Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Việc làm của người có đất bị thu hồi để phát triển công nghiệp ở tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 132 trang )




1



Luận văn
Việc làm của người có đất bị thu
hồi để phát triển công nghiệp ở
tỉnh Nghệ An



2
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
CNH, HĐH là con đường phát triển của mọi quốc gia trên thế giới.
Thực tế cho thấy, con đường này chính là nhân tố quyết định sự thay đổi
căn bản phương thức sản xuất, chuyển nền kinh tế từ sản xuất nông
nghiệp truyền thống lên phương thức sản xuất mới, hiện đại. Trong tiến
trình CNH, HĐH, bộ mặt xã hội có sự thay đổi căn bản: quá trình đô thị
hoá và theo đó là quá trình thu hẹp xã hội nông thôn, làm thay đổi cơ bản
xã hội nông thôn theo hướng công nghiệp và hiện đại.
Để đẩy mạnh CNH, HĐH, cần phải thực hiện việc thu hồi đất cho
xây dựng các cơ sở sản xuất CN và DV, nhất là các khu và cụm CN, theo
đó là xây dựng các KĐT, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình
công cộng, phục vụ lợi ích quốc gia. Đây là một xu hướng tất yếu của quá
trình phát triển. Xu hướng này đã ngày càng tác động mạnh mẽ không chỉ
ở các trung tâm kinh tế lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, thành
phố Đà Nẵng, mà còn ở hầu khắp các tỉnh trong cả nước kể từ khi triển


khai chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước của Đảng (năm 1996) lại
đây. Nghệ An là một tỉnh Bắc Trung Bộ cũng không nằm ngoài xu hướng
phát triển chung nêu trên.
Trong hơn mười năm qua, tốc độ phát triển CN, DV nhất là các
KCN và khu tiểu thủ CN, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở Nghệ
An đã diễn ra rất nhanh, với quy mô ngày càng lớn. Kể từ khi có chủ
trương của Đảng về đẩy mạnh CNH, HĐH (năm 1996) đến nay, trên địa
bàn Nghệ An đã xây dựng được trên 3.500 cơ sở CN và DV thu hút trên
150.000 lao động, đặc biệt kể từ khi dự án đầu tiên về KCN được xây
dựng vào năm 1998 - KCN Bắc Vinh đến nay đã và đang triển khai thêm
một số dự án KCN và khu tiểu thủ CN mới. Đề án phát triển kinh tế - xã



3
hội miền Tây Nghệ An đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Khu kinh
tế Đông Nam Nghệ An được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập
tháng 6/2007 trên một diện tích rất rộng (18.826,47 ha) nằm trên 18 xã,
phường thuộc khu vực Đông Nam của tỉnh.
Cũng như các tỉnh khác, quá trình xây dựng khu và cụm CN ở Nghệ
An đang đứng trước những bất cập trong đó nổi lên vấn đề giải quyết việc
làm của người dân có đất bị thu hồi. Đó là tình trạng người dân bị thu hồi
đất phải thu hẹp việc sản xuất, mất việc làm truyền thống, phải chuyển đổi
nghề nghiệp, thay đổi chỗ ở. Trong khi đó, Nhà nước chưa chuẩn bị tốt
những điều kiện cần thiết cho người dân có đất bị thu hồi chuyển đổi nghề
nghiệp, làm cho một bộ phận lớn dân cư ở các khu vực này không có khả
năng tìm kiếm cho mình một công việc mới. Tình trạng thiếu việc làm, thất
nghiệp, không chuyển đổi được nghề nghiệp, khó khăn trong cuộc sống
sinh hoạt tại nơi tái định cư v.v đã và đang diễn ra khá phổ biến.
Do chủ yếu đất thu hồi là đất nông nghiệp nên những người nông dân

rất dễ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Sau khi bị thu hồi đất, nhiều
nông dân không có việc làm, không kịp chuyển đổi sang làm việc ở khu
vực công nghiệp và dịch vụ, một bộ phận trong số họ lâm vào tình trạng
việc làm và đời sống rất khó khăn. Tình trạng này đã xảy ra ở một số nơi
làm nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế - xã hội gay gắt. Mặt khác, việc đền bù
khi thu hồi đất nông nghiệp mới chỉ chú ý đến mặt lượng mà bỏ qua mặt chất.
Mặc dù số tiền mà Nhà nước phải bỏ ra để đền bù cho những người dân về
những thiệt hại mà họ phải gánh chịu là không nhỏ, nhưng số tiền đó trong
nhiều trường hợp không những không giúp cho người nông dân thiết lập một
cuộc sống mới tốt hơn mà còn gây nên những tác động xã hội tiêu cực. Nhiều
hộ nông dân không có khả năng sử dụng số tiền đền bù vào hoạt động sản
xuất kinh doanh. Đời sống của một số người bị thu hồi đất vốn đã khó khăn



4
càng trở nên khó khăn hơn, một số nơi bbất bình đi khiếu kiện, gây nên những
bất ổn về mặt xã hội, dễ bị kẻ xấu xúi giục, lợi dụng.
Trong khi đó, tình trạng sử dụng đất thu hồi kém hiệu quả đã và đang
gây ra sự bất công trong xã hội, làm cho tình hình chính trị, trật tự, an ninh xã
hội ở một số nơi có nguy cơ bất ổn định.
Để đánh giá đúng thực trạng việc làm và đời sống của người bị thu hồi
đất làm cơ sở cho việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách trong quá trình
đẩy mạnh CNH, HĐH ở Nghệ An, tôi chọn đề tài: “Việc làm của người có
đất bị thu hồi để phát triển công nghiệp ở tỉnh Nghệ An” để nghiên cứu làm
luận văn thạc sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đề cập đến
vấn đề việc làm và thu nhập của người có đất bị thu hồi để xây dựng các khu
công nghiệp, khu đô thị và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, trong đó

đáng chú ý là một số công trình sau đây: Đời sống và việc làm của người
nông dân những vùng bị thu hồi đất, của hai tác giả Trung Chính và Trần
Khâm, báo Nhân Dân các ngày 10, 11, 12 tháng 5/2005; Lao động nông thôn
trước nguy cơ thất nghiệp, của tác giả Duy Cảnh, trên báo Giáo dục Thời đại
số 51; Đất mất, việc khó tìm của Phan Dương, Thời báo Kinh tế Việt Nam
4/5/2005; Thực trạng thu nhập, đời sống và việc làm của người dân có đất bị
thu hồi, của TS. Nguyễn Hữu Dũng, Chuyên đề nghiên cứu; Nóng bỏng đất
đai, của tác giả Thu Hương, báo Đầu tư ngày 24/8/2005; Chuyển đổi mục
đích sử dụng đất nông nghiệp, của Dũng Hiếu, đăng trên Thời báo Kinh tế Việt
Nam số ra ngày 20/4/2005; Nhiều địa phương giải quyết khiếu nại về đất đai
chưa tốt, của Phan Lê, báo Sài Gòn Giải phóng ngày 21/8/2005; Việc làm cho
người nông dân hết đất sản xuất, quy hoạch lại nguồn lao động, của tác giả
Nguyễn Văn Nam, đăng trên Thời báo Kinh tế Việt Nam -19/8/2005; Chất
lượng lao động nông thôn thấp, của Huyền Ngân, Thời báo Kinh tế Việt Nam số



