Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Hiệu quả kinh doanh của công ty cổ phần tập đoàn JOC việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.74 KB, 82 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




VŨ VĂN ẢNH







HIỆU QUẢ KINH DOANH
TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN JOC VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
CHƯƠNG TRÌNH ĐỊNH HƯỚNG THỰC HÀNH








Hà Nội – Năm 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ



VŨ VĂN ẢNH





HIỆU QUẢ KINH DOANH
TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN JOC VIỆT NAM


Chuyên ngành : Quản trị Kinh doanh
Mã số : 60 34 05



LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
CHƯƠNG TRÌNH ĐỊNH HƯỚNG THỰC HÀNH




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN TRÚC LÊ





Hà Nội – Năm 2014


MỤC LỤC

Danh mục các chữ viết tắt i
Danh mục sơ đồ, bảng biểu ii
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA DOANH
NGHIỆP 3
1.1 Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và sự cần thiết của việc nâng cao hiệu
quả kinh doanh đối với doanh nghiệp 3
1.1.1 Khái niệm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp 3
1.1.2 Bản chất của hiệu quả kinh doanh 3
1.1.3 Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh đối với các doanh
nghiệp 7
1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp 10
1.2.1 Các nhân tố bên trong 10
1.2.2 Các nhân tố bên ngoài 12
1.3 Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp 14
1.3.1 Nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu qủa kinh doanh 14
1.3.2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh tổng hợp 15
1.3.3. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình
sản xuất kinh doanh 17
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ KINH DOANH TẠI CÔNG TY CỔ
PHẦN TẬP ĐOÀN JOC VIỆT NAM 24

2.1 Tổng quan về Công ty Cổ phần Tập đoàn JOC Việt Nam 24
2.2 Thực trạng hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Tập đoàn JOC Việt Nam 27
2.2.1 Phân tích nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh tổng hợp 30
2.2.2 Phân tích nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng các yếu tố cơ bản của
quá trình sản xuất kinh doanh 34
2.3 Đánh giá chung về hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Tập đoàn JOC Việt
Nam 41
2.3.1 Những thành tựu đạt được và nguyên nhân 41
2.3.2 Những mặt còn hạn chế và nguyên nhân 42
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH
TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN JOC VIỆT NAM 46
3.1 Định hướng phát triển của Công ty Cổ phần Tập đoàn JOC Việt Nam giai đoạn
2010 đến 2025 46
3.2 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Tập đoàn
JOC Việt Nam 48
3.2.1 Các biện pháp tăng doanh thu 48
3.2.2 Các biện pháp giảm chi phí 56
3.3 Một số kiến nghị nhằm đảm bảo thực thi tốt các giải pháp 71
3.3.1 Đối với Công ty Cổ phần Tập đoàn JOC Việt Nam 71
3.3.2 Đối với Nhà nước 71
KẾT LUẬN 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 74
i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT



























STT Ký hiệu Nguyên nghĩa
1 CNVC - LĐ Công nhân viên chức - lao động
2 ĐKKD Đăng ký kinh doanh
3 HĐKD Hoạt động kinh doanh
4 LN Lợi nhuận
5 LNBQ Lợi nhuận bình quân
6 ROA Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản
7 ROE Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu
8 TSCĐ Tài sản cố định
9 TSLĐ Tài sản lưu động

ii
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU



STT
Sơ đồ -
Bảng biểu
Nội dung Trang
1 Sơ đồ 2.1 Mô hình tổ chức 26
2 Bảng 2.1
Phân tích báo cáo kết quả sản xuất
kinh doanh
28
3 Bảng 2.2
Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh
doanh theo lợi nhuận
31
4 Bảng 2.3
Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh
doanh theo doanh thu
33
5 Bảng 2.4
Nhóm chỉ tiêu phân tích hiệu quả sử
dụng vốn
35
6 Bảng 2.5
Nhóm chỉ tiêu phân tích hiệu quả sử
dụng các khoản chi phí
38

7 Bảng 2.6
Nhóm chỉ tiêu phân tích hiệu quả sử
dụng lao động
40

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công ty Cổ phần Tập đoàn JOC Việt Nam là một trong những doanh nghiệp
hàng đầu trong các lĩnh vực đa ngành khai thác, chế biến, xuất khẩu, cung cấp phân
phối độc quyền xe tải nặng KrAZ và KAMAZ trên toàn quốc, kinh doanh xuất nhập
khẩu vật tư thiết bị phụ tùng, đóng mới cải tạo phương tiện thủy, bộ các loại. Tiền thân
là một doanh nghiệp tư nhân, sau khi cổ phần hoá, Công ty đã có những thay đổi lớn
trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mang lại lợi nhuận đáng kể. Tuy vậy trên một số
mặt hoạt động do vẫn chịu ảnh hưởng của lề lối làm việc cũ nên hiệu quả hoạt động
kinh doanh hiện nay chưa đạt hiệu quả cao, khó cạnh tranh được với các doanh nghiệp
lớn trong nước và công ty nước ngoài khác cùng lĩnh vực kinh doanh.
Vấn đề cấp thiết đặt ra đối với Công ty Cổ phần Tập đoàn JOC Việt Nam cần
đưa ra những giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Vì vậy, đề tài:
“Hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Tập đoàn JOC Việt Nam” là một trong
những vấn đề được tác giả đặt ra để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Phân tích mức độ ảnh hưởng khác nhau của nhóm các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
sử dụng các yếu tố cơ bản và yếu tố tổng hợp của quá trình sản xuất kinh doanh.
Dựa trên mức độ ảnh hưởng các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng các yếu tố
của quá trình sản xuất kinh doanh để có thể lựa chọn phương án giải pháp nâng cao
hiệu quả kinh doanh cho thích hợp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Ngoài việc hệ thống hoá cơ sở lý luận về hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp, đề tài được đặt ra để nghiên cứu đánh giá toàn diện thực trạng hiệu quả kinh

doanh tại Công ty Cổ phần Tập đoàn JOC Việt Nam từ khi thành lập đến nay, chú
trọng các năm 2011 đến hết năm 2013. Qua đó kiến nghị, phương hướng và các giải

