Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Luận văn phát triển kinh tế đối ngoại của cămpuchia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (794.79 KB, 60 trang )


1





Luận văn
Phát triển Kinh tế Đối ngoại của
Cămpuchia trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực

2

Mục lục
Lời mở đầu 2
1. Tính cấp thiết của đề tài 2
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài 3
3. Phạm vi nghiên cứu 3
4. Phương pháp nghiên cứu 3
5. Đóng góp của đề tài 4
6. Bố cục của đề tài 4
Nội dung 4
I/ Lý luận chung phát triển kinh tế đối ngoại 4
1/ Khái niệm 4
2/ Các hình thức hội nhập khu vực 5
3/ WTO tổ chức mang tính hội nhập toàn cầu 6
4/ Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực 12
5/ Tính tất yếu phải hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực 21
II/ Phát triển kinh tế đối ngoại của Cămpuchia 22
1/ Tình hình kinh tế và chính trị của Cămpuchia 22


2/ Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của Cămpuchia 30
3/ Một số nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
Cămpuchia 39
4/ Tình hình đầu tư ra nước ngoài của Cămpuchia 41
5/ Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của Cămpuchia 41
III/ Các phương hướng phát triển kinh tế đối ngoại của Cămpuchia và những kiến
nghị 58
1/ Các phương hướng nhằm phát triển kinh tế đối ngoại của Cămpuchia 58
2/ Kiến nghị 59
Kết luận 59
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế Đối ngoại Cămpuchia là lĩnh vực rất quan trọng đóng góp cho sự
phát triển của Cămpuchia nói chung và nền kinh tế Cămpuchia nói riêng.

3

Hiện nay quá trình toàn cầu hoá là một xu thế phát triển và tất yếu của tất cả
các quốc gia trên thế giới. Theo xu thế phát triển đó, Cămpuchia đã gia nhập 2 tổ
chức lớn trên thế giới đó là: Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN) và Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) với mục đích đẩy nhanh sự phát triển của đất
nước.
Cùng với sự ưu đãi và những thuận lợi mà ASEAN và WTO mang lại,
Cămpuchia cũng đang phải đối mặt với những thách thức cũng như những bất
lợi do tác động 2 chiều của quá trình hội nhập. Xuất phát từ sự cần thiết đó, đề
tài “Phát triển Kinh tế Đối ngoại của Cămpuchia trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực” được chọn làm chuyên dề thực tập tốt nghiệp.

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Phân tích những thuận lợi và bất lợi mà Cămpuchia đã được hưởng và phải

đối mặt do việc hội nhập ASEAN và WTO đem lại.
- Phân tích Kinh tế Đối ngoại của Cămpuchia trước và sau khi gia nhập
ASEAN và WTO.
- Đề xuất một số phương hướng đối với Cămpuchia nhằm đẩy mạnh sự phát
triển Kinh tế Đối ngoại trong quá trình hội nhập nền kinh tế quốc tế và khu vực.

3. Phạm vi nghiên cứu
- Nền kinh tế Cămpuchia trước và sau khi giai nhập ASEAN và WTO.
- Thời gian nghiên cứu chủ yếu từ năm 1995 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu trên cơ sở tư duy của
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phương pháp
cụ thể được sử dụng là: Phương pháp thống kế, phân tích, tổng hợp và khái quát
hoá v.v.

4


5. Đóng góp của đề tài
Cho biết cụ thể những thuận lợi và bất lợi của Cămpuchia sau khi gia
nhập ASEAN và WTO.
Cho biết về tình hình thực hiện CEPT của Cămpuchia.
Cho biết thực trạng Kinh tế Đối ngoại của Cămpuchia trong thời gian
trước khi gia nhập và sau khi gia nhập ASEAN và WTO.
Đề xuất một số phương hướng nhằm đẩy mạnh sự phát triển Kinh tế Đối
ngoại của Cămpuchia sau khi gia nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Một số kiến nghị nhằm phát triển nền kinh tế Cămpuchia trong xu thế hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực.

6. Bố cục của đề tài

Đề được chia làm 3 phần:
Phần I: Lý luận chung phát triển kinh tế đối ngoại.
Phần II: Phát triển kinh tế đối ngoại của Cămpuchia.
Phần III: Các phương hướng phát triển kinh tế đối ngoại của Cămpuchia và
những kiến nghị.


