Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Hoạt động xã hội hóa sản xuất chương trình của đài truyền hình thành phố hồ chí minh – thực trạng và định hướng phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511 KB, 32 trang )

Hoạt động xã hội hóa sản xuất chương trình của
Đài Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh –
Thực trạng và định hướng phát triển

Dương Thanh Tùng

Trường Đại học KHXH&NV
Luận văn ThS. Chuyên ngành: Báo chí học; Mã số: 60 32 01
Người hướng dẫn: T.S Đặng Thị Thu Hương
Năm bảo vệ: 2012



Abstract: Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động xã hội hóa nói chung và xã hội
hóa truyền hình nói riêng. Đánh giá thực trạng hoạt động sản xuất chương trình truyền hình có
yếu tố xã hội hóa của Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh. Xác định giải pháp và định
hướng phát triển xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình của Đài Truyền hình Thành phố
Hồ Chí Minh.

Keywords: Báo chí học; Sản xuất chương trình; Phương tiện truyền thông; Truyền hình


Content:







MỤC LỤC


MỞ ĐẦU 1
1.Tính cấp thiết của đề tài 1
2.Tình hình nghiên cứu đề tài 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 8
5. Phương pháp nghiên cứu 8
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 9
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN THỰC TIỄN HOẠT
ĐỘNG XÃ HỘI HÓA TRONG LĨNH VỰC TRUYỀN HÌNH 11
1.1. Chủ trương, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về xã hội hóa
trong lĩnh vực báo chí 11
1.1.1. Chủ trương, chính sách của Đảng về xã hội hóa 11
1.1.2. Hệ thống văn bản quản lý Nhà nước về xã hội hóa trong lĩnh vực
báo chí 14
1.2. Khái niệm xã hội hóa trong lĩnh vực truyền hình 18
1.3. Tổng quan về thực tiễn hoạt động xã hội hóa trong lĩnh vực truyền hình
tại Việt Nam 20
1.4. Một số yếu tố nền tảng cho hoạt động xã hội hóa sản xuất chương trình
truyền hình tại Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh 24
1.4.1. Điều kiện phát triển kinh tế xã hội, dân số, mức tiêu thụ của người
dân thành phố 24
1.4.2. Hệ thống văn bản quản lý hoạt động xã hội hóa và xã hội hóa sản
xuất chương trình của Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh 29
Tiểu kết chương 1 31
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI HÓA SẢN XUẤT CHƢƠNG
TRÌNH CỦA ĐÀI TRUYỀN HÌNH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 33

2.1. Lược sử Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh và lịch sử hoạt động
xã hội hóa sản xuất chương trình của Đài 33
2.1.1. Giới thiệu 33

2.1.2. Các chương trình xã hội hóa đầu tiên của Đài Truyền hình thành
phố Hồ Chí Minh 35
2.1.3. Thành công và bất cập của các chương trình xã hội hóa trong giai
đoạn đầu 39
2.2. Khảo sát các chương trình xã hội hóa hiện nay ở Đài Truyền hình Thành
phố Hồ Chí Minh 40
2.2.1. Số lượng, tỷ lệ các chương trình, tiết mục xã hội hóa và không xã
hội hóa trên kênh HTV9 và kênh HTV7 40
2.2.2. Thời gian phát sóng các chương trình có yếu tố xã hội hóa 43
2.2.3. Nội dung của các chương trình có yếu tố xã hội hóa 48
2.2.4. Tuổi thọ của các chương trình có yếu tố xã hội hóa 54
2.3. Các phương thức liên kết sản xuất chương trình truyền hình xã hội hóa 60
2.4. Qui trình sản xuất và quản lý nội dung các chương trình có yếu tố xã hội
hóa 63
Tiểu kết chương 2 66
Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG
XÃ HỘI HÓA SẢN XUẤT CHƢƠNG TRÌNH TẠI ĐÀI TRUYỀN HÌNH
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH. 68
3.1. Thành công và một số bất cập của hoạt động xã hội hóa sản xuất chương
trình 68
3.1.1. Thành công của hoạt động xã hội hóa sản xuất chương trình 68
3.1.2. Một số bất cập của hoạt động xã hội hóa sản xuất chương trình 73
3.2. Định hướng phát triển hoạt động xã hội hóa của Đài Truyền hình Thành
phố Hồ Chí Minh 80
3.3. Giải pháp và đề xuất phát triển hoạt động xã hội hóa sản xuất chương
trình tại Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh 81
3.3.1. Thay đổi nhận thức, thái độ về xã hội hóa, về vai trò của công ty
truyền thông và khán giả truyền hình 82
3.3.2. Nâng cao năng lực lãnh đạo và công tác giáo dục chính trị tư tưởng . 84
3.3.3. Đổi mới bộ máy, phương thức tổ chức, quản lý và sử dụng nguồn

nhân lực 86
3.3.4. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, chế độ tài chính 88
Tiểu kết chương 3 89
KẾT LUẬN 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
PHẦN PHỤ LỤC 98
Phụ lục 01: Sơ đồ tổ chức bộ máy hiện nay của Đài truyền hình Thành phố
Hồ Chí Minh 99
Phụ lục 02: KẾT QUẢ KHẢO SÁT NHU CẦU - THỊ HIẾU KHÁN GIẢ
CỦA ĐÀI TRUYỀN HÌNH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH (HTV) THÁNG
11/2012 100



