Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tiểu luận học thuyết chính danh và ý nghĩa của nó đối với công tác tuyển chọn cán bộ ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.25 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, nền văn minh Trung Quốc
là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm nhất trên thế giới với hơn
4000 năm phát triển liên tục, với nhiều phát minh vĩ đại trong lịch sử trên
nhiều lĩnh vực khoa học. Có thể nói, văn minh Trung Quốc là một trong
những cái nôi của văn minh nhân loại. Bên cạnh những phát minh, phát kiến
về khoa học, văn minh Trung Quốc còn là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết
triết học lớn có ảnh hưởng đến nền văn minh Châu Á cũng như toàn thế giới.
Nho giáo của Khổng Tử được du nhập vào Việt Nam tư thời Bắc thuộc
và ảnh hưởng của nó vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay. Cùng với Phật giáo,
Lão giáo, Nho giáo của Không tử đã tác động, chi phối nhiều lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội như: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục,
luân lý… Không phải ngẫu nhiên mà một số nhà khoa học được giải thưởng
Nobel đã cho rằng, nhân loại muốn tồn tại được trong thế kỷ XXI, cần phải
tìm học triết lý của Khổng tử. Còn học giả William James Durant, trong cuốn
“The story of civilisation” đã nhận xét: Càng hiểu biết về Nho giáo và người
sáng lập ra Nho giáo là Khổng tử, chúng ta càng ngạc nhiên khi thấy những
lời giáo huấn của ông rất ít bị lỗi thời trước những tiến bộ như vũ bão của
khoa học và những biến đổi của thời thế.
Nói đến Khổng tử, nói đến Nho giáo người ta nghĩ ngay đến học thuyết
“Chính danh”. Giá trị học thuyết này là rất lớn, không những có ảnh hưởng
đến tư tưởng của người dân Trung Quốc qua hàng nghìn năm lịch sử mà còn
bám rễ vào các nền văn hoá của các quốc gia trong đó có Việt Nam. Cho đến
nay nhiều tư tưởng, quan niệm về xã hội, con người, đạo đức, giáo dục… thể
hiện trong học thuyết “Chính danh” của Khổng giáo vẫn còn giá trị và mang
tính thời sự. Vì vậy, việc nghiên cứu và trao đổi về những ảnh hưởng của học
thuyết này trong xã hội ta hiện nay là việc làm cần thiết, hữu ích.

Trang 1
Một kho tàng kiến thức đồ sộ và rất có giá trị như thế nếu biết khai thác


và vận dụng những hạt nhân hợp lý sẽ cho ta một tầm nhìn rộng, đầy đủ và sâu
sắc các vấn đề xã hội trong quá trình xây dựng một xã hội mới xã hội Xã hội
chủ nghĩa. Tuy nhiên trong thời đại hiện nay điều kiện về kinh tế văn hoá, xã
hội đã khác đi rất nhiều, những quan điểm xã hội, những sự tiến bộ của khoa
học kỹ thuật, những học thuyết về xã hội mới ra đời mà mức độ tương thích
với xã hội hiện đại rất lớn và hiệu quả trong việc định hướng phát triển xã hội
ngày nay. Vậy vấn đề đặt ra là học thuyết “Chính danh” có giá trị như thế nào
trong xã hội hiện nay? Chúng ta có thể vận dụng như thế nào vào công cuộc
xây dựng Chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là trong công tác tuyển chọn cán bộ công
chức ở nước ta? Từ những vấn đề đặt ra đó bản thân lựa chọn nghiên cứu đề
tài tiểu luận: “Học thuyết chính danh và ý nghĩa của nó đối với công tác
tuyển chọn cán bộ ở nước ta hiện nay”.
2. Tổng quan nghiên cứu đề tài:
Vấn đề nghiên cứu Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam đã được
nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu quan tâm và đã có rất nhiều bài viết, công
trình nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn còn rất ít bài viết
nghiên cứu vấn đề học thuyết “Chính danh” và ý nghĩa vận dụng những quan
điểm tích cực trong học thuyết “Chính danh” của Khổng Tử vào công tác
tuyển chọn cán bộ trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Qua nghiên cứu đề tài giúp cho chúng ta hiểu rõ nguồn gốc hình thành
và phát triển của Nho giáo, những tư tưởng cơ bản của Nho giáo, đặc biệt là
những tư tưởng trong học thuyết “Chính danh” của Khổng Tử. Ảnh hưởng và
ý nghĩa giá trị của học thuyết “Chính danh” của Khổng Tử trong việc ứng
dụng, phát triển trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:

Trang 2
Nghiên cứu đề tài trên dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lê Nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, phương pháp lôgic về lịch sử, phương pháp diễn dịch

và quy nạp và phương pháp so sánh đối chiếu Đồng thời kết hợp sử dụng
phương pháp tọa đàm, trao đổi ý kiến để làm sáng tỏ những vấn đề cần nghiên
cứu.
5. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn:
Về mặt lý luận và thực tiễn giúp cho chúng ta hiểu sâu về học thuyết
“Chính danh” của Khổng Tử, ý nghĩa trong cuộc sống xã hội ở nước ta hiện
nay, từ đó có cơ sở để làm luận cứ trong việc tuyển chọn, đào tạo và sử dụng
cán bộ trong giai đoạn hiện nay. Góp phần bác bỏ những quan niệm, luận điệu
sai trái, xuyên tạc sự thật về việc thực hiện “Chính danh” của Nhà nước ta
trong giai đoạn hiện nay.
6. Kết cấu của đề tài:
Chương 1: Tư tưởng của Khổng Tử và nội dung học thuyết “chính
danh”.
1.1. Khái quát đặc điểm lịch sử xã hội Trung Quốc cổ đại.
1.2. Nho gia và tư tưởng của Khổng Tử.
1.2.1. Nho gia.
1.2.2. Tư tưởng Khổng Tử.
1.3. Những nội dung cơ bản của học thuyết “Chính danh”.
Chương 2: Những giá trị của học thuyết “chính danh” trong công tác
tuyển chọn cán bộ ở nước ta hiện nay.
2.1. “Chính danh” trong xã hội ta hiện nay.
2.2. Ý nghĩa của học thuyết “Chính danh” đối với công tác tuyển chọn
cán bộ ở nước ta hiện nay.