2
pháp để nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Tập đoàn JOC Việt Nam
được tốt hơn và có thể làm mô hình áp dụng cho các doanh nghiệp khác cùng lĩnh vực.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các chỉ tiêu phân tích hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và
thực tế hoạt động kinh doanh tại Công ty Cổ phần Tập đoàn JOC Việt Nam. Trên
phạm vi hiệu quả hoạt động kinh doanh tại Công ty Cổ phần Tập đoàn JOC Việt Nam
trong các năm 2011 đến hết năm 2013 thông qua các báo cáo tài chính và các loại hồ
sơ giấy tờ khác có liên quan.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, luận văn đã sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
Phương pháp quan sát: Được sử dụng để nắm vững tình hình hoạt động kinh
doanh của Công ty Cổ phần Tập đoàn JOC Việt Nam
Phương pháp điều tra: Theo mục tiêu nghiên cứu của đề tài tiến hành điều tra,
thu nhập số liệu liên quan đến tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần
Tập đoàn JOC Việt Nam.
Thống kê, khảo sát hệ thống: Để xử lý và phân tích số liệu đã thu nhập được.
Phương pháp so sánh: Để đánh giá các kết quả phân tích của Công ty Cổ phần
Tập đoàn JOC Việt Nam với Ngành công nghiệp khai thác và tình hình kinh tế xã hội
chung trong nước và quốc tế.
Phân tích và tổng hợp: Để nghiên cứu và trình bày các nội dung của luận văn.
6. Những đóng góp của luận văn
Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực đầu tư, thương mại và dịch vụ.
Đánh giá thực trạng hiệu quả hoạt động kinh doanh tại Công ty Cổ phần Tập
đoàn JOC Việt Nam.


3
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh tại
Công ty Cổ phần Tập đoàn JOC Việt Nam.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
được trình bày theo kết cấu gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Tập đoàn JOC
Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần
Tập đoàn JOC Việt Nam

3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH
CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 Hiệu quả kinh doanh và sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh
đối với các doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Kinh doanh là việc thực hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu
tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện các hoạt động dịch vụ trên thị
trường nằm mục đích sinh lợi. Như vậy, tiến hành bất cứ hoạt động kinh doanh nào
cũng đều có nghĩa là tập hợp các phương tiện, con người đưa vào hoạt động để mang
lại lợi nhuận cho chủ thể.
Có hai điểm cơ bản để phân biệt hoạt động kinh doanh với các hoạt động xã hội
khác không phải là kinh doanh, ngay cả với hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế:
+ Để tiến hành kinh doanh các chủ thể phải đầu tư về tài sản
+ Mục đích của các chủ thể khi tiến hành hoạt động này là lợi nhuận
Hoạt động kinh doanh thường được thông qua các thể chế kinh doanh như công
ty, tập đoàn, doanh nghiệp tư nhân nhưng cũng có thể là hoạt động tự thân của các cá

nhân. Người ta gọi chung các thể chế kinh doanh này là doanh nghiệp.
Doanh nghiệp được hiểu là những pháp nhân hay thể nhân thực hiện trên thực tế
những hoạt động kinh doanh.
Theo một khía cạnh khác có thể hiểu hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là
toàn bộ các nghiệp vụ phát sinh trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp, nó được phản ánh qua các chỉ tiêu kinh tế của doanh nghiệp, qua báo
cáo tài chính
1.1.2 Bản chất của hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế, gắn với cơ chế thị trường, có
quan hệ với tất cả các yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh như: lao động, vốn,
máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu Nên doanh nghiệp chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi

4
việc sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh có hiệu quả. Khi đề cập đến
hiệu quả kinh doanh các nhà kinh tế dựa vào từng góc độ xem xét để đưa ra các định
nghĩa khác nhau:
“Hiệu quả kinh doanh được đo bằng hệ số giữa kết quả kinh doanh và chi phí
bỏ ra để đạt được kết quả đó”- phản ánh được kết quả với toàn bộ chi phí, coi hiệu quả
kinh doanh là sự phản ánh trình độ sử dụng chi phí. Tuy nhiên, quan niệm này chưa
biểu hiện được tương quan về lượng và chất giữa kết quả và chi phí, chưa phản ánh hết
mức độ chặt chẽ mối quan hệ này.
“Hiệu quả kinh doanh là mức độ thoả mãn yêu cầu của quy luật kinh tế cơ bản
của CNXH” cho rằng quỹ tiêu dùng với tính cách chỉ tiêu đại diện cho mức sống của
mọi người trong doanh nghiệp, là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh. Quan niệm
này có ưu diểm là đã bám sát mục tiêu nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là không ngừng
nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Lựa chọn quỹ tiêu dùng để
phản ánh hiệu quả là chưa thấy đầy đủ vai trò của tích luỹ là nhằm phát triển sản xuất,
là để có quỹ tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai. Không thể đưa quỹ tiêu dùng lên tối
đa mà lại không tuân theo một tỷ lệ thích hợp giữa quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng, phải
kết hợp một cách tốt nhất lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài.

