Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Luận văn Pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.01 KB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
PHAN NHẬT

PHÁP LUẬT
VỀ KINH DOANH
LƯU TRÚ DU LỊCH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
PHAN NHẬT VŨ
PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH
LƯU TRÚ DU LỊCH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107
Người hướng dẫn khoa học:PGS. TS. BÙI XUÂN HẢI
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận Văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, với
sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Bùi Xuân Hải. Các kết quả nghiên cứu nêu
trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các tài liệu và
trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, có nguồn gốc, tin cậy và trung
thực.
TP.Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 8 năm 2015
Tác giả luận văn
Phan Nhật Vũ
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS: Bộ luật dân sự
BVHTTDL: Bộ văn hóa thể thao Du lịch


LDN: Luật Doanh Nghiệp
LDL: Luật Du Lịch
TCDL: Tổng cục Du lịch
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2
3. Mục đích nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
a. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu: 3
b. Đối tượng nghiên cứu: 3
c. Phạm vi nghiên cứu: 3
4. Phương pháp nghiên cứu: 3
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài: 4
6. Bố cục của luận văn: 4
CHƯƠNG 1 5
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KINH DOANH LƯU TRÚ DU LỊCH 5
1.1. Khái niệm dịch vụ du lịch và lưu trú du lịch 5
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của dịch vụ du lịch 5
1.1.2. Khái niệm lưu trú du lịch 13
1.2. Khái niệm và đặc điểm của kinh doanh lưu trú du lịch 16
1.2.1. Khái niệm kinh doanh lưu trú du lịch 16
1.2.2. Đặc điểm của kinh doanh lưu trú du lịch 18
1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch 22
1.4 Vai trò của hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch 26
1.5. Vai trò của pháp luật đối với hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch 28
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 34
CHƯƠNG 2 35
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH LƯU TRÚ DU LỊCH 35
VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN 35
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch 35

2.1.1. Điều kiện kinh doanh lưu trú du lịch 35
2.1.2. Các loại cơ sở lưu trú du lịch 42
2.1.3. Xếp hạng cơ sở lưu trú du lịch 46
2.1.4. Quyền và nghĩa vụ của chủ thể kinh doanh lưu trú du lịch 50
2.1.5. Xử lý vi phạm pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch 65
2.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch 67
2.2.1. Thị trường cơ sở lưu trú du lịch 67
2.2.2. Thực tiễn kinh doanh lưu trú ở Đà Lạt 70
2.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch.
72
2.3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch 72
2.3.2 Các kiến nghị cụ thể 72
KẾT LUẬN 79
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay trên thế giới du lịch đã trở thành hiện tượng kinh tế xã hội phổ
biến, là cầu nối hữu nghị, phương tiện gìn giữ hòa bình và hợp tác giữa các quốc
gia, dân tộc. Không nằm ngoài xu thế đó, Việt Nam với nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, du lịch là cánh cửa mở ra thế giới để chúng ta tìm kiếm sự
giao thoa về kinh tế xã hội. Tầm quan trọng đó đã được Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX xác định: “Phát triển du lịch thật sự trở thành một nghành kinh
tế mũi nhọn, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động trên cơ sở khai thác lợi thế
về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hóa, lịch sử, đáp ứng nhu cầu du
lịch trong nước và phát triển nhanh du lịch quốc tế, sớm đạt trình độ phát triển du
lịch của khu vực. Xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất, hình thành các khu du lịch
trọng điểm, đẩy mạnh hợp tác, liên kết với các nước.
1
Cụ thể hoá chủ trương này,
văn kiện đại hội Đảng lần thứ X đã ra những quyết sách nhằm khuyến khích đầu tư

phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động du lịch, đa dạng hóa sản
phẩm và các loại hình du lịch.
2
Có thể khẳng định rằng, với những chủ trương nêu
trên, du lịch trong nước đã có những bước phát triển khá mạnh mẽ, mà trong đó các
thành phố phát triển về dịch vụ du lịch đã đóng góp một nguồn ngân sách lớn cho
đất nước.
Trong các thành phố du lịch thì Đà Lạt được xem là một điểm đến lý tưởng
với những điều kiện thiên nhiên ưu đãi, có các tiềm năng thế mạnh về phát triển
kinh tế du lịch dịch vụ nghỉ dưỡng và các lễ hội văn hóa lớn. Hằng năm, Đà lạt thu
hút một lượng lớn khách du lịch tới tham quan và nghỉ dưỡng. Do đó, cùng với sự
phát triển của ngành du lịch Đà Lạt thì ngành nghề kinh doanh dịch vụ lưu trú du
lịch cũng chiếm một vị thế rất quan trọng đối với sự phát triển của ngành du lịch.
Tuy nhiên, có thể nói hoạt động kinh doanh dịch vụ lưu trú du lịch còn mang tính tự
phát và pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế vướng mắc.
Đặc biệt trong bối cảnh nước ta đang có những nỗ lực vượt bậc nhằm đánh thức
tiềm năng phát triển của ngành du lịch, vì thế việc nghiên cứu về “Pháp luật kinh
doanh lưu trú du lịch” là việc làm cấp thiết và mang tính thời sự sâu sắc. Bởi những
1
Đảng Cộng Sản Việt Nam (2006), Văn Kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị
quốc gia, tr.178.
2
Đảng Cộng Sản Việt Nam (2006), tlđd 1, tr.202.
2
lẽ trên, tác giả đã chọn đề tài “Pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch” làm nội
dung nghiên cứu cho Luận văn Thạc sỹ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn về kinh doanh lưu trú du lịch mà trong những
năm qua đã có một số công trình nghiên cứu về lĩnh vực này như:
Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Thị Kim Dung năm 2007: “ Pháp