Trang 3
NỘI DUNG
Chương 1: TƯ TƯỞNG CỦA KHỔNG TỬ VÀ NỘI DUNG CỦA HỌC
THUYẾT “CHÍNH DANH”.
1.1 Khái quát đặc điểm lịch sử xã hội Trung Quốc cổ đại.
Sự phát triển rực rỡ của triết học Trung Quốc cổ đại là thời kỳ Xuân thu -

Chiến quốc - giai đoạn suy tàn của chế độ nô lệ và chế độ sơ kỳ phong kiến
đang lên. Thời kỳ Xuân thu khoảng từ năm 770 trước Công nguyên, đến năm
475 trước Công nguyên, bắt đầu từ khi Chu Bình Vương dời đô về phía Đông,
thuộc Lạc Ấp. Lạc Dương, Hà Nam ngày nay, còn gọi là thời kỳ Đông Chu.
Thời kỳ Chiến quốc bắt đầu từ năm 475 trước Công nguyên, bằng sự nghiệp
thống nhất đất nước cùa nhà Tần.
Về kinh tế đã phát triển mạnh, việc sử dụng công cụ sản xuất bằng sắt và
dùng bò kéo cày đã khá phổ biến, tạo điều kiện cho việc khai khẩn đất hoang,
góp phần nâng cao năng suất lao động. Thủ công nghiệp đã có bước phát triển
mới, đặc biệt ở sự phân công lao động và chuyên môn hóa sản xuất, tạo ra một
loạt ngành nghề mới bên cạnh các nghề cổ truyền, như nghề luyện kim, nghề
đúc, rèn sắt, nghề nhuộm, làm đồ gốm Cùng với sự phát triển của nông
nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp buôn bán cũng phát triển hơn, tiền tệ
bằng kim loại hình thành. Do đất nông dân vỡ hoang trở thành ruộng tư ngày
càng tăng thêm, dẫn đến có chế độ mua bán ruộng đất tự do và bọn quý tộc
thương nhân giàu có đã chiếm được nhiều ruộng đất trở thành những địa chủ
lớn, chúng chuyển sang hình thức thuê mướn nhân công và cho phát canh thu
tô. Quan hệ sản xuất phong kiến nông nô xuất hiện dần dần chiếm ưu thế
trong đời sống xã hội.
Về chính trị, suốt thời Xuân Thu, mệnh lệnh của “Thiên tử” nhà Chu
không còn được tuân thủ, trật tự lễ nghĩa, cương thường xã hội đảo lộn, đạo
đức suy đồi. Nạn chư hầu chiếm ngôi “Thiên tử”, đại phu lấn quyền chư hầu

Trang 4
tôi giết vua, cha giết con, anh hại em, vợ lìa chồng thường xuyên xảy ra. Các
nước chư hầu đua nhau động binh gây chiến tranh thôn tính lẫn nhau hết sức
khốc liệt. Những nước chư hầu mạnh thay nhau lên làm bá chủ thiên hạ. Để
tập trung sức mạnh cho cuộc chiến tranh nên hầu hết các nước chư hầu đều thi
hành chính sách “bá đạo” dựa trên sức mạnh để cướp bóc ép buộc nhân dân
tham gia chiến đấu, chính điều này dẫn đến hàng loạt nước nhỏ bị tiêu diệt.

Do vậy, dân đã nghèo khổ, lại càng thêm nghèo khổ, nên như ở nước Tần
“thây người chết đầy đường”.
Về văn hóa, xã hội: Chữ viết xuất hiện sớm, hệ thống chữ tượng hình ra
đời có khả năng đồng hoá dân tộc. Văn hoá truyền thống: tác phẩm cổ xưa
như Kinh Thi, Kinh thư, kinh nhạc Văn học nghệ thuật: thơ ca nổi tiếng được
lưu hành nhiều trong dân gian.
Về khoa học kỹ thuật: người Trung Quốc để nhiều phát minh như thuốc
súng, la bàn, yên ngựa, xe cút kit, giấy
Chính thời đại lịch sử đầy biến động đó đã dẫn tới những thay đổi sâu
sắc về nhiều lĩnh vực, đã kích thích lòng người, khiến những người tài giỏi
đương thời tìm cách lý giải, tìm cách cứu đời cứu người. Điều đó đã làm nảy
sinh hàng loạt các nhà tư tưởng triết hoc trong giai đoạn này với nhiều học
thuyết khác nhau mà trong đó nổi bật nhất là các trường phái Nho gia, Mặc
gia, Đạo gia, Danh gia, Âm dương gia và pháp gia.
1.2. Nho gia và tư tưởng của Khổng Tử.
1.2.1. Nho gia.
Nho gia là một trong những trường phái triết học chính của Trung Quốc
cổ đại. Người sáng lập ra đạo nho là Khổng tử (551 - 479 trước C.N). Người
kế tục nổi tiếng của Khổng Tử là Mạnh Tử (372 - 289 trước C.N) và Tuân Tử
(298 - 238 trước C.N).

Trang 5
Cơ sở hình thành triết học Nho gia từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng
góp của Chu Công Đáng, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội
loạn lạc, Khổng tử đã phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hoá và tích
cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì vậy mà người đời sau coi ông là
người sáng lập ra Nho giáo.
Cũng giống như nhiều nhà tư tưởng lớn khác trên thế giới, người đời sau
không thể nắm bắt các tư tưởng của Khổng Tử một cách trực tiếp mà chủ yếu
qua các ghi chép của học trò ông. Khó khăn nữa là thời kỳ “đốt sách, chôn

nho” của Tần Thuỷ Hoàng hai trăm năm sau khi Khổng Tử qua đời đã làm
cho việc sưu tập các tài liệu về ông thêm khó khăn. Tuy nhiên, các nhà nghiên
cứu sau này vẫn còn một số tài liệu cơ bản để nghiên cứu như: Tứ thư, Ngũ
kinh, Luận ngữ… Nho giáo cũng phân chia thành các thời kỳ phát triển và có
những nội dung không hoàn toàn giống nhau.
Nho giáo nguyên thuỷ: Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định và giải
thích bộ lục kinh gồm: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân
Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ gọi là
ngũ kinh. Về sau Khổng tử mất, các học trò của ông tập hợp những lời dạy
viết ra cuốn Luận Ngữ học trò xuất sắc của ông là Tăng Sâm (Tăng tử), dựa
vào lời ông mà viết cuốn Đại học, cháu nội ông là Khổng Cấp (Tử Tư) viết
cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc một người theo phái Nho gia và cũng
truyên bá đạo Nho sau đó học tro ông ghi lại những lời dạy của ông và lấy tên
ông đặt cho sách: Mạnh Tử. Từ thời Khổng đến Mạnh Tử gọi là giai đoạn Nho
giáo nguyên thuỷ vì chỉ có sự phát triển chứ không có sự mở rộng theo một tư
tưởng mới. Từ thời điểm này mới hình thành hai khái niệm Nho gia và Nho
giáo. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học.
Còn Nho giáo thì mang nặng tính tôn giáo hơn. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở
thành “thánh đường” và Khổng Tử trở thành “giáo chủ”.

