Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Công tác phân tích báo cáo tài chính tại các công ty xây lắp trường hợp tại công ty cổ phần đầu tư và thương mại 319

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.75 KB, 26 trang )

Công tác phân tích báo cáo tài chính tại các
công ty xây lắp - trường hợp tại Công ty cổ
phần Đầu tư và Thương mại 319

Lê Thị Ánh Tuyết

Trường Đại học Kinh tế
Luận văn ThS chuyên ngành: Tài chính Ngân hàng; Mã số: 60 34 20
Người hướng dẫn: PGS.TS. Trần Thị Hồng Mai
Năm bảo vệ: 2012

Abstract: Hệ thống hóa và làm sáng tỏ cơ sở lý luận về công tác phân tích báo cáo tài
chính cũng như sự cần thiết phải tổ chức công tác phân tích báo cáo tài chính trong các
công ty xây lắp Việt Nam hiện nay. Khái quát công tác phân tích các báo cáo tài chính tại
các công ty xây lắp, trong đó tập trung vào phân tích số liệu của Công ty cổ phần Đầu tư
và Thương mại 319 trong những năm qua. Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện
công tác phân tích báo cáo tài chính, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
công ty xây lắp.
Keywords: Tài chính; Báo cáo tài chính; Quản trị kinh doanh
Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước ngưỡng cửa của tiến trình hội nhập kinh tế, để đứng vững trên thị trường các
doanh nghiệp cần nâng cao năng lực cạnh tranh. Một tất yếu họ cần phải có uy tín với nhà đầu
tư, nhà cung cấp, khách hàng… Đó sẽ là những người quan tâm đến tình hình tài chính của
doanh nghiệp, tuy nhiên mục đích quan tâm khác nhau với từng đối tượng: đối với chủ doanh
nghiệp thì mục đích quan tâm đến tình hình tài chính, để biết chính xác thực trạng tài chính của
doanh nghiệp mình, từ đó đưa ra các quyết định kinh doanh, đối với các chủ đầu tư là để có thể
đưa ra các quyết định đầu tư, đối với đối tác là có nên hợp tác hay không …
Vì vậy, các doanh nghiệp không những phải năng động trong kinh doanh, nhạy bén nắm
bắt cơ hội mà còn phải đánh giá đúng năng lực tài chính của bản thân để tồn tại và vươn lên tự


khẳng định mình ở thị trường trong nước và nước ngoài. Điều này đã khẳng định vai trò của
công tác phân tích báo cáo tài chính trong các doanh nghiệp cần được nâng cao, phải thực sự
xem phân tích báo cáo tài chính là hoạt động quan trọng, không thể thiếu trong quá trình quản lý
và điều hành doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc phân tích báo cáo tài chính trong
các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là trong các công ty xây lắp chưa thực sự được quan tâm
đúng mức.
Thực trạng công tác phân tích báo cáo tài chính tại các công ty xây lắp nói chung, Công
ty cổ phần Đầu tư và Thương mại 319 nói riêng còn mang nặng tính hình thức, thông tin phân
tích chưa đáp ứng được yêu cầu của Ban lãnh đạo trong việc quản lý hoạt động sản xuất kinh
doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực xây lắp luôn đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn, nhiều rủi ro.
Từ thực trạng đó mà tác giả chọn đề tài: “Công tác phân tích báo cáo tài chính tại các
công ty xây lắp - Trường hợp tại Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại 319” làm luận văn tốt
nghiệp của mình. Với mục đích đóng góp một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích
báo cáo tài chính tại các công ty xây lắp, đáp ứng tốt hơn nhu cầu cung cấp thông tin cho Ban
lãnh đạo trong hoạt động quản lý và các đối tượng quan tâm đến hoạt động của công ty xây lắp.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ trước đến nay đã có một số đề tài nghiên cứu về phân tích các báo cáo tài chính của
doanh nghiệp. Luận văn thạc sĩ nghiên cứu về đề tài “Hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính với
việc phân tích tình hình tài chính tại tổng công ty sông Đà” của Lê Thị Hương Lan năm 2008,
luận án tiến sĩ của Trần Thị Minh Hương năm 2008 về “ Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích
tài chính tổng công ty hàng không Việt Nam”, … Các luận văn, luận án về đề tài này thường
dùng các chỉ số tài chính để tính toán phân tích đưa ra các nhận định về tình hình tài chính, các
giải pháp nâng cao hiệu quả tài chính, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp một cách chi tiết.
Tuy nhiên, công tác phân tích báo cáo tài chính tại các công ty xây lắp vẫn còn là đề tài chưa
được khai thác, khái quát một cách có hệ thống.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Về lý luận: Hệ thống hóa và làm sáng tỏ lý luận về công tác phân tích báo cáo tài chính
trong các công ty xây lắp.
Về thực tiễn: Đề tài tập trung nghiên cứu công tác phân tích báo cáo tài chính tại các
công ty xây lắp, điển hình trường hợp Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại 319, từ đó đánh

giá khái quát thực trạng công tác phân tích báo cáo tài chính tại các công ty xây lắp, nêu quan
điểm và giải pháp hoàn thiện công tác phân tích báo cáo tài chính tại các công ty xây lắp nhằm
góp phần nâng cao hiệu quả tài chính cũng như hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các
công ty xây lắp.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu :
Luận văn tập trung vào công tác phân tích báo cáo tài chính tại các công ty xây lắp, lấy số
liệu của Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại 319 làm điển hình.
- Phạm vi nghiên cứu :
Không gian nghiên cứu: Một số công ty xây lắp tại địa bàn Hà Nội và Công ty cổ phần
Đầu tư và Thương mại 319.
Thời gian nghiên cứu: Trong giai đoạn 2010 - 2011.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp thu thập số liệu:
Tham khảo tài liệu giáo trình các trường viết về công tác phân tích báo cáo tài chính,
tham khảo các website viết về tài chính, thu thập số liệu báo cáo tài chính của một số công ty xây
dựng trên địa bàn Hà Nội.
Thu thập các báo cáo tài chính bao gồm: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, Thuyết minh báo cáo tài chính và một số báo cáo
khác các năm 2010, 2011 và dựa trên các cuộc phỏng vấn trực tiếp cán bộ phòng tài chính - kế
toán về những vấn đề liên quan đến số liệu của Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại 319.
- Phƣơng pháp phân tích số liệu:
Áp dụng kết hợp nhiều phương pháp phân tích như phương pháp so sánh, phân tích tỷ lệ,
phương pháp cân đối, phân tích chi tiết,… trong đó phương pháp được sử dụng chủ yếu trong đề
tài này là phương pháp so sánh và nghiên cứu mối quan hệ giữa các con số, phương pháp
Dupont.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ cơ sở lý luận về công tác phân tích báo cáo tài
chính cũng như sự cần thiết phải tổ chức công tác phân tích báo cáo tài chính trong các công ty
xây lắp Việt Nam hiện nay.

Khái quát công tác phân tích các báo cáo tài chính tại các công ty xây lắp, trong đó tập
trung vào phân tích số liệu của Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại 319 trong những năm
qua. Từ những phát hiện qua nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác
phân tích báo cáo tài chính, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty xây lắp.
7. Bố cục của luận văn
Luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về công tác phân tích báo cáo tài chính trong các doanh nghiệp.
Chƣơng 2: Thực trạng công tác phân tích báo cáo tài chính tại các công ty xây lắp, trƣờng
hợp tại Công ty cổ phần đầu tƣ và thƣơng mại 319.
Chƣơng 3: Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích báo cáo tài chính tại các công ty xây
lắp – trƣờng hợp tại Công ty cổ phần Đầu tƣ và Thƣơng mại 319.