luật về kinh doanh du lịch-thực trạng và hướng hoàn thiện’’; Luận văn Thạc sĩ Luật
học của Trần Thị Mai Phước năm 2007: “Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh
doanh du lịch’’; Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Lâm Trâm Anh (2010) “Xử
lý vi phạm hành chính trong lịch vực du lịch’’; Luận văn cử nhân của Nguyễn Thị
Giáng Sao năm 2011 “ Đánh giá thực trạng trong hoạt động quảng cáo tại khách
sạn Sammy Đà Lạt”; Luận văn cử nhân của Nguyễn Thị Hiền năm 2012 “ Thực
trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách sạn
Vietsovpetro” (2012)…
Các công trình nghiên cứu này mới chỉ tập trung vào phân tích sự quản lý
nhà nước trong kinh doanh dịch vụ du lịch và pháp luật trong kinh doanh du lịch nói
chung, hoặc so sánh đánh giá sự thay đổi giữa pháp lệnh Du lịch 1999 và LDL
2005, các cam kết khi gia nhập WTO đối với dịch vụ kinh doanh lữ hành. Các công
trình nghiên cứu này chưa đi sâu phân tích pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực kinh
doanh lưu trú du lịch một cách cụ thể. Dù vậy, các nghiên cứu này là những tài liệu
tham khảo quan trọng, tạo tiền đề cho việc nghiên cứu sâu hơn các quy định của
pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch.
Ngoài ra, qua nghiên cứu các bài viết, tạp chí liên quan tác giả còn tiếp cận
được một số bài báo đăng trên các tạp chí như Hoàng Thị Lan Hương (2010), "Bài
học cho Việt Nam từ kinh nghiệm phát triển bền vững kinh doanh lưu trú du lịch ở
một số nước trên thế giới" đăng trên Tạp chí Kinh tế phát triển số 2; Hải Dương
(2008), "Một số bất cập trong hoạt động kinh doanh cơ sở lưu trú du lịch", đăng
trên Tạp chí Du lịch Việt Nam số 11; hay một số bài viết trên các tờ báo điện tử,
chẳng hạn như bài viết "Những thuận lợi khó khăn trong kinh doanh lưu trú du lịch
khi luật du lịch thực thi” của tác giả Đỗ Thị Hồng Xoan…Tuy nhiên những bài báo,
kết quả nghiên cứu này chỉ dừng lại ở việc phân tích dưới góc độ quản lý nhà nước
về hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch. Mặc dù vậy, các thông tin từ các bài viết
trên cũng có những giá trị tham khảo nhất định cho việc nghiên cứu chuyên sâu
pháp luật kinh doanh lưu trú du lịch.
3
Cho đến nay, vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể

các quy định của pháp luật kinh doanh lưu trú du lịch nhằm bổ sung, làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch. Do đó,
việc nghiên cứu có hệ thống về vấn đề này là một yêu cầu mang tính cấp thiết.
3. Mục đích nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận và thực trạng quy định
pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch. Từ đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch ở Việt Nam.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu
cụ thể sau:
Một là, nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cơ bản về du lịch và kinh
doanh lưu trú du lịch và thực tiễn thi hành.
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật du lịch về
kinh doanh lưu trú du lịch.
Ba là, đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về
kinh doanh lưu trú du lịch của Việt Nam.
b. Đối tượng nghiên cứu:
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu của đề tài là pháp luật
về kinh doanh lưu trú du lịch, thực tiễn áp dụng pháp luật về hoạt động kinh doanh
lưu trú du lịch.
c. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu pháp luật kinh doanh lưu trú du lịch, tác giả chủ yếu tập trung
nghiên cứu các quy định về kinh doanh lưu trú du lịch tại Luật Du lịch số
44/2005/QH11 và các văn bản hướng dẫn thi hành kết hợp với việc nghiên cứu thực
trạng áp dụng pháp luật hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch.
Về thực tiễn: Tác giả nghiên cứu về thực tiễn thực hiện pháp luật kinh doanh
lưu trú du lịch và hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch trong cả nước, đặc biệt là tại
TP Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để tiến hành nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng phương pháp biện chứng duy

vật của chủ nghĩa Mác-Lênin và phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như:
phương pháp khảo sát được sử dụng tại Chương II phần thực trạng kinh doanh lưu
trú: khảo sát các cơ sở kinh doanh lưu trú trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh,
4
thành phố Đà lạt để tìm ra được loại hình kinh doanh lưu trú mới; phương pháp thu
thập số liệu thực tế của các cơ sở kinh doanh lưu trú tại Đà Lạt, phương pháp phân
tích; phương pháp so sánh được áp dụng chủ yếu trong phần 2.1 về thực trạng quy
định pháp luật về kinh doanh lưu trú du lịch như là: so sánh quy định của Luật Du
lịch 2005 với Pháp lệnh du lịch 1999, so sánh các Nghị định hướng dẫn về kinh
doanh du lịch để tìm ra sự chồng chéo và thiếu sót của các văn bản quy phạm pháp
luật về du lịch nói chung và kinh doanh lưu trú du lịch nói riêng; phương pháp tổng
hợp: tổng hợp các nhận định của các chuyên gia, các công trình đã nghiên cứu trước
đó, cũng như tổng hợp các số liệu về kinh doanh lưu trú du lịch. Từ các phương
pháp trên, tác giả có được kết quả để đánh giá và nghiên cứu những nội dung cơ bản
của luận văn.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
Kết quả nghiên cứu giúp cho người đọc tiếp cận và đánh giá hoạt động kinh
doanh lưu trú du lịch dưới góc độ pháp luật và thực tiễn. Luận văn này có thể là tài
liệu tham khảo hữu ích cho những người muốn tìm hiểu về pháp luật kinh doanh
lưu trú du lịch và thực tiễn thi hành, như người kinh doanh, sinh viên, và các nhà
nghiên cứu.
Một số kiến nghị cũng có thể được những cơ quan chức năng quan tâm.
6. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm hai
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về kinh doanh lưu trú du lịch.
Chương 2: Thực trạng pháp luật kinh doanh lưu trú du lịch và Định hướng
hoàn thiện.
5
CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KINH DOANH LƯU TRÚ DU LỊCH
1.1. Khái niệm dịch vụ du lịch và lưu trú du lịch
Sự phát triển khoa học luôn gắn liền với việc xây dựng hệ thống các
khái niệm. Bởi lẽ, khái niệm vừa là kết quả của tư duy khoa học vừa là
phương tiện để tư duy. Vì thế, để nghiên cứu pháp luật về kinh doanh lưu trú
du lịch chúng ta sẽ bắt đầu từ những khái niệm cơ bản.
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của dịch vụ du lịch
Trong lịch sử nhân loại, du lịch đã được ghi nhận như một sở thích,
một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay du lịch đã trở
thành một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống văn hóa xã hội của
các quốc gia. Về mặt kinh tế, đối với các nước đang phát triển du lịch được
coi là cứu cánh để vực dậy nền kinh tế ốm yếu của quốc gia.
3
Hội đồng lữ
hành và Du lịch quốc tế (World travel and Tourism Council-WTTC) đã công
bố du lịch là một ngành kinh tế lớn nhất thế giới, vượt trên cả ngành sản xuất
ô tô, thép, điện tử và nông nghiệp. Ở một số quốc gia, du lịch là nguồn thu
ngoại tệ quan trọng nhất trong ngoại thương.
4
Chính vì vậy, du lịch hiện nay là mối quan tâm của nhiều quốc gia bởi
nó đem lại một nguồn thu ngoại tệ lớn, thậm chí ở một số nước, du lịch đã trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn. Do vậy khái niệm về du lịch có nhiều cách
hiểu rất khác nhau. Mathieson và Wall của Mỹ cho rằng "Du lịch là sự di
chuyển tạm thời của người dân đến ngoài nơi ở và làm việc của họ, là những
hoạt động xảy ra trong quá trình lưu lại nơi đến và các cơ sở vật chất tạo ra
để đáp ứng những nhu cầu của họ".
5
Với quan niệm này, cho thấy du lịch có
đối tượng hướng đến đó là người du lịch và thể hiện một hoạt động đơn thuần
của khách du lịch. Cũng có quan niệm cho rằng du lịch là chuyến đi của con

người trong một khoảng thời gian không nhằm mục đích kiếm tiền như trong
định nghĩa của Hội nghị quốc tế về thống kê du lịch ở Otawa Canada: "Du
3
Trần Đức Thanh (1998), Nhập môn khoa học du lịch, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội, tr. 5.
4
Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa(2008), Giáo trình kinh tế du lịch, NXB Đại học kinh tế
quốc dân, Hà Nội, tr 5.
5
Trần Đức Thanh (1998), tldd 3, tr. 12.
6
lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường thường
xuyên (nơi ở thường xuyên của mình trong một khoảng thời gian ít hơn
khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của
chuyến đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi
vùng tới thăm".
6

