Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Những chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.77 KB, 36 trang )

A - Lời mở đầu
Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế tổng hợp có liên quan
đến các phạm trù kinh tế khác và đóng vai trò như là một công cụ có
hiệu lực, có hiệu quả trong việc tác động đến quan hệ kinh tế đối
ngoại của mỗi nước, đồng thời là yếu tố cực kỳ quan trọng đối với
chính sách tiền tệ quốc gia. Đ• bao thời nay, loài người đ• và đang
tiếp tục đứng trước một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt này và
cố gắng tiếp cận nó, mong tìm ra một nhận thức đúng đắn để từ đó
xác định và đưa vào vận hành trong thực tế một tỷ giá hối đoái phù
hợp, nhằm biến nó trở thành một công cụ tích cực trong quản lý nền
kinh tế ở mỗi nước.
Tỷ giá hối đoái, như các nhà kinh tế thường gọi là một loại
"giá của giá" , bị chi phối bởi nhiều yếu tố và rất khó nhận thức, xuất
phát từ tính trừu tượng vốn có của bản thân nó. Tỷ giá hối đoái
không phải chỉ là cái gì đó để ngắm mà trái lại, là cái mà con người
cần phải tiếp cận hàng ngày, hàng giờ, sử dụng nó trong mọi quan
hệ giao dịch quốc tế, trong việc sử lý những vấn đề cụ thể liên quan
đến các chính sách kinh tế trong nước và quốc tế. Và do vậy, nhận
thức một cách đúng đắn và sử lý một cách phù hợp một cách tỷ giá
hối đoái là một nghệ thuật.
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới ngày nay, khi mà quá trình
quốc tế hoá đ• bao trùm tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và
trong cuộc sống, thì sự gia tăng của hợp tác quốc tế nhằm phát huy
và sử dụng những lợi thế so sánh của mình đ• làm cho việc quản lý
đời sống kinh tế của đất nước và là mối quan tâm đặc biệt của
chính phủ các nước trong quá trình phục hưng và phát triển kinh tế.
Việt Nam là một trong những nước như vậy.
Xuất phát từ những lý do trên đây, Em chọn đề tài của mình là
"Một số vấn đề về tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt
Nam". Tập đề án được chia làm 2 phần chính.
Những vấn đề lý thuyết chung ( chương I )


Những chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam ( chương II )
Do đề ra, chương I sẽ chiếm phần lớn tập đề án. ở chương II. Và
em sẽ cố gắng trình bầy và thể hiện những gì đ• đề cập trong
chương I.
Dưới đây em xin trình bầy nội dung đề án của mình.

Nội dung
Chương I: Những vấn đề lý thuyết chung
I. Tỷ giá hối đoái và sự hình thành tỷ giá hối đoái
1. Tỷ giá hối đoái:
Hầu hết mỗi quốc gia hay một nhóm quốc gia liên kết (như liên minh
Châu Âu) đều có đồng tiền riêng của mình. Việt nam có tiền đồng
(VNĐ) Trung quốc có Nhân dân tệ (CNY), Mỹ có Dollar (USD).
Mối liên hệ kinh tế giữa các nước, các nhóm nước với nhau mà
trước hết là quan hệ mua bán trao đổi đầu tư dẫn đến việc cần có
sự trao đổi đồng tiền của các nước khác nhau với nhau, đông tiền
này đổi lấy đông ftiền kia, từ đố ta có thể nói rằng: tỷ giá hối đoái là
giá cả của một đơn vị tiền tệ của một nước tính bằn tiền tệ của một
nước khác. Thông thường, thuật ngữ "Tỷ giá hối đoái" được ngầm
hiểu là số lượng đơn vị tiền nội tệ cần thiết để mua một đơn vị ngoại
tệ, tuy nhiên ở Mỹ và Anh được sử dụng theo nghĩa ngược lại: số
lượng đơn vị ngoại tệ cần thiết để mua một đồng USD hoặc đồng
bảng Anh; ví dụ: ở Mỹ 0,8 xu/USD.
Các nhà kinh tế thường đề cập đến hai loại tỷ gia hối đoái:
- Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (en): đây là tỷ giá hôí đoái được biết
đến nhiều nhất do ngân hàng nhà nước công bố trên các phương
tiện thông tin đại chúng hàng ngày.
- Tỷ giá hối đoái thực tế (er) được xác định er = en * Pn/Pf
Pn: chỉ số giá trong nước
Pf: chỉ số giá nước ngoài

Tỷ giá hối đoái thực tế loại trừ được sự ảnh hưởng của chênh lệch
lạm phát giữa các nước và phản ánh đúng swsc mua và sức cạnh
tranh của một nước.
2. Sự hình thành tỷ giá hối đoái
a- Cầu về tiền trên thị trường ngoại hối
Có cầu về tiền của nước A trên thị trường ngoại hối khi dân cư từ
các nước khác mua hàng hoá và dịc vụ được sản xuất ra tại nước
A. Một nước xuất khẩu càng nhiều thì cầu đối với đồng tiền nước đó
càng lớn trên thị trường ngoịa hối.
Đường cầu về một loại tiền là hàm của tỷ giá hối đoái của nó xuống
dố phía bên phải, điều này cho thấy nếu tỷ giá hối đoái càng cao thì
hàng hoá của nước ấy càng trở lên đắt hơn đối với những người
n\ớc ngoài và ít hàng hoá xuất khẩu hơn
b- Cung về tiền trên thị trường ngoại hối
Để nhân dân nước A mua được các sản phẩm sản xuất ra ở nước
B họ phải mua một lượng tiền đủ lớn của nước B, bằng việc dùng
tiền nước A để trả. Lượng tiền này của nước A khi ấy bước vào thị
trường quốc tế.
2
Đường cung về tiền là một hàm của tỷ giá hối đoái của nó, dốc lên
trên về phía phải. Tỷ giá hối đoái càng cao thì hàng hoá nước ngoài
càng rẻ và hàng hoá ngoại được nhập khẩu ngày càng nhiều.
Các tỷ giá hối đoái được xác định chủ yếu thông qua các lực lượng
thị trường của cung và cầu. Bất kỳ cái gì làm tăng cầu về một đồng
tiền hoặc làm giảm cung của nó đều có xu hướng làm cho tỷ giá hối
đoái tăng lên. Bất kỳ cái gì làm giảm cầu về một đồng tiền hoặc làm
tăng cung đồng tiền ấy trên các thị trường ngoại hối sẽ hướng tới
làm cho giá trị trao đổi của nó giảm xuống ở hình vẽ dưới, ta thấy
được tỷ gía hối đoái cân bằng Lo của đồng Việt Nam và đồng USD
Mỹ thông qua giao điểm S và D.