Trang 6
Hán Nho: đến đời Hán, Đại học và Trung Dung được gộp vào Lễ ký.
Hán Vũ Đế đưa Nho gia lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống
nhất đất nước về hệ tư tưởng. Và từ đây Nho gia trở thành hệ tư tưởng chính
thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Quốc suốt hai nghìn năm.
Tống Nho: đời Tống, Trung dung và Đại học được tách ra khỏi Lễ ký và
cùng với Luận Ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ “Tứ thư”. Tứ thư và ngũ kinh trở
thành sách gối đầu giường của các nhà Nho thời đó. Những nhân vật nổi tiếng
của đạo Nho là Chu Hy (Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. (ở phương tây gọi là
Tân Khổng giáo). Điểm khác biệt của Tống Nho với Nho giáo trước đó là việc

bổ sung các yếu tố “tâm linh” (lấy từ phật giáo) và các yếu tố “siêu hình” (lấy
từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị.
Nội dung cơ bản của Nho gia đó là một học thuyết chính trị nhằm cải
tạo xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo
cho được người cai trị kiểu mẫu và kiểu mẫu đó theo Nho gia là Quân Tử. Để
trở thành người quân tử, con người trước hết phải tự đào tạo, phải tu thân. Sau
khi tu thân xong người quân tử phải có bổn phận hành đạo. Đạo ở đây không
đơn thuần là đạo lý, Nho gia hình dung cả vũ trụ được cấu thành từ các nhân
tố đạo đức, và đạo ở đây bao chứa cả nguyên lý vận hành chung của vũ trụ,
vấn đề là những nguyên lý đó do Nho gia đề xướng và cần phải tuân theo.
Trời giáng mệnh làm vua cho kẻ nào có đạo, tức là nắm được đạo trời, biết sợ
mệnh trời. Còn “tiểu nhân” tức những người dân ngu dốt phải biết kính “thiên
tử” và phục tùng mệnh lệnh của “thiên tử”, dân đối với vua, theo đạo Khổng
phải coi như cha mẹ.
1.2.2. Tư tưởng Khổng Tử.
Khổng tử tên thật là Khổng Khâu tự là Trọng Ni, người làng Xương
Bình, huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông ngày nay. Ông sinh năm 551 trước
công nguyên, đó là lúc mà xã hội Trung Quốc cổ đại loạn lạc, các vua chúa

Trang 7
chuyên tâm hưởng thụ hoặc chém giết nhau để xưng hùng, xưng bá. Đạo lý
nhân luân xáo trộn, vinh nhục không rõ ràng. Thiện ác khó phân biệt.
Năm 33 tuổi, nước Lỗ loạn lạc Khổng Tử đến nước Tề, sau đó lại quay
về nước Lỗ, dạy học và nghiên cứu sách. Ông san định Kinh thi, Kinh thư,
Kinh dịch, Kinh lễ và soạn Kinh Xuân thu. Môn đệ của ông chép lại những
lời dạy làm thành bộ “Luận ngữ”. Ông hệ thống hóa những tri thức, tư tưởng
đời trước và quan điểm của ông thành học thuyết đạo đức - chính trị nổi tiếng,
gọi là Nho giáo.
Nội dung cơ bản của tư tưởng Khổng Tử gồm có 3 vấn đề cơ bản, đó là:
Thế giới quan, luân lý đạo đức và học thuyết “Chính danh”.

Trong quan điểm về thế giới quan, xuất phát từ tư tưởng của “Kinh
dịch”, Khổng Tử cho rằng, vạn vật trong vũ trụ luôn sinh thành, biến hóa
không ngừng theo đạo của nó. Sự vận động và biến đổi ấy của vạn vật bắt
nguồn từ mối liên hệ, tương tác giữa hai lực “âm” và “dương” trong một thể
thống nhất “Thái cực”. Cái lực vô hình để âm - dương tương tác, trung hòa, để
vạn vật sinh hóa không ngừng ấy, Khổng Tử gọi là “Đạo”, là “Thiên lý”.
Nhưng vì “Đạo” hay “Thiên lý” là huyền bí, sâu kín, mầu nhiệm, nó lưu hành
khắp vũ trụ, định phép sống cho vạn vật mà con người ta không thể cưỡng lại
được, nên Khổng Tử gọi là “Thiên mệnh”.
Do tin vào “Thiên mệnh”, nên Khổng Tử coi việc hiểu biết mệnh trời là
một điều kiện tất yếu để trở thành con người hoàn thiện, ông viết “Không biết
mệnh trời thì không lấy gì làm quân tử” (“Luận ngữ”, Nghiêu viết, 3). Đã tin
có mệnh biết mệnh thì phải sợ mệnh và thuận mệnh. Đó là cái đức của người
quân tử. Khổng Tử khuyên: “Người quân tử có ba điều sợ: sợ mệnh trời, sợ
bật đại nhân, sợ lời thánh nhân” (“Luận ngữ”, Quý thị, 8). Do quan niệm như
vậy, nên Khổng Tử tin vào số mệnh và ông đã nói : Sống chết có mệnh, giàu
sang do ở trời (“Luận ngữ”, Nhan Uyên, 5).

Trang 8
Tuy nhiên, Khổng tử lại không tán thành quan điểm cho rằng, con người
cứ nhắm mắt dựa vào “Thiên mệnh”. Ông luôn luôn yêu cầu con người phải
chú trọng vào sự nổ lực học tập, làm việc tận tâm, tận lực, còn việc thành hay
bại như thế nào, lúc đó mới là tại ý trời.
Khổng Tử cũng tin có quỷ thần và cho rằng, quỷ thần là do khí thiêng
trong trời đất tạo thành, mắt ta không nhìn thấy được, tai ta không nghe thấy
được Tuy nhiên, ông phê phán mê tín sung bái quỷ thần, kêu gọi mọi người
hãy chú trọng vào công việc làm của mình, bời vì: “Đạo thờ người chưa biết
thì sao biết được đạo quỷ thần. Không hiểu được con người sống, thì không có
tư cách hỏi chuyện sau khi chết” (“Luận ngữ”, Tiên Tấn, 11). Theo ông, trí
thông minh, khôn ngoan của con người đối lập với mê tín quỷ thần. Ông dạy