5
ra ngày 23/3/2005; Đất đai, những vấn đề thể chế bảo thủ trong tư duy, thiếu
minh bạch trong quản lý của tác giả Vũ Quốc Tuấn, Thời báo Kinh tế Việt Nam
-1/9/2005; Đẩy người dân đi đâu? của Đinh Toàn, báo Tuổi Trẻ ngày 22/8/2005;
Việc làm cho người nông dân khi thu hồi đất, của Nguyễn Thị Hải Vân, Thời
báo Kinh tế Việt Nam số ra ngày 13/7/2005; Trần Lê, “Lợi ích” của người nông
dân bị thu hồi đất, website Thời báo kinh tế Việt Nam, 6/7/2007.
Tháng 5/2007, nhà xuất bản chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách Thu
nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi để xây dựng các KCN,
KĐT, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình công cộng, phục vụ lợi
ích quốc gia do GS, TSKH Lê Du Phong chủ biên. Trong đó, nêu một số vấn
đề lý luận, thực trạng về thu nhập, đời sống, việc làm của người dân có đất bị
thu hồi để xây dựng các KCN, KĐT, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các công

trình công cộng, phục vụ lợi ích quốc gia trong thời gian qua ở nước ta, đồng
thời cho thấy những khó khăn tồn tại. Qua đó, các tác giả đưa ra những quan
điểm, giải pháp và kiến nghị nhằm giải quyết việc làm, đảm bảo thu nhập và
đời sống của người dân có đất bị thu hồi để xây dựng các KCN, KĐT, kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình công cộng, phục vụ lợi ích quốc gia
trong thời gian tới.
Nhìn chung, các công trình và bài viết trên đã có những cách tiếp cận
khác nhau hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp vấn đề giải quyết việc làm của người
có đất bị thu hồi trong những năm gần đây. Nhưng đến nay, chưa có công trình
nào nghiên cứu vấn đề việc làm của người có đất bị thu hồi để phát triển công
nghiệp ở tỉnh Nghệ An dưới góc độ kinh tế chính trị. Đề tài tác giả lựa chọn để
nghiên cứu không trùng lặp với các công trình và bài viết đã công bố.
3. Mục tiêu và nhiêm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục tiêu:
Làm rõ thực trạng giải quyết việc làm của người có đất bị thu hồi để
xây phát triển công nghiệp ở tỉnh Nghệ An, đề xuất phương hướng và giải



6
pháp nhằm giải quyết có hiệu quả tình trạng này để vừa đẩy nhanh tiến trình
CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh, vừa bảo đảm được lợi ích chính đáng của
người bị thu hồi đất.
Nhiệm vụ:
- Khảo sát và đánh giá thực trạng giải quyết việc làm của người có đất bị
thu hồi để phát triển CN ở tỉnh Nghệ An, chỉ ra những thành tựu, hạn chế
vướng mắc và nguyên nhân của thực trạng này.
- Đề xuất, kiến nghị phương hướng và giải pháp nhằm giải quyết có
hiệu quả hơn vấn đề việc làm của người có đất bị thu hồi cho phát triển CN ở
tỉnh Nghệ An trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài lấy thực trạng việc làm của những người có đất bị thu hồi để
phát triển công nghiệp, trong đó hướng nghiên cứu sâu vào tình trạng người
dân làm nông nghiệp bị thu hồi đất canh tác phải chuyển đổi nghề ở tỉnh
Nghệ An làm đối tượng nghiên cứu.
- Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian, đề tài chỉ nghiên cứu việc làm của người có đất bị thu hồi
ở tỉnh Nghệ An do thực hiện chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước
về chuyển đổi một bộ phận đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp và đất ở sang phát
triển công nghiệp và dịch vụ, chứ không nghiên cứu đối tượng bị thu hồi đất do
vi phạm pháp luật.
Về thời gian, từ năm 2001 đến năm 2007, đây là những năm hạ tầng cho
phát triển công nghiệp ở Nghệ An được đẩy mạnh.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận:



7
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở những nguyên l í của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm, đường lối và chính sách
đổi mới của Đảng và Nhà nước về CNH, HĐH đất nước và giải quyết việc
làm của người có đất bị thu hồi trong phát triển CN.
- Phương pháp nghiên cứu:
Để phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu đề ra, tác giả sử dụng các phương
pháp nghiên cứu: hệ thống hoá lý luận - thực tiễn, điều tra, khảo sát, so sánh,
phân tích, tổng hợp tình hình thực tiễn diễn ra trong giải quyết việc làm của
người có đất bị thu hồi trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn

- Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng giải quyết việc làm của
người bị thu hồi đất cho phát triển CN trên địa bàn tỉnh Nghệ An từ năm 2001
đến nay.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm giải quyết có hiệu quả vấn đề
việc làm của người có đất bị thu hồi trên địa bàn tỉnh Nghệ An đến năm 2010 và
những năm tiếp theo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
đề tài luận văn kết cấu thành 3 chương.









8
Chương 1
CƠ SỞ Lí LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ VIỆC LÀM
CỦA NGƯỜI CÓ ĐẤT BỊ THU HỒI ĐỂ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP

1.1. ĐẤT CHO PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI
THU HỒI ĐẤT ĐỂ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
1.1.1. Đất cho phát triển công nghiệp
CN là ngành sản xuất vật chất, có các hoạt động chủ yếu là khai thác và
chế biến và là một bộ phận cấu thành cơ cấu kinh tế ngành của nền kinh tế
quốc dõn.
Mặc dù cũng là ngành sản xuất vật chất, nhưng CN khác với nông nghiệp

ở chỗ đối tượng lao động của sản xuất CN là những tài nguyờn cú thể khai thỏc
và chế biến, cỏc loại nguyờn liệu, nhiờn liệu từ CN khai khoáng, các loại nguyên
liệu từ động, thực vật thuộc các ngành nông, lâm, thủy sản; các loại nhiên liệu
như than, dầu mỏ, khí đốt. năng lượng mặt trời, sức gió, sức nước; cũn đối tượng
lao động của sản xuất nông nghiệp chỉ bao gồm những cơ thể sống, được phát
sinh và phát triển theo quy luật sinh học. Trong CN, công nghệ sản xuất được sử
dụng chủ yếu là quỏ trỡnh tỏc động cơ, lý, hóa để biến đổi các nguyờn liệu
nguyờn thủy thành các sản phẩm cuối cùng khác về chất so với đặc tính ban đầu
của chúng; cũn cụng nghệ được sử dụng trong sản xuất nông nghiệp chủ yếu là
những tác động sinh học vào cơ thể sống theo quy luật sinh học làm gia tăng
khối lượng nông sản. Cũng như nông nghiệp, sản xuất CN tạo ra những sản
phẩm đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống xó hội. Lực lượng sản xuất xó
hội và khoa học, cụng nghệ càng phỏt triển, con người càng tạo ra được nhiều
hơn số lượng và chủng loại sản phẩm CN, đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống
ngày càng tốt hơn. Một nền kinh tế dựa chủ yếu vào sản xuất CN được gọi là nền