L USD
Đ
S
Lo
D
Qo Q(đ)
2. Phân loại tỷ giá hối đoái
Trong thực tế tuỳ từng nơi từng lúc khi quan tâm đến một khía cạnh
nào đó của tỷ gía hối đoái người ta thường gọi đến tên đến loại tỷ
giá đó. Do vậy cần thiết phải phân loại tỷ giá hối đoái.
Dựa vào những căn cứ khác nhau người ta chia ra nhiều loại tỷ giá
khác nhau:
a- Căn cứ vào phương tiện chuyển ngoại hối, tỷ giá được chia ra
làm hai loại
-Tỷ giá điện hối mà tỷ gía mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách
nhiệm chuyển ngoại hối bằng điện( telegraphic transfer -T/T)
-Tỷ giá thư hối: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách
nhiệm chuyển ngoại hối bằng thư ( mail transfen M/T)
b- Căn cứ vào chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá hối đoái chia ra các
loại
- Tỷ giá chính thức: là tỷ giá do nhà Nước công bố được hình thành
trên cơ sở ngang giá vàng.
3
-Tỷ giá tự do là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trường do quan hệ
cung cầu qui định .
- Tỷ giá thả nổi là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trường và nhà
nước không can thiệp vào sự hình thành và quản lý tỷ giá này.
- Tỷ giá cố định là tỷ giá không biến động trong phạm vi thời gian
nào đó.

c- Căn cứ vào phương tiện thanh toán quốc tế, tỷ giá được chia ra
các loại:
- Tỷ giá séc là tỷ giá mua bán các loại séc ngoại tệ.
- Tỷ giá hối phiếu trả tiền ngay là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu
có kỳ hạn bằng ngoại tệ.
- Tỷ giá chuyển khoản là tỷ giá mua bán ngoại hối trong đó việc
chuyển khoản ngoại hối không phải bằng tiền mặt, bằng cách
chuyển khoản qua ngân hàng.
- Tỷ giá tiền mặt là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc chuyển trả
ngoại hối bằng tiền mặt.
d- Căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại hối:
- Tỷ giá mở cửa: là tỷ giá vào đầu giờ giao dịch hay tỷ giá mau bán
ngoại hối của chuyến giao dịch đầu tiên trong ngày.
- Tỷ giá đóng cửa: là tỷ giá vào cuối giờ giao dịch hay tỷ giá mua
bán ngoại hối của chuyến giao dịch cuối cùng trong ngày.
- Tỷ giá giao nhận ngay: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao
nhận ngoại hối sẽ được thực hiện chậm nhất trong 2 ngày làm việc.
- Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc
giao nhận ngoại hối sẽ được thực hiện theo thời hạn nhất định ghi
trong hợp đồng(có thể là 1,2,3 tháng sau).
e- căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối của ngân hàng tỷ giá
chia ra làm hai loại:
- Tỷ giá mua: là tỷ giá mà ngân hàng mua ngoại hối vào.
- Tỷg ía bán: là tỷ giá mà ngân hàng bán ngoại hối ra.
II- Những nhân tố ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái:
1- Cán cân thương mại: trong các điều kiện khác không đổi
nếu nhập khẩu của một nước tăng thì đường cung về tiền của nước
ấy sẽ dịch chuyển về phía bên phải, tỷ giá hối đoái giảm xuống; nếu
xuất khẩu tăng thì đường cầu về tiền của nước ấy sẽ dịch chuyển
sang trái tỷ giá hối đoái tăng lên.

2- Tỷ giá lạm phát tương đối: nếu tỷ lệ lạm phát của một nước
cao hơn tỷ lệ lạm phát của một nước khác thì nước đó sẽ cần nhiêù
tiền hơn để mua một lượng tiền nhất định của nước kia. Điều này
làm cho cung tiền dịch chuyển sang phải và tỷ giá hối đoái giảm
xuống.
4
3- Sự vận động của vốn: khi người nước ngoài mua tài sản tài
chính, l•i suất có ảnh hưởng mạnh. Khi l•i suất của một nước tăng
lên một cách tương đối so với nước khác thì các tài sản của nó tạo
ra tỷ lệ tiền lời cao hơn và có nhiều người dân nước ngoài muốn
mua tài sản ấy. Điều này làm cho đường cầu về tiền của nước đó
dịch chuyển sang phải và làm tăng tỷ giá hối đoái của nó. Đây là
một trong những ảnh hưởng quan trọng nhất tới tỷ giá ở các nước
phát triển cao.
4- Dự trữ, phương tiện thanh toán, đầu cơ: tất cả đều có thể làm
dịch chuyển đường cung và cầu tiền tệ. Đầu cơ có thể gây ra những
thay đổi lớn về tiền, đặc biệt trong điều kiện thông tin liên lạc hiện
đại và công nghệ máy tính hiện đại có thể trao ddổi hàng tỷ USD giá
trị tiền tệ mỗi ngày.
Trên đây là 4 nguyên nhân cơ bản gây lên sự dịch chuyển đường
cung và cầu trên thị trường ngoại hối. Sự dịch chuyển này đến lượt
nó sẽ gây ra những dao động của tỷ giá hối đoái, và như vậy phản
ứng dây chuyền, những biến động của tỷ giá hối đoái lại tác động
đến nền kinh tế trong nước.
III- Tác động của tỷ giá hối đoái đến nền kinh tế
1-Thực trạng tác động của tỷ giá đối với các lĩnh vực tài chính,
ngân sách thời gian qua.
1.1-Thực trạng quan hệ giữa tỷ giá với ngân sách:
Mọi sự biến động của các loại tỷ giá đều tác động trực tiếp tới thu
chi ngân sách. Trước năm 1990 nhà nước thực hiện chính sách tỷ