1
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Từ thực tế triển khai thực hiện chủ trương xã hội hóa của
ngành truyền hình cho thấy, mục tiêu thu hút nguồn lực xã hội theo
hình thức xã hội hóa để phát triển sự nghiệp là chủ trương đúng, phù
hợp với công cuộc đổi mới và hội nhập, đáp ứng tốt hơn nhu cầu
hưởng thụ văn hóa tinh thần ngày càng cao và đa dạng của khán giả
truyền hình.Đứng trước yêu cầu tự đổi mới để phát triển hệ thống
truyền hình theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại và nâng cao chất
lượng chương trình, lãnh đạo các Đài Truyền hình đã chủ động thay
đổi nhận thức, tư duy bao cấp, vận dụng chính sách mới về xã hội
hóa vào quá trình sản xuất theo hướng tự tìm tòi, mạnh dạn thực hiện
những mô hình hoạt động liên kết mới mang lại hiệu quả cao hơn.
Theo đánh giá chung, hệ thống truyền hình phát triển nhanh về số
lượng kênh, cơ sở vật chất kỹ thuật, tài chính được tăng cường, xu

hướng xã hội hóa, liên kết sản xuất kênh, chương trình vẫn đang tiếp
tục phát triển nhanh trên chiều rộng, đa dạng về hình thức trong toàn
hệ thống truyền hình.
Tuy nhiên, song song với những hiệu quả tích cực nêu trên,
quá trình thực hiện chủ trương xã hội hóa, liên kết sản xuất kênh,
chương trình truyền hình đã bắt đầu bộc lộ rõ nét hơn một số vấn đề
bất cập. Những vấn đề nảy sinh cần được quan tâm, nghiên cứu, giải
quyết một cách toàn diện, thấu đáo chính là mối quan hệ giữa tăng
trưởng doanh thu và chức năng, nhiệm vụ chính trị của Đài Truyền
hình; mối quan hệ giữa vai trò, trách nhiệm của Đài Truyền hình và
các công ty truyền thông tư nhân trong quá trình liên kết, hợp tác sản
xuất; mối quan hệ tác động giữa Đài Truyền hình, công ty truyền


2
thông tư nhân và công chúng liên quan đến công tác quản lý và định
hướng nội dung… Đây là những vấn đề khó, liên quan đến lý luận và
thực tiễn, liên quan đến định hướng, mô hình phát triển, phương thức
hoạt động cụ thể được qui định cho từng chủ thể tham gia xã hội hóa.
Ngoài ra, công tác quản lý nói chung cũng như việc ban hành các văn
bản qui phạm pháp luật vẫn chưa theo kịp hoặc chậm so với sự phát
triển nhanh của xu thế xã hội hóa. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến
sự lúng túng trong công tác chỉ đạo, quản lý, khả năng chệch hướng
trong việc xác định nhiệm vụ chính trị và lợi ích kinh tế. Thực tế cho
thấy, hiệu quả kinh tế mang lại chỉ là một khía cạnh của vấn đề và
còn rất nhiều câu hỏi đang đặt ra, cần được nghiên cứu, xem xét như:
Mô hình, phương thức hợp tác nào phù hợp trong giai đoạn phát triển
sắp tới? Những lĩnh vực, chương trình nào của truyền hình có thể
thực hiện xã hội hóa hay không thể thực hiện xã hội hóa? Các công
đoạn nào có thể xã hội hóa trong qui trình hợp tác sản xuất? Làm thế

nào vừa đảm bảo tăng doanh thu, vừa đảm bảo định hướng nhiệm vụ
chính trị? Những mâu thuẫn nào cần giải quyết trong thực tế hợp tác?
Có lẽ câu trả lời chỉ có thể xuất phát từ việc phân tích sâu sắc thực
tiễn hoạt động, qui trình hợp tác sản xuất chương trình cụ thể.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong vòng 5 năm trở lại đây đã xuất hiện nhiều ý kiến, bài
viết và công trình nghiên cứu khoa học ở nhiều cấp độ khác nhau về
hoạt động xã hội hóa nói chung và xã hội hóa sản xuất chương trình
nói riêng. Tuy nhiên, đa số các ý kiến trên các phương tiện truyền
thông về xã hội hóa chỉ tập trung dừng lại ở việc đánh giá, nhận xét
vào từng chương trình cụ thể được phát trên sóng truyền hình hơn là
phân tích sâu thực trạng hoạt động xã hội hóa sản xuất chương trình.


3
Các đề tài nghiên cứu còn ít, các giáo trình giảng dạy, nghiên cứu ở
các trường đại học gần như cũng chưa đề cập nhiều đến hoạt động xã
hội hóa trong mối quan hệ tổng thể với các thành phần kinh tế tham
gia sản xuất chương trình. Các khóa luận, luận văn đều nghiên cứu
thực trạng và ưu, nhược điểm của qui trình sản xuất hoặc sản phẩm
xã hội hóa của một chương trình truyền hình cụ thể trong một giai
đoạn nhất định. Ngay bản thân các đài truyền hình cũng chưa có
đánh giá, tổng kết hoạt động xã hội hóa một cách bài bản, khoa học
và có hệ thống.
Mặc dù đã có nhiều bài viết phân tích, công trình nghiên cứu
có giá trị, nhưng theo tìm hiểu của chúng tôi hiện vẫn chưa có đề tài
nghiên cứu cụ thể nào nhìn từ góc độ kinh nghiệm thực tiễn quản lý
trong xu thế phát triển hợp tác với các công ty truyền thông tư nhân.
Vì vậy, xuất phát từ hoạt động thực tiễn của Đài Truyền hình thành
phố Hồ Chí Minh, đề tài này sẽ nghiên cứu và đề xuất những giải

pháp, khuyến nghị nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện các mô
hình quản lý hoạt động xã hội hóa mang tính khả thi cao không chỉ
đối với Đài Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và các đài
truyền hình ở Việt Nam nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích chính của luận văn là phân tích, đánh giá thực trạng
hoạt động xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình trong mối
quan hệ với các công ty truyền thông tại Đài Truyền hình Thành phố
Hồ Chí Minh, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện các mô hình liên kết
sản xuất phù hợp với định hướng phát triển báo chí theo quan điểm,
đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước. Trong quá trình nghiên
cứu và thu thập thông tin, luận văn sẽ tập trung phân tích những điểm