9
kinh tế CN. Đây là giai đoạn cao hơn so với thời đại nền kinh tế nông nghiệp xét
về lịch sử phát triển lực lượng sản xuất xó hội.
Phỏt triển CN là tất yếu đối với mọi quốc gia trên con đường đi tới một
nền kinh tế hiện đại. Thực tế cho thấy, CN là ngành kinh tế cú ý nghĩa quyết
định để chuyển nền kinh tế từ sản xuất nông nghiệp truyền thống sang phương
thức sản xuất mới theo lối CN, làm thay đổi bộ mặt kinh tế xó hội nụng thôn và
là điều kiện để đi tới một nền kinh tế hiện đại - nền kinh tế tri thức.
Phỏt triển CN phải được thực hiện bằng con đường CNH, HĐH, đó
chớnh là quỏ trỡnh thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy
móc, quá trỡnh chuyển nền kinh tế từ trạng thỏi nụng nghiệp là chủ yếu lờn
trỡnh độ CN. Phỏt triển CN tức là phát triển cả tiểu, thủ CN và đại CN. Nước

ta đang trong quá trỡnh đẩy mạnh CNH, HĐH để đi lên một nền kinh tế hiện
đại, do vậy nội dung chủ yếu của phỏt triển CN là xõy dựng một nền đại CN
dựa trên cơ sở những thành tựu mới nhất của KH và công nghệ với cơ cấu
kinh tế hợp lý, tạo ra năng suất lao động xó hội cao.
Mặc dù CNH đó bắt đầu diễn ra từ hơn 2 thế kỷ, nhưng đến nay trờn thế
giới vẫn cũn khụng ớt nước trong đó có Việt Nam đang trong giai đoạn CNH
để phát triển nền đại CN. CNH là giai đoạn lịch sử tất yếu mà không một quốc
gia nào không phải trải qua trên con đường đi tới một nền kinh tế hiện đại.
Tuy nhiờn, sự phỏt triển kinh tế của nhõn loại khụng phải dừng ở chỗ
chỉ tạo ra được nền đại CN. Các nước đó cú nền kinh tế CN cũng muốn phải
HĐH hơn nữa nền sản xuất của mỡnh.
Thật vậy, nhân loại đó trải qua hai cuộc cỏch mạng CN (cuộc cỏch
mạng CN lần thứ nhất vào cuối thế kỷ XVIII - giữa thế kỷ XIX và cuộc cỏch
mạng CN lần thứ hai từ nửa cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX). Từ những
năm 40 của thế kỷ XX đến nay, đang diễn ra cuộc cách mạng CN lần thứ ba
với hai giai đoạn: cỏch mạng khoa học - kỹ thuật (từ những năm 40 thế kỷ



10
XX - cuối những 70 của thế kỷ này); và từ cuối những năm 70 chuyển sang
giai đoạn hai với tên gọi cách mạng khoa học và công nghệ, và hiện đang ở
giai đoạn này.
Mặc dù đến nay vẫn chưa có công trình nào đưa ra định nghĩa đầy đủ
và cụ thể về cách mạng khoa học và công nghệ, nhưng đại thể có thể hiểu
cách mạng khoa học và công nghệ là sự thay đổi căn bản các lĩnh vực khoa
học, công nghệ cũng như mối quan hệ và chức năng xã hội của chúng, khiến
cho cơ cấu và động thái phát triển của các lực lượng sản xuất cũng bị thay đổi
hoàn toàn. Trong đó, quan trọng nhất là việc nổi lên vai trò hàng đầu của yếu
tố con người trong hệ thống lực lượng sản xuất dựa trên việc vận dụng đồng

bộ các ngành công nghệ mới có hàm lượng khoa học - công nghệ cao (gọi tắt
là các ngành công nghệ - Hitech) như công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu
mới, công nghệ sinh học ở những nét khái quát nhất, có thể định nghĩa cách
mạng khoa học và công nghệ là quá trình biến đổi tận gốc lực lượng sản xuất
của xã hội hiện đại, được thực hiện với vai trò dần đường của khoa học trong
toàn bộ chu trình: khoa học - công nghệ - sản xuất - con người - môi trường.
Nếu cuộc cách mạng CN lần thứ nhất và cách mạng CN lần thứ hai trước
đây chỉ thay thế một phần chức năng lao động chân tay của con người bằng
máy móc cơ khí, điện khí hoặc tự động hóa một phần, thì cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ là sự thay thế phần lớn và hầu hết chức năng của con người
(cả lao động chân tay lẫn trí óc) bằng các thiết bị máy móc tự động hóa hoàn
toàn trong một quá trình sản xuất nhất định. Đây là sự khác biệt cơ bản nhất.
Trong bối cảnh của cỏch mạng khoa học và cụng nghệ hiện nay, quỏ
trỡnh phỏt triển CN của cỏc nước đi sau không phải chỉ đơn thuần là triển
khai CNH, thực hiện nội dung của các cuộc cách mạng CN trước đây, mà cần
thiết phải gắn CNH với HĐH, tiếp cận kinh tế tri thức, tức là phải gắn với việc
triển khai cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Chỉ như vậy, mới có tốc
độ tăng trưởng và phát triển kinh tế nhanh, mới có thể theo kịp các nước đi trước



11
và mới hội nhập kinh tế quốc tế tích cực và có hiệu quả. Quỏ trỡnh này đũi hỏi
bên cạnh phát triển các ngành CN và không ngừng HĐH hệ thống sản xuất của
chúng, các nước đi sau phải coi trọng phát triển các ngành kinh tế dịch vụ, gắn
tăng trưởng nhanh CN và dịch vụ trong cơ cấu kinh tế quốc dân để chuyển
dịch nó thoát khỏi trạng thỏi một nền sản xuất nụng nghiệp.
Chớnh vỡ thế, trong cụng cuộc đổi mới đất nước, tại Đại hội toàn quốc
lần thứ VIII năm 1996, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH, phải gắn
CNH với HĐH trong từng bước phát triển, coi đó là nhiệm vụ trung tâm quan

trọng hàng đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Trong chủ trương đó,
Đảng ta xác định phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại.
Để đạt được mục tiêu trên, phải cú sự tập trung cỏc nguồn lực như vốn,
cụng nghệ, nhân lực, mặt bằng sản xuất, kết cấu hạ tầng Trong đó, tất yếu
phải di chuyển một bộ phận quan trọng nguồn lực đất đai từ nông nghiệp sang
phát triển CN và dịch vụ. Điều này làm thay đổi cơ cấu sử dụng đất trong các
ngành kinh tế theo hướng đất cho CN và dịch vụ tăng lên, cũn đất cho sản
xuất nông nghiệp giảm xuống cả về số lượng tuyết đối và tương đối.
1.1.2. Sự cần thiết phải thu hồi đất để phát triển công nghiệp
Sau khi giành chớnh quyền, lónh đạo đất nước quá độ lên CNXH, Đảng
ta đó xác định đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng. Luật cải cách
ruộng đất năm 1953 cho phép chia ruộng đất cho nông dân và Nhà nước đó
cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân. Chế độ sở hữu tư
nhân về đất đai đó được xác lập ở nước ta. Đến năm 1960, bằng công cuộc cải
tạo XHCN đối với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, tuyệt đại đa số đất
nông nghiệp được chuyển dần sang chế độ công hữu với hai hỡnh thức chủ
yếu là sở hữu tập thể và sở hữu Nhà nước, chế độ sở hữu tư nhân về đất đai cơ
bản bị xoá bỏ ở miền Bắc. Tỡnh hỡnh này cũng diễn ra ở miền Nam sau ngày
giải phúng. Đến năm 1978, về cơ bản cả nước chỉ cũn hai hỡnh thức sở hữu