Ở góc độ bao quát hơn, Tổ chức Du lịch Thế giới (World Tourist
Organization) cho rằng du lịch là bao gồm tất cả mọi hoạt động của những
người du hành, tạm trú, trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải
nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích
hành nghề và những mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng không
quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư; nhưng loại trừ các du
hành mà có mục đích chính là kiếm tiền. Du lịch cũng là một dạng nghỉ ngơi
năng động trong môi trường sống khác hẳn nơi định cư.
7
Đây là một định
nghĩa tương đối đầy đủ và khái quát về du lịch.
Tóm lại, từ những định nghĩa trên cho thấy, khái niệm du lịch trên thế
giới có một nội hàm khá rộng, dùng để chỉ sự đi lại của con người tới những

vùng, lãnh thổ khác ngoài nơi họ sinh sống, với bất cứ mục đích gì, chẳng hạn
như tham quan, khám phá, nghỉ ngơi thư giản, thậm chí cả hành nghề, nhưng
loại trừ mục đích kiếm tiền một cách trực tiếp nơi họ đặt chân đến.
Ở một góc độ khác, du lịch còn được xem xét dưới khía cạnh kinh tế
như đánh giá của Trường Tổng hợp kinh tế thành phố Varna, Bulgarie:
"Du lịch là một hiện tượng kinh tế xã hội được lặp đi lặp lại đều đặn
chính là sản xuất và trao đổi dịch vụ và hàng hóa của các đơn vị kinh
tế riêng biệt, độc lập - đó là các tổ chức, các xí nghiệp với cơ sở vật
chất kỹ thuật chuyên môn nhằm đảm bảo sự đi lại, lưu trú, ăn uống,
nghỉ ngơi với mục đích thỏa mãn các nhu cầu về vật chất và tinh thần
của những người lưu trú ngoài nơi ở thường xuyên của họ để nghỉ
ngơi, chữa bệnh, giải trí (thuộc các nhu cầu về văn hóa, chính trị, kinh
tế,v.v ) mà không có mục đích lao động kiếm lời".
8

6
Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4.tr 15.
7
Nguồn từ: truy cập ngày 19/8/2015.
8
Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4, tr. 15.
7
Như vậy, từ những phân tích trên đưa đến một nhìn nhận là, khái niệm
du lịch còn được đánh giá ở góc độ kinh tế, đó là một ngành kinh doanh, sự
trao đổi và cung cấp các dịch vụ, đáp ứng các nhu cầu tham quan, tìm hiểu,
giải trí, nghỉ dưỡng của con người trong một thời gian nhất định.
Mặc dù mới hình thành và phát triển trong thời gian ngắn nhưng pháp
luật du lịch Việt Nam đã có điều kiện tiếp thu những giá trị tích cực từ quan
niệm du lịch của các nước trên thế giới, đồng thời từng bước hoàn thiện
những quy định pháp luật nhằm thúc đẩy sự phát triển của hoạt động du lịch.

Theo điều 10 Pháp lệnh Du lịch năm 1999 thì du lịch là hoạt động của con
người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham
quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định. Với định
nghĩa này thì du lịch mới dừng lại ở việc chỉ những hoạt động của con người
ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình để thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải
trí, nghỉ dưỡng, Khoản 1 Điều 4 Luật Du lịch 2005 đã điều chỉnh khái niệm
về du lịch theo hướng cụ thể hơn, theo đó thì "Du lịch là các hoạt động có liên
quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình
nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một
khoảng thời gian nhất định". Như vậy, khái niệm du lịch theo quy định của
Việt Nam có phạm vi khá hẹp, với bốn mục đích chính là tham quan, tìm
hiểu, giải trí và nghỉ dưỡng.
Trong nền kinh tế thị trường, bên cạnh việc phát triển ngành du lịch thì
cũng kéo theo các loại hình dịch vụ liên quan. Theo định nghĩa của ISO
9001:1991 dịch vụ là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa
người cung cấp và khách hàng, cũng như nhờ các hoạt động của người cung
cấp để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
9
Dịch vụ có thể được tiến hành
nhưng không gắn liền với sản phẩm vật chất.
10
Như vậy, có thể hiểu các hoạt động dịch vụ bổ trợ du lịch bao gồm các
hình thức sau:
Thứ nhất, dịch vụ lữ hành,
9
Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4, tr. 94.
10
Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4, tr. 94.
8
Dịch vụ lữ hành gồm các hoạt động chính như: “Làm nhiệm vụ giao

dịch kí kết với các tổ chức kinh doanh du lịch trong nước, nước ngoài để xây
dựng và thực hiện các chương trình du lịch đã bán cho khách du lịch”.
11
Trong đó tồn tại song song hai hoạt động phổ biến sau:
+ Kinh doanh lữ hành (Tour Operators Business) là việc thực hiện các
hoạt động nghiên cứu thị trường, thành lập các chương trình du lịch trọn gói,
hay từng phần; Quảng cáo và bán các chương trình này trực tiếp hay gián tiếp
qua các trung gian hoặc văn phòng đại diện, tổ chức thực hiện chương trình
và hướng dẫn du lịch.
+ Kinh doanh đại lý lữ hành(Travel Sub-agency Business) là việc thực
hiện các dịch vụ đưa đón, đăng ký nơi lưu trú, vận chuyển, hướng dẫn tham
quan, bán các chương trình du lịch của các doanh nghiệp lữ hành, cung cấp
thông tin du lịch và tư vấn du lịch nhằm hưởng hoa hồng.
Thứ hai, dịch vụ lưu trú du lịch,
Kinh doanh lưu trú du lịch là hoạt động kinh doanh dịch vụ lưu trú của
khách du lịch. Dịch vụ này được thực hiện tại các cơ sở lưu trú du lịch, gồm:
Khách sạn; Làng du lịch; Biệt thự du lịch; Căn hộ du lịch; Bãi cắm trại du
lịch; Nhà nghỉ du lịch; Nhà ở có phòng cho khách thuê; và các cơ sở lưu trú
du lịch khác.
Thứ ba, kinh doanh vận chuyển khách du lịch (Transportation),
Kinh doanh vận chuyển khách du lịch là việc cung cấp dịch vụ vận
chuyển cho khách du lịch theo tuyến du lịch và tại các khu du lịch, điểm du
lịch, đô thị du lịch. Đặc trưng nổi bật của hoạt động du lịch là sự dịch chuyển
của con người từ nơi này đến nơi khác ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ,
với một khoảng cách xa. Do vậy khi đề cập đến hoạt động du lịch nói chung,
đến hoạt động kinh doanh du lịch nói riêng, không thể không đề cập đến hoạt
động kinh doanh vận chuyển. Để phục vụ cho hoạt động kinh doanh này có
nhiều phương tiện vận chuyển khác nhau như: Ô tô, tàu hỏa, tàu thủy, máy
bay… Thực tế cho thấy ít có doanh nghiệp du lịch (trừ một số tập đoàn du
lịch trên thế giới) có thể đảm nhiệm toàn bộ việc vận chuyển khách du lịch từ