giá kết toán nội bộ, mức tỷ giá nhà nước công bố thường cố định
trong thời gian tương đối dài. ở thời điểm công bố mức tỷ giá thấp
hơn nhiều so với mức giá trên thị trường và tình hình sức mua của
đồng tiền tính chung thời kỳ 1985-1988, 1rúp mua trên dưới
1.500VND hàng xuất khẩu, 1USD trên dưới 3.000VND, trong khi đó
tỷ giá kết toán nội bộ thanh toán trong quan hệ xuất nhập khẩu giữu
mức 150VND/Rúp và 225VND/USD. Nhìn chung 1Rúp hàng xuất
khẩu phải bù lỗ 1.350VND và 1USD phải bù 2.775VND. Kim ngạch
xuất khẩu của năm 1987là 650 triệu R-USD trong đó khu vực đồng
Rúp 500 triệu và khu vực đồng USD 150 triệu, Ngân sách nhà nước
đ• phải bù lỗ 900 tỷ. Đối với các ngành, các địa phương càng giao
nhiều hàng xuất khẩu để thực hiện nghĩa vụ với bạn, thì ngân sách
nhà nước càng phải bù lỗ nhiều. Ngân sách nàh nước không bù lỗ
đủ hoặc chậm trễ trong việc thanh toán thì công nợ giữa các doanh
nghiệp và các ngành càng tăng và càng thiếu vốn để tiếp tục kinh
doanh. Đối với hàng nhập, thì khi vật tư nguyên liệu thiết bị về nước
nhà nước đứng ra phân phối cho các ngành trong nền kinh tế quốc
dân với mức giá thấp (phù hợp với mức tỷ giá 150 VNĐ/Rúp và
225VND/USD nêu trên). Như vậy, các ngành, các địa phương được
5
phân phối các loại vật tư,nguyên liệu đó thì được hưởng phần giá
thấp còn ngân sách nhà nước lại không thu được chênh lệch giá.
Việc thực hiện cơ chế tỷ giá kết toán nội bộ trong thanh toán xuất -
nhập khẩu và bù lỗ hàng xuất khẩu đó là:
- Nếu thực hiện nghiêm trọng nghĩa vụ giao hàng xuất khẩu cho bạn
để có thể đưa hàng nhập về đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế quốc
dân, thì mức lỗ của ngân sách cho hàng xuất khẩu lớn gây trở ngại
cho việc điều hành ngân sách - Nếu trì ho•n cho việc thực hiện
nghĩa vụ giao hàng xuất khẩu nhưng trong khi đó vẫn yêu cầu bạn
giao hàng nhập cho ta theo tiến độ, thì việc bù lỗ hàng xuất khẩu

được giảm ở mức độ nhất định, nhưng nghĩa vụ nợ của ta với bạn
lại tăng lên đáng kể.
Tỷ giá qui định thấp nên các tổ chức kinh tế và cá nhân có ngoại tệ
không bán ngoại tệ cho ngân hàng, vì làm như vậy sẽ bị mất l•i. Các
tổ chức đại diện nước ngoài hoặc cá nhân nước ngoài cũng không
chuyển tiền tài khoản ở ngân hàng ở chi tiêu mà thường đưa hàng
từ nước ngoài vào hoặc sử dụng ngoại tệ tiền mặt trực tiếp trên thị
trường. Do đó cơ chế tỷ giá của thời kỳ này đ• trở thành một yếu tố
tạo cho ngoại tệ bị thả nổi, mua bán trên thị trường trong nước.
Thực tế này vừa gây thiệt hại về kinh tế cho Nhà nước vừa làm phát
sinh thêm những tiêu cực trong đời sống x• hội. Đồng thời nó tác
động trở lại tỷ giá kết toán nội bộ và làm cho tỷ giá giữa đồng nội tệ
giữa các đồng ngoại tệ diễn biến phức tạp thêm. Từ tình hình trên
cho thấy, trước năm 1989 tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và
ngoại tệ do nhà nước qui định không tính đến biến động giá trên thị
trường đang bị trượt ng• nghiêm trọng, nên đ• làm cho mức bù lỗ
hàng xuất khẩu trong ngân sách quá lớn, gây khó khăn trong việc
điều hành và quản lý ngân sách và thực hiện nghĩa vụ giao hàng mà
ta đ• cam kết với nước ngoài, ngoại tệ bị rối loạn, Nhà nước không
điều hành và quản lý được.
Tỷ giá hối đoái bị bóp méo so với thực tế đ• khiến cho thu chi ngân
sách Nhà nước không phản ánh đúng nguồn thu từ nước ngoài và
các khoản cấp phát của ngân sách Nhà nước cho nền kinh tế quốc
dân và cho các hoạt động khác có sử dụng ngoại tệ.
Việc tạo ra một tỷ giá chính thức tưởng là giữ giá trị đồng Việt Nam
so với ngoại tệ để kế hoạch hoá và ổn định kinh tế, nhưng thực chất
là đẩy xuất khẩu Việt Nam vào ngõ cụt, không khuyến khích sản
xuất hàng xuất khẩu và đẩy mạnh hàng xuất khẩu, hệ quả là cán
cân thương mại bị nhập siêu nghiêm trọng, ngân sách Nhà nước
phải gánh chịu thêm các thua thiệt.