Nội dung
I/ Lý luận chung phát triển kinh tế đối ngoại
1/ Khái niệm
Hội nhập: là quá trình hợp tác của các quốc gia trong một khu vực địa lý
hoặc quốc tế nhằm mục đích giảm bớt hay xóa bỏ các trở ngại đối với dòng vận
động của hàng hóa, dịch vụ, lao động và vốn giữa các quốc gia đó.

5

Thương mại quốc tế: là sự trao đổi mua bán qua biên giới hàng hoá và dịch
vụ.
Đầu tư nước ngoài: là một quá trình kinh doanh trong đó hai hay nhiều bên
có quốc tịch khác nhau cùng nhau góp vốn để thực hiện một hay một số dư án
đầu tư nhằm tạo ra lọi ích cho các bên tham gia.

2/ Các hình thức hội nhập khu vực
Hình thức hội nhập khu vực bao gồm một số hình thức như sau:
Khu vực thương mại tự do, là một hình thức hội nhập trong đó các thành
viên cùng nhau thoả thuận thống nhất một số vấn đề nhằm mục đích tự do hoá
trong buôn bán về một hoặc một số nhóm mặt hàng nào đó. Các thoả thuận đó
là:
Thứ nhất, giảm hoặc xoá bỏ hàng rào thuế quan và các biện pháp hạn chế
số lượng đối với một phần các loại sản phẩm và dịch vụ khi buôn bán với nhau.

Thứ hai, tiến tới lập một thị trường thống nhất về hàng hoá và dịch vụ.
Thứ ba, mỗi thành viên trong khối vẫn có quyền độc lập tự chủ trong quan
hệ buôn bán với các quốc gia ngoài khối, tức là mỗi thành viên có thể có chính
sách ngoại thương riêng đối với các quốc gia ngoài khối
Liên minh thuế quan, là một hình thức hội nhập nhằm tăng cường hơn nữa
mức độ hợp tác giữa các nước thành viên. Theo thoả thuận hợp tác này, các
quốc gia trong liên minh bên cạnh việc xoá bỏ thuế quan và những hạn chế về
mậu dịch khác giữa các quốc gia thành viên, còn cần phải thiết lập một biểu thuế
quan chung của khối đối với các quốc gia ngoài liên minh, tức là phải thực hiện
chính sách cân đối mậu dịch với các nước không phải là thành viên.
Cộng đồng kinh tế, là một hình thức hội nhập trong đó không chỉ qui định
việc loại bỏ hàng rào thuế quan giữa các nước thành viên và thiết lập một biểu

6

thuế quan chung đối với các quốc gia khác, mà còn kêu gọi thực hiện di chuyển
tự do hàng hoá, dịch vụ, lao động và vốn trong nội bộ khối.
Liên minh kinh tế, là một hình thức hội nhập với những đặc điểm tương
đồng với cộng đồng kinh tế về sự tự do di chuyển hàng hoá, dịch vụ, tư bản và
lực lượng lao động giữa các quốc gia thành viên, đồng thời thống nhất biểu thuế
quan chung áp dụng cho cả các nước không phải là thành viên. Tuy nhiên, liên
minh kinh tế thể hiện mức độ hội nhập cao hơn, trong đó các nước thành viên
còn thực hiện thống nhất các chính sách kinh tế, tài chính, tiền tệ. Như vậy, cộng
đồng kinh tế là một “bước đệm”, là giai đoạn chuyển tiếp từ thị trường chung
sang liên minh kinh tế. Ví dụ, trước khi chuyển sang hình thành Liên minh Châu
Âu (European Union - EU) (năm 1994) thì khối kinh tế này đã trải qua nhiều
hình thức hội nhập, trong đó có Cộng đồng kinh tế Châu Âu (European
Economic Community – EEC) (năm 1957), Cộng đồng Châu Âu (European
Community) (năm 1967).
Liên minh tiền tệ, là một hình thức hội nhập tiến tới phải thành lập một

“quốc gia kinh tế chung” có nhiều nước tham gia với những đặc trưng sau:
Một, xây dựng chính sách kinh tế chung trong đó có chính sách ngoại
thương chung.
Hai, hình thành đồng tiền chung thống nhất thay cho các đồng tiền riêng của
các nước thành viên.
Ba, thống nhất chính sách lưu thông tiền tệ.
Bốn, xây dựng hệ thống ngân hàng chung thay cho các ngân hàng trung
ương của các nước thành viên.
Năm, xây dựng chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng chung đối với các
nước ngoài liên minh và các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế.