4
tích cực và hạn chế trong qui trình ký kết, qui trình sản xuất và triển
khai thực hiện xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình trong
mối quan hệ giữa Đài Truyền hình - đơn vị hợp tác và công chúng;
phân tích và làm rõ thực trạng, yêu cầu và nhu cầu cần thực hiện xã
hội hóa đối với một số lĩnh vực, chương trình cụ thể. Để làm sáng tỏ
hơn luận điểm, luận văn sẽ kết hợp so sánh hiệu quả giữa chương
trình được xã hội hóa và chương trình không có yếu tố xã hội hóa;
phân tích và làm rõ vai trò, trách nhiệm, mối quan hệ tương tác giữa
các chủ thể, khách thể tác động vào quá trình xã hội hóa sản xuất
chương trình; đánh giá hiệu quả của công tác quản lý, định hướng
nội dung, đồng thời đề xuất mô hình, giải pháp thực hiện quá trình xã
hội hóa sản xuất chương trình của Đài Truyền hình Thành phố Hồ
Chí Minh.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn: hệ thống hóa cơ sở lý luận
và thực tiễn về hoạt động xã hội hóa nói chung và xã hội hóa truyền

hình nói riêng, đánh giá thực trạng hoạt động sản xuất chương trình
truyền hình có yếu tố xã hội hóa của Đài Truyền hình Thành phố Hồ
Chí Minh; xác định giải pháp và định hướng phát triển xã hội hóa sản
xuất chương trình truyền hình của Đài Truyền hình Thành phố Hồ
Chí Minh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu luận văn là thực trạng hoạt động xã hội
hóa sản xuất chương trình trong mối quan hệ với các công ty liên kết
sản xuất và các công ty truyền thông của Đài Truyền hình Thành phố
Hồ Chí Minh. Luận văn xác định phạm vi nghiên cứu là quá trình
thực hiện xã hội hóa sản xuất chương trình của Đài Truyền hình
thành phố Hồ Chí Minh trong các năm 2010 - 2011.


5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sẽ được thực hiện theo các phương pháp như sau:
phương pháp nghiên cứu văn bản thứ cấp; phương pháp phỏng vấn ý
kiến chuyên gia; phương pháp nghiên cứu trường hợp; phương pháp
nghiên cứu, so sánh
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Trong định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước từ năm 2011 đến năm 2020 nhằm phát triển toàn diện các lĩnh
vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế đã tiếp tục đề cập
đến yêu cầu đẩy mạnh xã hội hóa các lĩnh vực văn hóa, thông tin.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của
thực tiễn phát triển báo chí. Thông qua phân tích, đánh giá thực trạng
và hướng đề xuất giải pháp sẽ có ý nghĩa thiết thực đối với Đài
Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình từng bước
chuẩn hóa, nâng cao hiệu quả hoạt động xã hội hóa sản xuất chương

trình với các đối tác là công ty truyền thông tư nhân. Về phương diện
lý luận, luận văn góp phần bổ sung thêm vào hệ thống lý luận về báo
chí truyền thông nói chung và truyền hình nói riêng trong bối cảnh
hiện nay, và đã cung cấp tư liệu cho một số chuyên đề trong đề tài
cấp Đại học Quốc gia về “Hiệu ứng kinh tế - xã hội của hoạt động xã
hội hóa sản xuất trong lĩnh vực truyền hình và những vấn đề đặt ra về
quản lý Nhà nước đối với hoạt động này”
7. Bố cục của luận văn
Chương 1: Cở sở lý luận và tổng quan thực tiễn hoạt động xã
hội hóa trong lĩnh vực truyền hình
Chương 2: Thực trạng hoạt động xã hội hóa sản xuất chương
trình của Đài truyền hình thành phố Hồ Chí Minh


6
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển hoạt động xã
hội hóa sản xuất chương trình truyền hình tại Đài truyền hinh thành
phố Hồ Chí Minh.

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN THỰC
TIỄN HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI HÓA TRONG LĨNH VỰC
TRUYỀN HÌNH
1.1. Chủ trƣơng, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà
nƣớc về xã hội hóa trong lĩnh vực báo chí
1.1.1. Chủ trương, chính sách của Đảng về xã hội hóa
Sau hơn 25 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, chủ trương thu
hút sự tham gia của nhiều nguồn lực xã hội thông qua hoạt động xã
hội hóa ngày càng hiệu quả, phù hợp với điều kiện phát triển của cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Việc tham gia ngày càng
nhiều của các thành phần kinh tế, các nguồn lực xã hội đóng góp vào

quá trình phát triển kinh tế - xã hội tiếp tục khẳng định đường lối
đúng đắn của sự nghiệp đổi mới. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội
2011 - 2020 được trình bày tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI của
Đảng đã tiếp tục định hướng: tiếp tục đổi mới cơ chế và nâng cao
hiệu quả quản lý, đẩy mạnh xã hội hóa các lĩnh vực văn hóa, thông
tin, hình thành thị trường văn hóa lành mạnh. Đây là quan điểm, định
hướng chỉ đạo mới nhất của Đảng liên quan đến xã hội hóa lĩnh vực
văn hóa, thông tin.
1.1.2. Hệ thống văn bản quản lý Nhà nước về xã hội hóa trong
lĩnh vực báo chí
Ngày 18/5/2005, Chính phủ ban hành Nghị quyết
05/2005/NQ-CP về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y