Khi buộc phải thả nổi và phá giá mạnh đ• làm cho chi phí của các
doanh nghiệp tăng lên đáng kể và lợi nhuận bị giảm, do đó mức thu
từ thuế lợi tức của các tổ chức kinh tế cho ngân sách Nhà nước
6
cũng bị ảnh hưởng. Mặt khác, các khoản chi tiêu cho các cơ quan
và tổ chức được Nhà nước cấp cũng được tăng lên tương ứng với
mức mất giá của đồng nội tệ. Tình hình đó đ• tác động đến yếu tố
làm tăng bội chi ngân.
Từ năm 1989, cùng với các cải cách kinh tế, tài chính, tiền tệ, Nhà
nước đ• bỏ chế độ tỷ giá trước đây (tỷ giá kết toán nội bộ) , giảm
căn bản bù lỗ cho hoạt động xuất - nhập khẩu và thực hiện chính
sách giá sát với tỷ giá thị trường. Ngân hàng nhà nước công bố tỷ
giá chính thức của VNĐ với các ngoại tệ mạnh, nhất là với USD trên
cơ sở đó các ngân hàng thương mại xây dựng và công bố tỷ giá
hàng ngày với biên độ chênh lệch cho phép (khoảng 5%) so với tỷ
giá chính thức.
Về mặt ngân sách Nhà nước, chính sách một tỷ giá hối đoái sát với
thị trường khiến cho việc tính toán thu chi Ngân sách Nhà nước
phản ánh trung thực và chính xác hơn, không bị bóp méo. Tỷ giá đó
góp phần làm cho công tác kế hoạch hoá vay nợ và trả nợ nước
ngoài từ ngân sách Nhà nước thuận lợi hơn và có cơ sở vững chắc
hơn.
* Mặc dù có những thành công rất đáng kể trong lĩnh vực tỷ giá và
quản lý ngoại tệ, nhưng vẫn còn một số hạn chế đ• làm ảnh hưởng
không tốt đến quản lý, điều hành ngân sách, đó là
- Nguồn ngoại tệ không được quản lý chặt chẽ, còn bị buông lỏng đ•
khiến cho lực lượng ngoại tệ của Nhà nước tăng chậm và chưa
tương xứng với mức độ tăng của cán cân thương mại, một cơ sở
của sự ổn định thu chi ngân sách Nhà nước là quĩ ngoại tệ chưa
được tăng cường.

- Vì tỷ giá hối đoái chính thức theo sát tỷ giá thị trường nếu không
ổn định thì không những ngân sách bị động mà việc tính toán thu
chi Ngân sách bằng ngoại tệ theo không kịp thời dẫn tới không sát
với thực tế thị trường, điều hành Ngân sách Nhà nước không tránh
khỏi lúng túng, nhất là trường hợp bị thiếu hụt khi trả nợ đến hạn đòi
phải giải quyết.
1.2: Thực trạng quan hệ tỷ giá và nợ nước ngoài
Tỷ giá có mối quan hệ hữu cơ với nợ nước ngoài và công tác quản
lý nợ. Trước năm 1979, Việt Nam có sử dụng 20tỷ Yên Nhật tương
đương 92 triệu USD (tỷ giá 216 Yên = 1USD). Ngày 6/11/1992
chính phủ Nhật mở lại tín dụng với Việt Nam và cho Việt Nam vay
20 tỷ Yên, tương đương 159 triệu USD (tỷ giá 126 Yên= 1USD).
Ngoài ra, vào thời điểm 1987 trở về trước còn có các khoản vay các
công ty của Nhật 20 tỷ Yên, tương đương 125 triệu USD ( tỷ giá 160
Yên= 1USD). Đầu năm 1995, đồng Yên lên giá, 1USD chỉ còn 90
Yên là như vậy, xét về góc độ tỷ giá thì trong thời gian qua sự tăng
7
giá của đồng Yên Nhật, đ• làm tăng thêm gánh nặng nợ gốc qui ra
USD, làm thiệt thòi cho người đi vay.
Tương tự như tình hình trên, việc sử dụng vốn vay của các doanh
nghiệp ở nước ta liên quan đến nhiều yếu tố, trong đó tỷ giá có tác
động mạnh đến khả năng thanh toán của các doanh nghiệp. Trong
các năm 1989-1990 có 81 doanh nghiệp vay nợ nước ngoài theo
phương thức tự vay tự trả với doanh số vay là 5722 triệu Yên là
10,9 triệu USD, tỷ giá lúc này là 130 Yên=1USD, do đó tổng vay nợ
bằng đồng Yên quy ra USD là 44 triệu USD. Đến năm 1995, do
chưa trả được nợ mà đồng yên lại tăng giá, nên nợ gốc vay tăng từ
44 triệu USD lên 58 triệu USD (chưa tính đến yếu tố l•i suất tiền vay
và tỷ giá giữa đồng Việt nam và USD). Do tổng hợp nhiều yếu tố,
rong đó có yếu tố về tỷ giá, nên đại bộ phận trong số 81 doanh