3/ WTO tổ chức mang tính hội nhập toàn cầu

7

3.1/ Sự ra đời của WTO
Vòng đàm phán Uruguay được bắt đầu từ năm 1986, tuy nhiên đến đầu năm
1990, nhiều vấn đề vẫn tiếp tục được bàn luận vì Mỹ và một số nước có nền
kinh tế phát triển muốn đưa thêm vào chương trình nghị sự những vấn đề mới
như: trao đổi dịch vụ quốc tế, quyền sở hữu trí tuệ, đầu tư, lao động, môi
trường…
Bên cạnh đó, thắng lợi của GATT trong việc cắt giảm thuế cùng một loạt
nhân nhượng kinh tế trong những năm 70, 80 của thế kỷ XX đã khiến chính phủ
các nước đưa ra một loạt hình thức bảo hộ khác như: Tự nguyện hạn chế xuất
khẩu, tăng cường các biện pháp kiểm dịch, nâng cao tiêu chuẩn hàng hoá nhập
khẩu… Chính vì vậy mà thương mại thế giới đã trở nên phức tạp hơn nhiều so
với 40 năm trước đó. Ngay cả đối với thương mại hàng hoá, nhiều lĩnh vực tuy
đã được GATT xem xét nhưng vẫn còn nhiều lỗ hổng, chưa hợp lý, đặc biệt như
hiệp định về thương mại hàng nông sản và hàng dệt may chủ yếu chỉ mang lợi
thế và để bảo vệ lợi ích cho các nước công nghiệp phát triển. Thể chế của GATT

và hệ thống giải quyết tranh chấp cũng bị một số nước thành viên chỉ trích.
Hơn nữa, đây cũng là thời kỳ kết thúc “chiến tranh lạnh”, thế giới chuyển từ
xu thế “đối đầu” sang “đối thoại”, thực hiện mở cửa và hội nhập với quốc tế.
Tình hình kinh tế, thương mại thế giới có những biến đổi nhanh chóng và sâu
sắc dưới tác động của toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và sự phát triển vượt bậc
của thông tin liên lạc. Do đó, nhiều vấn đề mới trong quan hệ quốc tế phát sinh,
vượt xa khuôn khổ của GATT, đòi hỏi các quốc gia thành viên phải xem xét lại
sứ mạng của GATT.
Cuối cùng để khắc phục những hạn chế nội tại không thể giải quyết của
GATT và để đáp ứng nhu cầu phát triển toàn cầu hoá thương mại và kinh tế
quốc tế ngày càng phức tạp, các bên tham gia vòng đàm phán Uruguay (vòng
đàm phán cuối cùng của GATT) đã quyết định thiết lập một thể chế thương mại

8

đa phương mới tiếp tục GATT và thay thế cho GATT, đó là tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO - World Trade Organization) vào ngày 01/01/1995.
WTO là tổ chức quốc tế lớn nhất đầu tiên trong việc thiết lập các thoả thuận
và cam kết chung trên quy mô toàn cầu trong lĩnh vực thương mại và phát triển
kinh tế nói chung. Với tư cách là tổ chức thương mại của tất cả các nước trên thế
giới, WTO thực hiện mục tiêu đã được nêu trong lời nói đầu của GATT là nâng
cao mức sống của nhân dân các nước thành viên, đảm bảo việc làm và thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, thương mại, sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực của thế
giới.
WTO có tru sở tại Geneva và tổng thư ký đầu tiên là ông R.Ruggiero, người
Italia. Ngày 31/12/1994, các nước và khu vực tham gia GATT trước đây sau khi
đồng loạt tiếp nhận bản Hiệp định đàm phán Uruguay đã trở thành các bên đầu
tiên tham gia ký kết điều ước của WTO. Tổ chức thương mại thế giới ra đời
đánh dấu sự ra đời của một thể chế thương mại đa phương mới, từ đó thương
mại quốc tế đã bước vào một thời đại mới - thời đại của WTO.


3.2/ Mục tiêu của WTO
WTO hoạt động dựa trên 3 mục tiêu cơ bản sau:
 Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hoá và dịch vụ trên thế giới, phục
vụ cho sự phát triển ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường.
 Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng và
tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên trong khuôn khổ của hệ thống
thương mại đa phương, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của Công pháp quốc
tế; đảm bảo cho các nước đang phát triển và đặc biệt là các nước kém phát triển
nhất được thu hưởng những lợi ích thực sự từ sự tăng trưởng của thương mại
quốc tế, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế của các nước này và khuyến
khích các nước này càng hội nhập sâu rộng và nền kinh tế thế giới.