Quan điểm thương mại hiệu quả: trong nền kinh tế thị trường mọi hoạt động
phải tính đến hiệu quả. Ở đây phải phân biệt hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế
xã hội. Hiệu quả thể hiện quan hệ giữa kết quả và chi phí bỏ ra. Trước hết, phải xác
định hiệu quả kinh doanh thương mại. Hiệu quả kinh doanh là thước đo để cân nhắc
lựa chọn các giải pháp đầu tư, quyết định đầu tư phát triển hay ngừng kinh doanh.
Hiệu quả kinh doanh có phần định tính và định lượng. Các chỉ tiêu định lượng như: lợi
nhuận, mức doanh lợi, hiệu qủa sử dụng vốn kinh doanh Chỉ tiêu hiệu quả định tính
như: khả năng cạnh tranh, niềm tin của khách hàng, vị thế của doanh nghiệp. Không
đạt được hiệu qủa kinh doanh thì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận không thực hiện được,
không có hiệu quả kinh doanh thì doanh nghiệp không thể tồn tại, hoạt động thương

5
mại sẽ bị ngưng trệ. Bên cạnh đó phải tính đến hiệu quả kinh tế xã hội. Giải quyết vấn
đề xã hội của thương mại trong cơ chế thị trường không giản đơn. Ở
đây, phải tính đến vấn đề môi sinh, môi trường, sự phát triển đồng đều giữa các vùng,
các khu vực. Chính sách kinh tế phải gắn kiền với chính sách xã hội nhất là đối với
vùng kinh tế chậm phát triển, vùng cao và vùng sâu.
Suy đến cùng muốn có hiệu quả phải đảm bảo lợi ích vật chất cho các dối tượng
tham gia hoạt động thương mại, lợi ích là chất kết dính các hoạt động theo mục đích
chung. Nguyên tắc các bên tham gia đều có lợi, ai vi phạm sẽ không thể tổ chức hoạt
động kinh doanh thương mại có hiệu quả trước mắt và lâu dài.
Tóm lại: “Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử
dụng các nguồn nhân tài, vật lực của doanh nghiệp thông qua việc so sánh giữa kết
quả đạt được với chi phí bỏ ra trong một khoảng thời gian lao động nhất định”.
Như vậy, có hai yếu tố để xác định hiệu quả kinh doanh:
Thứ nhất là các chi phí nguồn lực: các chi phí bao gồm chi phí về lao động,
thiết bị, nguyên vật liệu mà doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất kinh doanh tạo ra các kết
quả tương ứng; các nguồn lực bao gồm lao động, đất đai, tài nguyên, vốn. Thực chất
nguồn lực là toàn bộ các chi phí hiện tại, chi phí tiềm năng, chi phí tương lai sẽ chi ra
để doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh.

Thứ hai là kết quả về lợi ích kinh tế: nguồn lực và chi phí mà doanh nghiệp bỏ
vào sản xuất kinh doanh có thể đem lại nhiều loại kết quả khác nhau. Có kết quả phù
hợp với mục tiêu kinh doanh, nhưng cũng có kết quả nằm ngoài mục tiêu kinh doanh,
thậm chí đi ngược lại mục tiêu này vì vậy kết quả ở đây phải là kết quả hữu ích đối với
doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Kết quả đó có thể là con số theo các chỉ
tiêu cụ thể như sản lượng hiện vật, giá trị sử dụng, doanh thu, lợi nhuận hoặc là kết
quả trừu tượng như làm sạch môi trường, nâng cao dân trí
Dựa vào hai yếu tố trên, hiệu quả kinh doanh được xác định là đại lượng so
sánh giữa kết quả với chi phí và nguồn lực hay ngược lại. Khác với chỉ tiêu đầu vào

6
(chi phí, nguồn lực) và chỉ tiêu đầu ra (kết quả, lợi ích), chỉ tiêu hiệu quả là một tỷ số
so sánh để phản ánh chất lượng về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tiêu chuẩn chất lượng của chỉ tiêu này chính là tối đa hoá kết quả lợi ích hoặc tối thiểu
hoá chi phí dựa trên các điều kiện về nguồn lực xác định.
Có hai cách xác định hiệu quả kinh doanh:
Hiệu quả kinh doanh = Kết quả đầu ra - Yếu tố đầu vào
Công thức trên phản ánh mức tuyệt đối của phần gia tăng khi sử dụng toàn bộ
yếu tố đầu vào để làm ra toàn bộ kết quả đầu ra.
Hiệu quả kinh doanh =
Kết quả đầu ra
Yếu tố đầu vào

Kết quả đầu ra được đo bằng các chỉ tiêu như: giá trị tổng sản lượng, tổng
doanh thu thuần, lợi nhuận thuần, lợi tức gộp
Yếu tố đầu vào bao gồm lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động, vốn chủ
sở hữu, vốn vay
Công thức trên phản ánh sức sản xuất (hay sức sinh lợi) của các chỉ tiêu phản
ánh đầu vào, được tính cho tổng số và cho riêng phần gia tăng. Nó phản ánh cứ 1 đồng
chi phí đầu vào trong kỳ phân tích thì được bao nhiêu đồng kết quả đầu ra. Chỉ tiêu

này càng cao, chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp càng lớn.
Hiệu quả kinh doanh có thể tính bằng cách so sánh nghịch đảo
Hiệu quả kinh doanh =
Yếu tố đầu vào
Kết quả đầu ra

Công thức phản ánh suất hao phí của các chỉ tiêu đầu vào nghĩa là để có 1 đơn
vị kết quả đầu ra thì hao phí hết bao nhiêu đơn vị chi phí (hoặc vốn) ở đầu vào. Chỉ
tiêu này càng thấp thì hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp càng cao.
Hiệu quả kinh doanh ngày càng trở nên quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế
và là chỗ dựa cơ bản để đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp
trong từng thời kỳ.