7
tế, văn hóa và thể dục thể thao, trong đó riêng lĩnh vực văn hóa nhấn
mạnh việc thu hút mọi nguồn lực, thành phần kinh tế, các tầng lớp
nhân dân tham gia các hoạt động và sáng tạo văn hóa. Năm 2009, Bộ
Thông tin - Truyền thông mới chính thức ban hành Thông tư số
19/2009/ TT-BTTTT ngày 28 tháng 5 năm 2009 của Bộ Thông tin và
Truyền thông quy định về việc liên kết trong hoạt động sản xuất
chương trình phát thanh, truyền hình.
1.2. Khái niệm xã hội hóa trong lĩnh vực truyền hình
Xã hội hội hóa có thể được hiểu là một hoạt động nhằm mở
rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực
và tài lực trong xã hội; phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực nhằm tạo điều kiện phát triển một số lĩnh vực. Với cách hiểu theo
những khái niệm nêu trên, xã hội hóa các hoạt động trong lĩnh vực
truyền hình hay trong sản xuất chương trình truyền hình cũng chính
là để thu hút nguồn lực xã hội bên ngoài ngành truyền hình tham gia

vào các hoạt động của lĩnh vực này. Trong thời kỳ đầu, hoạt động xã
hội hóa trong lĩnh vực truyền hình chủ yếu chỉ là xã hội hóa sản xuất
chương trình truyền hình theo hình thức liên kết, hợp tác giữa đài
truyền hình với các đối tác. Trong thời gian gần đây, xã hội hóa ở
lĩnh vực truyền hình không chỉ dừng lại ở hoạt động thu hút nguồn
lực để sản xuất chương trình truyền hình đơn thuần mà còn có các
mô hình hợp tác, liên kết ở lĩnh vực khác như công đoạn truyền dẫn,
phát sóng…
1.3. Tổng quan về thực tiễn hoạt động xã hội hóa trong lĩnh
vực truyền hình tại Việt Nam
Một trong lý do đột phá dẫn đến sự phát triển nhanh của ngành
truyền hình là việc mạnh dạn thực hiện từng bước chủ trương xã hội


8
hóa. Xã hội hóa sản xuất chương trình là cơ sở để nâng cao chất
lượng, đa dạng hóa sản phẩm truyền hình, tăng doanh thu quảng cáo
để phục vụ phát triển sự nghiệp truyền hình. Trước khi Bộ Thông tin
- Truyền thông ban hành Thông tư số 19/2009/TT-BTTTT trở về
trước, hoạt động xã hội hóa trong lĩnh vực truyền hình đã phát triển
qua nhiều giai đoạn với hình thức, qui mô và tính chất khác nhau.
Một số đài truyền hình vừa “thí điểm” xã hội hóa, vừa điều chỉnh sao
cho không đi chệch chủ trương. Từ năm 2009 đến nay, hoạt động xã
hội hóa nói chung và xã hội hóa sản xuất chương trình nói riêng phát
triển nhanh, song hành với sự phát triển của các công ty truyền
thông.
1.4. Một số yếu tố nền tảng cho hoạt động xã hội hóa sản
xuất chƣơng trình truyền hình tại Đài Truyền hình Thành phố
Hồ Chí Minh
1.4.1. Điều kiện phát triển kinh tế xã hội, dân số, mức tiêu thụ

của người dân thành phố
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế - văn hóa - xã hội
lớn của cả nước, là đầu tàu về tính năng động, sáng tạo trong xây
dựng và phát triển, nhất là luôn chủ động đổi mới, mạnh dạn vận
dụng sáng tạo các cơ chế, chính sách mới vào thực tiễn, mang lại
hiệu quả về kinh tế, xã hội trên nhiều lĩnh vực. Các yếu tố về thị
trường, dân số, điều kiện kinh tế hộ gia đình, nhu cầu hưởng thụ văn
hóa,…là những điều kiện thuận lợi để phát triển hoạt động truyền
thông nói chung.
1.4.2. Hệ thống văn bản quản lý hoạt động xã hội hóa và xã
hội hóa sản xuất chương trình của Đài Truyền hình Thành phố Hồ
Chí Minh


9
Trước năm 2002, Đài Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh
hoạt động trong cơ chế quản lý như đối với môt đơn vị hành chính,
đặc biệt là cơ chế tài chính. Với cơ chế như vậy, việc phát triển sự
nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào ngân sách. Từ năm 2002, Đài
Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh thực hiện thí điểm “Đề án
khoán thu chi - đổi mới cơ chế tài chính”. Đây là văn bản có ý nghĩa
quan trọng, tháo gỡ và mở ra nhiều cơ hội cho sự phát triển của Đài
Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay, hoạt động xã hội hóa
của Đài Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh thực hiện theo nội dung
Thông tư số 19 của Bộ Thông tin - Truyền thông và trong tháng
9/2012 và Đài cũng đang tiếp tục phối hợp với ngành liên quan để
hoàn thiện “Qui chế hợp tác sản xuất chương trình truyền hình”.
* Tiểu kết chƣơng 1
Kinh tế phát triển, sức mua tăng dẫn đến nhu cầu ngày càng
cao về truyền thông. Chính mối quan hệ này là điều kiện gần như bắt

buộc các đài truyền hình phải tiếp cận tư duy mới về kinh tế truyền
thông trong cơ chế thị trường cũng như sự phát triển nhanh của thị
trường truyền thông. Bên cạnh đó, mức sống và trình độ dân trí tăng,
nhu cầu tiêu dùng, nhu cầu truyền thông tăng cũng là những điều
kiện thúc đẩy thị trường truyền thông phát triển. Trong xu thế này,
các đài truyền hình buộc phải tự đổi mới, tự nâng cao năng lực sản
xuất, năng lực cạnh tranh mới có thể đáp ứng những đòi hỏi hợp lý
của thị trường quảng cáo và tiêu dùng. Tự đổi mới bằng cách nào?
Làm thế nào có thể tăng nguồn thu? Làm thế nào có thể nâng nâng
chất lượng phục vụ thông qua các sản phẩm truyền hình nhưng vẫn
phải đảm bảo tính định hướng?