9

 Nâng cao mức sống, tạo công ăn, việc làm cho người dân các nước thành
viên, bảo đảm quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tông trọng.

3.3/ Chức năng của WTO
Tổ chức thương mại thế giới có 5 chức năng cơ bản sau:
 Thông nhất việc quản lý thực hiện các hiệp định và thoả thuận thương mại
đa phương và nhiều bên: giám sát, tạo thuận lợi, kể cả trợ giúp kỹ thuật cho các
nước thành viên thực hiện các nghĩa vụ thương mại quốc tế của họ.
 Là khuôn khổ thể chế để tiến hành các vòng đàm phán thương mại đa
phương trong khuôn khổ WTO, theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng WTO.
 Là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan đến
việc thực hiện và giải thích Hiệp định WTO và các hiệp định thương mại đa
phương và nhiều bên.
 Là cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại của các nước thành viên, bảo
đảm thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hoá thương mại và tuan thủ các quy định

của WTO, Hiệp định thành lập WTO đã quy định một cơ chế ra soát chính sách
thương mại áp dụng chung đối với tất cả các nước thành viên.
 Thực hiện hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế khác như Quỹ tiền tệ
Quốc tế và Ngân hàng Thế giới trong việc hoạch định những chính sách và dự
báo về những xu hướng phát triển tương lai của kinh tế toàn cầu.

3.4/ Các nguyên tắc chung của WTO
Về phương diện pháp lý, định ước cuối cùng của vòng đàm phán Urguay ký
ngày 15/4/1999 tại Marrakesh là một văn kiện pháp lý có phạm vi điều chỉnh
rộng lớn nhất và có tính chất kỹ thuật pháp lý phức tạp nhất trong lịch sử ngoại
giao và luật pháp quốc tế. Về dung lượng, các hiệp định được ký tại Marrakesh
và các phụ lục kèm theo bao gồm 50.000 trang, trong đó riêng 500 trang quy

10
định về các nguyên tắc và nghĩa vụ pháp lý chung của các nước thành viên như
sau:
- Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới.
- 20 hiệp định đa phương về thương mại hàng hoá.
- 4 hiệp định đa phương về thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ, giái quyết
tranh chấp và rà soát chính sách thương mại.
- 4 hiệp định nhiều bên về hàng không dân dụng và mua sắm của Chính
phủ, sản phẩm sữa và sản phẩm thịt bò.
- 23 tuyên bố và quyết định liên quan đến một số vấn đề chưa đạt được thoả
thuận trong vòng đàm phán Uruquay.
Tổ chức thương mại thế giới được xây dựng dựa trên 4 nguyên tắc pháp lý
nền tảng sau:
Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN - Most Favoured Nation)
Tối huệ quốc, là nguyên tắc pháp lý quan trọng của WTO. Tầm quan trọng
đặc biệt là MFN được thể hiện ngay tại Điều I của Hiệp định GATT. Nguyên tắc
MFN được hiểu là nếu một nước dành cho một nước thành viên một sự đối xử

ưu đãi nào đó thì nước này cũng sẽ phải dành sự ưu đãi đó cho tất cả các nước
thành viên khác. Thông thường nguyên tắc MFN được quy định trong các Hiệp
định thương mại song phương. Khi nguyên tắc MFN được áp dụng đa phương
đối với tất cả các nước thành viên WTO thì cũng đồng nghĩa với nguyên tắc
bình đẳng và không phân biệt đối xử vì tất cả các nước sẽ dành cho nhau sự “đối
xử ưu đãi nhất”.
Mặc dù được coi là “hòn đá tảng” trong hệ thống thương mại đa phương.
Hiệp định GATT 1947 và WTO vẫn quy định một số ngoại lệ và miễn trừ quan
trọng đối với nguyên tắc MFN, như là dành cho các nước kém phát triển và đang
phát triển sự đãi ngộ đặc biệt và có phân biệt, trong đó có Hệ thống ưu đãi phổ
cập.