7
Tuy nhiên, cần hiểu hiệu quả kinh doanh một cách toàn diện trên cả hai mặt:
hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế có mối quan
hệ khăng khít nhưng cũng có mâu thuẫn. Doanh nghiệp không thể vì lợi ích cá nhân
mà làm tổn hại đến lợi ích chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Có thể nói, doanh
nghiệp là một tế bào, một bộ phận cấu thành của nền kinh tế, Vì vậy, vấn đề ở đây là
tạo sự thống nhất giữa lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của toàn xã hội.
Cần phân biệt giữa hiệu quả với kết quả và hiệu suất để tránh việc nhầm lẫn
dẫn đến đánh giá sai hoạt động kinh doanh.
Kết quả là sự phản ánh kết cục cuối cùng của đối tượng nghiên cứu. Trong
doanh nghiệp sau một thời gian làm việc hoặc sau một chu kỳ kinh doanh thì kết quả
của hoạt động sản xuất kinh doanh có thể là một khối lượng công việc hoàn thành, một
lượng sản phẩm, dịch vụ hoặc doanh thu bán hàng, lợi nhuận
Hiệu suất là việc đánh giá cường độ hoạt động của đối tượng nghiên cứu. Theo
từ điển giải nghĩa kinh tế- kinh doanh, xuất bản năm 1996, hiệu suất (productivity) là
tương quan giữa đầu ra hay giá trị sản xuất ra trong một thời gian nhất định và số
lượng yếu tố đầu vào được sử dụng để sản xuất được đầu ra ấy.

Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, hiệu quả và hiệu suất là hai chỉ tiêu kinh
tế có quan hệ nhân - quả, hiệu quả có thể là kết quả của hiệu suất nhưng nhiều khi hiệu
quả không là kết quả của hiệu suất, chẳng hạn hiệu suất sử dụng TSCĐ là so sánh
doanh thu (giá trị sản lượng)/Nguyên giá bình quân TSCĐ, chỉ tiêu này có thể cao
nhưng không có hiệu quả. Do TSCĐ đó có thể sản xuất ra nhiều sản phẩm nhưng lại
tiêu hao nhiều năng lượng, nguyên vật liệu làm cho giá thành sản phẩm cao, việc bán
sản phẩm sẽ bị lỗ.
1.1.3 Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh đối với các doanh
nghiệp.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một trong các tiêu chí quan trọng để các nhà
quản lý đánh giá quá trình thực hiện chức năng của mình. Việc xem xét và tính toán

8
hiệu quả kinh doanh không chỉ cho biết việc sản xuất kinh doanh đạt ở trình độ nào mà
còn cho phép các nhà quản lý phân tích, tìm ra các yếu tố tác động để đưa ra các biện
pháp thích hợp trên cả hai phương diện tăng kết quả sản xuất kinh doanh và tiết kiệm
chi phí nhằm nâng cao hiệu quả. Với tư cách là một tiêu chí đánh giá và phân tích kinh
tế, phạm trù hiệu quả không chỉ được sử dụng ở góc độ tổng hợp, đánh giá chung tình
hình sử dụng các nguồn lực trong phạm vi toàn doanh nghiệp mà còn được sử dụng để
đánh giá trình độ sử dụng từng yếu tố đầu vào của toàn bộ doanh nghiệp hay từng bộ
phận của doanh nghiệp. Ngoài ra, hiệu quả kinh doanh còn là biểu hiện của việc lựa
chọn những phương án kinh doanh để đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận trong khi
nguồn lực có hạn hay tối thiểu hoá chi phí để đạt được một kết quả nhất định.
Do sự chi phối của “quy luật khan hiếm” buộc các doanh nghiệp nói riêng và
các nhà quản lý nền kinh tế xã hội nói chung phải cân nhắc việc quản lý, sử dụng các
nguồn lực sản xuất hạn chế của xã hội như thế nào để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao
của con người. Điều này buộc các doanh nghiệp phải sử dụng các nguồn lực sao cho
có hiệu quả nhất, tiết kiệm nhất và đây cũng chính là một tất yếu để nâng cao hiệu quả
kinh doanh. Nâng cao hiệu quả kinh doanh là điều kiện thiết yếu để doanh nghiệp tồn
tại và phát triển.

Mục tiêu sau cùng, bao quát và dài hạn của mọi doanh nghiệp kinh doanh trong
nền kinh tế thị trường là tối đa hoá lợi nhuận, đây cũng là mục tiêu quan trọng nhất của
doanh nghiệp. Vì vậy, không chỉ tạo ra và duy trì khả năng cạnh tranh để tồn tại và
phát triển là đủ mà các doanh nghiệp còn mong muốn để có lợi nhuận nhiều nhất và
ngày càng cao trong điều kiện có thể. Để thực hiện mục tiêu này, doanh nghiệp cũng
sẽ nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Nâng cao hiệu quả kinh doanh là vấn đề đặt ra thường xuyên cho mỗi doanh
nghiệp khi kế hoạch hoạt động kinh doanh và khả năng về nguồn lực có những thay
đổi. Mỗi doanh nghiệp là một cơ thể sống, trong suốt chu kỳ sống của mình, bắt đầu từ
thời điểm ra đời cho đến khi phát triển, trưởng thành, doanh nghiệp luôn nằm trong sự