10
Xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình có thể xem là
một trong những bước đi “tự đổi mới” mình của ngành truyền hình.
Vận dụng xã hội hóa mang lại kết quả khả quan về nhiều mặt, song
cũng không thiếu những khó khăn, thách thức và hạn chế…Xuất phát
từ những yêu cầu nêu trên mà luận văn sẽ tập trung nghiên cứu đối
tượng chính là thành phần kinh tế tư nhân tham gia liên kết, hợp tác
sản xuất chương trình với đài truyền hình. Nếu giải quyết tốt mối
quan hệ giữa đài truyền hình với các đối tác công ty truyền thông tư
nhân thông qua các hình thức xã hội hóa sẽ góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động xã hội hóa sản xuất chương trình, đảm bảo sự phát
triển nhanh, bền vững.

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI HÓA
SẢN XUẤT CHƢƠNG TRÌNH CỦA ĐÀI TRUYỀN HÌNH
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Lƣợc sử Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh và

lịch sử hoạt động xã hội hóa sản xuất chƣơng trình của Đài
2.1.1. Giới thiệu
Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (tiền thân là Đài
Truyền hình Giải phóng) phát sóng chương trình truyền hình đầu tiên
vào tối ngày 1/5/1975, chỉ một ngày sau khi giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất đất nước. Mặc dù điều kiện tác nghiệp vô
cùng khó khăn nhưng đội ngũ những người làm truyền hình cách
mạng vẫn nêu cao quyết tâm tổ chức phát sóng chương trình truyền
hình đầu tiên của chính phủ cách mạng. Thành công của buổi phát
hình lịch sử tối ngày 1/5/1975 khẳng định năng lực và tiềm năng của
đội ngũ những người làm truyền hình cách mạng, đồng thời đặt nền


11
móng và niềm tin cho chặng đường phát triển tiếp theo của Đài
Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh. Từ năm 2002 cho đến nay là
thời kỳ hoạt động xã hội hóa phát triển nhanh với sự tham gia của
nhiều thành phần kinh tế. Hoạt động xã hội hóa liên tục thay đổi về
hình thức, phương thức liên kết; chương trình xã hội hóa tăng nhanh
về số lượng. Sự thay đổi đặc trưng nhất của thời kỳ này chính là sự
thay đổi về mô hình quản lý liên quan đến tài chính và nhân sự và sự
tham gia của công ty truyền thông tư nhân.
2.1.2. Các chương trình xã hội hóa đầu tiên của Đài Truyền
hình thành phố Hồ Chí Minh
Đài Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị đầu tiên
của ngành truyền hình Việt Nam khởi đầu hoạt động xã hội hóa
thông qua một hoạt động thể dục thể thao để kêu gọi tài trợ. Ông
Nguyễn Chí Tân - nguyên Phó Tổng Giám đốc Đài cho biết: “Ở vào
thập niên 90, các nguồn thu của Đài chỉ liên quan đến một phần của
qui trình sản xuất theo cách làm đơn lẻ, thiếu hệ thống và đặc biệt là

không tính toán được khả năng và hiệu quả của công việc. Chính vì
vậy, công tác xã hội hóa có qui mô tương đối lớn, huy động nguồn
lực bên ngoài để tham gia tổ chức, điều hành, sản xuất chương trình
được khởi đầu bằng Cuộc đua xe đạp tranh cúp truyền hình”. Một
hoạt động xã hội hóa tiếp theo mà Đài Truyền hình thành phố Hồ Chí
Minh triển khai thực hiện khá bài bản, đúng nghĩa xã hội hóa sản
xuất chương trình, đó là chương trình giải trí Rồng vàng (phiên bản
“Ai là triệu phú” của Anh) và chương trình Chung sức. Đây là hai
chương trình truyền hình liên kết sản xuất với các công ty truyền
thông tư nhân.


12
2.1.3. Thành công và bất cập của các chương trình xã hội hóa
trong giai đoạn đầu
Từ trông chờ vào nguồn ngân sách, thụ động trong tổ chức sản
xuất, không có nguồn vốn để đầu tư cơ sở vật chất, nâng cấp thiết bị
kỹ thuật, nhưng chỉ sau vài năm tiến hành xã hội hóa với các hình
thức đa dạng, với nhiều chương trình phát sóng thu hút khán giả, Đài
có điều kiện tăng nguồn thu hàng năm, tích lũy để phát triển sự
nghiệp, đồng thời nâng cao tính chuyên nghiệp của đội ngũ. Bên
cạnh những mặt tích cực, hoạt động xã hội hóa sản xuất chương trình
trong điều kiện thiếu cơ sở pháp lý rõ ràng, thiếu các qui định cụ thể
càng làm cho hoạt động xã hội hóa có xu hướng phát triển thiếu định
hướng.
2.2. Khảo sát các chƣơng trình xã hội hóa hiện nay ở Đài
Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh
2.2.1. Số lượng, tỷ lệ các chương trình, tiết mục xã hội hóa và
không xã hội hóa trên kênh HTV9 và kênh HTV7
Hiện nay, mỗi đài truyền hình đều có chủ trương, định hướng

xã hội hóa khác nhau dựa theo yêu cầu, tiêu chí phát triển riêng của
mỗi kênh. Điều đó có nghĩa rằng, mỗi đài truyền hình phải tự đánh
giá, xác định số lượng, thể loại chương trình xã hội hóa trong từng
giai đoạn dựa theo năng lực sản xuất sao cho phù hợp với định
hướng phát triển của từng kênh.
2.2.2. Thời gian phát sóng các chương trình có yếu tố xã hội
hóa
Những năm gần đây, vì nhiều lý do, các đài truyền hình có xu
hướng tập trung phát sóng các chương trình giải trí có yếu tố xã hội
hóa trong những khung giờ thu hút đông người xem. Sự điều chỉnh