CHƢƠNG 1: CƠ SƠ
̉
LY
́
LUÂ
̣
N VÊ
̀
CÔNG TÁC PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
1.1. Công tác phân tích báo cáo tài chính và ý nghĩa công tác phân tích báo cáo tài chính
trong các doanh nghiệp.
1.1.1. Tổng quan về Báo cáo tài chính doanh nghiệp
1.1.1.1. Bảng cân đối kế toán
1.1.1.2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
1.1.1.3. Báo cáo lƣu chuyển tiền tệ
1.1.1.4. Thuyết minh báo cáo tài chính

1.1.2. Mục đích và ý nghĩa của việc phân tích báo cáo tài chính
Phân tích báo cáo tài chính là việc sử dụng một loạt các phương pháp nhằm đánh giá
được tình hình tài chính và kết quả hoạt động sản xuất của doanh nghiệp trong năm tài chính.
Trên cơ sở đó sẽ cung cấp cho người quản trị cũng như nhà đầu tư hay các đối tượng quan tâm
khác đưa ra quyết định đúng đắn trong quá trình đầu tư.
Tất cả các báo cáo tài chính đều là tài liệu có tính lịch sử vì chúng cho thấy những gì đã
xảy ra trong một kỳ cá biệt. Mục đích của phân tích báo cáo tài chính là giúp các đối tượng quan
tâm đưa ra các quyết định hợp lý và quyết định các hành động trong tương lai dựa vào các thông
tin có tính lịch sử của báo cáo tài chính.
Phân tích BCTC có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý tài chính doanh
nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các
doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau đều bình đẳng trước pháp luật trong việc lựa
chọn ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh. Do vậy sẽ có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài
chính của doanh nghiệp như: chủ doanh nghiệp, nhà tài trợ, nhà cung cấp, khách hàng kể cả
các cơ quan Nhà nước và người làm công, mỗi đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của
doanh nghiệp trên các góc độ khác nhau.
1.2. Nội dung công tác phân tích BCTC trong các doanh nghiệp
1.2.1. Những công việc cần thực hiện trƣớc khi phân tích BCTC
1.2.1.1. Lựa chọn phƣơng pháp phân tích:
Để tiến hành phân tích báo cáo tài chính, không dùng riêng lẻ một phương pháp phân tích
nào mà sử dụng kết hợp các phương pháp phân tích với nhau để đánh giá tình hình DN một cách
xác thực nhất, nhanh nhất, trong đó phương pháp chủ yếu là phương pháp so sánh và phân tích tỷ
lệ.
1.2.1.2. Công tác chuẩn bị
Để hoạt động phân tích BCTC đạt được hiệu quả cao, cần làm tốt ngay từ khâu chuẩn bị.
Nó bao gồm một số công đoạn như: Xác định mục tiêu phân tích, thu thập và xử lý thông tin, lập
kế hoạch phân tích.
 Xác định mục tiêu phân tích
Phân tích BCTC nhằm đánh giá thực trạng tài chính của doanh nghiệp trong thời gian
qua để thấy được điểm mạnh, điểm yếu của hoạt động tài chính và đánh giá khả năng phát triển

của doanh nghiệp trong tương lai. Tuy nhiên, trước khi thực hiện, nhà phân tích tài chính phải
xác định rõ mục tiêu của việc phân tích nhằm phục vụ cho công tác gì, cung cấp thông tin cho
đối tượng nào để lựa chon những thông tin khác nhau. Tùy theo các loại thông tin khác nhau, có
thể lựa chọn và vận dụng các phương pháp xử lý thông tin thích hợp, nhằm đưa ra các dữ liệu
phân tích, đánh giá phù hợp với yêu cầu, đáp ứng đúng và đủ thông tin cho đối tượng cần sử
dụng thông tin trên báo cáo tài chính doanh nghiệp.
 Thu thập và xử lý thông tin
Chất lượng phân tích BCTC của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào thông tin sử
dụng. Thông tin dùng để phân tích phải chính xác, đầy đủ, kịp thời, bao gồm: nguồn thông tin
bên trong DN chính là các báo cáo tài chính. Những tài liệu làm căn cứ phân tích thường bao
gồm: tất cả các số liệu trên hệ thống BCTC (bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh,
báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính), số liệu trên các báo cáo tài chính
phải phản ánh trung thực, chính xác tình hình hoạt động kinh doanh của DN. Nguồn thông tin
bên ngoài DN như thông tin về tình hình kinh tế, thị trường sản xuất kinh doanh, thông tin về
các DN cùng ngành.
Để đạt được hiểu quả cao trong phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp, việc thu thập
và xử lý số liệu trước hết cần đảm bảo đầy đủ ba yêu cầu: chính xác, toàn diện và khách quan.
Những tài liệu làm căn cứ phân tích thường bao gồm: tất cả các số liệu trên hệ thống báo cáo tài
chính (bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết
minh báo cáo tài chính) như:
- Số liệu về quy mô vốn của doanh nghiệp, có thể chi tiết cho từng loại tài sản, nguồn hình thành
tài sản - làm căn cứ để phân tích sự biến động về quy mô, cơ cấu tài sản và nguồn hình thành tài
sản, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
- Số liệu về doanh thu đạt được (báo cáo kết quả kinh doanh)
- Số liệu về chi phí kinh doanh (báo cáo kết quả kinh doanh)
- Số liệu về lợi nhuận thu được (báo cáo kết quả kinh doanh)
Các tài liệu trên, giúp cho việc phân tích kết quả cũng như hiệu quả hoạt động tài chính của
doanh nghiệp.
Chất lượng phân tích phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng tài liệu thu thập được. Bởi vậy, sau khi
thu thập được đầy đủ những tài liệu, cần phải tiến hành kiểm tra độ tin cậy của những số liệu.

 Lập kế hoạch phân tích
Đây là khâu quan trọng, ảnh hưởng nhiều đến chất lượng, thời hạn và tác dụng của phân
tích tài chính. Giai đoạn lập kế hoạch được tiến hành chu đáo, chuẩn xác sẽ giúp cho các giai
đoạn sau tiến hành có kết quả tốt. Lập kế hoạch phân tích BCTC bao gồm các nội dung cơ bản
như: Thời gian thực hiện phân tích BCTC, bố trí nhân sự tham gia công tác phân tích tài chính,
tài liệu và thông tin cần thu thập, dự kiến chi phí thực hiện việc phân tích, thời gian hoàn thành
việc phân tích… Tùy đặc điểm từng doanh nghiệp, nhà phân tích có thể lập kế hoạch cụ thể để
việc phân tích BCTC có trình tự rõ ràng, thông tin đầy đủ và hữu ích trong thực tiễn.
1.2.2. Nội dung công tác phân tích BCTC trong các doanh nghiệp
1.2.2.1. Phân tích bảng cân đối kế toán
1.2.2.2. Phân tích báo cáo kết quả kinh doanh
1.2.2.3. Phân tích báo cáo lƣu chuyển tiền tệ
1.2.2.4. Phân tích thuyết minh báo cáo tài chính
1.3. Các nhân tố ảnh hƣởng tới công tác phân tích báo cáo tài chính DN
Có thể khái quát 2 loại nhân tố sau ảnh hưởng đến công tác phân tích báo cáo tài chính
doanh nghiệp:
Nhân tố khách quan: Thời gian phân tích, Hệ thống các chỉ tiêu trung bình ngành, Lạm phát,
Các yếu tố thời,Các thông tin khác.
Nhân tố chủ quan: Mục đích phân tích, Phương pháp phân tích, Con người (trình độ, đạo
đức).
1.4. Đặc điểm của các công ty xây lắp ảnh hƣởng đến công tác phân tích báo cáo tài chính
Các công ty xây lắp được hiểu một cách chung nhất là những công ty sản xuất, lắp đặt
với sản phẩm là các công trình xây dựng cơ bản như nhà ở, văn phòng, trung tâm thương mại,
các công trình giao thông. Công ty xây lắp có các đặc điểm riêng biệt khác với các công ty khác,
điều này ảnh hưởng đến công tác phân tích báo cáo tài chính. Do vậy, nhà phân tích BCTC cần
phải quan tâm đến các đặc điểm riêng này để đưa ra các đánh giá, các giải pháp có tính khả thi,
hiệu quả, chính xác.
Kết luận chƣơng
Phân tích báo cáo tài chính bao gồm phân tích bảng cân đối kế toán, phân tích báo cáo kết
quả hoạt động kinh doanh, phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính.