nghiệp vay vốn theo phương thức này đều bị sức ép của cả hai loại
tỷ giá.
- Tỷ giá giữa Yên và USD (đại bộ phận doanh số vay của các doanh
nghiệp kể trên là vay đồng Yên cuả các công ty Nhật trong khi đó
đồng Yên tăng giá).
- Tỷ giá giữa đồng Việt nam và USD (trong khi đó đồng Việt nam bị
giảm giá).
Sự biến động của tỷ giá cùng các với yếu tố ngoại hối, nhưng nó có
ý nghĩa đặc biệt riêng của nó đối với việc huy động vốn, thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thu chi ngân sách nhà nước, ổn định
kinh tế và x• hội. Ngược lại, vực nợ nước ngoài nếu không quản lý
tốt và không sử dụng có hiệu quả sẽ trở thành gánh năngk đối với
nền kinh tế hiện tại và tương lai, có khi còn ảnh hưởng đến nền độc
lập và chủ quyền quốc gia.
Về vay nợ chính phủ phải có quy chế chặt chẽ quy định được vay
về trách nhệm,nghĩa vụ và quyền hạn của các pháp nhân kinh tế và
pháp nhân công quyền trước các khỏan vay và khỏan trả nợ. Hiện
nay chúng ta có qui định Nhà nước vay Nhà nước trả, doanh nghiệp
vay doanh nghiệp trả, Nhà nước không gánh hộ nợ doanh nghiệp.
Thiếu vốn phải vay, nhưng không phải ai cho vay với điều kiện nào
cũng chấp nhận cả. Phải thấy rằng, nếu tỷ giá hối đoái đồng Việt
Nam hạ, đồng ngoại tệ tăng, thì khoản trả nợ của Ngân sách Nhà
nước của doanh nghiệp sẽ phải tăng , nhưng xuất khẩu hàng hoá,
dịch vụ lại có lợi, đó là một bài toán khó, phải tính xem lợi ích do
xuất khẩu mang lại cho phát triển kinh tế có bù lại được thiệt hại của
số tiền Ngân sách Nhà nước và doanh nghiệp phải trả nợ cao hơn
không?
Vì lẽ đó, chúng ta phải tỉnh táo đàm phán với các chủ nợ khi vay,
không thể chấp nhận bất cứ điều kiện nào và không thể không nghĩ
đến việc trả giá, đặc biệt phải chú trọng đến các vấn đề chính trị của

8
các khoản vay. Phải thấy được rằng các chủ nợ cho vay là để lấy l•i
chứ không phải làm việc nghĩa. Vấn đề là ơe chỗ làm thế nào để
giải quyết hài hoà giữa lợi ích của bên cho vay và bên vay. Việc
quảnlý nợ khônghcỉ quy định trách nhệm mà còn phải luôn chú ý tới
hiệu quả sử dụng khoản vay. Vì vậy quản lý đầu tư sử dụng các
khoản vay cho các công trình, mục tiêu là một việc có tầm quan
trọng đặc biệt. Các cơ quan tài chính và ngân hàng phải đặc biệt
chú ý tới vấn đề này-vay cho mục tiêu nào được quản lý theo mục
tiêu đó.
Về viện trợ: viện trợ không hoàn lại không nhiều, nhưng cũng phải
được quản lý chặt chẽ. Những khoản viện trợ cuả nước ngoài cho
chính phủ và các cấp chính quyền phải được đưa vào ngân sách
nhà nước để cân đối và sử dụng, không hình thành quỹ riêng. Tuy
các khoản này ngân sách không phải trả lại nhưng là một nguồn khá
quan trọng góp phần giải quyết các vấn đè của đất nước.
Những khoản tài trợ của các tổ chức quốc tế và cá nhân cho các dự
án ngoài ngân sách và các tổ chức x• hội cũng phải được chuyển
vào ngân sách để quản lý và chỉ cấp phát bằng tiền Việt nam theo tỷ
giá chính thức ở thời điểm sử dụng, không cấp phát bằng ngoại tệ.
Để đáp ứng yêu cầu trên, chính phủ cần thành lập một tổ chức trực
tiếp quản lý nợ, viện trợ. Cơ quan này không những nắm các khoản
nợ, viện trợ, tài trợ của chính phủ, các cấp chính quyền, mà cả các
khoản nợ của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nhằm
thực hiện yêu cầu quản lý vĩ mô của nhà nước trong điều kiện kinh
tế mở. Chỉ xét riêng trong cán cân vay l•i, cán cân thanh toán quốc
tế, thì không phải chỉ có nợ chính phủ mới nằm trong đó mà ngay cả
nợ của các doanh nghiệp tư nhân các của nước cũng phải đưa vào.
Bởi vì, vốn đưa vào dù ai sử dụng thì vẫn là cho cả nền kinh tế và
khi trả, dù ai trả cũng phải lấy một phần GDP để trả nợ mà việc đó

liên quan đến lợi ích quốc gia, trực tiếp tác dộng đến sự cân bằng
của cán cân thanh toán. là quốc gia có số nợ nước ngoài lớn nếu so
với GDP, trong tương lai còn phải vay và đồng thời phải trả nợ đến
hạn vì vậy với việc hình thành chiến lược vay và trả nợ có ý nghĩa
chiến lược to lớn.
1.3 Thực trạng tác động cuả tỷ giá đến l•i suất và trái phiếu chính
phủ.
Tỷ giá ngoại hối có liên quan chặt chẽ đến l•i suất và có tác dụng
điều chỉnh l•i suất. Trong nền kinh tế thị trường khi đồng nội tệ mất
giá khối lượng nội tệ cung ứng ngoài thị trường lớn đòi hỏi phải điều
chỉnh tăng l•i suất, trong trường hợp này làm tăng chi ngân sách về
thanh toán l•i suất huy động nội tệ. Khi đồng nội tệ lên giá nhà nước
phải điều chỉnh giảm mức l•i suất, điều này sẽ giảm chi ngân sách
9
về thanh toán l•i suất huy động nội tệ, nếu không điều chỉnh mức l•i
suất thì những nhà sản xuất kihn doanh sẽ bán ngoại tệ cho ngân
hàng lấy nội tệ gửi vào ngân hàng hoặc mua trái phiếu chính phủ để
hưởng l•i suất cao. Điều này sẽ tác động xấu đến sản xuất-kinh
doanh trong khi đó ngân sách phải tiếp tụcthanh toán l•i suất về huy
động tiền gửi. Kinh nghiệm của một số nước châu á (như Malaixia,
Thái lan, Indonexia) cho thấy việc sử lý hài hoà phối hợp điều hành
l•i suất và tỷ giá ngoại hối đ• làm cho tỷ giá giữ được biên độ ổn
định và tiền tệ không có biến động mạnh.
Do đồng USD mất giá ở mức cao, nên hiện nay Mỹ đang đẩy mạnh
xu hướng nâng cao l•i suất. Việc làm này sẽ làm tăng l•i suất tiền
vay bằng ngoại tệ USD, và do đó sẽ tác động trực tiếp đến các
khoản vay nợ của Việt nam. Với diễn biến này đòi hỏi chúng ta cần
có sách lược chọn đồng tiền với mức lái suất thích hợp, nhằm đảm
bảo cho việc sử dụng vốn vay đạt hiệu quả.
Tóm lại: từ những vấn đề phân tích trên đây và thực trạng Việt nam