13
này theo xu hướng của thị trường truyền thông, quảng cáo khi mà
thói quen, sở thích của khán giả tập trung nhiều vào các chương trình
ở thể loại giải trí.
2.2.3. Nội dung của các chương trình có yếu tố xã hội hóa
Vì đa phần các chương trình có yếu tố xã hội hóa là các
chương trình phim, trò chơi truyền hình, truyền hình thực tế nên nội
dung các chương trình này khá đa dạng, dễ thu hút người xem qua
các hình thức thể hiện mới lạ của nghiệp vụ truyền hình. Truyền hình
thực tế tuy là thể loại mới, khó thực hiện nhưng một số chương trình
ngay sau khi phát sóng đã được dư luận đón nhận bởi sự chân thực,
gần gũi, sát với thực tế cuộc sống. Các loại hình trong trò chơi
truyền hình đáp ứng được nhu cầu giải trí, cung cấp thông tin, kiến
thức cho đối tượng khán giả. Tuy nhiên, các thể loại chương trình
phát sóng trên truyền hình đang dần biến dạng từ hình thức đến nội
dung. Tính pha tạp, tổng hợp nhiều thể loại trong từng chương trình
khiến nội dung chính, chủ đề chính của một số chương trình lu mờ so
với các “chiêu trò” trong và ngoài sân khấu. Bên cạnh đó, xã hội hóa

sản xuất phim truyền hình tuy mang đến lợi ích cho nhiều phía
nhưng cũng có không ít những hạn chế. Hạn chế lớn nhất chính là
chất lượng phim.
2.3. Các phƣơng thức liên kết sản xuất chƣơng trình
truyền hình xã hội hóa
Hình thức liên kết sản xuất chương trình giữa Đài Truyền hình
thành phố Hồ Chí Minh và các đối tác là các công ty truyền thông có
sự thay đổi, điều chỉnh trong từng thời kỳ. Các hình thức liên kết, xã
hội hóa sản xuất chương trình nói chung và các phương thức liên kết
cụ thể, đặc biệt ở góc độ tài chính cho thấy phương thức liên kết liên


14
quan đến tài chính mang yếu tố quyết định việc sẽ sản xuất hay
không sản xuất chương trình hoặc có sự tác động nhất định đến chất
lượng của quá trình sản xuất cũng như chất lượng của sản phẩm cuối
cùng; Bên cạnh đó, phương thức mua bản quyền chương trình phát
sóng và thu theo cam kết quảng cáo đang là xu hướng chủ đạo trong
hình thức, phương thức liên kết, xã hội hóa sản xuất chương trình.
2.4. Qui trình sản xuất và quản lý nội dung các chƣơng
trình có yếu tố xã hội hóa
Hiện nay có nhiều chương trình xã hội hóa có qui trình sản
xuất và cách thức quản lý nội dung khác nhau do tính chất đặc thù
của từng thể loại chương trình hoặc theo hình thức phân công quản lý
riêng của từng đơn vị chuyên môn. Tuy nhiên, dù ở hình thức,
phương thức liên kết với đối tác nào thì nguyên tắc chung nhất vẫn là
Đài Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh chịu trách nhiệm biên tập,
thẩm định kịch bản, nội dung và duyệt sản phẩm cuối cùng trước khi
phát sóng.
Đứng trước xu hướng phát triển chung, đặc biệt là xu hướng

xã hội hóa chương trình và kênh truyền hình, việc ban hành một qui
chế riêng đối với các chương trình có yếu tố xã hội hóa nhằm điều
chỉnh các mối quan hệ với đối tác, các khâu trong qui trình xét duyệt,
thẩm định và qui trình sản xuất, phát sóng là cần thiết trong giai đoạn
sắp tới.
* Tiểu kết chƣơng 2
Từ thực tiễn hoạt động xã hội hóa sản xuất chương trình cũng
đúc kết được nhiều kinh nghiệm trong hoạt động quản lý, hoạt động
tài chính - dịch vụ, hoạt động kỹ thuật phục vụ công tác chuyên môn,
hoạt động pháp lý trong lĩnh vực truyền hình và đặc biệt là kinh


15
nghiệm quản lý, hợp tác, liên kết sản xuất với các đối tác là các công
ty truyền thông hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Cũng từ việc
phân tích thực trạng hoạt động xã hội hóa đã là rõ thêm nhiều vấn đề
mới không chỉ giải quyết đơn thuần trong phạm vi tác động của một
đài truyền hình. Thị trường truyền thông, truyền hình và quảng cáo
phát triển nhanh, mối quan hệ hợp tác sản xuất đa dạng hơn, phức tạp
hơn nên việc quyết định sản xuất, phát sóng một chương trình truyền
hình ngày càng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan. Đó là thói
quen, xu hướng thị hiếu của khán giả, xu hướng thị trường quảng
cáo, đó là mục đích, ý chí “áp đặt” của các công ty truyền thông như
một đối tác bình đẳng, đó là những tác động của thị trường quảng
cáo dường như đang “dẫn dắt” hướng đi của hoạt động xã hội hóa
truyền hình…vv. Chính vì vậy, những “xung đột” phát sinh về mục
đích, định hướng tiêu chí, về những lợi ích cụ thể sẽ không thể tránh
khỏi trong quá trình hợp tác sản xuất chương trình. Nói cách khác,
cần phải xác định rõ mục đích, tiêu chí, mặt mạnh, mặt hạn chế trong
tổng thể so sánh với năng lực sản xuất, với sự phát triển của các công

ty truyền thông và thị trường để từ đó xác định hướng đi cho hoạt
động xã hội hóa.

Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI HÓA SẢN XUẤT CHƢƠNG TRÌNH
TẠI ĐÀI TRUYỀN HÌNH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.
3.1. Thành công và một số bất cập của hoạt động xã hội
hóa sản xuất chƣơng trình
Xã hội hóa nói chung là điều kiện cần, song xã hội hóa trong
lĩnh vực truyền hình không thể tách rời những tác động khách quan


16
trong mối quan hệ tổng thể với nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, nhiều
thành phần kinh tế - xã hội khác. Có lẽ vì vậy mà hoạt động xã hội
hóa luôn tiềm ẩn nhiều yếu tố khó có thể nhận biết một cách sâu sắc
trong một khoảng thời gian ngắn. Chính yếu tố chủ quan trong quản
lý, điều hành, định hướng cùng những tác động khách quan ở từng
giai đoạn đã và đang làm nảy sinh không ít mâu thuẫn, bất cập ngay
trong nội hàm của hoạt động xã hội hóa. Những thành công hay bất
cập của kinh tế thị trường, của xã hội hóa luôn song hành và đó cũng
là lý do để giải thích vì sao các nhà quản lý cần sớm điều chỉnh, định
hướng hoạt động xã hội hóa.
3.1.1. Thành công của hoạt động xã hội hóa sản xuất chương
trình
Đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước đã làm thay đổi
nhận thức, tư duy, cách tiếp cận của đội ngũ quản lý trong lĩnh vực
truyền hình. Từ tư duy bao cấp chuyển sang tư duy thị trường đòi hỏi
sự chủ động, năng động và đặc biệt không chấp nhận tư tưởng ỷ lại,
chỉ trông chờ vào nguồn ngân sách để phát triển sự nghiệp. Từ mô

hình cũ, cơ chế cũ chuyển sang áp dụng mô hình mới; từ qui trình
sản xuất đơn giản, thụ động chuyển sang qui trình sản xuất hiện đại;
từ phương thức tự tổ chức sản xuất chương trình chuyển sang đa
dạng hóa phương thức hợp tác sản xuất. Sự thay đổi về nhận thức, tư
duy của đội ngũ lao động; hiệu quả kinh tế; tính đa dạng, phong phú
về thể loại và hình thức thể hiện là những thành công rõ nét nhất của
cả quá trình thực hiện xã hội hóa.
3.1.2. Một số bất cập của hoạt động xã hội hóa sản xuất
chương trình


17
Mấu chốt của vấn đề làm phát sinh ngày càng nhiều hơn
những bất cập từ hoạt động xã hội hóa chính là chưa xác định rõ định
hướng, mục tiêu, tiêu chí cũng như chưa chuẩn bị đầy đủ các điều
kiện cần thiết trước khi quyết định tiến hành xã hội hóa sản xuất
chương trình. Sự mất cân đối giữa năng lực sản xuất so với tốc độ
tăng thời lượng, số lượng chương trình và số lượng kênh phát sóng là
hệ quả của quá trình đầu tư, phát triển thiếu chiến lược, thiếu qui
hoạch một cách khoa học. Nhân lực, năng lực sản xuất nói chung của
các đơn vị truyền thông cũng chưa được nghiên cứu, tìm hiểu một
cách thấu đáo. Đây là một số nguyên nhân trả lời cho câu hỏi vì sao
hoạt động xã hội hóa trong thời gian vừa qua phát triển chưa đồng bộ
và có xu hướng mất cân đối trong định hướng nội dung. Luận văn
cũng phân tích sâu một số mặt hạn chế cơ bản khác trong hoạt động
liên kết sản xuất để làm cơ sở đề xuất giải pháp trong quá trình hoàn
thiện mô hình xã hội hóa như: năng lực giám sát, quản lý; năng lực
nghiên cứu, khảo sát thị trường; năng lực dự báo và lưu trữ, thống
kê; năng lực sản xuất định dạng Format Việt Nam; thói quen và xu
hướng khán giả; những điểm cạnh tranh và hạn chế của công ty

truyền thông…
3.2. Định hƣớng phát triển hoạt động xã hội hóa của Đài
Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh
Từ kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, định hướng hoạt động xã
hội hóa trong lĩnh vực truyền hình từ nay đến năm 2020 nhất thiết
cần phải tiếp tục bám sát các phương hướng, luận điểm quan trọng
trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, Chiến lược phát triển kinh
tế xã hội 2011 - 2020, Chương trình động của Thành ủy Thành phố
Hồ Chí Minh thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp


18
hành Trung ương khóa X về “Công tác tư tưởng, lý luận và báo chí
trước yêu cầu mới”, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Hồ Chí
Minh nhiệm kỳ 2011-2015 và đề án “Qui hoạch báo chí trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh tầm nhìn 2020”. Hoạt động xã hội hóa
truyền hình trong giai đoạn sắp tới chính là giải quyết bài toán lợi ích
kinh tế, phát triển kinh tế truyền hình song song với nhiệm vụ chính
trị và các chức năng, nhiệm vụ quan trọng khác của cơ quan báo chí
truyền thông.
3.3. Giải pháp và đề xuất phát triển hoạt động xã hội hóa
sản xuất chƣơng trình tại Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí
Minh
Để hoạt động xã hội hóa phát triển đúng định hướng, các chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước phải từng bước được cụ thể
hóa thông qua việc nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật Báo chí và các
văn bản hướng dẫn dưới luật, trong đó cần chú trọng giải quyết mối
quan hệ giữa chức năng nội dung và phát triển kinh tế, dịch vụ truyền
hình của một cơ quan báo chí. Các giải pháp phát triển chung, trong
đó có giải pháp phát triển hoạt động xã hội hóa sản xuất chương trình

của Đài Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh cần tuân thủ và triển
khai thực hiện theo quan điểm xuyên suốt: ưu tiên phát huy tối đa
tiềm năng, năng lực của đội ngũ trong Đài; tận dụng các nguồn lực
xã hội, giữ vững định hướng nội dung.
3.3.1. Thay đổi nhận thức, thái độ về xã hội hóa, về vai trò của
công ty truyền thông và khán giả truyền hình
Trước tiên và trên hết cần ưu tiên giải quyết một cách thấu đáo
vấn đề nhận thức của đội ngũ những người làm truyền hình về sự tồn
tại khách quan của các thành phần kinh tế trong sự phát triển chung