11
Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4, tr. 69.
9
nơi cư trú của họ đến điểm du lịch. Phần lớn trong các trường hợp khách du
lịch sử dụng dịch vụ vận chuyển của các phương tiện giao thông đại chúng
hoặc của các công ty chuyên kinh doanh dịch vụ vận chuyển. Đây cũng là một
loại hình kinh doanh có điều kiện.
12
Thứ tư, dịch vụ phát triển khu du lịch,
Kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch bao gồm đầu tư bảo
tồn, nâng cấp tài nguyên du lịch đã có, đưa các tài nguyên du lịch tiềm năng
vào khai thác, phát triển khu du lịch, điểm du lịch mới; kinh doanh kết cấu hạ
tầng du lịch, cơ sở vật chất- kỹ thuật du lịch. Chủ thể kinh doanh phát triển
khu du lịch, điểm du lịch phải xây dựng dự án phù hợp với phát triển du lịch,
trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Thứ năm, dịch vụ du lịch khác.
13

Ngoài các hoạt động kinh doanh như đã nêu ở trên, trong lĩnh vực hoạt
động kinh doanh du lịch còn có một số hoạt động kinh doanh bổ trợ như kinh
doanh các loại hình dịch vụ vui chơi giải trí; tuyên truyền, quảng cáo du lịch;
tư vấn đầu tư du lịch. Cùng với xu hướng phát triển ngày càng đa dạng những
nhu cầu của khách du lịch, sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật và sự gia tăng
mạnh của các doanh nghiệp du lịch dẫn đến sự cạnh tranh ngày càng tăng trên
thị trường du lịch thì các hoạt động kinh doanh bổ trợ này ngày càng có xu
hướng phát triển mạnh.
Như vậy, từ những phân tích trên có thể khẳng định: Du lịch là một
ngành kinh tế dịch vụ. Sản phẩm của ngành du lịch chủ yếu là dịch vụ không
tồn tại dưới dạng vật thể, không lưu kho lưu bãi, không chuyển quyền sở hữu
khi sử dụng. Dịch vụ du lịch là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác

giữa những tổ chức cung ứng du lịch và khách du lịch, thông qua các hoạt
động tương tác đó để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch và mang lại lợi ích
cho tổ chức cung ứng dịch vụ.
14
Cụ thể, đó là việc cung cấp các dịch vụ về lữ
hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, hướng dẫn và những dịch
vụ khác nhằm đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch.
12
Điều 57 Luật Du lịch 2005
13
Mục 6 Chương V Luật Du lịch 2005.
14
Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4, tr194.
10
Với khái niệm này thì kinh doanh dịch vụ du lịch có những đặc điểm cơ
bản như sau:
(i) Tính phi vật chất.
Đây là tính chất quan trọng nhất của dịch vụ du lịch, tính phi vật chất
đã làm cho du khách không thể nhìn thấy hoặc không thể thử nghiệm trước.
Cho nên đối với du khách thì tính phi vật chất của dịch vụ du lịch là trừu
tượng khi mà họ chưa một lần sử dụng nó. Dịch vụ du lịch không đồng hành
với những sản phẩm vật chất, nhưng dịch vụ du lịch mãi mãi tồn tại tính phi
vật chất của mình. Du khách thực sự rất khó đánh giá dịch vụ. Từ những
nguyên nhân nêu trên mà nhà cung ứng dịch vụ du lịch cần phải cung cấp đầy
đủ thông tin về lợi ích của dịch vụ chứ không chỉ đơn thuần chương trình dịch
vụ, qua đó làm cho du khách phải quyết định mua dịch vụ của mình
15
.
(ii) Tính đồng thời của sản xuất và tiêu dùng dịch vụ du lịch.
Đây là một đặc điểm hết sức quan trọng thể hiện sự khác biệt giữa dịch

vụ và hàng hóa. Đối với hàng hóa (vật chất) quá trình sản xuất và tiêu dùng
tách rời nhau. Người ta có thể sản xuất hàng hóa ở một nơi khác và ở một thời
gian khác với nơi bán và tiêu dùng, còn đối với dịch vụ không thể như vậy.
Do tính đồng thời như trên nên sản phẩm dịch vụ du lịch không thể lưu kho
được. Chẳng hạn thời gian nhàn rỗi của nhân viên du lịch vào lúc không có
khách không thể để dành cho lúc cao điểm, một phòng khách sạn không cho
thuê được trong ngày thì đã coi như mất dịch vụ, do đó mất một nguồn thu…
Dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng đồng thời nên cung và cầu cũng không
thể tách rời nhau. Cho nên việc tạo ra sự ăn khớp giữa cung và cầu trong dịch
vụ là hết sức quan trọng
16
.
(iii) Sự tham gia của khách du lịch trong quá trình tạo ra dịch vụ.
Đặc điểm này nói lên rằng khách du lịch ở một chừng mực nào đó đã
trở thành nội dung của quá trình sản xuất.
Sự gặp gỡ giữa khách hàng và người sản xuất như một sự gắn bó qua
lại giữa các chủ thể với nhau. Sự gắn liền họ trong sự tác động qua lại này
15
Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4, tr195.
16
Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4, tr195.
11
trong dịch vụ được khẳng định phụ thuộc vào mức độ lành nghề, khả năng
cũng như ý nguyện của người tiêu dùng và người cung cấp dịch vụ. Ngoài
những nội dung kinh tế, những tính cách của con người trong sự tương tác
đóng vai trò quan trọng như cảm giác, sự tin tưởng, tính thân thiện về cá
nhân, mối liên kết và những mối quan hệ trong dịch vụ được coi trọng hơn
như khi mua những hàng hóa tiêu dùng khác. Dịch vụ gắn liền với những kinh
nghiệm chủ quan, đối với mỗi người là duy nhất đó cũng là một quá trình xã
hội, và tất nhiên có nhiều nhân tố khác nhau tác động lên quá trình này người