cho thấy, tình hình taì chính quốc gia (đặc biệt là ngân sách nhà
nước) và chế độ ngoại tệ, tỷ giá có quan hệ biện chứng qua lại hết
sức chặt chẽ, một mặt tình hình tài chính (mà biểu hiện tập trung là
ngân sách nhà nước) là một nhân tố hàng đầu quyết định đến sự
lựa chọn tỷ giá, phương án điều chỉnh tỷ giá, mặt khác chế độ quản
lý ngoại hối, tỷ giá cũng có ảnh hưởng hết sức mạnh mẽ, toàn diện
đến quản lý. Nền tài chính quốc gia thông qua nhiều kênh, dưới
nhiều hình thức và góc độ khác nhau, chính vì vậy khi đặt vấn đề
lựa cọn chính sách, phương án điều chỉnh tỷ giá sẽ là sai lầm
nghiêm trọng nếu như không đề cập, phân tích thực trạng tài chính
hiện hành của quốc gia.
1.4 Tỷ giá hối đoái đối với điều chỉnh hoạt động kinh tế đối ngoại.
Các nước đang phát triển thường thiết ké chính sách tỷ giá hối đoái
nhằm duy trì sức cạnh tranh quốc tế ở mức phù hợp với vị thế cán
cân thanh toán quốc tế lâu bền. Bằng cách tăng giá các hàng
thương mại hoá được so với các hàng hoá không thương mại hoá
được; sự phá giá đồng thời chuyển dịch cầu tổng thể có lợi cho các
cho các hàng hoá không thương mại hoá được, và cung tổng thể có
lợi cho các hàng hoá thương mại hoá được, và do đó giảm bội dư
cầu đối với hàng hoá thương mại hoá được (tức là cải thiện được
vị thế của cán cân v•ng lai). Ngoài tác dộng của chính sách chuyển
đổi chi tiêu, phá giá cũng giảm cầu tổng thể thông qua ảnh hưởng
của khối lượng tài sản, một sự tăng giá nội địa sẽ làm cho sự phá
giá đồng tiền nội địa tháp hơn giá trị thực của tài sản tài chính và
giảm hấp thụ.
Do vai trò cốt yếu của tỷ giá hối đoái đói với việc duy trì sức cạnh
tranh đối với bên ngoài tỷ giá có thể làm thay đổi vượt ra khỏi điểm
10
cân bằng của nó. Bởi vì điểm cân bằng này được xác địng nội sinh,
chính sách tỷ giá hối đoái cần lưu ý đến các tác động của các cơn

sốc khác nhau lên điểm cân bằng của tỷ giá thực. Phần này đề cập
đến các tiếp cận khác nhau trong việc xác định điểm cân bằng tỷ giá
thực và nghiên cứu tác dộng của các cơn sốc bên trong và bên
ngoaig lên điểm cân bằng đó, sau đó sẽ tập trung vào chính sách cụ
thể nhằm duy trì sức cạnh tranh trong quá trình điều chỉnh.
Xác định tỷ giá hối đoái cân bằng:
Nói chung có hai tiếp cận để xác định tỷ giá hối đoái thực "cân
bằng". Tiếp cận đơn giản và phổ biến nhất là dựa vào khái niệm tỷ
giá theo sức mua so sánh. Nguyên lý trung tâm của tỷ giá so sánh
sức mua là tỷ thực cân bằng tỷ lệ với các mức giá tương đối giữa
một nước với đối tác ngoại thương của mình, tức là đối với sức
mua so sánh giữa các đồng tiền các quốc gia. Như vậy tỷ giá sức
mua so sánh được coi là chỉ số thích hợp cho cân bằng tỷ giá giư•
các đồng tiền với tỷ lệ lạm phát quy định tỷ lệ thay đổi của tỷ giá
danh nghĩa theo thời gian. Việc áp dụng tỷ giá so sánh sức mua bao
gồm việc sử dụng tỷ giá hối đoái hiện hữu để tính mặt bằng giá
tương đối theo các đại lượng tiền tệ thông dụng. Bất cứ sự sai lệch
nào của tỷ giá thực so với giá trị gốc của nó sẽ được coi là dấu hiệu
tỷ giá đ• đi lệch ra khỏi giá trị tỷ giá so sánh sức mua cân bằng.
Tiếp cận khác, có sức hấp dẫn hơn là định nghĩa tỷ giá hối đoái
thực như là giá so sánh tương đối giữa hàng hoá mậu dịch và hàng
hoá không mậu dịch hoá được, nó đưa ra thước đo các động lực
quyết định sự phân phối nguồn lực giữa hai khu vực trọng yếu này
của nền kinh tế: nếu giá nội địa của hàng hoá thương mại hoa so
với hàng hoá không thương mại hoá được thì nguồn lực sẽ được
phân phối lại sang khu vực hàng hoá thương mại hoá và cán cân
ngoại thương sẽ được cải thiện. Theo nghĩa đó, thì điểm cân bằng
của tỷ giá thực sẽ tương ứng với giá so sánh giữa hàng hoá thương
mại hoá và hàng hoá không thương mại hoá đem lại đồng thời sự
cân bằng nội và cân bằng ngoại. Cân bằng nội có nghĩa là thị