12
ruộng đất chủ yếu là sở hữu tập thể và sở hữu Nhà nước. Năm 1980, Hiến
pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam quy định: đất đai thuộc sở hữu toàn
dõn, Nhà nước thống nhất quản lý đất đai, Nhà nước giao cho các tổ chức, hộ
gia đỡnh để tổ chức sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản,
làm muối Tại Đại hội toàn quốc lần thứ VII (6/1981), Đảng ra chủ trương:
ruộng đất thuộc sở hữu toàn dõn, giao cho nụng dõn quyền sử dụng lõu dài

(cỏc vấn đề khác như chuyển quyền sử dụng đất, kế thừa, thế chấp, do Nhà
nước quy định. Năm 1992 Nhà nước ban hành Hiến phỏp mới và năm 1993
ban hành Luật đất đai. Cả hai văn bản quan trọng này đều đó thể chế hoỏ chủ
trương trờn của Đảng, trong đó nêu rừ: Nhà nước cho tổ chức, hộ gia đỡnh, cỏ
nhõn, người nước ngoài thuê đất; người sử dụng đất ổn định được uỷ ban
nhân dân xó, phường, thị trấn xác nhận thỡ được cơ quan Nhà nước cú thẩm
quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hộ gia đỡnh, cỏ nhõn được
Nhà nước giao đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuờ, thừa kế,
thế chấp quyền sử dụng đất (điều 3). Những văn bản pháp lý của Nhà nước đó
qui định cụ thể quyền sử dụng đất tức là quyền của con người được khai thác
đất để phục vụ cho lợi ích của mỡnh bằng sức lao động đó được mở rộng hơn
bằng hỡnh thức chuyển một số chức năng quyền của chủ sở hữu cho người sử
dụng. Đó là quyền được định đoạt một phần và cũng là quyền được hưởng lợi
ích kinh tế của chủ sở hữu. Tuy nhiên, người sử dụng đất phải sử dụng đúng
mục đích được giao, trong thời hạn được giao.
Sau Luật đất đai năm 1993, đến nay Nhà nước đó ba lần tiến hành sửa
đổi, bổ sung vào các năm 1998, 2001 và 2003. Luật đất đai sửa đổi năm 2003
có hiệu lực từ ngày 1/7/2004 qui định: "Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do
Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý"; Nhà nước là tổ chức
quyền lực công đảm bảo cho quan hệ xó hội về đất đai được thực hiện theo
đúng qui định. Trong những quyền lực công về đất đai, Nhà nước có quyền sở
hữu, quyền định đoạt, quyền sử dụng đất đai và quyền được hưởng lợi ích
kinh tế từ đất. Theo những qui định này, Nhà nước có quyền cho thuờ đất,



13
quyền được giao đất, quyền được thu hồi đất đó giao hoặc cho thuờ, quyền
quyết định về qui hoạch và kế hoạch sử dụng đất, quyền đánh giá đất Người
được Nhà nước giao quyền sử dụng đất có quyền khai thác, sử dụng đất để

phục vụ cho các mục tiêu như sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng
thuỷ sản, xõy dựng khu CN, khu chế xuất, phỏt triển sản xuất CN và dịch vụ
theo thời hạn hoặc ổn định lâu dài và phải có nghĩa vụ với Nhà nước thụng
qua việc Nhà nước thu tiền sử dụng đất.
Theo những qui định này, để chuyển một phần diện tích đất nông
nghiệp và đất đang sử dụng theo mục đích khác thành đất sản xuất CN và dịch
vụ tạo tiền đề thúc đẩy CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân, Nhà nước cần phải
thu hồi đất mà một bộ phận dân cư đang sử dụng để tạo mặt bằng và kết cấu
hạ tầng cho sản xuất CN, dịch vụ. Sự cấn thiết phải thu hồi đất cho phát triển
CN được thể hiện:
Một là, thu hồi đất để có mặt bằng xây dựng các cơ sở sản xuất CN,
khu CN, khu chế xuất, khu kinh tế mở, thu hút đầu tư trong và ngoài nước cho
phỏt triển kinh tế - xó hội của đất nước. Muốn phỏt triển hệ thống sản xuất
CN thỡ khụng thể khụng chuyển một lượng diện tích nhất định đất đai cho
việc tạo lập mặt bằng triển khai hoạt động sản xuất này.
Hai là, do nằm trong một cơ cấu kinh tế, các ngành kinh tế có quan
hệ tác động thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau, nên sự phỏt triển sản xuất CN, tất
yếu phải phỏt triển cỏc ngành kinh tế dịch vụ, xõy dựng kết cấu hạ tầng
như sân bay, bến cảng, hệ thống đường giao thông, hệ thống lưới điện quốc
gia, hệ thống thông tin, liên lạc, bưu chính, viễn thông, hệ thống thủy lợi và
phát triển đô thị. Điều này đũi hỏi phải mở rộng diện thu hồi đất đó và
đang đang sử dụng vào sản xuất nông nghiệp, lõm nghiệp để chuyển sang
phỏt triển sản xuất CN, dịch vụ, xõy dựng kết cấu hạ tầng vỡ lợi ớch chung
của nền kinh tế quốc dõn và phỏt triển đô thị.



14
Chỉ tớnh riêng 15 năm kể từ khi bắt đầu thành lập các KCN đến cuối
năm 2006, cả nước đó cú 135 KCN và KCX với tổng diện tích đất tự nhiên

trên 30.000 ha, thu hút 4.516 dự án đầu tư trong và ngoài nước. Ngoài ra, cũn
cú 124 cụm CN hoặc KCN vừa và nhỏ do các địa phương thành lập, với tổng
diện tích hơn 6.500 ha. Theo quy hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt, từ thỏng 8/2005 đến năm 2015 và định hướng năm 2020 cả nước có
khoảng 80.000 ha đất dành cho KCN và KCX. Để có được một diện tích đất
nờu trờn cho phỏt triển KCN và KCX, Nhà nước phải tiến hành thu hồi đất từ
những chủ đang sử dụng vào các hoạt động khác, trong đó chủ yếu vào sản
xuất nụng, lõm nghiệp và nuụi trồng thuỷ sản. Việc làm này là cần thiết trong
quỏ trỡnh đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Ba là, việc thu hồi đất nông nghiệp, nông thôn cho phát triển CN, dịch
vụ, xây dựng đô thị và xây dựng kết cấu hạ tầng là cần thiết không chỉ đơn
thuần bắt nguồn từ yêu cầu CNH, HĐH và ĐTH, mà còn từ chính yêu cầu
phát triển kinh tế, xã hội của khu vực nông thôn. Việc phát triển sản xuất CN
không chỉ tạo ra cơ hội việc làm mới, ổn định hơn để người lao động có thu
nhập cao hơn so với làm việc trong nông nghiệp, tạo điều kiện chuyển dịch
lao động từ nông nghiệp, nông thôn sang CN, dịch vụ và thành thị, mà còn
tạo ra những điều kiện mới để mở rộng thị trường cho phát triển nông
nghiệp, nông thôn. Những sản phẩm được tạo ra từ CN sẽ là những yếu tố
sản xuất và hàng tiêu dùng đáp ứng tốt hơn nhu cầu sản xuất và đời sống của
người dân nông thôn. Nhờ phát triển CN mà người dân nông thôn có thị
trường tiêu thụ sản phẩm của mình, cung cấp các nguyên vật liệu cho CN và
hàng nông sản cho những người làm CN.
Thu hồi một phần đất nông nghiệp chuyển sang sản xuất CN còn tạo ra
điều kiện thúc đẩy tăng năng suất lao động nông nghiệp. Bởi vì sự phát triển
của các cơ sở CN đòi hỏi phải mở rộng nguồn cung cấp về nguyên liệu, nhất
là đối với các ngành CN chế biến nông sản cho sản xuất, và lương thực, thực