9
vận động, tạo nên bởi những thay đổi từ những yếu tố cấu thành nội lực bản thân
doanh nghiệp và những thay đổi của môi trường bên ngoài đòi hỏi doanh nghiệp phải
thích ứng. Vì vậy, đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, nội dung hoạt động kinh
doanh được xác lập ban đầu không thể tồn tại bất di bất dịch trong suốt chu kỳ đời
sống của doanh nghiệp đó, mà nó luôn được thay đổi. Sự thay đổi nội dung hoạt động
kinh doanh của mỗi doanh nghiệp như thế nào là tuỳ thuộc tác động ảnh hưởng của các
yếu tố bên trong thuộc bản thân doanh nghiệp và các yếu tố bên ngoài thuộc môi
trường kinh doanh.
Trong suốt quá trình hoạt động, các doanh nghiệp luôn luôn phải đối diện với
môi trường kinh doanh biến động không ngừng, diễn biến phức tạp và đầy rủi ro bất
trắc. Do đó, để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới tổ
chức bộ máy quản lý, cải tiến các nghiệp vụ kinh doanh, tổ chức tốt mọi nguồn lực
trong doanh nghiệp như vật tư, tiền vốn, lao động tận dụng mọi cơ hội kinh doanh
để thực hiện các nghiệp vụ một cách có hiệu quả nhất. Có thể nói rằng, đối với các
doanh nghiệp việc đẩy mạnh hoạt động kinh doanh là đòi hỏi khách quan không chỉ do
sự thay đổi các yếu tố bên trong thuộc bản thân doanh nghiệp mà còn do những biến
động của môi trường bên ngoài đặt ra. Mỗi doanh nghiệp vừa là một hệ thống khép
kín, trong đó các bộ phận có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa là một hệ thống mở,

chịu ảnh hưởng của môi trường bên ngoài và có tác động ngược trở lại với môi trường
bên ngoài. Cơ cấu bộ máy tổ chức của doanh nghiệp và hệ thống phương pháp quản lý
của nó phụ thuộc nhiều vào yếu tố thuộc môi trường bên ngoài như nguồn cung ứng
hàng hoá, tình hình cung cầu hàng hoá trên thị trường, trình độ phát triển kỹ thuật và
công nghệ, tình hình cạnh tranh trên thị trường. Những ràng buộc của môi trường bên
ngoài khiến cho tổ chức kinh doanh không thể duy trì mô hình truyền thống một cách
ổn định vững chắc với những thể chế thủ tục quy định chi tiết rõ ràng.
Tốc độ biến đổi nhanh của môi trường và những xu hướng bất định của nó buộc
người quản lý doanh nghiệp phải có khả năng quyết định nhanh chóng kịp thời. Nếu

10
người quản lý không có khả năng ra quyết định hoặc ra quyết định chậm thì tổ chức
kinh doanh đó khó có khả năng thích nghi được với những điều kiện mới, bỏ lỡ cơ hội
kinh doanh.
Để đáp ứng những đòi hỏi của thị trường các doanh nghiệp phải nâng cao trình
độ, đổi mới hoạt động kinh doanh, đổi mới tổ chức, bộ máy quản lý, cải tiến nghiệp vụ
kinh doanh, quản lý và sử dụng tốt mọi nguồn lực trong doanh nghiệp. Từ đó cho thấy
yêu cầu đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh là vấn đề luôn đặt ra đối
với mỗi doanh nghiệp. Thông qua đó đạt được mục tiêu của doanh nghiệp và đóng góp
vào sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước.
1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tựu
chung lại có thể chia thành hai nhóm:
1.2.1 Các nhân tố bên trong
- Lực lượng lao động: Đây là một nguồn lực, một yếu tố đầu vào quan trọng bậc
nhất và có tính chất quyết định đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngày nay, kỹ thuật và công nghệ đã thay đổi phương thức lao động của con người trên
nhiều lĩnh vực. Kỹ thuật công nghệ càng phát triển đòi hỏi đội ngũ lao động càng phải
có trình độ chuyên môn cao. Nguồn nhân lực của doanh nghiệp phải đảm bảo đủ năng
lực về thể chất và tinh thần đáp ứng được yêu cầu của công việc. Bên cạnh đó, doanh

nghiệp cũng cần có biện pháp sử dụng nhân lực hợp lý, bố trí lao động phù hợp với
khả năng của từng người, có chính sách đào tạo và đào tạo lại lao động cho phù hợp
với sự thay đổi của doanh nghiệp cũng như sự thay đổi của môi trường hoạt động
chung.
- Quy mô doanh nghiệp: Quy mô hoạt động của doanh nghiệp có ảnh hưởng
quyết định đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Việc mở rộng hay thu hẹp quy mô sẽ tác
động trực tiếp tới chi phí đầu vào và doanh thu đầu ra của doanh nghiệp, từ đó ảnh

11
hưởng tới hiệu quả kinh doanh. Xác định quy mô tối ưu của doanh nghiệp cũng là xác
định mức lợi nhuận tối ưu theo từng thời kỳ.
- Cơ cấu sản xuất kinh doanh: Mỗi doanh nghiệp có một lợi thế nhất định trong
việc sản xuất kinh doanh một số loại hàng hoá, lợi thế này được xác định trên cơ sở
tiềm lực của doanh nghiệp, môi trường kinh tế xã hội và những mối liên hệ giữa doanh
nghiệp với môi trường mà doanh nghiệp hoạt động. Doanh nghiệp xây dựng được
danh mục hàng hoá với tỷ trọng hợp lý của các mặt hàng sẽ phát huy được tối đa các
nguồn lực của mình, đem lại doanh thu cao nhất từ đó tác động trực tiếp đến hiệu quả
kinh doanh.
- Trang thiết bị, công nghệ: Việc lựa chọn sử dụng trang thiết bị, công nghệ sẽ
có tác dụng nâng cao hiệu quả kinh doanh hoặc ngược lại. Trang thiết bị, công nghệ
càng hiện đại thì càng cho năng suất cao, tuy nhiên chi phí đầu tư ban đầu lớn. Trang
thiết bị, công nghệ kém hiện đại cho năng suất thấp, sản phẩm kém chất lượng nhưng
chi phí đầu tư thấp. Vì vậy, doanh nghiệp cần chú ý lựa chọn trang thiết bị công nghệ
phù hợp với khả năng về tài chính cũng như chất lượng lao động của mình nhằm sản
xuất ra sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ dẫn tới tối đa hoá lợi nhuận.
- Nguồn vốn hoạt động: Đây là nhân tố có tác động trực tiếp đến quy mô hoạt
động, tính an toàn và chi phí hoạt động của doanh nghiệp. Việc lựa chọn cơ cấu nguồn
vốn hợp lý, sử dụng nguồn vốn có chi phí thấp, dễ tiếp cận, tính an toàn cao là một yêu
cầu cấp thiết để tăng tính hiệu quả và an toàn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.