bọn thống trị hãy từ bỏ sùng bái quỷ thần, ra sức nghiên cứu chính sách cai trị
cho hợp lý (“Luận ngữ”, Nhan Uyên, 7).
Như vậy, trong quan điểm về thế giới, tư tưởng của Khổng Tử luôn có
những tính chất mâu thuẫn. Khi chống lại chủ nghĩa thần bí, tôn giáo đương
thời, ông thừa nhận sự vật, hiện tượng trong tự nhiên luôn tự vận động, biến
hóa, không phụ thuộc vào mệnh lệnh của trời. Đó là yếu tố duy vật chất phác
và tư tưởng biện chứng tự phát, nhưng mặt khác, ông lại cho rằng Trời có ý
chí và có thể chi phối vận mệnh của con người, đó là một bước lùi trong tư
tưởng triết học của ông. Cũng như thế, một mặt Khổng Tử tuyên truyền sức
mạnh của quỷ thần, nhưng mặt khác, ông lại nhấn mạnh đến vai trò quan trọng
của hoạt động con người trong đời sống. Thực chất mâu thuẫn trong tư tưởng,
tâm trạng và thái độ của Khổng Tử là phản ánh những mâu thuẫn của đời sống
hiện thực thời bấy giờ.
Cùng với quan điểm về vũ trụ và con người, học thuyết về luân lý đạo
đức; chính trị xã hội là một trong những vấn đề cốt lõi và là thể thống nhất
hữu cơ trong triết học của Khổng Tử trên tư tưởng “thiên nhân tương đồng”.
Những nguyên lý đạo đức căn bản nhất trong học thuyết đạo đức của Khổng

Trang 9
Tử là: nhân, lễ, trí, dũng… cùng với hệ thống quan điểm về chính trị, xã hội
như “nhân trị”, “Chính danh”, “thượng hiền”, “quân tử”, “tiểu nhân” của ông.
Trong những phạm trù đạo đức ấy của Khổng Tử, chữ “nhân” được ông đề
cập với ý nghĩa sâu rộng nhất. Nó được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản quy
định bản tính con người và những quan hệ giữa người với người từ trong gia
tộc đến xã hội. Nó liên quan đến các phạm trù đạo đức, chính trị khác như một
hệ thống triết lý chặt chẽ, nhất quán, tạo thành bản sắc riêng trong triết lý nhân
sinh của ông.
Về tư tưởng chính trị Khổng Tử dựa trên tư tưởng đạo đức của ông. Ông
cho rằng chính phủ tốt nhất là chính phủ cai trị bằng “lễ nghĩa” và đạo đức tự
nhiên của con người, chứ không phải bằng vũ lực và mua chuộc. Ông đã giải

thích điều đó tại một trong những đoạn quan trọng nhất của cuốn Luận Ngữ:
Dùng mệnh lệnh, pháp luật đễ dẫn dắt chỉ đạo dân, dùng hình phạt để quản lý
dân, làm như vậy tuy có giảm được phạm pháp, nhưng người phạm pháp
không biết xấu hổ, sỉ nhục. Dùng đạo đức để hướng dẫn chỉ đạo dân, dùng lễ
nghĩa để giáo hoá dân, dùng hình phạt để quản lý dân, làm như vậy chẳng
những dân hiểu được thế nào là nhục nhã khi phạm tội, mà còn cam tâm tình
nguyện sửa chữa sai lầm của mình tận gốc từ mặt tư tưởng” sự biết sỉ nhục là
sự mở rộng của trách nhiệm nơi mà hành động trừng phạt đi trước hành động
xấu xa, chứ không phải đi sau nó như trong hình thức luật pháp của pháp gia.
Trong khi ủng hộ ý tưởng về một vị hoàng đế đầy quyền lực, có lẽ vì tình
trạng hỗn loạn ở Trung quốc thời kỳ đó, các triết lý của Khổng Tử chứa đựng
một số yếu tố hạn chế quyền lực của các nhà cai trị. Ông cho rằng lời lẽ phải
luôn ngay thật; vì thế tính trung thực có tầm hàng đầu. Thậm chí trên nét mặt,
phải luôn thể hiện sự trung thực. Khi bàn luận mối quan hệ về thần dân và
vua, ông nhấn mạnh sự cần thiết phải có sự tôn trọng của người dưới với
người trên. Điều này đòi hỏi người dưới phải đưa ra lời khuyên cho người trên
nếu người trên có hành động sai lầm. Tư tưởng này của ông được học trò là

Trang 10
Mạnh Tử phát triển thêm khi nói rằng nếu vua không ra vua, ông ta sẽ mất
thiên mệnh và sẽ phải bị lật đổ. Vì vậy hành động giết bạo chúa là đúng đắn
bởi lẽ kẻ bạo chúa giống một tên trộm hơn là nhà vua.
Những tư tưởng sâu sắc của Khổng tử về thế giới, về xã hội, về con
người, đặc biệt là học thuyết “Chính danh” và đạo đức đã đưa ông lên tầm cao
của nhà triết học thông thái, nhà chính trị tài ba và nhà giáo dục nổi tiếng.
1.3. Những nội dung cơ bản của học thuyết “Chính danh”.
Khổng tử khi sinh thời, ông thường nói với học trò rằng “(Ngô) thuật nhi
bất tác, tín nhi hiếu cổ” nghĩa là: Ta chỉ thuật lại mà không trước tác, tin vào
đạo lý đời xưa. Các nhà nghiên cứu về Nho giáo và Khổng tử ngày nay đều
cho rằng, trong các tác phẩm như Kinh Thi, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu, Luận

Ngữ… thì chỉ có quyển Luận Ngữ được xem là đáng tin cậy nhất vì những lời
phát biểu của Khổng tử trong sinh thời mà phần lớn là đàm thoại với học trò
của ông.
Do đâu mà Khổng tử đề ra học thuyết “Chính danh”? Trong thời đại của
mình, Khổng Tử nhận thấy tình trạng rối ren, phức tạp của xã hội phong kiến
thời Chu. Xã hội mà tôn ti trật tự bị rối ren, đảo lộn. Ông lấy làm tiếc cái thời
đầu nhà Chu như Chu Võ Vương, Chu Công… sao mà thời đại tươi đẹp,
phong hóa tốt tươi đến thế! Ông nhìn thấy tình cảnh “tôi thí vua, con giết cha
không phải nguyên nhân của một sáng một chiều”. Mọi sự việc, nguyên nhân
đều có cái cớ của nó. Mà cái cớ này không tự dưng mà có, nó được tích tập
dần dần qua thời gian mà đến một thời điểm nào đó, thì sẽ xảy ra kịch tính
như trên. Kinh dịch có câu “Đi trên sương mà băng giá tới” (Lý sương kiên
băng chí) là thuận với lẽ diễn tiến tự nhiên của mọi sự vật.
Khổng tử thấy tình trạng xã hội thời ông hỗn loạn đến nỗi “tôi giết vua,
con giết cha” là tệ hại lắm rồi, nhưng ông là người không thích bạo lực, không
thích làm cuộc thay đổi triệt để để triệt tiêu cái tệ trên bằng bạo lực cho nên