15

phẩm cho người lao động trong các cơ sở CN. Thị trường nông sản được mở
rộng hơn khi chưa có các cơ sở CN. Cầu về nong sản tăng lên, làm cho giá
nông sản tăng, tỷ suất lợi nhuận và thu nhập của người nông dân tăng lên.
Đây là điều kiện để họ tích lũy vốn, đổi mới công nghệ sản xuất, chăm lo hơn
đến việc sản xuất, qua đó thúc đẩy tăng năng suất lao động nông nghiệp, kích
thích sản xuất nông nghiệp gắn với thị trường, tăng hiệu quả.
Thực tế trong những năm gần đây cho thấy nhờ phát triển CN và việc
hình thành các KCN, KCX, nên đã chuyển được hàng triệu lao động nông
nghiệp sang CN, người lao động đã có thu nhập khá hơn so với khi làm nông
nghiệp, mức sống vật chất và tinh thần của cá nhân và gia đình họ đã được
nâng lên.
Theo thống kờ, tổng diện tích đất đai năm 2003 của cả nước có
33.104.200 ha, trong đó đất nông nghiệp 9.531.800 ha, đất lõm nghiệp cú
rừng 12.402.200 ha, đất chuyên dùng 1.669.600 ha, đất ở 460.400 ha, cũn
8.867.400 ha đất chưa sử dụng. Bỡnh quõn từ năm 1996 đến năm 2003, đất
chuyên dùng tăng 52.545 ha/năm. Theo Báo cáo chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, nông thôn 20 năm đổi mới của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, thỡ chỉ trong giai đoạn 2001-2005, cả nước đó cú 366.440 ha đất
nông nghiệp được chuyển đổi mục đích sử dụng, trong đó có 15.383 ha
chuyển sang xây dựng KCN, KCX và 24.173 ha xây dựng các cụm CN vừa
và nhỏ [5, tr.2]. Đất chuyên dùng tăng lên chủ yếu là do xây dựng và phát
triển các cơ sở sản xuất CN, các KCN, KĐT, xõy dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
- xó hội, nhu cầu cụng cộng và lợi ớch quốc gia. Kể từ khi thực hiện đường
lối đổi mới, chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường và đẩy mạnh CNH,
HĐH ở nước ta, việc thu hồi đất cho phát triển CN càng được tăng cường.
1.2. NỘI DUNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI CÓ ĐẤT BỊ THU
HỒI ĐỂ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP




16
1.2.1. Việc làm, giải quyết việc làm và những nhân tố ảnh hưởng
đến giải quyết việc làm
Việc làm là những hoạt động không vi phạm pháp luật và đưa lại cho
người thực hiện hoạt động đó một thu nhập nhất định. Điều này nghĩa là
người có việc làm không nhất thiết phải là người nằm trong biên chế Nhà
nước như thường được hiểu trước đây.
Trong điều kiện nền kinh tế có nhiều thành phần của nước ta hiện nay,
việc làm tồn tại trong tất cả các tổ chức thuộc các thành phần kinh tế và đều
được xó hội trõn trọng. Khi nền kinh tế cú nhiều ngành nghề thỡ việc làm
cũng tồn tại ở tất cả cỏc ngành nghề đó. Có việc làm trong CN, nông nghiệp
và trong dịch vụ; có việc làm thuộc lao động giản đơn và có việc làm thuộc
lao động phức tạp; có việc làm thuộc lao động chân tay và có việc làm thuộc
lao động trí óc. Tức là, việc làm là “sự cụ thể húa” nền sản xuất xó hội.
Khụng cú nền sản xuất xó hội nào là khụng cú việc làm. Tuy nhiờn, quy mụ
và cơ cấu việc làm trong một nền sản xuất xó hội cụ thể nhất định cũn phụ
thuộc vào trỡnh độ phát triển lực lượng sản xuất, tính chất của qnan hệ sản
xuất và quan điểm, chính sách của Nhà nước mà nền sản xuất đó tồn tại.
Giải quyết việc làm, theo nghĩa rộng, là tổng thể những biện phỏp, chớnh
sỏch kinh tế - xó hội của Nhà nước, cộng đồng và bản thân người lao động tác
động đến mọi mặt của đời sống xó hội để đảm bảo cho mọi người có khả năng
lao động đều được lao động (có việc làm) và có thu nhập. Theo nghĩa hẹp, giải
quyết việc làm là các biện pháp, chính sách chủ yếu hướng vào đối tượng thất
nghiệp, thiếu việc làm nhằm tạo ra chỗ làm việc cho người lao động để giảm
thiểu tỷ lệ thất nghiệp. Theo cỏc nghĩa nờu trờn, thực chất của giải quyết việc
làm là quỏ trỡnh tạo ra và kết hợp cỏc yếu tố sản xuất bao gồm sức lao động, tư
liệu sản xuất và các điều kiện kinh tế - xó hội khỏc để đảm bảo cho người có khả
năng lao động được lao động và duy trỡ hoạt động lao động đó.
Trong lịch sử phỏt triển của cỏc học thuyết kinh tế, đến nay đó cú một
số lý thuyết về việc làm và giải quyết việc làm, như lý thuyết cỏc yếu tố cơ




17
bản của quá trỡnh lao động của C. Mác, lý thuyết tạo việc làm của J.M.
Keynes, lý thuyết tạo việc làm bằng gia tăng đầu tư do các nhà kinh tế thuộc
trường phái Chính hiện đại, lý thuyết tạo việc làm bằng cách di chuyển lao
động giữa hai khu vực CN và nông nghiệp của Athur Lewis, lý thuyết tạo việc
làm của Harry Toshima. Cỏc lý thuyết này đó quan tõm đến các cách giải
quyết khác nhau về việc làm.
Theo C. Mỏc, quỏ trỡnh lao động chính là sự kết hợp của ba yếu tố gồm
sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Thiếu một trong ba yếu
tố này thỡ khụng thể diễn ra quỏ trỡnh lao động được. Hay nói cách khác,
những khách thể bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động (gọi chung
là tư liệu sản xuất) là điều kiện thiết yếu để người lao động có được việc làm.
Trong lý thuyết việc làm của J.M. Keynes cho rằng, việc làm cú vai trũ
rất quan trọng đối với sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế. Khi việc làm
tăng, thỡ thu nhập thực tế tăng, cầu tiêu dùng tăng, làm tăng tổng cầu và đây
là nhân tố thúc đẩy tăng trưởng tổng cung cũng như tăng trưởng của nền kinh
tế. Để tăng qui mô việc làm, cần mở rộng đầu tư. Khối lượng đầu tư quyết
định qui mô việc làm. Điều này nghĩa là để tăng khối lượng đầu tư, nhà nước
cần có những chương trỡnh đầu tư qui mô lớn, đồng thời cần có những chính
sách kích thích đầu tư của tư nhân (như chính sách tài chính, tín dụng, lưu
thông tiền tệ, chính sách thuế ). Việc mở rộng chi tiêu của nhà nước, tăng
tiêu dùng của những người giàu, chính sách “ướp lạnh tiền công”, “tín dụng
tiêu dùng” cũng được coi là cỏc giải pháp để tăng tổng cầu, mở rộng qui mụ
việc làm.
Theo lý thuyết tạo việc làm bằng gia tăng đầu tư - tăng trưởng kinh tế,
thỡ muốn tăng trưởng kinh tế phải có tích luỹ, để từ đó có vốn đầu tư mở rộng
tái sản xuất, tạo nhiều việc làm. Đối với các nước đang phát triển do thu nhập