- Chiến lược Marketing: Một chiến lược marketing bài bản, đầy đủ và khoa học
bao gồm một chuỗi các công việc cần phải thực hiện có mối liên hệ chặt chẽ với nhau
như: Hoạch định chiến lược tiếp thị, phân khúc thị trường, lựa chọn mục tiêu, định vị
thị trường mục tiệu. Từ đó đưa ra các chiến lược sản phẩm, chiến lược giá, chiến lược
phân phối, chiến lược chiêu thị. Chiến lược marketing phù hợp sẽ giúp cho việc thực

12
hiện các công đoạn này đạt kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất, dẫn tới tăng hiệu
quả kinh doanh.
- Quản trị doanh nghiệp: Hoạt động quản lý bao gồm các khâu cơ bản sau: định
hướng chiến lược cơ bản phát triển doanh nghiệp trong khoảng thời gian nhất định,
tuân chỉ mục tiêu đề ra, xây dựng kế hoạch phương án kinh doanh, tổ chức hoạt động
kinh doanh, đánh giá kiểm tra các hoạt động kinh doanh. Các khâu của quá trình này
làm tốt sẽ tăng năng suất lao động, giảm chi phí kinh doanh từ đó làm tăng hiệu quả
kinh doanh.
1.2.2 Các nhân tố bên ngoài
- Môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý bao gồm luật, các văn bản dưới luật,
Mọi qui định pháp luật về kinh doanh đều tách động trực tiếp đến kết quả và hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vì môi trường pháp lý tạo ra “sân chơi” để các
doanh nghiệp cùng tham gia kinh doanh, vừa cạnh tranh lại vừa hợp tác với nhau nên
việc tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh là rất quan trọng. Một môi trường pháp lý
lành mạnh vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiến hành thuận lợi các hoạt động
kinh doanh của mình lại vừa điều chỉnh các hoạt động kinh tế theo hướng không chỉ
chú ý đến kết quả và hiệu quả riêng mà còn phải chú ý đến các lợi ích của các thành
viên khác trong xã hội. Môi trường pháp lý đảm bảo tính bình đẳng của mọi loại hình
doanh nghiệp sẽ điều chỉnh các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, cạnh tranh nhau
một cách lành mạnh, mỗi doanh nghiệp buộc phải chú ý phát triển các nhân tố nội lực,
ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật và khoa học quản trị tiên tiến để tận dụng
được các cơ hội bên ngoài nhằm phát triển kinh doanh của mình, tránh những đổ vỡ
không cần thiết, có hại cho xã hội.

- Quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước: Các chủ trương chính sách kinh tế vĩ mô
của Nhà nước tác động tới sự vận động của thị trường theo định hướng của Nhà nước.
Tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng quốc gia, từng thị trường, từng thời kỳ mà chủ
trương chính sách tác động theo những chiều hướng khác nhau gây nên sự thay đổi

13
trong quan hệ cung - cầu thị trường. Vì vậy, nó có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tác động
vào giá cả, chính sách của doanh nghiệp để nhằm tối đa hoá hiệu quả kinh doanh.
- Chính trị xã hội: Các nhân tố này thường được thể hiện qua các chính sách
quốc gia dân tộc, quan hệ quốc tế, chiến tranh và hoà bình Sự thay đổi của môi
trường chính trị xã hội ảnh hưởng lớn đến đời sống của nhân dân. Nhân tố chính trị xã
hội tác động trực tiếp đến kinh tế và cũng tác động trực tiếp đến thị trường bởi vì sự ổn
định chính trị là tiền đề phát triển kinh tế. Qua đó, các doanh nghiệp cũng chịu sự chi
phối của nó.
- Tâm lý khách hàng: Tại mỗi thị trường, mỗi khu vực vào các thời kỳ khác
nhau thì nhu cầu tiêu dùng cũng khác nhau ảnh hưởng tới đối tượng hàng hoá và quy
mô hàng hoá của doanh nghiệp. Vì vậy, khi nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp cần
tìm hiểu kỹ tâm lý của người tiêu dùng từ đó đưa ra các giải pháp tiếp cận mang lại
hiệu quả cao cho doanh nghiệp.
- Thông tin: Mỗi quyết định đưa ra trong hoạt động kinh doanh phải dựa trên
những nguồn thông tin đảm bảo độ tin cậy và phong phú. Các dữ liệu thông tin quan
trọng nhất là thông tin về thị trường. Các doanh nghiệp không quan tâm đến thông tin
một cách thường xuyên sẽ không nắm bắt được thông tin chính xác và kịp thời dễ bị
thất bại trong kinh doanh và hiệu quả kinh doanh thấp.
- Các nhân tố khách quan khác: Có những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp mà các nhà quản lý khó có thể dự đoán trước được như thiên
tai, hoả hoạn các bạn hàng phá sản dẫn tới không thu hồi được nợ, lạm phát Các
doanh nghiệp cần có phương án dự phòng những tình huống này.
Đây là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Trong việc hoạch định chiến lược cũng như những hành động cụ thể, doanh

nghiệp cần chú trọng đến sự ảnh hưởng của các nhân tố này nhằm đưa ra những biện
pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.