trường hàng hoá không thương mại hoá được thanh toán liên tục,
cân bằng ngoại có nghĩa là thâm hụt cán cân v•ng lai được tài trợ
một cách bền vững từ luồng vốn nước ngoài vào.
Ngoài chỉ số giá thực tế thì vẫn còn có các vấn đề tiềm tànglên quan
đến biến động chỉ số và sức cạnh tranh với bên ngoài. Một số
nghiên cứu gần đây chỉ ra sự thay đổi chỉ số tỷ giá thực quan được
có thể là biểu hiện của sự thay đổi điểm cân bằng của tỷ giá thực do
các loại cơn sốc trong nước và nước ngoài gây ra (ví dụ: sự tác
động cảu chênh lệch mức tăng năng suất, thay đổi điều kiện ngoại
thương, cải cách thuế quan, thay đổi trong điều hành ngân sách
11
chính phủ, sự tăng lên của l•i suất thực quốc tế) lên cân bằng của tỷ
giá thực.
Chênh lệch về mức độ phát triển, tiến bộ trong công nghệ có tác
động quan trọng đến điểm cân bằng của tỷ giá thực, ví dụ: nếu năng
suất lao động tăng nhanh hơn trong khu vực hàng hoá thương mại
hoá so với khu vực hàng hoá không thương mại hoá, thì giá so
sánh giữa hàng hoá không thương mại hoá sẽ tăng do sự tăng
đồng nhất của tiền lương trong cả hai khu vực. Với giá hàng hoá
thương mại hoá thị trường quốc tế quy định thì tỷ giá hối đoái thực
cân bằng sẽ giảm. vậy tỷ giá thực cân bằng ở các nước có tốc độ
tăng năng suất thấp các nước đang phát triển thường chịu các cơn
sốc về điều kiện ngoại thương. Giả sử điều kiện ngoại thương xấu
đi vì sự giảm giá tương đối của hàng xuất khẩu, sự xấu đi này tạo
nên dư thừa cung đối với hàng hoá không thương mại hoá và dư
thừa cầu đối với hàng hoá thương mại hoá, làm cho cán cân v•ng
lai xấu đi. Mất cân bằng cán cân v•ng lai được điều chỉnh lại qua
việc giảm giá tương đối của hàng hoá không thương mại hoá-tức là
tăng tỷ giá thực và dịch chuyển cung nội địa từ hàng hoá không
thương mại hoá sang hàng hoá xuất nhập khẩu.

Phân tích về tác động của cải cách thuế nhập khẩu cho thấy: giảm
thuế nhập khẩu thường là tương đương với tăng tỷ giá thực
cânbằng. về phương diện định tính thì tác động của tự do hoá nhập
khẩu cũng giống như việc cải thiện điều kiện ngoại thương (do giảm
giá xuất khẩu). Thuế nhập khẩu thấp hơn sẽ giảm giá tương đối
của hàng nhập khẩu, tạo nên sự dư thừa cầu đối với hàng hoá này,
và dư thừa cung đối với hàng hoá xuất khẩu. để đưa về cân bằng
thì giá tương đối của hàng hoá không thương mại hoá sẽ giảm. Như
vậy phản ứng đối với việc giảm thuế nhập khẩu là tỷ giá hối đoái
thực sẽ tăng lên.
Tỷ giá thực cân bằng cũng bị tác động của các biện pháp ngân
sách, ngay cả khi thiếu hụt ngân sách không thay đổi thì sự thay đổi
trong cơ cấu thu chi ngân sách cũng làm cho tỷ giá thực cân bằng
thay đổi, Ví dụ: nếu chính phủ cho hướng thành phần chi tiêu sang
hàng hoá thương mại hoá sẽ giảm và tỷ giá thực sẽ tăng. Cũng như
vậy, một sự thay đổi cơ cấu thuế sẽ tác dộng tới tỷ giá thực cân
bằng bằng cách gây nên sự dịch chuyển của hành vi đầu tư-tiết
kiệm của nền kinh tế. Về nguyên tắc, nhiều sự kết hợp của biện
pháp ngân sách sẽ cho cùng một kết quả cân banừg ngân sách
tổng thể, nhưng với mỗi sự kết hợp sẽ cho một tỷ giá thực cân
bằng. Vì vậy điểm cân bằng của tỷ giá hối đoái thực không chỉ định
do vị thế ngân sách quy định, mà còn do cơ cấu chi và thu của
chính phủ quy định.
12
Một sự tăng lên l•i xuất quốc tế sẽ tác động đến điểm cân bằng của
tỷ giá hối đoái thực thông qua hai kênh: thứ nhất, dưới chế độ tỷ giá
cố định thì l•i xuất trong nước tăng lên để giữ được mức so sánh
với l•i xuất quốc tế, do đó làm giảm chênh lệch giữa đầu tư và tiết
kiệm. Một sự cải thiện cán cân v•ng lai như vậy sẽ gây nên việc
giảm tỷ giá thực cân bằng. Thứ hai, phụ thuộc vào việc nước đó là