cung cấp dịch vụ và người tiêu dùng không thể bí mật thay đổi thời gian, địa
điểm và các tình tiết liên quan đến quá trình cung ứng dịch vụ. Ngoài trao đổi
thương mại, sự tương tác qua lại còn biểu hiện nhân tố thứ ba đó là sự trao đổi
tâm lý. Mức độ hài lòng của khách hàng sẽ phụ thuộc rất nhiều vào sự sẵn
sàng cũng như khả năng của nhân viên làm dịch vụ, khả năng thực hiện ý
nguyện của khách hàng, trong những trường hợp này thái độ và sự giao tiếp
với khách hàng còn quan trọng hơn cả các tiêu chí kĩ thuật, sản xuất và tiêu
dùng những loại dịch vụ này đòi hỏi phải tăng cường sự liên hệ của người sản
xuất với khách hàng. Trong thời gian cung cấp dịch vụ, những chức năng
truyền thống đã gắn liền hai người bạn hàng (đối tác) với nhau trên thị trường.
Người tiêu dùng đồng thời trở thành người đồng sáng tạo trong quá trình sản
xuất dịch vụ. Người tiêu dùng tham gia hoặc là về mặt thể chất, trí tuệ hay là
về mức độ tình cảm trong quá trình tạo ra dịch vụ, xác định thời gian cũng
như các khả năng sản xuất
17
.
(iv) Tính không chuyển đổi quyền sở hữu dịch vụ.
Khi mua hàng hóa người mua có quyền được sở hữu đối với hàng hóa
và sau đó có thể sử dụng như thế nào, nhưng đối với dịch vụ khi được thực
hiện thì không có quyền sở hữu nào được chuyển từ người bán sang người
mua. Người mua chỉ là người đang mua quyền sử dụng với tiến trình dịch vụ.
Chẳng hạn khi đi du lịch được chuyển chở, được ở khách sạn, được sử dụng
bãi biển nhưng trên thực tế họ không có quyền sở hữu đối với chúng.
18
(v) Tính không thể di chuyển của dịch vụ du lịch.
17
Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4, tr196.
18
Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4, tr197.
12

Vì các cơ sở du lịch vừa là nơi sản xuất, vừa là nơi cung ứng dịch vụ
nên dịch vụ du lịch thuộc loại không di chuyển được. Khách hàng muốn tiêu
dùng dịch vụ thì phải đến cơ sở du lịch. Do đó để nâng cao chất lượng dịch vụ
và đem lại hiệu quả kinh doanh, khi xây dựng các điểm du lịch cần lựa chọn
địa điểm thỏa mãn các điều kiện tự nhiên: địa hình, khí hậu, thủy văn, tài
nguyên… Và điều kiện xã hội (dân số, phong tục tập quán, chính sách dân số,
cơ sở hạ tầng…). Đặc điểm này của dịch vụ du lịch đòi hỏi các cơ sở kinh
doanh du lịch tiến hành các dịch vụ du lịch xúc tiến mạnh mẽ để kéo được du
khách đến với điểm du lịch.
19
(vi) Tính thời vụ của dịch vụ du lịch.
Dịch vụ có đặc trưng rất rõ nét ở tính thời vụ. Ví dụ các khách sạn ở
các khu nghỉ mát thường vắng khách vào mùa đông nhưng lại đông nhất vào
mùa hè. Các nhà hàng trong khách sạn thường đông khách vào buổi trưa hoặc
chiều tối, hoặc các khách sạn gần trung tâm thành phố thường đông khách vào
ngày nghỉ cuối tuần… dẫn đến cung cầu dịch vụ mất cân đối, vừa gây lãng
phí cơ sở vật chất lúc trái vụ và chất lượng dịch vụ có nguy cơ giảm sút. Vì
vậy các doanh nghiệp thường đưa ra các chương trình khuyến mãi cho khách
du lịch khi cầu giảm hoặc tổ chức quản lí tốt chất lượng dịch vụ khi cầu cao
điểm.
20
(vii) Tính trọn gói của dịch vụ du lịch.
Bao gồm các dịch vụ cơ bản và các dịch vụ bổ sung. Dịch vụ cơ bản là
những dịch vụ mà nhà cung ứng cung cấp cho khách hàng nhằm thỏa mãn
nhu cầu cơ bản, không thể thiếu được với khách hàng như dịch vụ vận
chuyển, dịch vụ phòng, dịch vụ nhà hàng, bar… dịch vụ bổ sung là những
dịch vụ phụ cung cấp cho khách hàng nhằm thỏa mãn nhu cầu đặc trưng và
nhu cầu bổ sung của khách.
Tuy chúng không có tính bắt buộc như dịch vụ cơ bản nhưng phải có
trong chuyến hành trình của du khách. Nhiều khi dịch vụ bổ sung lại có tính

quyết định đến sự lựa chọn của khách du lịch. Tính trọn gói của dịch vụ du
19
Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4, tr197.
20
Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4, tr198.
13
lịch xuất phát từ nhu cầu đa dạng và tổng hợp của du khách. Mặt khác nó
cũng đòi hỏi tính chất đồng bộ của chất lượng dịch vụ.
(viii) Tính không đồng nhất của dịch vụ du lịch.
Do khách hàng rất muốn chăm sóc như là những con người riêng biệt
nên dịch vụ du lịch thường bị cá nhân hóa và không đồng nhất. Doanh nghiệp
du lịch rất khó đưa ra các tiêu chuẩn dịch vụ.
Tóm lại, dịch vụ du lịch mang những đặc trưng cơ bản mà các loại hình
khác không có. Có thể thấy rõ sự khác nhau giữa sản phẩm vật chất và sản
phẩm du lịch đó là:
Đối với sản phẩm vật chất là một sản phẩm cụ thể, được trưng bày
trước khi bán, sản phẩm vật chất có thể được cất giữ hay lưu kho, vận chuyển
hay xuất khẩu, ngược lại dịch vụ du lịch lại là một sản phẩm phi vật chất hay
vô hình và thông thường không trưng bày khi bán, không thể lưu kho, cất giữ,
không thể vận chuyển được và khó có thể xuất khẩu. Ngoài ra, dịch vụ du lịch
không có sự thay đổi về chủ sở hữu còn sản phẩm vật chất thì quyền sở hữu
được chuyển giao khi bán.
1.1.2. Khái niệm lưu trú du lịch
Lưu trú là việc cung cấp tiện nghi phục vụ nhu cầu của khách nhất là
chỗ ngủ và các thiết bị vệ sinh trong thời gian tạm xa nơi cư trú thường
xuyên. Có thể hiểu lưu trú là việc cung cấp dịch vụ nghỉ qua đêm cho khách.
Cơ sở lưu trú du lịch là cơ sở cho thuê buồng, giường và cung cấp các dịch vụ
khác phục vụ khách lưu trú, trong đó khách sạn là cơ sở lưu trú du lịch chủ
yếu.
21