Trang 11
ông mới đề ra học thuyết “Chính danh” nhằm để cải tạo xã hội, giáo hóa xã
hội dần dần. Bản tính ông thích ôn hòa, thích giáo huấn dần dần hơn là bạo
lực, mà bạo lực chưa chắc gì đã giải quyết triệt để cái tệ “tôi giết vua, con giết
cha” nói trên mà bất quá chỉ thay thế cuộc thí quân này bằng cuộc thí quân
khác hoặc vụ giết cha này bằng vụ giết cha khác. Bạo lực bất quá chỉ giải
quyết việc trước mắt, tức thời, chỉ trị được ngọn chứ làm sao trị được gốc của
tình hình trên, chỉ có cuộc cách mạng tư tưởng mới trị được gốc của cái tệ tôi
giết vua, con giết cha nói trên.
Khổng tử cho rằng mỗi vật và mỗi người trong xã hội đều có một công
dụng nhất định. Nằm trong mối quan hệ nhất định mỗi vật, mỗi người đều có
một địa vị bổn phận nhất định và tương ứng với nó là một danh nhất định. Mỗi
“danh” điều có tiêu chuẩn riêng. Vật nào, người nào mang “danh” nào phải

được thực hiện và phải thực hiện bằng được những tiêu chuẩn của danh đó,
nếu không phải thì gọi bằng “danh” khác. Đó chính là học thuyết “Chính
danh” của Khổng Tử - một học thuyết được xem là quan trọng trong toàn bộ
tư tưởng của ông.
Khổng tử đã giải thích: “Chính danh là làm mọi việc cho ngay thẳng”
(“Luận ngữ”, Nhan Uyên, 1). “Chính danh” thì người nào có địa vị, bổn phận
chính đáng của người ấy, trên dưới, vua tôi, cha con trật tự phân minh “Vua
lấy lễ mà khiến tôi, tôi lấy trung mà thờ vua” (“Luận ngữ”, Bát Dật, 19). “Vua
cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha cho ra cha, con cho ra con” (“Luận ngữ”, Nhan
Uyên, 11). Đó là một nước thịnh trị, lễ nghĩa, nhân, đức, danh phận vẹn toàn.
Khi Tử Lộ hỏi về việc chính trị, Khổng Tử nói, muốn trị nước, trước tiên
“ắt phải sửa cho chính danh”, vì “nếu không chính danh thì lời nói sẽ không
đúng đắn sẽ dẫn tới việc thi hành sai… Cho nên nhà cầm quyền xưng danh thì
phải đúng với phận với nghĩa; đã xưng đúng danh phận, thì phải tùy theo đó
mà làm” (“Luận ngữ”, Tử Lộ, 3). Theo học thuyết “Chính danh”, Khổng Tử
đã chia xã hội thành những mối quan hệ cơ bản, trong đó mỗi quan hệ là một

Trang 12
“luân”. Trong xã hội, theo Khổng Tử có 5 mối quan hệ chính là: vua tôi, cha
con, vợ chồng, anh em, bạn bè. Đặc biệt trong luân lý, đạo đức, Khổng Tử
luôn nhấn mạnh đến quan hệ vua tôi và cha con.
Đối với quan hệ vua tôi, Khổng Tử chống việc duy trì ngôi vua theo
huyết thống và chủ trương “thượng hiền” không phân biệt đẳng cấp xuất thân
của người ấy. Trong việc chính trị, vua phải biết “trọng dụng người hiền đức,
tài cán và rộng lượng với những kẻ cộng sự…” (“Luận ngữ”, Tử Lộ, 2), “vua
phải tự mình làm thiện, làm phải trước thiên hạ để nêu gương và phải chịu khó
lo liệu giúp đỡ dân” (“Luận ngữ”, Tử Lộ, 1). Ông còn nói, nhà cầm quyền cần
phải thực hiện ba điều: “Bảo đảm đủ lương thực cho dân được no ấm, phải
xây dựng được lực lượng binh lực hùng mạnh để đủ bảo vệ dân, phải tạo lòng
tin cậy của dân đối với mình. Nếu bất đắc dĩ phải bỏ bớt những điều kiện trên

thì trước hết hãy bỏ binh lực, sau đó đến bỏ lương thực, nhưng không thể bỏ
lòng tin của dân đối với vua, nếu không, chính quyền xã tắc sẽ sụp đổ” (“Luận
ngữ”, Nhan Uyên, 7).
Nếu “việc chính trị, vua cai trị nước nhà mà biết đem cái đức mình bỏ
hóa ra, thì mọi người đều phục theo. Tuy như ngôi sao Bắc Đẩu ở một chỗ mà
có mọi vì sao chầu theo” (“Luận ngữ”, Vi Chính, 1). Ngược lại dân và bề tôi
đối với vua phải như đối với cha mẹ mình, phải tỏ lòng “trung” của mình đối
với vua. Ấy là “Chính danh”, là “phục lễ vi nhân”.
Về đạo cha con, Khổng Tử cho rằng con đối với cha phải lấy chữ “hiếu”
làm đầu và cha đối với con phải lấy lòng “từ ái” làm trọng. Trong đạo hiếu
của con với cha mẹ, dù rất nhiều mặt, nhưng cốt lõi phải ở “tâm thành kính”.
“Đời nay hễ thấy ai nuôi được cha mẹ thì người ta khen là có hiếu. Nhưng loài
thú vật như chó ngựa người ta cũng nuôi được vậy. Cho nên, nuôi cha mẹ mà
chẳng kính trọng thì có khác gì nuôi thú vật đâu” (“Luận ngữ”, Vi Chính, 7).

Trang 13
Trong việc trị nước như tu thân, học đạo sửa mình để đạt được đức
“nhân”, “lễ” được Khổng Tử rất mực chú trọng. Lễ ở đây là những quy phạm,
nguyên tắc đạo đức của nhà Chu. Ông cho rằng, do vua không giữ đúng đạo
vua, cha không giữ đúng đạo cha, con không giữ đúng đạo con…nên thiên hạ
“vô đạo”. Phải dùng lễ để khôi phục lại trật tự, phép tắc, luân lý xã hội, khiến
cho mọi người trở về với “đạo”, với “nhân” và trở thành “Chính danh”. Lễ ở
Khổng Tử là những phong tục, tập quán, những quy tắc quy định trật tự xã hội
và cả thể chế pháp luật nhà nước, như: sinh, tử, tang, hôn, tế, lễ, triều sinh, luật
lệ, hình pháp… Theo Khổng Tử, lễ quan hệ với nhân rất mật thiết. Nhân là
chất, là nội dung, lễ là hình thức biểu hiện của nhân. “Nhân là cái nền tơ lụa
trắng tốt mà trên đó người ta vẽ nên những bức tranh đẹp” (“Luận ngữ”, Bát
Dật, 8). Ông khuyên người “ta chớ xem điều trái lễ chớ nghe điều trái lễ, chớ
nói điều trái lễ và chớ làm điều trái lễ” (“Luận ngữ”, Nhan Uyên, 1), thì khi đó
sẽ đạt được “nhân”, xã hội ổn định, vua tôi, cha con, anh em, chồng vợ… đều