11
Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT - National Trealment)
Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia, quy định tại Điều II hiệp định GATT, điều 17
GATS và điều 3 TRIPS. Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia được hiểu là hàng hoá
nhập khẩu, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ nước ngoài phải được đối xử không
kém lợi hơn so với hàng hoá cùng loại trong nước. Trong khuôn khổ WTO,
nguyên tắc đãi ngộ quốc gia chỉ áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ, các quyền sở
hữu trí tuệ, chưa áp dụng đối với cá nhân và pháp nhân. Phạm vi áp dụng của
nguyên tắc đãi ngộ quốc gia đối với hàng hoá, dịch vụ và sở hữu trí tuệ, việc áp
dụng nguyên tắc đãi ngộ quốc gia là nghĩa vụ chung, có nghĩa là hàng hoá và
quyền sở hữu trí tuệ.
Nguyên tắc mở cửa thị trường
Nguyên tắc mở cửa thị trường thực chấp là mở cửa thị trường cho hàng hoá,
dịch vụ và đầu tư nước ngoài. Trong một hệ thống thương mại đa phương, khi
tất cả các bên tham gia đều chấp nhận mở cửa thì trường của mình thì điều đó
đồng nghĩa với việc tạo ra một hệ thống thương mại toàn cầu mở cửa.
Về mặt chính trị, “mở cửa thị trường”, thể hiện nguyên tắc tự do hoá thương
mại của WTO. Về mặt pháp lý, “mở cửa thị trường”, thể hiện nghĩa vụ có tính

chất ràng buộc thự hiện các cam kết về mở cửa thị trường mà nước này chấp
nhận khi đàm phán gia nhập WTO.
Nguyên tắc cạnh tranh công bằng (Fair Competition)
Cạnh tranh công bằng thể hiện nguyên tắc “tự do cạnh tranh trong những
điều kiện bình đẳng như nhau” và được công nhận trong án lệ của Uruguay kiện
15 nước phát triển (1962) về việc áp dụng các mức thuế nhập khẩu khác nhau
đối với cung một lượng hàng nhập khẩu. Do tính chất nghiêm trọng của vụ kiện.
Đại hội đồng GATT đã phải thành lập một nhóm công tác (Working Group) để
xem xét vụ nạy. Nhóm công tác đa cho kết luận rằng, việc áp đặt các mức thuế
khác nhau này đã làm đảo lộn những “điều kiện cạnh tranh công bằng” mà

12
Uruguay có quyền “mong đợi” từ phía những nước phát triển và đã gây thiệt hại
lợi ích thương mại của Uruguay. Từ nay các nước phát triển có thể bị kiện ngay
cả về mặt pháp lý không vi phạm các điều khoản nào trong hiệp định GATT nếu
các nước này có những hành vi trái với “nguyên tắc cạnh tranh công bằng”.

4/ Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là một vấn đề mang tính toàn cầu. Với
xu hướng toàn cầu hoá như hiện nay, trong khi các quốc gia đang có xu hướng
chuyển dần từ đối đầu sang đối thoại thì việc hội nhập là một đòi hỏi cấp thiết,
đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Cămpuchia.
Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là một khái niệm rộng, nhưng trong đó
biểu hiện rõ nhất của nó là liên kết kinh tế quốc tế và khu vực, và đây cũng
chính là mục tiêu mà các nước đang theo đuổi.
Liên kết kinh tế có nhiều loại hình với phạm vi, mức độ và cấp độ liên kết
khác nhau, trong đó tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế của một quốc
gia thể hiện ở 2 khía cạnh chính, đó là: tác động tích cực và tác động tiêu cực.

4.1/ Tác động tích cực của liên kết kinh tế quốc tế và khu vực

4.1.1/ Tạo lập mậu dịch
Đây là tác động tích cực rõ rệt nhất của liên kết kinh tế quốc tế và khu vực
đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Quá trình liên kết kinh tế dẫn tới
việc xoá bỏ các trở ngại đối với thương mại hoặc đầu tư giữa các quốc gia thành
viên trong một khối thương mại. Sự gia tăng quy mô thương mại giữa các quốc
gia bắt nguồn từ quá trình liên kết kinh tế khu vực được gọi là tác động tạo lập
mậu dịch. Tạo lập mậu dịch mang lại cho người tiêu dùng và các doanh nghiệp ở
các quốc gia thành viên cơ hội lựa chọn lớn hơn đối với các loại hàng hoá và
dịch vụ. Một kết quả khác của tạo lập mậu dịch là người tiêu dùng có thể mua