So với Pháp lệnh Du lịch năm 1999 thì cơ sở lưu trú du lịch đã được đề
cập đến, nhưng cơ sở lưu trú du lịch chỉ là kinh doanh về buồng giường và
cung cấp các dịch vụ khác phục vụ khách du lịch
22.
Trong Luật Du lịch năm
2005 thể hiện rõ nghĩa cơ sở lưu trú du lịch là cơ sở cho thuê buồng, giường
và cung cấp dịch vụ khác phục vụ khách du lịch và cũng nêu rõ về hai loại
hình mới của cơ sở lưu trú du lịch là nhà nghỉ du lịch và nhà ở có phòng cho
khách du lịch thuê nhưng vẫn khằng định khách sạn vẫn là cơ sở lưu trú du
lịch chủ yếu.
21
Điều 12 Luật Du lịch 2005.
22
Điều 9 Pháp lệnh Du lịch 1999.
14
Như vậy lưu trú du lịch là việc khách du lịch ở lại một thời gian nhất
định tại các cơ sở lưu trú du lịch nhằm mục đích tham quan tìm hiểu giá trị
nghỉ dưỡng.
Lưu trú là một trong những nhu cầu chính của du lịch trong chuyến đi
du lịch. Dưới góc độ kinh doanh du lịch hiện nay, lưu trú, vận chuyển và ăn
uống vẫn còn chiếm tỷ trọng rất lớn trong tỷ trọng du lịch Việt Nam. Mặt
khác, tùy theo khả năng chi trả của du khách, hiện trạng và khả năng cung
ứng của đối tác mà trong từng chuyến đi du lịch cụ thể du khách có thể được
hỗ trợ nghỉ lại tại các cơ sở lưu trú phù hợp.
Theo khoản 1, mục II Thông tư số 88/2008/TT-BVHTTDL ngày
30/12/2008 của Bộ Văn hóa Thông tin và Du lịch hướng dẫn thực hiện Nghị
định số 92/2007/NĐ-CP ngày 01/06/2007 của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều của Luật du lịch về lưu trú du lịch, thì các loại hình lưu trú du lịch
bao gồm:
- Khách sạn (Hotel), là cơ sở lưu trú du lịch, có quy mô từ 10 buồng

ngủ trở lên, đảm bảo chất lượng về cơ sở vật chất, trang thiết bị và dịch vụ
cần thiết phục vụ khách lưu trú và sử dụng dịch vụ. Khách sạn còn là nơi có
đầy đủ điều kiện, tiện nghi phục vụ việc ở lại qua đêm và các nhu cầu của
khách như ăn, ngủ Tùy theo mức độ sang trọng của cơ sở vật chất, trang
thiết bị và chế độ phục vụ mà các khách sạn được phân hạng khác nhau. Ở
Việt Nam, khách sạn được xếp hạng từ 1 sao đến 5 sao trong đó các loại hình
dịch vụ phân theo cơ sở lưu trú thì đây là hình thức phổ biến nhất. Đối tượng
du khách do vậy cũng khá phong phú, từ khách có khả năng chi trả trung bình
đến du khách thương gia. Đối với khách thương gia tầm cỡ, việc ở trong
khách sạn cao cấp là một trong những đòi hỏi hàng đầu.
- Khách sạn thành phố (City Hotel), là khách sạn được xây dựng ở đô
thị, chủ yếu phục vụ khách thương gia, khách công vụ, khách tham quan du
lịch.
Ví dụ: Charming city Hotel Taipei; Novotel Amsterdam City Hotel;
Royal City Hotel Mandalay
15
- Khách sạn nghỉ dưỡng (Hotel Resort), là khách sạn được xây dựng
thành khối hoặc quần thể các biệt thự, căn hộ, băng-ga-lâu (bungalow) ở khu
vực có cảnh quan thiên nhiên đẹp, phục vụ nhu cầu nghỉ dưỡng, giải trí, tham
quan của du khách. Trong đó bungalow là một dạng nhà trọ làm bằng gỗ hay
các vật liệu nhẹ được lắp ghép lại với nhau. Cơ sở lưu trú này thường thấy tại
các vùng ven biển hay các vùng núi, các điểm nghỉ mát. Bungalow có thể
được bố trí đơn lẻ thành cụm hoặc tập trung theo một quy hoạch cụ thể. Nội
thất của loại hình cơ sở lưu trú không được sang trọng nhưng lại đầy đủ cho
sinh hoạt gia đình hay tập thể. Loại hình này có đối tượng phục vụ là các gia
đình, hiện nay ở nước ta loại hình này vẫn chưa phát triển.
- Khách sạn nổi (Floating Hotel) di chuyển hoặc neo đậu trên mặt nước.
Ví dụ: Park Hyatt Saigon ở TP. Hồ Chí Minh, Sofitel Metropole ở Hà
Nội.
- Khách sạn bên đường (Motel), là một dạng cơ sở lưu trú được xây

dựng gần đường giao thông, có kiến trúc thấp tầng (thường chỉ có một tầng)
phục vụ khách đi bằng phương tiện riêng (xe con, xe máy ) tại cơ sở lưu trú
này có bộ phận bảo dưỡng, kiểm tra sửa chữa xe cho khách. Đối tượng phục
vụ của loại hình này thường là khách có thu nhập trung bình. Ở nước ta loại
hình này còn chưa phát triển.
- Làng du lịch (Tourist village), là một quần thể các biệt thự hoặc
bungalow được bố trí để tạo ra một không gian du lịch cho phép khách vừa có
điều kiện nghỉ ngơi vừa có không gian biệt lập khi họ muốn. Được xây dựng
ở nơi có tài nguyên du lịch, cảnh quan thiên nhiên đẹp, có hệ thống dịch vụ
gần các nhà hàng, quầy bar, cửa hàng mua sắm, khu vui chơi giải trí, thể thao
và các phương tiện khác phục vụ du khách, loại hình này khá phát triển ở
Pháp, Tây Ban Nha
- Biệt thự du lịch (Tourist Villa): là biệt thự có trang thiết bị tiện nghi
cho khách du lịch thuê, cần tự phục vụ trong thời gian lưu trú. Có từ 3 biệt thự
du lịch trở lên đây là cụm biệt thự du lịch.
Ví dụ: Biệt thự Đà Lạt Edensee vip, Biệt thự Đà Lạt Edensee Mimoda
Supperior, Biệt thự Vũng Tàu-196A
16
- Căn hộ du lịch (Tourist apartment) là căn hộ có trang thiết bị tiện nghi
cho khách du lịch thuê, tự phục vụ trong thời gian lưu trú. Có từ mười căn hộ
trở lên.
Ví dụ: căn hộ du lịch Côn Đảo, du lịch căn hộ gia đình Thụy Sĩ-Pari,
căn hộ Mỹ Đức (Chung cư Mỹ Đức Bình Thạnh).
- Bãi cắm trại du lịch (Tourist Camping), là khu vực đất được quy
hoạch ở nơi có cảnh quan thiên nhiên đẹp, có kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất
kỹ thuật du lịch và dịch vụ cần thiết khác cho cắm trại. Camping là một khu
vực mà ở đó người ta phân lô theo một quy hoạch nhất định. Tại các lô này
bằng các vật liệu khác nhau người ta tạo nên các nền (ximăng, chất dẻo, gỗ,
tre ) đoàn du khách cần chọn một địa điểm để dựng lều trại. Đại đa số các
loại cơ sở lưu trú này đều có kho cho thuê các trang thiết bị cần thiết để qua