“Chính danh định phận”.
Như vậy, trong triết học của Khổng Tử các phạm trù, “nhân”, “lễ”, “trị”,
“dũng”, “chính danh định phận… có nội dung hết sức phong phú, thống nhất
với nhau và luôn thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nó luôn cố
gắng giải đáp những vấn đề đặt ra của lịch sử và đây có lẽ là thành quả kết
tinh rực rỡ nhất trong triết lý nhân sinh của ông. Song, do hạn chế bởi điều
kiện lịch sử và lợi ích giai cấp, học thuyết triết học của Khổng Tử luôn chứa
đựng những mâu thuẫn, giằng co, đan xen giữa những tư tưởng tiến bộ với
những quan điểm bảo thủ, phản ánh tâm trạng giằng xé của ông trước biến
chuyển của thời cuộc.
Hầu hết các nhà Nho, các nhà nghiên cứu về Nho giáo và Khổng tử đều
thừa nhận rằng học thuyết “Chính danh” là một phát kiến mới của Khổng tử.
Do chính ông quan sát thấy được tình trạng lộn xộn, mất tôn ti trật tự, trên cho
ra trên, dưới cho ra dưới, vua cho ra vua, tôi cho ra tôi,… nên ông mới đề ra

Trang 14
học thuyết “Chính danh”. Thực chất, học thuyết “Chính danh” không những
chỉ có giá trị ở thời ông. Nói theo cách nói của học giả Nguyễn Hiến Lê khi
viết lời mở đầu cho cuốn Khổng Tử đã phát biểu rằng “Triết thuyết nào cũng
chỉ để cứu cái tệ của một thời thôi. Muốn đánh giá một triết thuyết thì phải
đặt nó vào thời của nó, xem nó có giải quyết được những vấn đề của thời đó
không, có là một tiến bộ so với các thời trước, một nguồn cảm hứng cho các
đời sau không. Và nếu sau mười thế hệ, người ta thấy nó vẫn còn làm cho đức
trí con người được nâng cao thì phải coi nó là một cống hiến lớn cho nhân
loại rồi.”
Chương 2: NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA HỌC THUYẾT “CHÍNH DANH”
TRONG CÔNG TÁC TUYỂN CHỌN CÁN BỘ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
2.1. “Chính danh” trong xã hội ta hiện nay.
Về đường lối chính trị: Đảng ta đã “xưng danh” là Đảng Cộng sản, Nhà
nước ta là Nhà nước “Nhà nước xã hội chủ nghĩa”, trong quá trình đổi mới,

Nhà nước ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không
phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được
nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không
phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng
và kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Xã hội chủ nghĩa là đích đến của
sự phát triển, phồn vinh, công bằng, văn minh tiến bộ cho một xã hội trong
mối quan hệ cả về phát triển kinh tế với hoàn thiện văn hóa xã hội và bảo vệ
môi trường. Đó chính là việc thể hiện sự “Chính danh” của mình trên thế
giới.
Về kinh tế: Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình
thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước,

Trang 15
kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư
bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt
động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát
triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Xóa bỏ mọi sự phân biệt đối
xử theo hình thức sở hữu; thực hiện chiến lược quốc gia về phát triển
doanh nghiệp; tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh
nghiệp nhà nước; tiếp tục đổi mới và phát triển các loại hình kinh tế tập
thể; Phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh
nghiệp của tư nhân; thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước
ngoài.
Về tư tưởng văn hoá xã hội: Nhà nước xác lập cơ chế dân chủ đại diện
thông qua bầu cử và bãi miễn các đại biểu nhân dân vào các chính quyền dân
cử. Đồng thời nhà nước đã cụ thể hoá các chính trị, xã hội quyền tư do cá
nhân, tự do ngôn luận trong Hiến pháp. Nhà nước tạo điều kiện để nhân dân

được bày tỏ nguyện vọng của mình về những vấn đề quan tâm và bảo vệ
quyền, lợi ích chính đáng của họ.
Nhà nước gắn bó với nhân dân, chú trọng giải quyết các khiếu nại, tố
cáo của nhân dân. Nhà nước kiên quyết xử lý, ngăn chặn những hành vi xâm
phạm quyền dân chủ của nhân dân. Nhà nước chủ trương tự do tư tưởng và
giải pháp tinh thần nhằm phát huy mọi khả năng của con người. Nhà nước quy
định các quyền tự do trong lĩnh vực văn hoá tư tưởng và bảo đảm cho mọi
người thực hiện các quyền đó như tự do ngôn luận, tính ngưỡng, nghỉ ngơi,
lao động…
Xét những lý luận trong học thuyết “Chính danh” của Khổng Tử từ ngàn
xưa ta thấy rằng chính phủ ta đang ra sức định “danh” và tiến hành những
bước làm “Chính danh” từ bộ máy đến công viên chức nhà nước. “cán bộ là
đầy tớ của dân”; “Nhà nước của dân do dân và vì dân”, “Dân biết, dân bàn,

Trang 16
dân làm, dân kiểm tra”, “Lấy dân làm gốc”, “Chính phủ điện tử”… là những
cái “danh” đã được đặt ra từ tiêu chuẩn của một đất nước theo chế độ Xã hội
chủ nghĩa. Không khó để thấy rằng: Chính phủ - bằng những quyết định của
mình - đã làm rất nhiều việc chăm lo đời sống cho dân, phát triển kinh tế, cải
cách hành chính, chính phủ cũng cương quyết xử lý những tổ chức, cán bộ
làm những việc không đúng đắn để thiết lập lại trật tự kỷ cương (ví dụ: vụ xử
lý những cán bộ có chức quyền to trong vụ án Trương Văn Cam (Năm Cam)
và đồng bọn phạm tội, vụ tham nhũng tại PMU18 - Bộ Giao thông vận tải, vụ
nhận hối lộ, mua bán côta ở Bộ Thương mại, vụ đất đai ở Đồ Sơn, Phú
Quốc…). Mới đây, việc chính quyền Hà Nội cương quyết xử lý những nhà
xây dựng trái phép, cũng là biểu hiện rõ sự “Chính danh” trong quản lý xã hội.
Với tư cách người đứng đầu Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã
đối thoại trực tuyến với dân một cách ngày thẳng minh bạch về những vấn đề
quốc gia đại sự. Đây là một việc là có ý nghĩa về dân chủ, tạo tiền đề cho một
giai đoạn đối thoại ngay thẳng trong quan hệ Nhà nước với nhân dân. Phải nói