thấp, tốc độ tăng trưởng chậm, tỷ lệ tích luỹ thấp, dẫn đến thiếu vốn đầu tư.
Để tạo vốn đầu tư cho tăng trưởng, các nước này cần phải dựa vào lợi thế so
sỏnh của mỡnh là tài nguyờn thiờn nhiờn và nguồn nhõn lực dồi dào để thu



18
hút vốn đầu tư từ bên ngoài (hiểu theo nghĩa rộng, vốn đầu tư bao gồm cả vốn
bằng ngoại tệ, thiết bị, phương tiện kỹ thuật, công nghệ, tri thức quản lý kinh
tế hiện đại), từ đó sẽ tạo mở được nhiều việc làm. Tốc độ và quy mô của vốn
đầu tư tăng sẽ thúc đẩy trực tiếp tốc độ và quy mô của việc thu hút nguồn
nhân lực vào hoạt động kinh tế (tạo việc làm).
Nhỡn chung, qua cỏc lý thuyết, dưới góc độ kinh tế thị trường, có thể
khái quát qui mô việc làm được quyết định bởi:
- Qui mô vốn đầu tư. Khi lực lượng sản xuất càng phát triển, nền sản
xuất càng coi trọng việc sử dụng máy móc thỡ lượng vốn đầu tư để có một
chỗ làm việc càng nhiều hơn. Nền sản xuất càng cú nhiều hỡnh thức đầu tư,
tức là càng có nhiều ngành nghề thỡ càng cú điều kiện mở rộng qui mô việc
làm. Trong điều kiện trỡnh độ công nghệ không đổi, thỡ qui mụ đầu tư tỷ lệ
thuận với qui mô việc làm.
- Số lượng và chất lượng lao động. Số lượng người lao động càng
nhiều thỡ càng cú điều kiện tạo thêm việc làm. Tuy nhiên, chất lượng người
lao động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Chất lượng người lao động được thể
hiện ở trỡnh độ, năng lực lao động, tính kỷ luật và phẩm chất của mỗi người
lao động. Sự sẵn sàng về số lượng và chất lượng lao động để đáp ứng cầu lao
động trên thị trường là một điều kiện rất quan trọng trong việc quyết định qui
mô việc làm.
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm. Nếu dung lượng thị trường này càng
lớn, có sức tiêu thụ sản phẩm càng nhiều và càng nhanh, tức là cầu về hàng
hóa và dich vụ tăng, thỡ cầu về cỏc yếu tố sản xuất núi chung trong đó có cầu

về lao động tăng, qui mô việc làm tăng.
Để tạo ra và thúc đẩy tăng trưởng những nhõn tố trên đũi hỏi phải cú
một loạt cỏc giải phỏp như mở rộng tích lũy vốn, phát triển khoa học và công
nghệ, khai thác triệt để và có hiệu quả các nguồn lực về tài nguyên thiên
nhiên; điều tiết gia tăng dân số, mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục -



19
đào tạo, y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng; sự hỗ trợ của các chính sách của
Nhà nước trong việc khuyến khích đầu tư, phát triển thị trường lao động,
chớnh sỏch thu nhập, mở cửa nền kinh tế Về mặt lý thuyết cũng như thực
tiễn, đây chính là những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm. Sự phối
hợp đồng bộ và có hiệu quả những giải pháp này là một điều kiện thiết yếu
làm tăng qui mô việc làm trong xó hội và chớnh đây cũng là điều kiện tạo nền
sự tăng trưởng kinh tế.
1.2.2. Nội dung chủ yếu của giải quyết việc làm cho người có đất bị
thu hồi
Như đó nờu trờn, để phát triển CN, việc thu hồi đất chuyển đổi mục
đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang đất CN, đất chuyên dùng cho phát triển
các KCN, KCX, xây dựng đường sỏ giao thụng và cỏc cụng trỡnh cụng cộng
khỏc là cần thiết.
Việc thu hồi đất làm nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế - xó hội liên quan
đến ba đối tượng: xó hội, mà đại diện là Nhà nước; các doanh nghiệp cần đất
để sử dụng và người dân có đất bị thu hồi. Điều này có nghĩa là vấn đề giải
quyết việc làm cho người có đất bị thu hồi không chỉ đơn giản là công việc
thiết thõn của người bị thu hồi đất, mà cũn cú liờn quan đến Nhà nước và các
doanh nghiệp sử dụng đất do Nhà nước giao sau khi thu hồi. Giải quyết việc
làm cho người có đất bị thu hồi, do vậy phải là cụng việc được cả ba đối
tượng nờu trờn quan tõm. Nội dung của nú bao gồm:

- Mở rộng lượng cầu về lao động
Lượng cầu về lao động là số lượng lao động mà cỏc tổ chức kinh tế, xó
hội cú nhu cầu sử dụng và cú khả năng chi trả tiền công hoặc tiền lương để
được quyền sử dụng số lao động đó trong một thời gian nhất định.
Do người lao động bị thu hồi đất chủ yếu là nụng dõn sống bằng sản
xuất nông nghiệp, nên giải pháp đơn giản nhất là giao quyền sử dụng đất nông
nghiệp ở nơi khác để họ tiếp tục làm việc theo nghề vốn đó cú. Thế nhưng, do



20
diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp, nên giải phỏp chủ yếu không phải như
vậy, mà là phải chuyển đổi nghề để họ sang làm việc ở các cơ sở sản xuất CN
và dịch vụ. Nghĩa là, để mở rộng lượng cầu việc làm trong điều kiện chuyển
một phần diện tích đất nông nghiệp sang phát triển CN, cần coi trọng việc các
cơ sở CN tuyển dụng lao động tại chỗ, thu hút những người bị mất đất vào
làm việc tại các cơ sở của mỡnh. Đồng thời, khuyến khích phát triển tiểu thủ
CN, làng nghề, phát triển các ngành dịch vụ, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp
theo hướng hàng hóa, phát triển hỡnh thức trang trại, mở rộng việc làm ở khu
vực nụng thụn, mở rộng xuất khẩu lao động Cần tạo ra cơ hội để người lao
động tự tạo việc làm. Nhà nước cần có chính sách và biện pháp để các cơ sở
CN khi nhận quyền sử dụng đất phải có kế hoạch ưu tiên tuyển dụng, thu hút
lao động bị mất việc làm do bị thu hồi đất. Đây là biện pháp giải quyết việc
làm cần thiết để tạo được sự đồng thuận giữa các đối tượng liên quan đến đất
bị thu hồi.
Thực tế cho thấy, nhờ phỏt triển CN mà đó tạo ra cơ hội cho việc thu
hút và giải quyết việc làm cho người lao động. Theo tính toán của Bộ Lao
động- thương binh- xó hội thỡ cứ một ha đất khi chuyển sang phát triển CN,
dịch vụ có thể tạo ra được từ 50 đến 100 chỗ làm việc mới. Việc xây dựng và
phát triển các KCNkhông chỉ tạo ra một lượng lớn việc làm để thu hút số lao