đêm: lều, bạt, chăn, màn Loại hình này thường được sinh viên ưa chuộng.
- Nhà nghỉ du lịch (Tourist Guest Hotel), là cơ sở lưu trú du lịch có
trang thiết bị tiện nghi, cần thiết để phục vụ khách du lịch như khách sạn
nhưng không đạt tiêu chuẩn xếp hạng khách sạn. Nhà nghỉ cũng là lựa chọn
hợp lý cho du khách bởi giá cả phải chăng cho những ai muốn tiết kiệm chi
phí cho việc ngủ nghỉ. Nhà nghỉ thường có giá bình dân, hợp lý với các thủ
tục đơn giản.
- Nhà ở có phòng cho khách du lịch thuê (Homestay), là nơi sinh sống
của người sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp trong thời gian cho thuê lưu trú du
lịch Homestay. Là một loại hình du lịch lý tưởng của các bạn trẻ quốc tế yêu
thích khám phá văn hóa các nước bản địa, là một hình thức không còn xa lạ
tại Việt Nam cũng như trên thế giới.
Như vậy, có rất nhiều loại hình lưu trú du lịch cho khách hàng lựa
chọn. Việc khách hàng lựa chọn loại hình lưu trú du lịch nào là hoàn toàn phụ
thuộc vào sở thích cá nhân và điều kiện kinh tế của khách hàng.
1.2. Khái niệm và đặc điểm của kinh doanh lưu trú du lịch
1.2.1. Khái niệm kinh doanh lưu trú du lịch
Khái niệm “Kinh doanh” được hiểu là việc đầu tư nhằm mục đích sinh
lời. Theo khoản 16, Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014 thì “Kinh doanh là việc
17
thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu
tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường
nhằm mục đích sinh lợi”.
Theo quy định của pháp luật du lịch hiện hành thì kinh doanh du lịch là
“Kinh doanh dịch vụ, bao gồm các ngành nghề sau: Kinh doanh lữ hành, kinh
doanh lưu trú du lịch, kinh doanh vận chuyển khách du lịch, kinh doanh phát
triển khu du lịch, điểm du lịch và kinh doanh dịch vụ du lịch khác”.
23
Như
vậy, có thể hiểu kinh doanh lưu trú du lịch là một loại hình của kinh doanh

dịch vụ du lịch, tiến hành các hoạt động kinh doanh liên quan đến tổ chức
dịch vụ cung cấp tiện nghi cho việc đi lại, lưu trú, ăn uống, tham quan và
hướng dẫn cho khách du lịch nhằm mục đích sinh lợi. Kinh doanh lưu trú du
lịch là hoạt động kinh doanh cho thuê buồng, giường và cung cấp các dịch vụ
du lịch khác phục vụ khách lưu trú, trong đó khách sạn là cơ sở lưu trú chủ
yếu.
Trước đây kinh doanh lưu trú chỉ là hoạt động kinh doanh dịch vụ
nhằm bảo đảm chỗ ngủ qua đêm cho khách có trả tiền, nhưng với những đòi
hỏi thỏa mãn nhiều nhu cầu ở mức cao hơn của khách du lịch, các cơ sở kinh
doanh lưu trú du lịch dần tổ chức kinh doanh thêm những dịch vụ ăn uống
nhằm đáp ứng toàn bộ nhu cầu của khách. Hoạt động kinh doanh lưu trú du
lịch cũng phát triển mạnh mẽ dẫn đến việc cạnh tranh giữa các cơ sở kinh
doanh lưu trú du lịch nhằm thu hút ngày càng nhiều khách và nhất là những
khách có khả năng chi trả cao đã làm tăng tính đa dạng trong hoạt động của
ngành. Ngoài hai dịch vụ lưu trú và ăn uống là những nhu cầu thiết yếu, kinh
doanh lưu trú du lịch còn bổ sung thêm dịch vụ như giải trí, thể thao, y tế,
dịch vụ chăm sóc sắc đẹp, giặt ủi, tổ chức tiệc, cho thuê phương tiện…
Hiện nay có thể nói, kinh doanh lưu trú du lịch là tổng hợp của kinh
doanh các cơ sở lưu trú và các dịch vụ kèm theo. Trong đó các dịch vụ được
thực hiện tại các cơ sở lưu trú du lịch bao gồm: Khách sạn, Làng du lịch, Biệt
thự du lịch, Căn hộ du lịch, Bãi cắm trại du lịch, Nhà nghỉ du lịch, Nhà ở có
phòng cho khách du lịch thuê và các cơ sở lưu trú du lịch khác nhằm phục vụ
23
Điều 38 Luật Du lịch 2005.
18
cho khách du lịch. Kinh doanh lưu trú du lịch là một hoạt động kinh doanh
trong kinh doanh du lịch và kinh doanh lưu trú du lịch chỉ tập trung kinh
doanh các cơ sở lưu trú du lịch là khách sạn, làng du lịch, biệt thự du lịch, căn
hộ du lịch, bãi cắm trại du lịch, nhà nghỉ du lịch, nhà ở có phòng cho khách
du lịch thuê và các dịch vụ khác cho khách lưu trú.

Ở góc độ này có thể đánh giá, kinh doanh lưu trú du lịch có những
điểm khác biệt nếu so sánh các dịch vụ khác như kinh doanh lữ hành, kinh
doanh vận chuyển khách du lịch, kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du
lịch và kinh doanh dịch vụ du lịch khác. Cụ thể là:
- Đối với kinh doanh lữ hành là việc xây dựng, bán và tổ chức thực
hiện một phần hoặc toàn bộ chương trình du lịch cho khách du lịch. Doanh
nghiệp kinh doanh lữ hành bao gồm doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa
và doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế trong đó: Kinh doanh lữ hành
nội địa là việc xây dựng, bán và tổ chức thực hiện một phần hoặc toàn bộ
chương trình du lịch cho khách du lịch nội địa. Còn kinh doanh lữ hành quốc
tế là việc xây dựng, bán và tổ chức thực hiện một phần hoặc toàn bộ chương
trình du lịch cho khách du lịch quốc tế.
- Đối với kinh doanh vận chuyển khách du lịch là việc cung cấp dịch vụ
vận chuyển khách du lịch theo chương trình du lịch và tại các khu du lịch,
điểm du lịch, đô thị du lịch.
- Đối với kinh doanh phát triển khu du lịch, địa điểm du lịch là đầu tư
bảo tồn, nâng cấp tài nguyên du lịch đã có; đưa các tài nguyên du lịch tiềm
năng vào khai thác; phát triển du lịch, điểm du lịch mới; kinh doanh xây dựng
kết cấu hạ tầng du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch.
Tóm lại, kinh doanh lưu trú du lịch là hoạt động kinh doanh trên cơ sở
cung cấp các dịch vụ lưu trú, ăn uống và các dịch vụ bổ sung cho khách du
lịch nhằm đáp ứng các nhu cầu ăn nghỉ và giải trí của họ tại các điểm du lịch
nhằm mục đích có lãi.
1.2.2. Đặc điểm của kinh doanh lưu trú du lịch
Kinh doanh lưu trú du lịch là một hoạt động kinh doanh trong kinh
doanh du lịch, vì thế bên cạnh những đặc điểm đặc thù của hoạt động kinh
19
doanh lưu trú du lịch thì nó còn bao hàm những đặc điểm chung của kinh
doanh du lịch, có thể thấy như sau:
Một là: Kinh doanh lưu trú du lịch là một hình thức kinh doanh dịch vụ