ngay rằng, những việc làm của Đảng và Nhà nước là những việc làm chính
danh. Chính danh - ở phạm trù nhân sinh - là người nào mang danh nào (chiếu
theo hệ quy chiếu ngày nay là vị trí công tác, danh phận xã hội, gia đình) thì
phải thực hiện chức phận tương ứng. Đảng và Nhà nước đã làm nhiêu việc vì
dân vì sự phồn vinh của đất nước.
Tuy nhiên bên cạnh đó chúng ta đang đứng trước những thách thức lớn,
mà Đảng ta đã chỉ rõ 4 nguy cơ. Trong đó có nguy cơ về tệ tham ô, tham
nhũng, thoái hoá biến chất về đạo đức, phẩm chất của một bộ phận không nhỏ
cán bộ, Đảng viên lợi dụng chức quyền, sơ hở của pháp luật làm điều trái
phép, trái lương tâm sa hoa, lãng phí, làm mất đi thuần phong mỹ tục của dân
tộc, phai nhạt về mục tiêu lý tưởng, quan liêu xa rời quần chúng đang làm
ảnh hưởng rất lớn đến sự nghiệp cách mạng của Đảng ta.

Trang 17
Vẫn còn diễn ra tình trạng cửa quyền, hách dịch, cố bày ra những thủ tục
hành dân, làm việc với dân theo kiểu ban ơn chứ không phải trách nhiệm… ở
những nơi đó không có chính danh công, viên chức Nhà nước và đương nhiên
trật tự kỷ cương bị bóp méo, gây bức xúc trong nhân dân. Đặc biệt gần đây
một số cá nhân có chức vụ trong tổ chức xã hội, tôn giáo như Nguyễn Văn Lý,
Lê Công định, Ngô Quang Kiệt… mà dư luận trong nước đã đề cập đến gần
đây, đã không vì “chính danh, định phận” đã rêu rao, xuyên tạc sự thật về
những gì mà Nhà nước và Đảng ta đã và đang thực hiện vì mục tiêu “dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
2.2. Ý nghĩa của học thuyết “Chính danh” đối với công tác tuyển chọn
cán bộ ở nước ta hiện nay.
Học thuyết “Chính danh” do đức Khổng tử phát kiến cách đây hơn 2.500
năm từ thời Trung Quốc còn đang ở chế độ phong kiến phân quyền với lòng
mong muốn của ông phục hồi lại chế độ, lễ lạc tốt đẹp của thời nhà Chu ban
đầu khi ông nhận thấy tình trạng xã hội khá lộn xộn, mất tôn ti trật tự. Ông
vốn là người khoan hòa, tuy có tư tưởng cách mạng như không thích chiến

tranh, do đó ông mới đề ra học thuyết chính danh để cải tạo xã hội một cách
dần dần.
Nghiên cứu về đức Khổng Tử, ai cũng phải công nhận rằng học thuyết
“Chính danh” là một phát kiến của ông và đó là đóng góp quan trọng của ông
cho Trung Quốc nói riêng và nhân loại nói chung.
Dân tộc Việt Nam, tuy có biết đến học thuyết “Chính danh” của Khổng
tử nhưng lại vận dung nó rất uyển chuyển để cứu dân, cứu nước, chống xâm
lăng điển hình qua một số vị anh hùng trung lịch sử dân tộc như Sư Vạn Hạnh,
Lê Lợi, Nguyễn Huệ….
Đảng Cộng Sản Việt Nam nêu cao chính nghĩa để chiến đấu vì độc lập tự
do, giải phóng dân tộc, chống quân xâm lược, Pháp, Nhật, rồi Mỹ được cả dân

Trang 18
tộc và nhân dân tiến bộ hòa bình thế giới ủng hộ vì cuộc chiến đấu của dân tộc
Việt Nam là cuộc chiến đấu chính nghĩa, nên cuối cùng, dù kẻ thù có mạnh cỡ
nào, chúng có nham hiểm đến đâu đi chăng nữa thì chúng ta cũng giành được
thắng lợi chung cuộc, buộc kẻ thù phải chấp nhận sự thất bại trước ý chí và
“chính nghĩa” của dân tộc ta.
Bên cạnh những hạn chế do điều kiện lịch sử và quyền lợi giai cấp trong
học thuyết “Chính danh” của Khổng Tử có thể thấy được những giá trị rất to
lớn mà công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội hiện nay ở nước cần phải khai
thác. Học thuyết của ông làm phong phú thêm lý luận trong quá trình đổi mới
đồng thời còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn trong xây dựng bộ máy nhà nước,
đặc biệt là trong tuyển chọn đội ngũ cán bộ công chức. Cụ thể, trong giai đoạn
hiện nay cần tuyển chọn đào tạo và sử dụng một đội ngũ cán bộ công chức
vừa hồng, vừa chuyên với một “Chính” (hiệu) “danh” (chính xác) đáp ứng
đúng yêu cầu của một xã hội mới xã hội Xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta biết rằng, tuyển chọn, xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là
cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp, vững vàng về chính trị, gương mẫu về
đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động

thực tiễn, sáng tạo, gắn bó với nhân dân, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là chủ trương và chính sách lớn trong nội dung công
tác cán bộ của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Đại hội toàn quốc lần thứ X của
Đảng đã nhấn mạnh: “Mục tiêu chung là xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh
chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu, tham
nhũng, lãng phí ”, “Nhiệm vụ quan trọng nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, trước hết là cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược và người đứng đầu tổ
chức các cấp, các ngành của hệ thống chính trị ”, "Đổi mới mạnh mẽ, triển
khai đồng bộ các khâu: đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển,