Đối với các số liệu lấy từ các báo cáo trên, doanh nghiệp sử dụng kết hợp các phương pháp phân
tích, chủ yếu là kết hợp cả 2 phương pháp chính là phương pháp so sánh và phương pháp tỷ lệ,
tính toán trị số các chỉ tiêu, từ đó đưa ra đánh giá thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, tìm ra nguyên nhân dẫn đến yếu kém trong hoạt động sản xuất kinh doanh để khắc
phục, cũng như đưa ra phương hướng tiếp theo để doanh nghiệp phát triển theo mục tiêu kế
hoạch đề ra. Tuy nhiên phân tích báo cáo tài chính có thật sự hữu ích và đánh giá đúng thực
trạng “sức khỏe” của doanh nghiệp hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và
chủ quan như cần có hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành chính xác để có sự đối chiếu, so sánh; có
cán bộ phân tích BCTC giỏi chuyên môn, có số liệu trung thực đầy đủ và chính xác. Từ các
thông tin thu thập được, doanh nghiệp sẽ tính toán các chỉ số, lập các bảng biểu. Tuy nhiên, đó
chỉ là những con số và nếu chúng đứng riêng lẻ thì tự chúng sẽ không nói lên điều gì, nhiệm vụ
của công tác phân tích BCTC là phải gắn kết, tạo lập mối liên hệ giữa các chỉ tiêu, kết hợp với
các thông tin về điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của doanh nghiệp để lý giải tình hình tài chính của
doanh nghiệp, xác định thế mạnh, điểm yếu cũng như nguyên nhân dẫn đến điểm yếu trên.
CHƢƠNG 2: THỰC HIỆN CÔNG TÁC PHÂN TÍCH BCTC TẠI CÁC CÔNG TY
XÂY LẮP - TRƢỜNG HỢP ĐIỂN HÌNH TẠI CÔNG TY CP ĐẦU TƢ VÀ THƢƠNG
MẠI 319
2.1. Tổng quan về các công ty xây lắp
2.1.1. Đặc điểm tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty xây lắp
Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất quan trọng mang tính chất công nghiệp nhằm
tạo ra cơ sở vật chất cho nền kinh tế quốc dân. Thông thường, công tác xây dựng cơ bản do các
đơn vị xây lắp nhận thầu tiến hành. Ngành sản xuất này có các đặc điểm sau:
Sản phẩm xây lắp là các công trình, vật kiến trúc… có quy mô lớn, kết cấu phức tạp,
mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất dài… Do vậy, việc tổ chức quản lý hạch toán nhất thiết
phải có các dự toán thiết kế, thi công.
Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc giá thỏa thuận với chủ đầu tư từ
trước, do đó tính chất hàng hóa của sản phẩm thể hiện không rõ. Sản phẩm xây lắp cố định tại
nơi sản xuất, còn các điều kiện sản xuất phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm.
Tổ chức sản xuất trong các công ty xây lắp ở nước ta hiện nay phổ biến theo phương thức
"khoán gọn" các công trình, hạng mục công trình, khối lượng hoặc công việc cho các đơn vị

trong nội bộ DN (đội, xí nghiệp…).
Những đặc điểm hoạt động kinh doanh, đặc điểm sản phẩm, đặc điểm tổ chức sản xuất và
quản lý ngành nói trên phần nào chi phối công tác kế toán, từ đó chi phối công tác tổ chức phân
tích báo cáo tài chính (là các bảng biểu tổng hợp từ kế toán) trong các công ty xây lắp, dẫn đến
những khác biệt nhất định. Tuy nhiên về cơ bản, kế toán các phần hành cụ thể (tài sản cố định,
vật liệu, công cụ, chi phí nhân công…) trong các công ty xây lắp cũng tương tự như doanh
nghiệp sản xuất công nghiệp.
2.1.2. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý của các công ty xây lắp
2.1.3. Đặc điểm tổ chức công tác tài chính - kế toán trong công ty xây lắp
2.1.3.1. Tổ chức bộ máy kế toán của công ty xây lắp
Hiện nay trong các DN nói chung, các công ty xây lắp nói riêng, việc tổ chức công tác kế
toán có thể tiến hành theo các hình thức sau: Tổ chức công tác kế toán tập trung, tổ chức công
tác kế toán phân tán, tổ chức công tác kế toán vừa tập trung vừa phân tán.
2.1.3.2. Công tác tài chính - kế toán trong các công ty xây lắp
Quá trình tổ chức công tác phân tích BCTC được tiến hành tuỳ theo loại hình tổ chức
kinh doanh ở các doanh nghiệp nhằm mục đích cung cấp, đáp ứng nhu cầu thông tin cho quá
trình lập kế hoạch, công tác kiểm tra và ra quyết định. Công tác tổ chức phân tích phải làm sao
thoả mãn cao nhất cho nhu cầu thông tin của từng loại hình quản trị khác nhau.
2.2. Công tác phân tích báo cáo tài chính tại các công ty xây lắp
Qua khảo sát các công ty xây lắp có quy mô khác nhau như Công ty cổ phần đầu tư và
xây dựng HUD tại 168 đường Giải phóng, phường Phương Liệt, quận Thanh Xuân, Hà Nội;
Công ty cổ phần Tasco tại 91 Nguyễn Chí Thanh, phường Láng Hạ, quận Đống Đa, Hà Nội …
cho thấy các doanh nghiệp xây lắp có chú trọng đến công tác phân tích báo cáo tài chính ở mức
độ nhất định, tuy nhiên từ các phân tích ban đầu vẫn mang tính lý thuyết, chưa thực sự được ứng
dụng để dự báo tương lai, và đưa ra những hành động cần thiết để cải thiện tình hình hoạt động
của công ty.
2.2.1. Mục đích phân tích báo cáo tài chính công ty xây lắp
Phân tích báo cáo tài chính trong các công ty xây lắp trước hết để cung cấp thông tin cho
ban lãnh đạo doanh nghiệp biết tình hình tài chính của công ty tại thời điểm lập báo cáo mà còn
cho thấy những kết quả hoạt động mà công ty đạt được trong hoàn cảnh đó, giúp ban lãnh đạo tin

đánh giá đúng sức mạnh tài chính, đảm bảo nguồn vốn thực hiện các dự án, tránh tình trạng mất
khả năng thanh khoản, chậm tiến độ thi công các công trình, lãng phí các nguồn lực, làm mất uy
tín của công ty, nếu tình trạng thiếu vốn trầm trọng, công ty có thể mất khả năng thanh toán, vỡ
nợ, có nguy cơ phá sản. Như vậy đứng trên quan điểm quản lý, phân tích báo cáo tài chính nhằm
cả hai mục tiêu: vừa dự báo tương lai, vừa đưa ra những hành động cần thiết để cải thiện tình
hình hoạt động của công ty.
Đứng trên quan điểm của nhà đầu tư, chủ nợ, ngân hàng, nhà cung cấp, cổ đông…, phân
tích báo cáo tài chính nhằm dự báo tương lai và triển vọng của doanh nghiệp. Dựa vào phân tích
BCTC, các nhà đầu tư có thể kiểm tra, xem xét, đối chiếu, so sánh các số liệu về tài sản, công nợ,
nguồn vốn và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Thông qua đó mà đánh giá được tình hình tài
chính cũng như kết quả kinh doanh, những nguyên nhân ảnh hưởng và đưa ra những quyết định
phù hợp với mục tiêu của từng đối tượng.
Báo cáo tài chính rất hữu ích đối với việc quản trị doanh nghiệp, đồng thời là nguồn
thông tin tài chính chủ yếu đối với những người ngoài doanh nghiệp. Một phân tích BCTC cụ
thể, nếu các công ty xây lắp hoạt động tốt, có uy tín sẽ tạo được một hồ sơ năng lực đẹp, thu hút
được nhiều nguồn vốn đầu tư, đối tác khác nhau, mang lại thuận lợi đối với việc ký kết, trúng
thầu các dự án, công trình lớn cho các công ty xây lắp.
2.2.2. Nội dung công tác phân tích BCTC trong công ty xây lắp
2.2.2.1. Công tác chuẩn bị:
Định kỳ theo quý và cuối năm tài chính, khi các báo cáo tài chính được lập, các công ty
xây lắp, cụ thể là bộ phận tài chính tổng hợp các BCTC từ bộ phận kế toán, thông thường các
công ty xây lắp đã phân công một cán bộ tài chính có trách nhiệm phân tích, cũng như lập các
bảng biểu với các chỉ tiêu cần tính toán
Để chuẩn bị công tác phân tích BCTC, các công ty xây lắp thường xác định rõ mục tiêu
phân tích, xác định thời gian phân tích, chuẩn bị những tài liệu làm căn cứ phân tích.
2.2.2.2. Nội dung phân tích
Trong bản phân tích BCTC, các công ty xây lắp thường trình bày nội dung phân tích
thông qua các bảng biểu với các chỉ tiêu khác nhau tùy vào yêu cầu cung cấp thông tin của ban
lãnh đạo công ty. Có thể khái quát thực trạng công tác phân tích báo cáo tài chính tại các công ty
xây lắp như sau:

- Về cơ cấu tổ chức: hầu hết các công ty chưa có giám đốc tài chính và bộ phân chức năng
chuyên môn trong quản lý và phân tích báo cáo tài chính.
- Về nội dung phân tích:: phân tích báo cáo tài chính ở dạng đơn giản, việc phân tích báo cáo
tài chính ở các công ty này không được thực hiện như một phần việc độc lập của quản trị tài
chính mà chỉ là một số tính toán đơn giản thể hiện thông qua các báo cáo về tình hình sản xuất
kinh công ty hay các bảng tổng kết tính hình kinh doanh hàng năm.
- Về phƣơng pháp phân tích: Phương pháp được sử dụng là phương pháp so sánh, tỷ lệ, trong
đó chủ yếu là so sánh số tuyệt đối và số tương đối của kỳ báo cáo so với kế hoạch hoặc với kỳ kế
toán liền trước đó. Hầu như các công ty xây lắp không thực hiện phân tích qua nhiều năm, phân
tích Dupont, dự báo tài chính.
2.3. Công tác phân tích báo cáo tài chính tại công ty cổ phần Đầu tƣ và Thƣơng mại 319
2.3. 1. Tổng quan về công ty cổ phần đầu tƣ và thƣơng mại 319
Quá trình hình thành và phát triển
Đặc điểm tình hình kinh doanh 2011
Chức năng, nhiệm vụ các phòng ban, đơn vị công ty
Chức năng, nhiệm vụ cụ thể của phòng Tài chính - Kế toán
2.3.2. Công tác phân tích báo cáo tài chính
2.3.2.1. Công tác chuẩn bị
Công tác phân tích BCTC được giao cho phòng Tài chính – Kế toán, cụ thể là cán bộ kế
toán tổng hợp, sau khi lập các báo cáo tài chính hoàn chính, kế toán tổng hợp tập hợp các tài liệu
báo cáo trên để nhập số liệu các bảng biểu excel có sẵn. Do việc phân tích BCTC hiện chỉ sử
dụng để ban lãnh đạo Công ty nắm bắt được thực trạng của công ty nên việc tính toán thường sử
dụng ít các chỉ tiêu chỉ, sử dụng số liệu trên 3 báo cáo là bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu
chuyển tiền tệ và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
2.3.2.2. Phân tích các báo cáo tài chính
Phương pháp phân tích hiện công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại 319 sử dụng là kết
hợp phương pháp so sánh và phương pháp tỷ lệ, việc phân tích BCTC thường diễn ra ngay sau
khi các báo cáo tài chính quý, năm hoàn thiện. Do bảng biểu có sẵn và chỉ phân tích các chỉ tiêu
cơ bản, nên công tác chuẩn bị nhanh gọn, tiện giản.


Bƣớc
Thủ tục
Trách nhiệm
Bộ phận hỗ trợ
1

Phó phòng Tài chính –
Kế toán
Các kế toán viên,
phần mềm kế toán
hỗ trợ.
2

Kế toán tổng hợp

3

Trưởng phòng TC-KT
xét duyệt

4

Ban TGĐ xem xét ra
quyết định quản lý.




Nguồn: Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại 319, 2011.


Trình bản phân
tích đến BTGĐ
Trình bản phân tích đến
trưởng phòng TC - KT
Phân tích BCTC
Lập các báo cáo
tài chính
Hình 2.7. Sơ đồ quy trình phân tích BCTC tại
công ty cổ phần Đầu tƣ và Thƣơng mại 319

2.3.3. Đánh giá thực trạng công tác phân tích báo cáo tài chính tại công ty cổ phần đầu tƣ
và thƣơng mại 319
2.3.3.1.Thành công
Về mục tiêu phân tích BCTC:
Việc phân tích BCTC của Công ty chủ yếu nhằm cung cấp thông tin cho việc điều hành
quản lý của ban lãnh đạo công ty.
Về phƣơng pháp phân tích BCTC:
Công ty sử dụng kết hợp gữa phương pháp so sánh và phương pháp phân tích tỷ lệ để tiến
hành phân tích các báo cáo tài chính.
Về nội dung phân tích BCTC:
Công ty đã tiến hành phân tích báo cáo kết quả kinh doanh, bảng cân đối kế toán theo
phương pháp so sánh tuyệt đối và tương đối, với cách trình bày bảng biểu rõ ràng, đầy đủ. Phần
phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ còn khái quát, chưa đi sâu phân tích cơ cấu dòng tiền.
2.3.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những thành công kể trên, công tác phân tích báo cáo tài chính tại Công ty cổ
phần Đầu tư và Thương mại 319 còn bộc lộ một số hạn chế sau:
* Hạn chế
Bên cạnh những thành công kể trên, công tác phân tích các báo cáo tài chính của công ty còn bộc
lộ một số hạn chế sau:
Về tổ chức công tác phân tích:

Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại 319 thông thường chỉ phân tích các báo cáo tài
chính định kỳ cuối quý, cuối năm chứ chưa được thực hiện thường xuyên.
Về thông tin sử dụng trong phân tích:
Nguồn thông tin không được đảm bảo đầy đủ, các số liệu sử dụng để phân tích chủ yếu là
trong 2 năm hay số liệu đầu năm và cuối năm (đầu kỳ và cuối kỳ). Vì vậy, kết quả phân tích chỉ
có ý nghĩa trong ngắn hạn, chưa đem lại cho đối tượng sử dụng thông tin hình ảnh về doanh
nghiệp nói chung và tình hình tài chính nói riêng một cách có chiều sâu.
Về phƣơng pháp phân tích:
Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại 319 chỉ áp dụng một số phương pháp truyền
thống như: phương pháp so sánh theo chiều dọc và ngang, phương pháp tỷ lệ.
Về nội dung phân tích:
Nội dung phân tích của Công ty còn sơ sài, mang tính chất khái quát. Trong đó, mới chỉ
tập trung vào phân tích khái quát BCTC thông qua việc phân tích cơ cấu tài chính và phân tích
các chỉ tiêu tài chính, do đó chưa phản ánh đầy đủ tình hình tài chính của Công ty mà chỉ giúp
Ban lãnh đạo Công ty nắm được tình hình tăng, giảm của tài sản, nguồn vốn, kết quả kinh doanh
nhưng mức độ tăng giảm như vậy là hợp lý hay chưa thì chưa được làm rõ.
* Nguyên nhân của các hạn chế là do:
- Nguyên nhân chủ quan
Do Ban lãnh đạo Công ty chưa nhận thức được tầm quan trọng và tác dụng của công tác
phân tích BCTC. Vì vậy mà công tác này chưa được chú trọng đầu tư thích đáng.
Công ty chưa có sự trợ giúp của các phần mềm tài chính chuyên dụng nên công tác phân
tích BCTC chủ yếu được thực hiện thủ công. Do đó, hiệu quả của công tác phân tích BCTC chỉ
dừng lại ở mức độ nhất định.
Công tác phân tích BCTC do một cán bộ của phòng Tài chính – Kế toán đảm nhận và
thực hiện tất cả các bước phân tích. Công ty chưa xây dựng được một đội ngũ cán bộ phân tích
tài chính có trình độ chuyên môn cao.
Các phương pháp phân tích tài chính được Công ty sử dụng còn sơ sài, mới chỉ dừng lại ở
phương pháp phân tích tỷ số và phương pháp so sánh nhưng chưa đầy đủ.
- Nguyên nhân khách quan:
Hệ thống pháp lý của nước ta vẫn chưa hoàn toàn phù hợp với cơ chế mới, lại thường