du lịch.
Khái niệm về dịch vụ có rất nhiều quan điểm khác nhau. Một khái niệm
dịch vụ khái quát được sử dụng rộng rãi đó là khái niệm theo tiêu chuẩn Việt
Nam ISO 9000:2000 “Dịch vụ là kết quả của ít nhất một hoạt đồng cần được
tiến hành tại nơi tương giao giữa người cung cấp và khách hàng và thường
không hữu hình”.
24
Một khái niệm khác của lý luận Marketing thì dịch vụ
được coi là một hoạt động của chủ thể này cung cấp cho chủ thể kia, chúng có
tính vô hình và không làm thay đổi quyền sở hữu.
25
Như vậy, dịch vụ là kết
quả của hoạt động tương tác giữa nhà cung cấp và khách hàng không thể hiện
bằng sản phẩm vật chất, không làm thay đổi quyền sở hữu và không thể lưu
kho bãi. Dịch vụ thể hiện bằng tính hữu ích của chúng và có giá trị kinh tế.
Kinh doanh lưu trú du lịch được xem là một hình thức kinh doanh dịch
vụ du lịch bởi lẽ hoạt động này ngoài việc cung cấp nơi lưu trú cho khách du
lịch còn cung cấp cho khách du lịch các dịch vụ lưu trú, ăn uống và các dịch
vụ bổ sung khác. Hoạt động này luôn gắn liền với các dịch vụ du lịch khác,
xét cho cùng đây là một hoạt động kinh doanh dịch vụ, người kinh doanh
nhắm đến lợi nhuận trong khi khách du lịch thì hướng đến thỏa mãn nhu cầu.
Hai là: Để thực hiện được hoạt động kinh doanh này đòi hỏi chủ thể
kinh doanh phải đáp ứng các điều kiện kinh doanh du lịch theo quy định của
pháp luật du lịch. Kinh doanh lưu trú du lịch là một ngành nghề đặc thù, tác
động đến nhiều lợi ích chung của cộng đồng cũng như tác động đến nhiều
doanh nghiệp kinh doanh du lịch khác. Để đảm bảo quyền tự do kinh doanh
cũng như hài hòa các quyền lợi khác như kinh tế, an ninh, trật tự xã hội, môi
trường, danh lam thắng cảnh , việc đăng ký kinh doanh lưu trú du lịch cần
phải đảm bảo điều kiện cần thiết do pháp luật quy định. chính vì thế mà tại
khoản 1 Điều 64 Luật Du lịch đã quy định các điều kiện chung về kinh doanh

24
Mục 3.4.2 TCVN ISO 9000:2000.
25
Nguyễn Văn Đính – Trần Thị Minh Hòa (2006), Giáo trình Kinh tế Du lịch, NXB Lao động – Xã Hội, Hà
Nội, tr. 217.
20
lưu trú du lịch là phải có đăng ký kinh doanh lưu trú du lịch và có biện pháp
bảo đảm an ninh, trật tự, vệ sinh môi trường, an toàn, phòng cháy, chữa cháy
theo quy định của pháp luật đối với cơ sở lưu trú du lịch; tại khoản 2 Điều 64
Luật Du lịch quy định cụ thể về điều kiện kinh doanh đối với khách sạn, làng
du lịch phải bảo đảm yêu cầu tối thiểu về xây dựng, trang thiết bị, dịch vụ,
trình độ chuyên môn, ngoại ngữ của người quản lý và nhân viên phục vụ theo
tiêu chuẩn xếp hạng tương ứng đối với mỗi loại, hạng. Đối với biệt thự du lịch
và căn hộ du lịch phải bảo đảm yêu cầu tối thiểu về trang thiết bị và mức độ
phục vụ theo tiêu chuẩn xếp hạng tương ứng đối với mỗi loại, hạng; đối với
bãi cắm trại du lịch, nhà nghỉ du lịch, nhà ở có phòng cho khách du lịch thuê,
cơ sở lưu trú du lịch khác phải bảo đảm trang thiết bị tối thiểu đạt tiêu chuẩn
kinh doanh lưu trú du lịch.
Ba là, kinh doanh lưu trú du lịch phụ thuộc vào tài nguyên du lịch tại
các điểm du lịch.
Tài nguyên du lịch có ảnh hưởng rất mạnh đến việc kinh doanh lưu trú
du lịch. bởi lẽ, phần lớn dịch vụ du lịch mang tính chất cố định, không thể di
chuyển vì các cơ sở du lịch vừa là nơi sản xuất vừa là nơi cung ứng dịch vụ
như là địa điểm du lịch, nhà hàng khách sạn
26
còn khách du lịch lại phân
tán khắp nơi. Các tài nguyên thiên nhiên, các nhà kinh doanh cơ sở lưu trú
đều không thể đem những giá trị của mình đến tận nơi cho khách hàng sử
dụng mà ngược lại, muốn được tiêu dùng và hưởng thụ, khách du lịch phải rời
khỏi nơi cư trú thường xuyên để đến nơi có tài nguyên, các cơ sở kinh doanh

du lịch. Mặt khác, các nhà kinh doanh cơ sở lưu trú du lịch muốn tồn tại được
phải bằng mọi cách thu hút khách du lịch đến với cơ sở kinh doanh lưu trú
của mình.
Như vậy, tài nguyên du lịch sẽ thu hút khách du lịch tới và kinh doanh
lưu trú du lịch ở đó mới thành công. Giá trị và sức hấp dẫn của tài nguyên du
lịch sẽ quyết định hiệu quả của kinh doanh lưu trú du lịch. Chính vì vậy, khi
đầu tư vào kinh doanh khách sạn, đòi hỏi chủ thể kinh doanh phải nghiên cứu
kỹ các thông số của tài nguyên du lịch cũng như nhóm khách hàng mục tiêu
26
Nguyễn Văn Đính (chủ biên), Trần Thị Minh Hòa (2008), tldd 4, tr. 220.

×