Trang 19
bố trí, sử dụng, xây dựng và thực hiện chính sách cán bộ ", "Xây dựng và
thực hiện chính sách phát triển và trọng dụng nhân tài…
(1)
Đảng ta rất chú trọng công tác tuyển chọn và xây dựng đội ngũ cán bộ đủ
“đức và tài” phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Người cán bộ có “Chính danh” và mẫu mực thì nhân dân mới tin yêu,
nể phục. Đảng ta thực hiện đúng đắn nguyên tắc thống nhất lãnh đạo công tác
cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ
chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán
bộ. Làm tốt công tác quy hoạch và đào tạo nguồn cán bộ. Đánh giá, bồi
dưỡng, lựa chọn, sử dụng cán bộ trên cơ sở tiêu chuẩn, lấy hiệu quả công tác
thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu. Đổi mới, trẻ hóa
đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý, kết hợp các độ tuổi, bảo đảm tính liên tục,
kế thừa và phát triển. Thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ lãnh đạo và
quản lý. Xây dựng, chỉnh đốn hệ thống các học viện, trường và trung tâm
chính trị, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Mặt khác, trong tuyển chọn và xây dựng đội ngũ cán bộ cần coi trọng
việc đổi mới cơ chế, chính sách, phương phức và lề lối làm việc. Mỗi cán bộ
trong tổ chức phải có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm rõ ràng,

hay nói khác hơn là phải thể hiện “cái danh” của mình.
Trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa hiện nay, cán bộ được
tuyển chọn phải là người có phẩm chất đạo đức trong sáng, có năng lực, nhiệt
tình trong công tác và bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với
sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta; coi trọng sự nỗ lực cá nhân,
xây dựng mối quan hệ tốt đẹp, bền vững giữa cán bộ với nhân dân, phát huy
quyền làm chủ và chăm lo sự nghiệp của đông đảo quần chúng nhân dân lao
động.
1
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2006, tr 292 - 296

Trang 20
Tiêu chuẩn chung của cán bộ trong thời kỳ mới của sự nghiệp cách
mạng, trước hết là, phải có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân
dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực
hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không tham nhũng và kiên quyết đấu
tranh chống tham nhũng, có ý thức tổ chức kỷ luật. Trung thực, không cơ hội,
gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm. Có trình độ hiểu biết
về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước; có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực và sức khỏe để
làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Các tiêu chuẩn có
quan hệ mật thiết với nhau. Coi trọng cả đức và tài, đức là gốc…
Bên cạnh công tác tuyển chọn và xây dựng đội ngũ công chức có phẩm
chất chính trị trong sáng, năng lực chuyên môn giỏi cần đào thải những cán bộ
công chức không “Chính danh”, không làm đúng bổn phận “người đầy tớ của
dân”. Có như thế thì xã hội mới có kỷ cương và phép nước được giữ vững, nói
như Khổng Tử là không “loạn danh”, như vậy thì công cuộc xây dựng Chủ
nghĩa xã hội ở nước ta mới thành hiện thực. Bởi vậy cho nên, Bác Hồ đã dạy

chúng ta rằng “Muốn xã hội chủ nghĩa phải có con người xã hội chủ nghĩa”
(1)
Suy cho cùng thì “Chính danh” là làm cho mọi việc “ngay thẳng”,
“Chính danh” là làm việc không mờ ám, không che dấu sự thật hoặc bóp méo
sự thật. Tôi thiết nghĩ rằng, chúng ta còn phải tiếp tục nêu cao chính nghĩa,
tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ vừa hồng, vừa chuyên để phục
vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh./.
(1)
Hồ Chí Minh toàn tập tập 9, NXB. Chính trị quốc gia, HN,1997. trang 296.

Trang 21
KẾT LUẬN
Trong lịch sử tư tưởng phương đông nói chung cũng như trong lịch sử tư
tưởng Trung Quốc nói riêng, quan niệm danh phận con người và học thuyết
“Chính danh” của Khổng Tử là một trong những học thuyết xuất sắc. Nó
không chỉ có tác dụng và ý nghĩa nhất định đối với sự ổn định của trật tự
Trung Quốc đương thời mà còn có giá trị, ý nghĩa thiết thực đối với sự phát
triển xã hội hiện nay.
Việc Khổng tử nêu ra học thuyết “Chính danh” không phải là ý muốn
chủ quan của ông mà chính là sự phản ánh những nhu cầu tất yếu của điều
kiện khách quan, từ địa vị, lợi ích giai cấp nhất định. Thời đại của ông là thời
đại loạn lạc, trật tự kỷ cương đảo lộn, do vậy Nho giáo nói chung và Khổng
Tử nói riêng rất quan tâm đến vấn đề định danh trong xã hội.
Mặc dù vẫn còn nhiều hạn chế như đã nêu ở trên nhưng học thuyết của
ông đã trở thành một hệ thống lý luận đầu tiên và chặt chẽ về vấn đề này.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn
minh, việc xác định danh phận rõ ràng là một điều hết sức cần thiết để mổi
người mỗi vị trí nổ lực rèn luyện đồng thời để loại bỏ những vị trí yếu kém

trong xã hội. Học thuyết “Chính danh” của Khổng tử cần phải được vận dụng
kéo léo, sáng tạo trong điều kiện nước ta hiện nay.
Tóm lại, học thuyết “Chính danh” của Khổng tử, có nội dung rất phong
phú và luôn thâm nhập, tác động, chi phối mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Chúng luôn cố gắng giải đáp những vấn đề thực tiễn lịch sử - xã hội đặt ra.
Tuy nhiên, trong xã hội loạn lạc, “vương đạo suy vi, bá đạo nổi lên”, chiến

Trang 22
tranh triền miên… thì “nhân tri” (“đức trị”) cũng bộc lộ những hạn chế của
mình. Điều này không làm giảm đi giá trị của Khổng giáo. Học giả Will
Durant nhận xét rằng, Khổng tử chỉ thành công khi ông đã qua đời, nhưng sự
thành công ấy thật là trọn vẹn, một dân tộc luôn tự hào về nền văn hiến của
mình đã coi ông như một vị thánh sư, đúng là một hiện tượng ly kỳ cổ kim
chưa từng có.
Trước khi kết thúc đề tài, tôi xin nêu lên những câu nhận xét của Chủ
tịch Hồ Chí Minh khi nghiên cứu Khổng giáo, đó là: “Trong học thuyết của
Khổng tử có nhiều điều không đúng, song những điều hay trong đó thì chúng
ta nên học. Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được
những hiểu biết quý báu của đời trước để lại”
2
.
2
Hồ Chí Minh. Tuyển tập, T.1, Nxb. ST, HN.1960, tr.362

Trang 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Triết học (Dùng cho nghiên cứu sinh và học viên cao học không thuộc
chuyên ngành triết học) - Tập I, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
2. Đại cương triết học Trung Quốc - Nhà xuất bản Thanh niên, 2002.
3. Nho giáo Trung Quốc - Nguyễn Tôn Nhan - Nhà xuất bản Văn hóa thông

tin.
4. Giáo trình Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại - Trần Đình Hượu -
Nhà xuất bản giáo dục.
4. Tạp chí Văn hoá - Nghệ thuật, Hà Nội, số tháng 2/2003, bài “Nho giáo
trong tương lai văn hoá Việt Nam”
5. Tạp chí Triết học, số 8, tháng 11-2001 bài “Chúng ta kế thừa tư tưởng gì ở
Nho giáo” - Minh Anh.

Trang 24

×