chủ nợ hay con nợ ròng, một sự cải thiện hoặc xấu đi phản ánh sự
thay đổi tương ứng cảu sự thay đổi vị thế chuyển giao các nhân tố
thu nhập, tác động này sẽ thúc đẩy thêm việc giảm tỷ giá thực cân
bằng là không rõ ràng, nếu một nước là con nợ lớn. Tác động của
l•i xuất quốc tế cao hơn cũng phụ thuộc vào phản ứng ngân sách
của chính phủ. Nếu chính phủ làm trung hoà tác động của ngân
sách lên sự thay đổi l•i xuất bằng cách giảm chi tiêu hàng hoá
thương mại hoá, thì tỷ giá thực cân bằng sẽ có xu hướng giảm
trong dài hạn. mặt khác, tỷ giá thực cân bằng sẽ tăng nếu việc trả l•i
xuất được tài trợ bằng cách tăng thuế, hoặc nếu kèm theo việc giảm
chi tiêu chính phủ đối với hàng hoá không thương mại hoá.
Tỷ giá hối đoái thực, sức cạnh tranh quốc tế và lạm phát:
Trong khi tỷ giá thực có thể chênh lệch ra khỏi điểm cân bằng vì một
số các cơn sốc gây nên thì nguyên nhân chủ yếu của viêvj xấu đi
sức cạnh tranh đối với bên ngoài ở hầu hết các nước đang phát
triển là tỷ lệ lạm phát nội địa cao kèm theo việc duy trì chế độ tỷ giá
tỷ giá danh nghĩa cố định. Các tiếp cận để ngăn ngừa sự xấu đi của
sức cạnh tranh quốc tế là thực hiện quy tắc tỷ giá thực.
Như vậy quy tắc tỷ giá có thể ngăn ngừa được sự xuất hiện mất cân
đối lớn và lâu dài của các giá cả tương đối và do đó tránh được mất
cân bằng ngoại, bằng cách cho tỷ giá danh nghĩa được điều chỉnh
thường xuyên và theo liều lượng tương đối nhỏ. Người ta lập luận
rằng: tỷ giá hối đoái thực tế có thể giữ được ở mức đúng đắn,
không gây ra cái giá điều chỉnh phải trả cho nền kinh tế, và do đó
che lấp được vấn đề phá giá có thể nổi lên trên chiến trường chính
trị. Hơn thế nữa, người ta còn khẳng định quy tắc tỷ giá thực cung
cấp một mức cho dự đoán. bởi vì nó cung cấp cho những người
tham gia thị trường thông tin bổ ích về chiều hướng có thể xảy ra
các giá tương đối và do đó tránh được các quyết định sản xuất dựa
trên các dự đoán mong đợi sai lệch.

Tuy vậy, việc chấp nhận quy tắc tỷ giá thực cũng gây ra một số vấn
đề như: xác định điểm cân bằng của tỷ giá thực là không dễ dàng
về lý thuyết, chứ chưa nói về mặt thực tiễn và một số khó khăn
nghiêm trọng có thể phải tính đến nếu đích tỷ gía đặt sai. Vì vậy,
trong khi phát biểu quy tắc tỷ giá thực thf phải cho phép có một độ
sai số so với điểm cân bằng của tỷ giá thực do các cơn sốc bên
ngoài hoặc trong nước gây ra. Nếu cơn sốc là tạm thời, thì có thể
13
kiên trì quy tắc tỷ giá thực. Nếu cớn sốc là lâu dài thì sự sai biệt lớn
của tỷ giá thực so với điểm cân bằng có thể làm giảm sức cạnh
tranh quốc tế.
Các nghiên cứu gần đây cho thấy: các quy tắc tỷ giá thực có thể tạo
nên sự không an tâm, đối với hệ quả cân bằng vĩ mô, dù nó có tác
động tốt về mặt cân bằng ngoại. Việc thực hiện đích tỷ giá thực, tức
là buộc phải theo đuổi đích phần thực mà lại sử dụng các công cụ
đại lượng danh nghĩa với giá cả nội địa. Vì vậy các cơn sốc đối với
lạm phát trong nước có thể mang tính chất lâu dài, và trong một số
trường hợp có thể dẫn đến lạm phát, về phía cạnh khác, trong nền
kinh tế nhỏ, cung tiền tệ có thể bị gia tăng do nguồn bên ngoài tăng
lên, thì một sự bùng nổ giá cũng có thể xảy ra ngay cả khi chính
sách tín dụng không bành chướng.
Chính sách hỗ trợ đối với các biến động của giá thông qua điều
chỉnh tiền tệ và tỷ giá sẽ tác động đến quá trình hình thành tiền
lương trong nền kinh tế. Theo chính sách đó thì người lao động sẽ
không quan tâm nhiều đến tác động lên công ăn việc làm của việc
định ra tiền lương danh nghĩa cao hơn, vì các công ty có đủ khả
năngchuyển chi phí tiền lương cao hơn sang giá cao hơn, vì vậy sự
tăng lương sẽ phản ánh đầy đủ trong tiền lương và tăng giá cả tiếp
tục theo đó. Tác động lên tổng sản phẩm của các chính sách hỗ trợ
tài chính và tỷ giá hối đoái sẽ phụ thu vào nguồn gây nên biến động.

Nếu cơn sốt cung thống trị, thì biến động của tổng sản phẩm sẽ
tăng lên do chỉ số hoá đầy đủ tỷ giá hối đoái. Ngược lại, nếu cơn sốt
cầu thóng trị thì các chính sách hỗ trợ sẽ làm ổn định tổng sản
phẩm.
Các nghiên cứu về hệ quả của quy tắc tỷ giá thực voà ổn định giá
chỉ mới bắt đầu gần đây và có ít. Ađam và Gros(1966) nghiên cứu
vấn đề bằng cách sử dụng một số mô hình phân tíc đơn giản với
các giả thiết khác nhau liên quan đến cơ cấu hàng hoá, tính cứng
nhắc của giá lương, độ tự do lưu chuyển vốn. Họ kết luận rằng:
chính sách tiền tệ có thể mất khả năng kiểm soát lạm phát nếu đặt
tỷ giá danh nghĩa theo quy tắc tỷ giá thực và nếu sau đó lại tìm cách
kiểm soát lạm phát, thì sẽ mất khả năng kiểm soát diễn biễn kinh tế
vĩ mô khác, họ cũng lập luận rằng: nếu tỷ giá hối đoái thực nâng
quá mức so với điểm cân bằng thì lạm phát chắc chắn sẽ cao hơn.
Hoạt động của quy tắc tỷ giá thực và chính sách ngân sách liên
quan chặt chẽ với nhau Lizondc(1989) đưa ra lược đồ mối quan hệ
giư• in tiền do thiếu hụt ngân sách và tốc độ phá giá tỷ giá. Trong
đó, giá trị cân bằng lâu bền của tỷ giá thực là hàm không chỉ biến
thực nêu trên mà còn của tỷ lệ lamj phát trong nước. Đại lượng sau
quyết định tổng thu được của chính phủ thông qua thuế lạm phát,
đếnlượt nó lại tác động lên giá trị tài sản của tư nhân và chi tiêu
14

×