tiêu và thị trƣờng mục tiêu của GIC trong thời gian tới
Mục tiêu của GIC trước mắt là tích cực quảng bá sản phẩm để tăng thêm khả năng tiếp
cận tìm hiểu của khách hàng nhằm tăng thị phần của mình và cạnh tranh đối với các đối thủ
khác. Tăng cường công tác nghiên cứu nhu cầu và xu thế biến đổi nhu cầu của khách hàng để
nhanh chóng có những chiến lược về chính sách sản phẩm nhằm thích ứng hơn với những biến
đổi trong nhu cầu đó.
3.1.3 Định hƣớng kinh doanh của GIC trong thời gian tới
Với những chiến lược hoàn thiện chính sách sản phẩm và tung ra những sản phẩm mới để
đáp ứng nhu cầu đa dạng và thay đổi nhanh chóng của khách hàng. GIC luôn giữ nguyên tắc
trong kinh doanh và cũng là phương châm hoạt động của mình là “Vì quyền lợi khách hàng để
phát triển”.
GIC cũng xây dựng và đầu tư cho công tác nhân sự để đảm bảo nguồn nhân lực có thể
đáp ứng được những yêu cầu của công việc trong giai đoạn mới khó khăn hơn, phức tạo hơn.

Trong thời gian tới GIC xác định là phải xây dựng được một hệ thống bán hàng hiệu quả,
chuyên nghiệp, rộng rãi thông qua sự hợp tác với EVN.
3.1.4 Yêu cầu điều chỉnh chính sách sản phẩm của GIC trong thời gian tới
Với những thay đổi trong môi trường kinh doanh và mục tiêu, định hướng kinh doanh
của GIC như đã phân tích ở trên đã đặt ra yêu cầu phải điều chỉnh chính sách sản phẩm cho phù
hợp.
Chính sách sản phẩm là cơ sở để GIC xây dựng hệ thống kinh doanh một cách đồng bộ từ
việc tư vấn, khai thác đến giải quyết bồi thường cho khách hàng.
Chính sách sản phẩm là thước đo quan trọng nhất mức độ hài lòng của khách hàng đối
với GIC thông qua việc sử dụng sản phẩm và tin tưởng chúng.
3.2 Giải pháp hoàn thiện chính sách sản phẩm của GIC trong thời gian tới
3.2.1 Giải pháp từ phía doanh nghiệp (GIC)
3.2.1.1 Điều chỉnh danh mục sản phẩm phù hợp
Thực chất của giải pháp này chính là việc xem xét, đánh giá chính sách sản phẩm của
GIC kể từ khi thành lập và đi vào hoạt động đã thực sự phù hợp và hiệu quả đối với doanh
nghiệp. Giải pháp này chắc chắc sẽ có tác động tích cực đối với sự kinh doanh của GIC, khách
hàng của GIC sẽ được đáp ứng nhu cầu một cách đầy đủ hơn, thiết thực hơn, chuyên nghiệp hơn.
3.2.1.2 Hoàn thiện sản phẩm bảo hiểm
GIC cần nâng cao chất lượng sản phẩm, bổ sung thêm các yếu tố hữu hình cho sản phẩm
để thu hút khách hàng, bên cạnh đó tiếp tục cải tiến các sản phẩm phục vụ cho EVN để tạo ra sự
khác biệt cho doanh nghiệp.
3.2.1.3 Xây dựng và phát triển thương hiệu
Để xây dựng hình ảnh của doanh nghiệp mình tốt nhất trong tâm trí khách hàng, thì
doanh nghiệp cũng cần chú trọng tới việc xây dựng một đội ngũ nhân viên làm việc chuyên
nghiệp.
3.2.1.4 Nâng cao công tác giám định, bồi thường và đề phòng hạn chế tổn thất

×