19
của truyền hình. Chỉ có như vậy mới có thể tạo sự đồng thuận cao
hơn trong quá trình triển khai thực hiện xã hội hóa. Thay đổi nhận
thức của người làm công tác truyền hình đối với khán giả truyền hình
cũng là một yếu tố rất quan trọng trong quá trình thay đổi tư duy từ
lối suy nghĩ “áp đặt” theo kiểu ban phát trong cơ chế bao cấp sang tư
duy “phục vụ”.
3.3.2. Nâng cao năng lực lãnh đạo và công tác giáo dục chính
trị tư tưởng
Song song với thành công bước đầu, hoạt động xã hội hóa hiện
nay còn tồn tại nhiều vấn đề đáng lo ngại về định hướng phát triển.
Sự băn khoăn, lo lắng là hoàn toàn có cơ sở khi mặt trái, nghịch lý
của xã hội hóa xuất hiện ngay trong quá trình vận động và phát triển
của hoạt động này. Suy cho cùng, hoạt động của truyền hình và
những sản phẩm cuối cùng của truyền hình là những sản phẩm văn
hóa hàm chứa những giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, mang đậm
tính nhân văn, tính giáo dục, tính thẩm mỹ…Vì vậy, phát triển kinh
tế truyền hình trong điều kiện thách thức và cơ hội đan xen đòi hỏi
đội ngũ truyền hình cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, giỏi chuyên

môn nghiệp vụ để có khả năng chọn lọc, tiếp nhận hợp lý các xu thế
mới, ý tưởng mới của hoạt động truyền hình, tránh chủ quan, phiến
diện trong công tác quản lý, điều hành; nâng cao “nội lực” của đội
ngũ sẽ giúp cho hệ thống biên tập, thẩm định, kiểm duyệt nội dung
tránh sai sót, đảm bảo định hướng.
3.3.3. Đổi mới bộ máy, phương thức tổ chức, quản lý và sử
dụng nguồn nhân lực
Từ phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động xã hội hóa, nội
dung luận văn đề cập sâu đến giải pháp nâng cao năng lực tổ chức,


20
quản lý sát với thực tiễn hoạt động của Đài Truyền hình thành phố
Hồ Chí Minh. Mô hình tổ chức, quản lý và qui trình liên kết sản xuất
cần được điều chỉnh, bổ sung, đổi mới phương thức hoạt động theo
hướng chuyên môn hóa cao. Một số giải pháp cụ thể như: thành lập
bộ phận chuyên môn ở một số lĩnh vực có liên quan đến hoạt động
xã hội hóa; khảo sát, đánh giá năng lực thực tế của đội ngũ chuyên
môn, năng lực sản xuất, hậu kỳ, năng lực tài chính…của các công ty
truyền thông trước khi tiến hành hợp tác sản xuất…Đồng thời cần
đặc biệt quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nhận thức chính trị, nhận thức
về trách nhiệm xã hội, nghề nghiệp cho đội ngũ sản xuất của các
công ty truyền thông tư nhân. Yêu cầu này hoàn toàn cần thiết một
khi các công ty truyền thông đã trở thành những đối tác bình đẳng,
cùng đồng hành và tham gia sâu vào quá trình sản xuất nội dung
chương trình. Để hoạt động xã hội hóa sản xuất chương trình đạt
hiệu quả, cần sớm hoàn thiện các qui chế, qui trình hợp tác, thẩm
định, kiểm duyệt, qui trình sản xuất ở từng thể loại chương trình cụ
thể theo hướng đảm bảo yêu cầu xuyên suốt về tính chủ động về mọi
mặt của Đài trong quá trình hợp tác sản xuất chương trình.

3.3.4. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, chế độ tài chính
So với thực tiễn của hoạt động truyền hình trong điều kiện
kinh tế thị trường phát triển, nhất là vai trò của kinh tế truyền hình
ngày càng rõ nét, các cơ chế quản lý tài chính đang áp dụng đối với
Đài cần được tiếp tục điều chỉnh, nâng cao hơn vai trò tự chủ, tự chịu
trách nhiệm. Trong đó cần đặc biệt quan tâm điều chỉnh chế độ kinh
phí, thù lao nội bộ theo hướng tăng kinh phí sản xuất, tăng thù lao
cho đội ngũ thực hiện các chương trình không xã hội hóa thuộc
nhóm chính luận và chính luận - nghệ thuật.


21
* Tiểu kết chƣơng 3
Các nội dung trong chương 3 của luận văn đề cập sâu hơn
những khía cạnh tích cực từ hoạt động liên kết sản xuất chương trình,
trong đó đặc biệt khẳng định những yếu tố thuận lợi và hiệu quả kinh
tế thu được từ hoạt động này. Bên cạnh những mặt tích cực, nội dung
của chương 3 cũng phân tích sâu những điểm còn hạn chế trong hoạt
động liên kết với các công ty truyền thông tư nhân. Theo suy nghĩ và
quan điểm riêng dựa vào kinh nghiệm thực tiễn quản lý, tác giả cũng
đã mạnh dạn nêu rõ những hạn chế chủ quan trong hệ thống quản lý,
tổ chức điều hành để qua đó xác định rõ hơn trách nhiệm, nhiệm vụ
cụ thể trong từng lộ trình phát triển. Một trong những lý do cơ bản là
quá trình phát triển hoạt động xã hội hóa chưa song hành với công
tác quản lý và năng lực sản xuất. Các nguyên nhân khách quan và
chủ quan đều được nhìn nhận, đánh giá khách quan, sát thực tiễn để
từ đó có những giải pháp mang tính khả thi, có thể vận dụng trong
thực tiễn quản lý và sản xuất chương trình theo quan điểm xuyên
suốt là làm chủ hoạt động xã hội hóa; ưu tiên phát huy tối đa tiềm
năng, năng lực của đội ngũ trong Đài; tận dụng các nguồn lực xã hội,

giữ vững định hướng nội dung.

×