14
1.3. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Để phản ánh chính xác và đầy đủ hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trước
hết phải xây dựng một hệ thống chỉ tiêu phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp.
1.3.1 Nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu qủa kinh doanh
Hệ thống chỉ tiêu đánh giá phải đảm bảo vừa phản ánh một cách tổng quát về
hiệu quả kinh doanh, vừa phản ánh chi tiết, cụ thể cho từng loại tài sản của doanh
nghiệp và của ngành. Để hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường thì hầu
như doanh nghiệp vào cũng phải có đầy đủ các loại tài sản theo một loại cơ cấu nhất
định nào đó, do đó phải tính hiệu quả sử dụng chung cho toàn bộ tài sản. Mặt khác cơ
cấu tài sản cụ thể của từng doanh nghiệp không giống nhau do đó khả năng sản xuất,
khả năng sinh lời của từng loại tài sản đó cũng không giống nhau. Tính chất của từng
loại tài sản cũng khác nhau và quan hệ của từng loại tài sản với các chỉ tiêu kết quả sản
xuất kinh doanh cũng rất khác nhau, do đó việc tính riêng hiệu quả của từng loại tài
sản là tất yếu.
Hệ thống chỉ tiêu đánh giá bao gồm cả chỉ tiêu số lượng và chỉ tiêu chất lượng.
Mặc dù hiệu quả đã là sự so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra, song để phản
ánh kết quả sản xuất kinh doanh thì lại có thể sử dụng nhiều loại chỉ tiêu khác nhau- có
chỉ tiêu phản ánh kết quả ban đầu (chưa tính đến chi phí bỏ ra) và có chỉ tiêu lại phản
ánh kết quả cuối cùng (đã tính đến các khoản chi phí). Nếu chỉ tiêu hiệu quả được tính
theo kết quả ban đầu thì vẫn mang tính chất là một chỉ tiêu định lượng. Bởi lẽ, nếu kết
quả ban đầu bằng nhau nhưng chi phí khác nhau thì kết quả cuối cùng sẽ khác nhau –
do đó chỉ tiêu chất lượng (tính theo kết quả cuối cùng) sẽ chính xác hơn.
Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh phải phản ánh được sức sản
xuất, suất hao phí cũng như sức sinh lợi của từng yếu tố, từng loại vốn kể cả tổng số và
phần gia tăng và phải thống nhất với công thức đánh giá hiệu quả chung.

Ngoài ra, hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh còn có thể được phát
triển mở rộng theo hướng sau:

15
+ So sánh các chỉ tiêu phản ánh kết quả khác nhau với nhau. Bởi lẽ, kết quả ban
đầu như nhau nhưng chi phí khác nhau thì kết quả cuối cùng sẽ khác nhau. Hơn nữa,
đối với các doanh nghiệp trong cùng ngành thì tỷ suất chi phí trong kết quả là tương
đương nhau, do đó hoàn toàn có thể so sánh theo cách thức này. VD: lãi ròng/ tổng
doanh thu, lãi thuần từ HĐKD/Doanh thu thuần
+ So sánh các chỉ tiêu phản ánh chi phí khác nhau với nhau vì mức độ chi phí
cao thể hiện hiệu quả kém, có thể lấy mức bình quân của ngành làm chuẩn. Với cách
này, ta có thể dùng các chỉ tiêu: giá trị hàng tồn kho/ vốn lưu động, chi phí bán hàng/
giá vốn hàng bán
Để phục vụ cho các mục đích khác nhau, các đối tượng khác nhau sử dụng kết
quả đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp cần phải xây dựng hệ thống chỉ
tiêu phù hợp bao gồm hệ thống chỉ tiêu tổng hợp và hệ thống chỉ tiêu chi tiết.
1.3.2 Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh tổng hợp
Khái niệm này phản ánh một cách tổng quát, bao trùm về hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định nào đó. Hiệu quả kinh doanh
tổng hợp thường được dùng làm căn cứ để đánh giá, phân loại doanh nghiệp. Về
nguyên tắc, hiệu quả kinh doanh tổng hợp chịu sự phụ thuộc, tác động của hiệu quả
kinh doanh bộ phận. Sự phụ thuộc này cần được xem xét trên phương diện tổng hợp
của các hiệu quả kinh doanh bộ phận lên hiệu quả kinh doanh tổng hợp của toàn doanh
nghiệp.
Các chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp thích hợp dùng để đánh giá hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đầu tư, thương mại và dịch vụ bao gồm:
+ Lợi nhuận
Lợi nhuận được coi là chỉ tiêu hiệu quả chung cho mọi doanh nghiệp. Lợi nhuận
được hình thành từ nhiều bộ phận và được đo bằng phần chênh lệch giữa doanh thu và
chi phí bỏ ra để có được doanh thu đó.

Lợi nhuận = Tổng doanh thu - Tổng chi phí

16
Chỉ tiêu này cho biết con số tuyệt đối thu được của một chu kỳ kinh doanh sau
khi đã trừ đi chi phí để tạo ra thu nhập đó. Chỉ tiêu lợi nhuận mới phản ánh được mặt
lượng của hiệu quả kinh doanh, chưa phản ánh được chính xác chất lượng hiệu qủa
cũng như các tiềm lực nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác nó
không cho phép so sánh hiệu quả kinh doanh giữa các thời kỳ hay giữa các doanh
nghiệp với nhau. Một điều quan trọng nữa là cách tính trên không biểu hiện được
doanh nghiệp đã tiết kiệm hay lãng phí lao động xã hội. Vì vậy, phải xem xét lợi nhuận
trong mối tương quan với các yếu tố khác.
+ Lợi nhuận trên toàn bộ vốn kinh doanh:
Chỉ tiêu này phản ánh lợi nhuận thu được trên toàn bộ vốn kinh doanh của
doanh nghiệp, bao gồm cả vốn chủ sở hữu và vốn đi vay để kinh doanh. Có thể nói đây
là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp kinh
doanh.
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn (%) =
Lợi nhuận ròng thu được của kỳ tính toán
Tổng vốn kinh doanh sử dụng trong kỳ

Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ doanh nghiệp kinh doanh càng có hiệu quả và
ngược lại. Đây là một chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng đồng vốn, kỹ năng sử dụng
đồng vốn hay mức độ lợi dụng vốn. Chỉ tiêu này cho thấy trong một trăm đồng vốn bỏ
ra kinh doanh thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
+ Doanh thu trên chi phí sản xuất
Chi phí là một nhân tố quan trọng quyết định tính hiệu quả trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tính hiệu quả kinh tế theo chi phí được xác định
như sau:
Doanh thu trên chi phí sản xuất =
Tổng doanh thu

Tổng chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh

Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng chi phí dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh
mà doanh nghiệp bỏ ra trong kỳ thu được bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng
cao chứng tỏ doanh nghiệp hoạt động càng có hiệu quả.

17
+ Doanh thu trên vốn kinh doanh
Doanh thu trên vốn kinh doanh =
Tổng doanh thu
Tổng vốn kinh doanh trong kỳ

Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng vốn kinh doanh trong kỳ đem lại bao nhiêu đồng
doanh thu cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp luôn phấn đấu nâng cao chỉ tiêu này.
1.3.3. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình
sản xuất kinh doanh
Bên cạnh các chỉ tiêu hiệu quả tổng quát phản ánh khái quát và cho phép kết
luận về hiệu quả kinh doanh của toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh, phản ánh trình
độ sử dụng tất cả các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh trong một thời
kỳ nhất định (tư liệu sản xuất, nguyên, nhiên vật liệu, lao động, và tất nhiên bao hàm
cả tác động của yếu tố quản trị đến việc sử dụng có hiệu quả các yếu tố trên) thì người
ta còn dùng các chỉ tiêu bộ phận để phân tích hiệu quả kinh doanh của từng mặt hoạt
động, từng yếu tố sản xuất cụ thể.
Các chỉ tiêu hiệu quả bộ phận đảm nhiệm hai chức năng cơ bản sau:
+ Phân tích có tính chất bổ sung cho chỉ tiêu tổng hợp để trong một số trường
hợp kiểm tra và khẳng định rõ hơn kết luận được rút ra từ các chỉ tiêu tổng hợp.
+ Phân tích hiệu quả từng mặt hoạt động, hiệu quả sử dụng từng yếu tố sản
xuất nhằm tìm biện pháp làm tối đa chỉ tiêu hiệu quả kinh tế tổng hợp. Đây là chức
năng chủ yếu của hệ thống chỉ tiêu này.
Mối quan hệ giữa chỉ tiêu hiệu quả kinh tế tổng hợp và chỉ tiêu hiệu quả kinh tế

bộ phận không phải là mối quan hệ cùng chiều, trong lúc chỉ tiêu tổng hợp tăng lên thì
có thể có những chỉ tiêu bộ phận tăng lên và cũng có thể có chỉ tiêu bộ phận không đổi
hoặc giảm. Vì vậy, cần chú ý là:
+ Chỉ có chỉ tiêu tổng hợp đánh giá được hiệu quả toàn diện và đại diện cho
hiệu quả kinh doanh, còn các chỉ tiêu bộ phận không đảm nhiệm được chức năng đó.

18
+ Các chỉ tiêu bộ phận phản ánh hiệu quả kinh tế của từng mặt hoạt động
(bộ phận) nên thường được sử dụng trong thống kê, phân tích cụ thể chính xác mức độ
ảnh hưởng của từng nhân tố, từng mặt hoạt động, từng bộ phận công tác đến hiệu quả
kinh tế tổng hợp.
Hệ thống chỉ tiêu phân tích hiệu quả kinh doanh rất đa dạng và phong phú, có
thể đáp ứng các yêu cầu khác nhau của người nghiên cứu. Nhưng trong phạm vi giới
hạn nhất định, với điều kiện cụ thể cho phép, phải lựa chọn các chỉ tiêu chủ yếu để
thoả mãn mục đích nghiên cứu với chi phí thấp nhất.
Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh bộ phận thích hợp sử dụng để đánh giá hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đầu tư, thương mại và dịch
vụ gồm:
1.3.3.1. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản cố định, vốn cố định.
Vốn là một trong những điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp được thành lập,
tồn tại và phát triển. Vốn là giá trị được biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản được sử
dụng đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bằng mục đích sinh
lời. Vốn bao hàm cả tài sản vô hình và tài sản hữu hình, vốn đồng thời cũng là tài sản
lưu động và tài sản cố định, theo nghĩa đó vốn cũng bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn
vay. Tuy nhiên cũng cần phân biệt những tài sản chưa đưa vào sử dụng trong quá trình
sản xuất kinh doanh thì chỉ được xem là vốn tiềm năng, vốn có thể huy động được chứ
chưa phải là vốn kinh doanh. Mặt khác vốn đã đầu tư vào kinh doanh nhưng không
hoạt động, lưu chuyển được trong quá trình kinh doanh thì được gọi là vốn “chết”, như
vốn bị chiếm dụng, đầu tư vào tài sản không sử dụng được, hàng hoá bị tồn kho
Những điều này phản ánh sự yếu kém trọng quản lý vốn. Những đồng vốn này không

những không sinh lợi cho doanh nghiệp mà còn tăng thêm chi phí như chi phí nhân
công theo dõi, sửa chữa máy móc làm giảm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Có thể nói việc quản lý sử dụng vốn có hiệu quả chính là nâng cao hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn phải lấy chuẩn so sánh

×