xuyên sửa đổi… điều đó làm công tác phân tích BCTC gặp nhiều khó khăn do không lường
trước được sự thay đổi.
Thị trường tài chính và thị trường vốn nước ta chưa phát triển nên công tác phân tích
BCTC nói riêng, công tác phân tích tài chính nói chung chưa được quan tâm đúng mức. Khi các
thị trường này phát triển thì các doanh nghiệp phải công khai hóa các BCTC và có các công ty
kiểm toán thẩm định lại, nhờ vậy mà công tác phân tích BCTC sẽ có được nguồn số liệu đầy đủ
và chính xác, hiệu quả phân tích cao hơn
Hiện nay hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành chưa được xây dựng, vì vậy Công ty cổ phần
Đầu tư và Thương mại 319 thiếu những chuẩn mực để đánh giá so sánh và xác định vị thế của
mình trên thị trường và với các doanh nghiệp cùng ngành.
2.3.4. Đánh giá khái quát thực trạng công tác phân tích BCTC tại các công ty xây lắp
Qua thực trạng công tác phân tích BCTC của công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại 319
và một số công ty xây lắp khác, có thể đánh giá khái quát thực trạng công tác phân tích BCTC tại
các công ty xây lắp như sau:
Một là, công tác phân tích BCTC vẫn còn sự thiếu đầy đủ của hệ thống thông tin phân
tích BCTC. Có thể thấy, những chỉ tiêu tài chính cơ bản mà các công ty quen sử dụng để phản
ánh tình hình tài chính về thực chất chỉ là những chỉ tiêu sử dụng để đánh giá khái quát tình hình
tài chính của công ty chứ không thể phản ánh đầy đủ thực trạng tài chính và an ninh tài chính của
công ty.
Hai là, vẫn còn sự thiếu thống nhất về nội dung phân tích BCTC, những nội dung này
hoàn toàn tùy thuộc vào nhận thức của các cán bộ kế toán tại các công ty xây lắp. Do vậy, hệ
thống chỉ tiêu tài chính cơ bản được sử dụng cũng không giống nhau
Ba là, hiện nay chưa có một tổ chức nào đứng ra xây dựng được các tỷ số trung bình
ngành chuẩn làm căn cứ so sánh phân tích BCTC, tuy nhiên không phủ nhận hoàn toàn sự đóng
góp trong lĩnh vực cung cấp thông tin, số liệu tài chính từ một số website của các công ty chứng
khoán, các diễn đàn tài chính, chứng khoán v.v Thế nhưng thực tế, ngay bản thân các công ty
chứng khoán, một định chế tài chính được coi là chuyên nghiệp trong lĩnh vực chứng khoán tại
thời điểm hiện nay, khi đưa thông tin về cùng một công ty, cùng một chỉ tiêu tài chính, tại cùng
một thời điểm thì hai công ty chứng khoán khác nhau lại công bố những kết quả khác nhau, mặt
khác những thông tin, số liệu mà họ cung cấp không hẳn là xác thực, thêm vào đó là quá nhiều

thông tin ảo nhằm những mục đích khác nhau được tung ra có thể do vô tình hoặc cố ý.
Bốn là, hạn chế trong việc xem xét các yếu tố môi trường kinh doanh khi phân tích
BCTC cũng như dự báo tương lai tài chính doanh nghiệp xây lắp. Khi tiến hành phân tích BCTC
của một doanh nghiệp, cần đánh giá những tác động của môi trường kinh doanh, của lạm phát tới
các số liệu, các tỷ số, đòn bẩy tài chính… chẳng hạn như tỷ lệ nợ trên tổng tài sản ở thời điểm
kinh tế ổn định tăng trưởng này là tối ưu, nhưng khi nền kinh tế suy thoái, doanh nghiệp không
bán được hàng, doanh thu giảm, thì chi phí lãi vay do tỷ lệ nợ vay trên sẽ trở thành gánh nặng
với doanh nghiệp. Trên thực tế những ảnh hưởng của sự thay đổi chính sách kinh tế, môi trường
kinh doanh, ảnh hưởng của lạm phát…tới việc phân tích báo cáo tài chính chưa được lượng hóa,
xác định mức độ ảnh hưởng.
Năm là, hệ thống tỷ số phân tích và phương pháp tính toán các tỷ số trong phân tích báo
cáo tài chính ở Việt Nam hiện nay còn chưa hoàn thiện.
Sáu là, hạn chế trong khâu tổ chức, thực hiện và sử dụng thông tin
phân tích BCTC, các công ty xây lắp hầu như không có chức danh giám đốc tài chính theo đúng
nghĩa khoa học của vị trí này và các bộ phân chức năng chuyên môn cho việc phân tích tài chính.
Phân tích BCTC chủ yếu là do nhu cầu đột xuất của chủ doanh nghiệp hoặc các đối tượng khác,
công tác phân tích báo cáo tài chính được giao cho bộ phận kế toán kiêm nhiệm.
Bảy là, kết quả phân tích được trình bày dưới dạng con số, thiếu sự đánh giá xác định
nguyên nhân, nên chỉ mang tính chất báo cáo hay là thông báo tuyên truyền nhiều hơn là phục vụ
cho việc hoạch định các kế hoạch, chính sách của các niên độ tiếp theo.
Tám là, về phương pháp phân tích các công ty xây lắp chủ yếu áp dụng các công cụ đơn
giản là so sánh theo chiều ngang, theo chiều dọc, kỳ so sánh thường là so sánh năm trước và năm
sau, không có sự liên hệ qua các năm để đưa ra các nhận định về đối tượng phân tích. Rất ít
doanh nghiệp sử dụng phân tích Dupont, phương pháp thay thế liên hoàn, phương pháp hồi quy,
tương quan…trong việc phân tích BCTC.
Chín là, về dự báo các tỷ số tài chính, hầu như các công ty xây lắp trong báo cáo của
mình không đề cập đến dự báo tài chính, công tác dự báo tài chính còn mang tính bột phát và
thiếu đồng bộ. Hầu hết các công ty không lập báo cáo tài chính dự báo cho niên độ kế toán sau.

CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC PHÂN TÍCH BCTC TẠI CÁC

CÔNG TY XÂY LẮP, TÌNH HUỐNG TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƢ VÀ THƢƠNG
MẠI
3.1. Quan điểm hoàn thiện công tác phân tích báo cáo tài chính tại công ty xây lắp
Quan điểm toàn diện, phù hợp: thông tin dùng để phân tích BCTC phải đáp ứng yêu
cầu quản lý, tuân thủ chính sách, chế độ quản lý kinh tế tài chính của Nhà nước, và đảm bảo tính
chính xác và đầy đủ. Các phân tích BCTC phải đáp ứng được yêu cầu cung cấp thông tin kịp
thời, trung thực cho các nhà quản lý, cũng như mọi đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính
của Công ty.
Quan điểm hiệu quả, kịp thời: nội dung và phương pháp phân tích BCTC phải đảm bảo
tính khả thi và hiệu quả. Xác định rõ đối tượng sử dụng thông tin từ việc phân tích BCTC. Từ đó
làm cơ sở xây dựng kế hoạch phân tích cụ thể. Tiến hành thu thập thông tin, tính toán các chỉ
tiêu phân tích và cần phải căn cứ vào mục tiêu, nội dung phân tích đã xác định trong kế hoạch
phân tích nhằm tính các chỉ tiêu phân tích phù hợp, đảm bảo tính chuyên sâu của việc phân tích,
tăng hiệu quả của công tác phân tích. Hoàn thành phân tích phải lập báo cáo phân tích đưa ra các
kết luận về ưu, khuyết điểm chủ yếu trong công tác quản lý, các nguyên nhân cơ bản đã tác động
tích cực hoặc tiêu cực đến kết quả hoạt động cũng như các biện pháp khắc phục, khai thác các
tiềm năng của công ty.
3.2. Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích BCTC tại công ty xây lắp
3.2.1. Yêu cầu hoàn thiện
Các công ty xây lắp phải xây dựng được các biểu mẫu phân tích BCTC cụ thể, xây dựng
quy trình phân tích BCTC để giúp công tác này đánh giá được tổng quát, toàn diện tình hình
hoạt động sản xuất kinh, tình hình công nợ… của công ty trong một thời kỳ nhất định.
Phải kết hợp hài hòa các phương pháp phân tích BCTC, bổ sung các phương pháp phân
tích mới như phương pháp Dupont, phương pháp phân tích độ co giãn, phương pháp phân tích
kinh tế lượng để có thể phát huy tác dụng hữu ích của công tác phân tích BCTC, tham mưu cho
Ban lãnh đạo công ty điều hành công ty theo hướng có hiệu quả nhất.
Nội dung, phương pháp tính, hình thức trình bày các chỉ tiêu tài chính phải có sự thống
nhất, bổ sung cho nhau, nhằm đánh giá đúng thực trạng tài chính của Công ty.
Các giải pháp đưa ra để hoàn thiện công tác phân tích BCTC phải có tính ứng dụng thực
tiễn, phù hợp với đặc điểm hoạt động của các công ty xây lắp, có tính khả thi khi áp dụng thực

tế.
3.2.2. Nội dung giải pháp
3.2.2.1. Tổ chức tốt công tác phân tích BCTC
Công ty cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể quy trình thực hiện phân tích. Quy
trình phân tich BCTC theo sơ đồ sau:
Bƣớc
Thủ tục
Nghiệp vụ phân tích
Bƣớc
Thủ tục
Nghiệp vụ phân tích
1
Xây dựng kế hoạch phân tích
. Công ty tiến hành lập kế hoạch phân tích trên các
khía cạnh sau:
- Phương pháp phân tích
- Nội dung phân tích
- Lựa chọn cán bộ có trình độ chuyên môn để tiến
hành phân tích BCTC
- Phối kết hợp với các bộ phận khác trong phân
tích BCTC
- Xác định thời gian cho công tác phân tích
BCTC
2
Chuẩn bị tài liệu: bảng cân đối kế
toán, báo cáo kết quả kinh doanh,
báo cáo lưu chuyển tiền tệ và
thuyết minh báo cáo tài chính.
Xác định mục tiêu phân tích, chọn các chỉ tiêu biểu
mẫu phù hợp với mục tiêu. Kiểm tra tính chính xác,