động ở đô thị, mà cũn thu hỳt một lượng lớn lao động vốn là những người
nông dân hoặc không nghề nghiệp ổn định sống ở các vùng nông thôn, nhờ đó
góp phần làm tăng năng suất lao động tại các vùng này. Số việc làm không
chỉ được tạo ra cho số lao động làm việc chính thức tại các nhà máy, các cơ
sở sản xuất, kinh doanh, mà cũn cho một số lượng lớn lao động làm dịch vụ,
xây dựng cơ bản và các khu vực phi chính thức khác phục vụ cho phát triển
CN kể cả ở trong và ngoài KCN, KCX.
- Nâng cao chất lượng cung lao động



21
Người dân bị thu hồi đất nên bị mất việc làm, có nghĩa là dư cung về
lao động trong nông nghiệp. Muốn cú việc làm, họ phải chuyển nghề, tỡm
việc làm mới. Và muốn vậy, họ phải đi học để có được một nghề chuyên mụn
nhất định. Phải mở nhiều hỡnh thức đào tạo phù hợp với từng lứa tuổi và sở
thích của người lao động, trong đó dạy nghề cho nông dân là một giải pháp thiết
thực nhất, đáp ứng nhu cầu trước mắt của họ. Do người bị mất đất ở các lứa tuổi
khác nhau, nên việc dạy nghề phù hợp với từng lứa tuổi phải được coi trọng.
Chất lượng lao động khụng chỉ là trỡnh độ học vấn, trỡnh độ tay nghề, mà
cũn bao hàm cả ý thức kỷ luật, tính trách nhiệm, độ nhạy cảm của người lao
động với những diễn biến thị trường. Do vậy, bên cạnh việc mở rộng qui mụ và
loại hỡnh đào tạo nghề, việc coi trọng nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo là
rất cần thiết để nâng cao chất lượng cung về lao động trên thị trường.
Chất lượng cung về lao động cũn phụ thuộc vào sức khỏe của người lao
động. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như điều kiện ăn, ở, đi lại, rèn luyện
sức khỏe, y tế, hệ thống an sinh xó hội. Việc bố trớ tỏi định cư cho người có
đất bị thu hồi, việc đảm bảo đời sống của họ khi Nhà nước thu hồi đất phải
được đặt ra. Điều này không chỉ cú ý nghĩa làm tăng chất lượng cung lao
động, mà cũn thể hiện đạo lý của cách mạng XHCN, mục tiêu của công cuộc

xây dựng CNXH ở nước ta.
Thực tế cho thấy, vấn đề nâng cao chất lượng cung lao động nhằm giải
quyết việc làm cho người dân có đất bị thu hồi không chỉ đơn giản là một cơ
hội để họ có thế có khoản thu nhập cao hơn, mà cũn là một ỏp lực đối với họ.
Đú là tỡnh trạng khi người dân có đất bị thu hồi, họ không những phải chuyển
nơi ở, mà cũn phải chuyển đổi nghề nghiệp. Đây là mọt vấn đề lớn, vỡ họ
đang sinh sống ổn định trong ngôi nhà của mỡnh, với cụng việc sản xuất hàng
ngày gắn bú với đồng ruộng với một trỡnh độ sản xuất thấp. Sau khi bị Nhà
nước thu hồi đất, họ không dễ dàng chuyển đổi nhanh sang một việc làm mới
thích ứng với tác phong CN hay kinh doanh dịch vụ được. Do quá trỡnh



22
CNH, HĐH diễn ra ngày càng nhanh, việc chuyển đổi mục đích sử dụng từ
đất nông nghiệp sang đất CN và dịch vụ ngày càng tăng, nên sẽ diễn ra tỡnh
trạng một bộ phận ngày càng lớn nụng dõn bị mất việc làm. Số liệu bỏo cỏo
của Bộ Tài nguyên môi trường, giai đoạn từ 2000 - 2004, diện tích đất nông
nghiệp của cả nước đó được chuyển đổi mục đích sử dụng là gần 157.000 ha,
trong đó để xây dựng các KCN, KCX 22.000 ha, xõy dựng cỏc cụm CN vừa
và nhỏ gàn 35.000 ha, xõy dựng kết cấu hạ tầng đô thị gần 100.000 ha. Bộ
Lao động thương binh xó hội mới đây báo cáo, trung bỡnh mỗi hộ gia đỡnh
nụng dõn bị thu hồi đất có khoảng 1,5 lao động rơi vào tỡnh trạng khụng cú
việc làm và mỗi ha diện tớch đất nông nghiệp bị thu hồi có tới 13 lao động
mất việc làm trong sản xuất nông nghiệp. Với 157.000 ha đất đó chuyển đổi
nói trên sẽ có tới trên 20 vạn lao động nông nghiệp phải chuyển đổi nghề
nghiệp, trong số đó vẫn cũn nhiều người chưa có việc làm, đó rơi vào tỡnh
trạng thất nghiệp dẫn tới cuộc sống khú khăn. Để giải quyết việc làm việc cho
số người này, về cơ bản, lâu dài vẫn phải nâng cao chất lượng cung về lao
động cho họ. Điều này cũng cần có sự hỗ trợ của Nhà nước.

Việc đào tạo nghề cho những người từ nông dân có đất bị thu hồi để
chuyển đổi nghề nghiệp cho họ là một vấn đề cần thiết, đang đặt ra nhằm
nâng cao chất lượng cung lao động. Do đặc điểm của sản xuất của các ngành
CN đũi hỏi người lao động phải có tay nghề, có chuyên môn, kỹ thuật, nên
người lao động phải được đào tạo cơ bản. Nhưng hầu hết số lao động nông
thôn ở nước ta lại chưa hề được đào tạo, chủ yếu là lao động phổ thông, nên
chất lượng cung về lao động cũn thấp. Theo kết quả điều tra của Ban chỉ đạo
điều tra thực trạng việc làm và thất nghiệp năm 2006 của Bộ Lao động
thương binh và xó hội thỡ cả nước ta có 34 triệu lao động nông thôn thỡ cú
26,2 triệu người chưa qua đào tạo, chiếm gần 77,1%, chỉ có 17,6% lao động
được đào tạo tay nghề theo trỡnh độ sơ cấp hoặc công nhân kỹ thuật, 3,1%
có trỡnh độ trung cấp kỹ thuật, 5,3% có trỡnh độ từ cao đẳng trở lên. Số lao