đầy đủ, đúng quy định của các BCTC

3
Cán bộ phân tích BCTC lựa chọn
phương pháp, chỉ tiêu cần phân
tích
- Vận dụng phương pháp so sánh và phương pháp
tỷ lệ
- Tạo các biểu bảng phân tích số liệu các BCTC,
chọn các chỉ tiêu cần phân tích để tạo công thức
trên các bảng biểu.

4
Áp dụng phân tích các BCTC
- Xác định đúng số liệu từ các báo cáo tài chính để
lắp vào công thức tính toán đã chọn.
5
Giải thích ý nghĩa của các tỷ số
vừa tính toán và vận dụng vào
tình hình thực tế của công ty để
có phần nhận xét và đánh giá phù
hợp với tình hình kinh doanh và
sức khỏe tài chính của công ty.

Đánh giá tỷ số vừa tính toán (cao, thấp hay phù
hợp) so sánh giữa các kỳ với nhau và với bình quân
ngành để đưa ra những nhận định và đánh giá thực
tế tình hình kinh doanh cũng như tình hình tài chính
của công ty.


Bƣớc
Thủ tục
Nghiệp vụ phân tích
6
Rút ra kết luận về tình hình tài
chính của công ty
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ số tài chính,
nếu cần thiết phải tập trung vào phân tích các nhân
tố ảnh hưởng đến từng chỉ tiêu trên báo cáo tài
chính hoặc xem xét các chỉ tiêu nào chiếm tỷ trọng
cao cần thiết phải xem xét và tìm ra các nhân tố ảnh
hưởng để xác định những nhân tố này tác động như
thế nào đến tình hình tài chính của công ty.

7
Tổng hợp phân tích báo cáo tài
chính, trình ban lãnh đạo doanh
nghiệp xem xét ra quyết định
quản lý.


Hình 3.1. Sơ đồ quy trình phân tích BCTC tại DN xây lắp

Trên đây là quy trình phân tích BCTC, tuy nhiên, trình tự phân tích và một số tiểu tiết
cũng có thể thay đổi hoặc bỏ qua một số bước tuỳ thuộc vào từng điều kiện của từng công ty.
Hiện nay, công tác phân tích BCTC đang do phòng TCKT đảm nhiệm, các nhân viên của
phòng TC-KT với số lượng chỉ có 6 người vừa phải thực hiện công tác hạch toán kế toán, vừa
phải kiêm nhiệm việc phân tích BCTC. Hầu hết nhân viên của phòng được đào tạo về kế toán
nên kiến thức và sự am hiểu về lĩnh vực tài chính doanh nghiệp còn nhiều hạn chế dẫn đến việc
tiến hành công tác phân tích tài chính gặp nhiều khó khăn nên hiệu quả của phân tích không cao.

Do đó, trong thời gian tới, Ban lãnh đạo Công ty nên thực hiện việc phân chia phòng TC – KT
thành hai bộ phận riêng biệt: một bộ phận thực hiện công tác kế toán, một bộ phận thực hiện
công tác phân tích tài chính. Việc phân chia như vậy sẽ tạo điều kiện chuyên môn hóa công việc,
vừa góp phần giảm gánh nặng cho các nhân viên kế toán, vừa xây dựng cho công ty một đội ngũ
cán bộ phân tích tài chính có trình độ cao.
Tuy nhiên, trong thời điểm hiện tại, những ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu đã
và đang tác động tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp nói
chung, các doanh nghiệp xây lắp nói riêng. Tính đến thời điểm này, có nhiều công ty xây lắp nhỏ
và vừa đã phải đóng cửa, hoặc phải hoạt động cầm chừng do thị trường bất động sản đóng băng.
Nhiều công ty xây lắp thực hiện tái cơ cấu, việc tinh giản bộ máy nhân sự cũng là một giải pháp
cần thực hiện. Mặt khác, công tác phân tích BCTC không phải là công việc thường xuyên mà chỉ
thực hiện định kỳ theo quý, năm, nên để tiết kiệm chi phí, tinh gọn bộ máy nhân sự phòng kế
toán, Công ty cổ phần Đầu tư và thương mại 319 không nhất thiết tuyển dụng thêm cán bộ tài
chính mà phân công một cán bộ kế toán làm công tác kiêm nhiệm phân tích tài chính, phân tích
các BCTC của công ty. Các nhân viên kế toán khác có trách nhiệm hỗ trợ cho cán bộ thực hiện
nhiệm vụ này.
Đối với các công ty xây lắp quy mô lớn, do có nhiều chi nhánh, công ty con, đơn vị thành
viên thì nên việc tách riêng cán bộ phân tích tài chính là điều cần thiết để công tác phân tích
BCTC được chuyên môn hóa, mang lại hiệu quả cao.
3.2.2.2. Hoàn thiện nguồn thông tin cung cấp cho công tác phân tích BCTC
Để công tác phân tích BCTC đưa ra những kết quả chính xác thì Công ty cần phải có
nguồn thông tin đảm bảo tính đầy đủ, chính xác.
3.2.2.3. Hoàn thiện phƣơng pháp phân tích BCTC
Hiện nay, các công ty xây lắp nói chung, Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại 319 nói
riêng mới chỉ áp dụng hai phương pháp phân tích BCTC là phương pháp so sánh và phương
pháp phân tích tỷ số, do vậy không đáp ứng được hết yêu cầu đề ra. Để giải quyết vấn đề trên,
Công ty nên nhanh chóng đưa phương pháp phân tích Dupont vào phân tích BCTC vào thực tế.
Khi sử dụng phương pháp Dupont, cán bộ phân tích tài chính Công ty sẽ xác định chính xác các
nguyên nhân gây nên tình trạng tốt, xấu trong hoạt động của Công ty.
3.2.2.4. Hoàn thiện nội dung phân tích BCTC

Việc phân tích trên từng BCTC, bao gồm các nội dung cơ bản sau đây: (1) Phân tích
ngang trên từng báo cáo tài chính để thấy rõ sự biến động về quy mô của từng chỉ tiêu, kể cả số
tuyệt đối và số tương đối. (2) So sánh dọc trên từng báo cáo tài chính (đặc biệt bảng cân đối kế
toán) để thấy rõ sự biến động về cơ cấu của từng chỉ tiêu trên từng báo cáo tài chính. (3) Phân
tích mối liên hệ giữa các chỉ tiêu trên từng báo cáo tài chính nhằm đánh giá sơ bộ về tình hình tài
chính của doanh nghiệp.
Để hoàn thiện nội dung phân tích BCTC tại Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại 319
nói riêng, tại doanh nghiệp xây lắp nói chung, cần bổ sung một số nội dung trong phân tích
BCTC như: phân tích tình hình đảm bảo vốn cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; phân
tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; phân tích tình hình rủi ro tài chính của
doanh nghiệp. Tùy mục đích phân tích và đối tượng sử dụng bản phân tích mà Công ty chọn lựa
các nội dung cần phân tích.
(1) Đối với phân tích bảng cân đối kế toán
Khi phân tích BCĐKT, cần bổ sung nội dung phân tich tình hình đảm bảo vốn theo quan
điểm nguồn tài trợ tài sản như sau:

Bảng 3.3. Bảng phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh
của Công ty cổ phần Đầu tƣ và Thƣơng mại 319
STT
Chỉ tiêu
Kỳ gốc (2010)
Kỳ phân tích
(2011)
Kỳ phân tích so với kỳ gốc
+(-)
%
1
Tổng số nguồn vốn
169.642.387.529


172.504.289.403

2.861.901.874

1,69%
2
Vốn hoạt động thuần

17.497.124.895
24.183.210.854

6.686.085.959

38,2%

3
Hệ số tài trợ thường
xuyên
0,16

0,18

0,02


12,8%
4
Hệ số tài trợ tạm thời
0,84


0,82

-0,02

-2,4%

5
Hệ số vốn chủ sở hữu
so với Nguồn vốn
thường xuyên
0,91

0,86

-0,05

-5,8%

6
Hệ số giữa nguồn vốn
thường xuyên so với
tài sản dài hạn
2,95
4,44
1,49
50,5%
7
Hệ số giữa tài sản
ngắn hạn so với nợ
1,12

1,17
0,05
4,5%


Từ bảng phân tích trên, có thể nhận xét tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại 319 như sau:
Vốn hoạt động thuần của công ty dương, năm 2011 tăng 1,69% so với năm 2010. Điều
này cho thấy nguồn tài trợ thường xuyên của doanh nghiệp không những được sử dụng để trả nợ
cho tài sản dài hạn mà còn tài trợ một phần cho tài sản ngắn hạn. Tuy nhiên, nhìn bảng cân đối
kế toán, có thể thấy nguồn vốn chủ sở hữu rất thấp so với vay ngắn hạn và dài hạn, do vậy,
nguồn tài trợ thường xuyên chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn, điều này khiến việc đảm bảo
khả năng thanh toán, trả nợ của Công ty sẽ gặp khó khăn khi có các khoản nợ xấu, khoản phải
thu khó đòi, công ty không vay được vốn để tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh, cần so sánh
các chỉ tiêu khác và so sánh với giá trị trung bình ngành để có những đánh giá chính xác.
Hệ số tài trợ tạm thời năm 2011 là 0,82 giảm 2,4% so với năm 2010, tuy nhiên vẫn ở mức
cao, cho thấy nguồn tài trợ tài sản chủ yếu dùng nguồn tài trợ tạm thời, tính ổn định và cân bằng
tài chính thấp. Hệ số vốn chủ sở hữu so với nguồn tài trợ thường xuyên năm 2011 giảm 5,8% so
với năm 2010, tính độc lập, tự chủ về tài chính của doanh nghiệp giảm. Hệ số giữa nguồn vốn
thường xuyên so với tài sản dài hạn, hệ số giữa tài sản ngắn hạn so với nợ ngắn hạn đểu lớn hơn
1 và tăng so năm trước. Do vậy, có thể nhận xét, Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại 319 đã
có nhiều cố gắng đảm bảo ổn định, cân bằng tài chính và đảm bảo khả năng thanh toán trong giai
đoạn 2010-2011, đây là giai đoạn khó khăn trong lĩnh vực xây lắp do sự khủng hoảng tài chính
khu vực, sự đóng băng của thị trường bất động sản. Điều này cho thấy những cố gắng nỗ lực
khắc phục khó khăn, chủ động tìm nguồn vốn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của ban
lãnh đạo công ty.
Tuy nhiên, bảng phân tích cũng cho thấy, Công ty trong thời gian tới cần khắc phục hạn
chế, tăng nguồn vốn chủ sở hữu, giảm các khoản vay ngắn hạn để tránh tình trạng mất khả năng
thanh toán do tài trợ tài sản bằng các nguồn vốn vay ngắn hạn. Các khoản phải thu cũng cần
giảm, tránh để bị chiếm dụng vốn trong thời điểm hiện nay.

Vốn sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp nói chung, công ty xây lắp nói riêng là yếu
tố quan trọng, quyết định sống còn của doanh nghiệp. Bởi vậy cần chú trọng việc phân tích hiệu
quả sử dụng vốn, khả năng thanh toán, sức sinh lời của tài sản, nguồn vốn … để có những giải
pháp quản lý vốn sao cho có hiệu quả, nhằm mang lại lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp.
ngắn hạn



(2) Đối với phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Kết hợp số liệu trên bảng CĐKT và bảng BCKQHĐKD, doanh nghiệp cần bổ phân tích
hiệu quả kinh doanh qua các chỉ tiêu về khả năng thanh toán, hiệu suất sử dụng tài sản, cơ cấu
vốn và khả năng trả nợ, lợi suất trên vốn đầu tư, các chỉ tiêu lợi suất trên doanh thu… Để công
tác phân tích, đánh giá được chính xác và phù hợp với đặc điểm của công ty xây lắp, cần so sánh
với chỉ tiêu trung bình ngành xây lắp.
(3) Đối với phân tích báo cáo lƣu chuyển tiền tệ
Có nhiều doanh nghiệp trên BCĐKT, BCKQHĐKD cho thấy có khi DN có lợi nhuận,
nhưng lợi nhuận dường như dồn hết vào hàng tồn kho quá nhiều (mua nhiều, bán chậm) và bán
chịu cho khách hàng. Có lợi nhuận, nhưng tiền thường xuyên thiếu trước hụt sau, phải đi vay
ngân hàng hoặc vay nóng.
Việc phân tích BCLCTT quan trọng trong việc quản lý dòng tiền, đảm bảo khả năng
thanh toán công nợ của DN nên công tác phân tích BCTC cần chú ý đến việc phân tích, đối
chiếu, so sánh các số liệu trên BCLCTT với số liệu trên BCĐKT, BCKQHĐKD để có sự đánh
giá chính xác, đầy đủ thực trạng của DN.
(4). Đối với phân tích thuyết minh Báo cáo tài chính
Thuyết minh BCTC được lập để giải thích và bổ sung thông tin về tình hình hoạt động
sản xuất - kinh doanh, tình hình tài chính cũng như kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong
kỳ báo cáo mà các bảng báo cáo khác không thể trình bày rõ ràng và chi tiết. Qua đó, nhà đầu tư
hiểu rõ và chính xác hơn về tình hình hoạt động thực tế của doanh nghiệp. Đối với các số liệu bổ
sung trong thuyết minh BCTC, DN cũng cần phân tích theo phương pháp so sánh, hoặc phương
pháp tỷ lệ để đánh giá sâu hơn về thực trạng DN. Trường hợp công ty cổ phần Đầu tư và Thương

mại 319 (319 Invest), có thể phân tích thêm về chỉ tiêu hàng tồn kho:
Bảng 3.4. Phân tích tỷ trọng hàng tồn kho năm 2011– 319 Invest

Khoản mục
Năm 2011
Tỷ trọng
Hàng tồn kho (VNĐ)


Công cụ, dụng cụ
206.990.685
0,56%
Chi phí sản xuất, kinh doanh dở dang
24.205.820.842
65,71%
Hàng hóa
12.423.329.264
33,73%
Cộng giá gốc hàng tồn kho
36.836.140.791
100,00%

Tỷ trọng chi phí sản xuất, kinh doanh dở dang trên tổng hàng tồn kho chiếm phần lớn
trong tổng số hàng tồn kho (65,71%), lại chiếm lớn trong tổng số tài sản cố định và đầu tư tài
chính dài hạn. Điều này phản ánh vốn đầu tư vào xây dựng cơ bản dở dang chưa hoàn thành của
công ty là rất lớn. Do đó, công ty cần phải tìm mọi biện pháp để gấp rút hoàn thành và đưa các
công trình xây dựng dở dang vào tiến độ. Những công trình có đủ vốn và thủ tục xây dựng cơ
bản cần làm nhanh thủ tục nghiệm thu và bám sát chủ đầu tư để thanh toán kịp thời. Những công
trình chưa có vốn hoặc thiếu thủ tục xây dựng cơ bản cần chủ động phối hợp với chủ đầu tư tháo
gỡ từng bước để thu hồi nhanh nợ khối lượng