23
động này nếu không được đào tạo một nghề nhất định thỡ rất khú cú thể đáp
ứng được trước yêu cầu phát triển của các ngành CN và dịch vụ. Đây thực
sự là nguy cơ tiềm ẩn thất nghiệp đối với những người có đất bị thu hồi.
- Phỏt triển cỏc dịch vụ mụi giới việc làm
Thị trường lao động là nơi diễn ra quan hệ mua và bán sức lao động,
nơi để người lao động tỡm kiếm việc làm và để người sử dụng lao động tỡm
được người làm những công việc phù hợp. Thị trường lao động là một cơ chế
quan trọng để khai thụng quan hệ cung - cầu về lao động trong xó hội. Tiền
cụng thị trường là tín hiệu để người lao động lựa chọn việc cung ứng sức lao
động, lựa chọn sự sẵn sàng làm việc cho một tổ chức cần thuê mướn lao
đông; đồng thời tiền cụng cũng là tín hiệu để người mua sức lao động có
quyết định đúng đắn thuê số lượng lao động là bao nhiêu, ở thời điểm nào.
Do sức lao động là một loại hàng hóa được lưu thông trên thị trường,
nên cơ chế vận hành thị trường lao động trước hết chịu sự chi phối của các quy

luật khách quan, chịu tác động của quan hệ cạnh tranh và quan hệ cung - cầu.
Nhưng để giải quyết việc làm cho người có đất bị thu hồi, Nhà nước cần quan
tâm tác động vào thị trường này, thúc đẩy quá trỡnh phỏt triển của nú.
Thông qua các trung tâm môi giới lao động, giới thiệu việc làm, thông
qua thông tin thị trường lao động, Nhà nước cần có những hỗ trợ để người lao
động có đất bị thu hồi có sự chuẩn bị về nghề nghiệp trước khi tham gia thị
trường lao động, được ưu tiên tuyển chọn vào làm việc tại các tổ chức kinh tế,
xó hội nơi họ cư trú. Đồng thời, giới thiệu cho họ di chuyển việc làm đến các
cơ sở sản xuất kinh doanh khác trong tỉnh hoặc ngoại tỉnh, mở rộng hỡnh thức
đưa người lao động ra làm việc ở nước ngoài để giảm bớt căng thẳng cung về
lao động trong nước.
Thông qua thị trường lao động, các cơ sở đào tạo, dạy nghề có thể điều
chỉnh qui mô và cơ cấu đào tạo cho thích hợp, sát với nhu cầu thị trường.



24
- Có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước với người sử dụng lao động
và người lao động trong giải quyết việc làm.
Thu hồi để phát triển CN, mở rộng ra là để CNH, HĐH nền kinh tế, có
nghĩa đây là việc làm cần thiết để nền sản xuất có được năng suất lao động
cao hơn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh hơn, qua đó nâng cao mức hưởng
thụ vật chất và tinh thần cho người dân và cho toàn xó hội. Việc chuyển đổi
mục đích sử dụng đất như vậy chính là vỡ lợi ớch chung. Để phát triển nền
kinh tế theo định hướng XHCN, để đảm bảo lợi ích chung, trong giải quyết
việc làm của người có đất bị thu hồi cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà
nước với người sử dụng lao động và người lao động. Đây không phải đơn
thuần chỉ là trách nhiệm tự thân của người bị thu hồi đất, mà cũn cú trỏch
nhiệm của Nhà nước và các cơ sở CN được nhận quyền sử dụng đất thu hồi.
Không chỉ nhận thực giản đơn rằng khi thu hồi đất, Nhà nước đền bù cho

người dân một số tiền về đất, hoa màu, tài sản trên đất và bố trí tái định cư
cho họ là hết trách nhiệm. Vấn đề đặt ra và cần được tính đến khi thu hồi đất
là phải đảm bảo cuộc sống lâu dài cho người người có đất bị thu hồi, phải tạo
ra và đảm bảo việc làm ổn định cho họ.
Trên thực tế, đó khụng ớt người dân bị thu hồi đất sau khi nhận được
tiền đền bù với một khoản lớn đó khụng biết sử dụng cú hiệu quả, đưa vào tiêu
dùng, mua sắm đồ dùng đắt tiền vỡ hưởng thụ trước mắt, thậm chí có một số
người do không có việc làm nên dùng số tiền đó đánh bạc, nghiện hút và các tệ
nạn xó hội khỏc. Khi hết tiền, đó khụng cú việc làm, khụng cú thu nhập mà lại
cú thúi quen tiờu dựng. Nếu khụng cú sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước với
người sử dụng lao động và người có đất bị thu hồi trong giải quyết việc làm
cho đối tượng này thỡ khú cú thể trỏnh khỏi những bất ổn trong xó hội và do
đó những mục tiêu chuyển đổi đất cũng không được thực hiện.
Để có được sự phối hợp này, Nhà nước với vai trũ là một tổ chức nhõn
danh xó hội, vỡ lợi ớch chung, ngoài những hỗ trợ cần thiết cho người có đất



25
bị thu hồi, cần phải có cơ chế chính sách buộc người lao động tham gia tích
cực vào thị trường lao động, và quy trách nhiệm cho các doanh nghiệp trong
việc thu hút những người có đất bị thu hồi vào làm việc tại cơ sở của mỡnh,
nhất là cỏc doanh nghiệp được nhận quyền sử dụng đất thu hồi do Nhà nước
giao. Việc làm này phải được chuẩn bị trước khi thu hồi đất. Có như vậy mới
đảm bảo cho người có đất bị thu hồi sẵn sàng giao đất cho Nhà nước để được
làm một công việc mới có thu nhập cao hơn.
1.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ TỈNH, THÀNH PHỐ TRONG GIẢI
QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI CÓ ĐẤT BỊ THU HỒI
1.3.1. Kinh nghiệm của Hà Nội
Hà Nội là thủ đô, trung tâm kinh tế, chính trị và văn hoá của cả nước,

nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ thuộc châu thổ sông Hồng. Trong hơn
mười năm gần đây, kinh tế của Hà Nội đã có những bước phát triển tương đối
khá, được đánh giá là một trong những địa phương có môi trường đầu tư hấp
dẫn nhất cả nước. Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm không ngừng tăng, giai
đoạn 1990-1999 bình quân đạt 11,85%/năm (cả nước đạt 7,7%), giai đoạn
2000-2005 đạt 9,8%/năm (cả nước đạt 7,5%). Tỷ trọng GDP của Hà Nội so
với cả nước không ngừng tăng, năm 1990 là 5,5%, lên 6,1% vào năm 1995,
lên 7,1% năm 1999 và 8,4% năm 2004. Hà Nội cùng thành phố Hồ Chí Minh
trở thành một trong những địa phương có tỷ lệ GDP/người cao nhất cả nước.
Có được những thành tựu trên là do Thành phố đã rất cố gắng triển khai
đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó có giải pháp giải quyết việc làm cho người
có đất bị thu để cho phát triển CN, dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng, xây
dựng các khu đô thị. Những biện pháp thành phố Hà Nội đã áp dụng là:
- Thành lập Ban chỉ đạo Chương trình việc làm, tiến hành nắm bắt thực
tế nguồn nhân lực, khả năng giải quyết việc làm của các dự án mới được xây
dựng, khả năng của các cơ sở sản xuất kinh doanh để chỉ đạo các sở, ngành có

×