3.3. Điều kiện thực hiện các giải pháp
3.3.1. Về phía nhà nƣớc
Qua nghiên cứu công tác phân tích báo cáo tài chính, có thể thấy được ý nghĩa, tầm quan
trọng của nó đối với các công ty xây lắp. Trong bối cảnh nền kinh tế hiện đại, mức độ cạnh tranh
giữa các công ty ngày càng khốc liệt, các công ty không ngừng tìm kiếm các biện pháp hợp lý
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính. Và các giải pháp đưa ra ở trên là thiết thực đối với
Công ty. Tuy nhiên, để các giải pháp được thực hiện tốt, có động lực thúc đẩy đối với công ty thì
từ phía Nhà nước cần cú sự hỗ trợ tích cực thông qua việc ban hành các quy định, các chính sách
cụ thể về phân tích tài chính, quản lý tài chính, môi trường kinh doanh thuận lợi cho các công
ty. Nền kinh tế nước ta đang từng bước phát triển ổn định, do đó Nhà nước cần ban hành các
chính sách hạch toán kế toán ổn định tránh tình trạng thay đổi liên tục gây khó khăn cho các
công ty.
Các cơ quan kiểm toán Nhà nước cần thực hiện tốt nhiệm vụ của mình để đảm bảo tính
khách quan của công tác kiểm toán, tăng cường sự kiểm tra giám sát của Nhà nước đối với các
công ty một cách kịp thời và đầy đủ để phát hiện những bất hợp lý của các nghiệp vụ kinh tế,
chứng từ kế toán, nhằm kiểm chứng tính chính xác, trung thực các số liệu tài chính của công ty
góp phần mang lại một kết quả phân tích tài chính được sát thực hơn.
Bộ tài chính cần tiến tới yêu cầu các công ty xây lắp phải thực hiện phân tích báo cáo tài
chính một cách nghiêm túc để tự đánh giá hoạt động tài chính của mình đề ra phương huớng phát
triển và báo cáo lên cơ quan quản lý cấp trên, để các cơ quan này nắm vững hơn tình hình hoạt
động của đơn vị mình quản lý để có các quyết định quản lý thích hợp và thúc đẩy được hoạt
động phân tích tài chính phát triển.
Nhà nước nên có quy định yêu cầu các công ty phải công khai các báo cáo tài chính để
làm cơ sở cho việc phân tích tài chính được dễ dàng và thuận lợi hơn. Hiện nay chỉ có trong
công ty là có đủ tài liệu để phân tích tài chính còn những người ngoài công ty chưa thể tìm hiểu
cụ thể về công ty mà mình quan tâm.
Để có chuẩn mực, thước đo đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty xây lắp,
Nhà nước phải quy định việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu ngành. Chỉ tiêu ngành sẽ cung cấp
thông tin quan trọng cho các công ty, nó là cơ sở tham chiếu để các nhà phân tích có thể đưa ra
các nhận xét, đánh giá, kết luận về hoạt động tài chính của công ty mình một cách chính xác.

Tuy nhiên, hiện nay, chúng ta đã có chỉ tiêu trung bình ngành nhưng chưa đầy đủ và không kịp
thời, chưa thể hiện được vai trò tham chiếu nên gây ra cho công ty nhiều khó khăn, lúng túng
khi đối chiếu đánh giá hoạt động của công ty mình. Nhà nước cần giao cho Tổng cục Thống kê
và các cơ quan liên quan xây dựng hệ thống chỉ tiêu kinh tế tài chính trung bình cho ngành xây
lắp.
3.3.2. Về phía các công ty xây lắp
3.3.2.1. Đối với Ban lãnh đạo
Ban lãnh đạo doanh nghiệp xây lắp cần nhận thức được vai trò và ý nghĩa của công tác
phân tích báo cáo tài chính để nó trở thành công việc có vị trí, có quy trình thực hiện chặt chẽ
như các công tác kế toán bắt buộc thực hiện của doanh nghiệp. Hiện nay, các doanh nghiệp xây
lắp tiến hành phân tích BCTC vào cuối mỗi niên độ kế toán nhằm mục đích báo cáo nội bộ Ban
lãnh đạo doanh nghiệp thì nên tiến hành thường xuyên hơn, theo quý hoặc theo tháng. Tuy nhiên,
việc thay đổi trong tư duy, công việc không phải là việc có thể thay đổi trong một sớm một
chiều, do vậy, các doanh nghiệp xây lắp cần hết sức lưu tâm để có chiến lược hành động thích
hợp.
3.3.2.2. Đối với Cán bộ tài chính - kế toán doanh nghiệp
Cần chú trọng đào tạo nhân sự cho công tác phân tích báo cáo tài chính. Chất lượng công
tác phân tích phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố nhân sự có vai trò rất quan trọng. Giả
sử rằng tất cả các bước yếu tố khác đều tốt nhưng công việc phân tích được giao cho một cán bộ
yếu về chuyên môn nghiệp vụ, thiếu đầu óc quan sát, thiếu việc đánh giá sự vật trong mối quan
hệ tài chính thì chắc chắn những kết qủa phân tích sẽ không đáng tin cậy, phiến diện và mang
tính chủ quan. Thông thường trong các công ty Việt Nam hiện nay, công tác phân tích tài chính
được giao cho cán bộ phòng tài chính kế toán thực hiện mà chuyên môn chính của họ là kế toán
chứ không phải là tài chính. Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại 319 cũng không ngoại lệ
cho nên kết quả phân tích báo cáo tài chính chưa cao.
Giải quyết vấn đề này, để hoàn thiện công tác phân tích báo cáo tài chính, các cán bộ
phân tích ở đây yêu cầu phải là những cán bộ có chuyên môn, trình độ cao về tài chính, được đào
tạo chính quy, am hiểu sâu rộng về đặc điểm kinh doanh của công ty, vị thế của công ty, nắm
vững những quy định, chính sách quản lý tài chính, chính sách thuế của nhà nước cũng như tình
hình kinh tế trong nước và quốc tế, những định hướng kinh doanh của công ty trong thời gian tới.

Đào tạo cán bộ cho công tác phân tích tài chính là một công việc khó, lâu dài, cần có
những cán bộ trẻ, năng động kế tiếp cho những người đi trước. Do vậy, công ty cần có sự đầu tư
thích đáng về thời gian và tiền của cho nguồn nhân lực phục vụ cho công tác này. Công ty có thể
tổ chức các khoá học ngắn hạn bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho các cán bộ quản lý tài
chính. Tuyển thêm các cán bộ trẻ có nghiệp vụ cao chuyên về tài chính làm dồi dào thêm cho
nguồn nhân sự. Mặc dù công việc này mang tính đầu tư lâu dài, xong chắc chắn sẽ nâng cao hiệu
qủa, chất lượng công tác phân tích tài chính của công ty trong tương lai.
Tóm lại: Nhà nước và các doanh nghiệp cùng kết hợp thực hiện đồng bộ các biện pháp nêu trên
để tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trong môi
trường tài chính lành mạnh, phù hợp với tình hình cụ thể để phát huy được thế mạnh của mình,
kịp thời khắc phục hạn chế để doanh nghiệp phát triển vững mạnh, hiệu quả.
KẾT LUẬN

Có thể nói phân tích báo cáo tài chính ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc cung
cấp thông tin kinh tế, tài chính cho nhà quản lý doanh nghiệp và các đối tượng quan tâm đến
doanh nghiệp nhằm phục vụ cho việc ra quyết định. Trong nền kinh tế thị trường ngày càng phát
triển và xu hướng toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ đòi hỏi mỗi doanh nghiệp nói chung, các
công ty xây lắp nói riêng cần tiến hành phân tích báo cáo tài chính.
Qua một thời gian nghiên cứu lý luận về báo cáo tài chính và phân tích báo cáo tài chính,
cùng với việc tìm hiểu thực trạng công tác phân tích báo cáo tài chính tại Công ty cổ phần Đầu tư
và Thương mại 319. Em đã hoàn thành luận văn Thạc sĩ tài chính ngân hàng với đề tài “Công tác
phân tích báo cáo tài chính tại các công ty xây lắp – Trường hợp tại công ty cổ phần Đầu tư và
Thương mại 319”
Với sự hướng dẫn tận tình của người hướng dẫn khoa học – PGS. TS. Trần Thị Hồng
Mai, em đã nỗ lực hết mình để thể hiện đầy đủ yêu cầu về nội dung nghiên cứu trong luận văn.
Tuy nhiên, do những hạn chế về kiến thức của bản thân, nguồn tài liệu phân tích nên việc nghiên
cứu còn tồn tại những hạn chế, thiếu sót. Em rất mong nhận được các ý kiến đóng góp của Quý
thầy, cô để luận văn được hoàn thiện hơn.

×