13
được hàng hoá và dịch vụ với chi phí thấp hơn, do có sự giảm bớt các trở ngại
đối với thương mại. Hơn nữa, mức giá thấp hơn đối với mỗi mặt hàng sẽ làm
tăng mức cầu đối với các mặt hàng khác vì người tiêu dùng có thể tiết kiệm
được nhiều tiền hơn cho việc mua sắm những mặt hàng đó.
Sự phân tích ở trên có thể minh hoạ qua ví dụ sau đây trong trường hợp hội
nhập dưới hình thức liên minh thuế quan: Giả sử một đơn vị sản phẩm x khi có
mậu dịch tự do ở quốc gia 1 là Px = 1 USD và ở phần còn lại của thế giới là Px
= 1,5 USD. Dx và sản xuất là đường cầu và đường cung sản phẩm x ở thị trường
nội địa của quốc gia 2.
Giả sử thêm rằng, quốc gia 2 là một nước nhỏ nên sự ảnh hưởng đến mức
giá chung là rất ít, có thể không xét đến.
Biểu đồ 1: Liên minh thuế quan – Tạo lập mậu dịch

 Khi chưa có liên minh thuế quan và lúc đó quốc gia 2 đánh thuế 100%
không phân biệt xuất xứ hàng hoá đối với tất cả những sản phẩm x nhập khẩu.
Như vậy, quốc gia 2 sẽ nhập khẩu sản phẩm x từ quốc gia 1 với mức giá Px = 2
0
10
V


30
U
50
Z

60
W

X
A B
G
2
1
M N C
J H
S1
S1+T
Dx
Sx
Px
($)

14
USD và sẽ không nhập khẩu sản phẩm x từ các nước thuộc phần còn lại của thế
giới vì giá nhập khẩu là Px = 3 USD (kể cả thuế nhập khẩu).
Trên biểu đồ ta thấy: với mức gia nhập khẩu sản phẩm từ quốc gia 1 là Px =
2 USD sẽ tiêu thụ 50x (GH), trong đó 30x (GJ) được sản xuất trong nước, còn
20x (JH) được nhập khẩu từ quốc gia 1. Quốc gia 2 thu được 20 USD (MJHN)
thuế nhập khẩu. Trên biểu đồ S1 là đường cung co giãn hoàn toàn của sản phẩm

x từ quốc gia 1 sang quốc gia 2 trong điều kiện mậu dịch tự do, còn S1+T là
đường cung trong điều kiện thuế quan là 100%.
 Trong điều kiện quốc gia 1 và quốc gia 2 thiết lập một liên minh thuế
quan và loại bỏ thuế quan đánh vào các sản phẩm nhập khẩu giữa 2 nước với
nhau thì đường cung về sản phẩm x ở quốc gia 2 chính là S1.
Mức giá px ở quốc gia 2 và ở quốc gia 1 khi đó đều là Px = 1 USD. Tại mức
giá này, quốc gia 2 tiêu thụ 60x (AB), trong đó 10x (AC) được sản xuất trong
nước, còn 50x (CB) được nhập khẩu từ quốc gia 1. Trong trường hợp này quốc
gia 2 không thu được thuế nhập khẩu. Song bù đắp vào đó, lợi ích của người tiêu
dùng ở quốc gia 2 được tăng lên. Lợi ích này là do hình thức liên minh thuế
quan mang lại và biểu thị bằng tỷ giác AGHB. Tuy nhiên, cũng do hình thức
liên minh thuế quan mà thặng dư của người sản xuất ở quốc gia 2 bị giảm - biểu
thị bằng tỷ giác AGJC, và phần thuế nhập khẩu của Nhà nước bị mất - biểu thị
bằng tỷ giác MJHN.
Nếu xét tổng hợp đối với cả hai quốc gia thì lợi ích ròng do liên minh thuế
quan tạo lập mậu dịch mang lại bao gồm:
Thứ nhất, phúc lợi do kết quả của việc di chuyển sản xuất từ các nhà sản
xuất có hiệu quả thấp hơn ở quốc gia 2 (có mức chi phí VUJC) sang các nhà sản
xuất có hiệu quả cao hơn ở quốc gia 1 (có mức chi phí VUMC) biểu thị bằng
tam giác CJM.

15
Thứ hai, lợi ích tiêu dùng tăng thêm do giá giảm xuống làm cho người dân
ở quốc gia 2 có thể mua một khối lượng hàng hoá lớn hơn (có mức lợi ích
ZWBH) với mức chi phí thấp hơn (có mức chi phí ZWBN) biểu thị bằng tam
giác BHN. Như vậy, một liên minh thuế quan sẽ đưa đến việc tạo lập mậu dịch
và từ đó mang lại những lợi ích cho người sản xuất và người tiêu dùng trong các
quốc gia trong liên minh.

4.1.2/ Sự nhất trí cao hơn

Hoạt động của các định chế quốc tế như GATT và WTO có mục tiêu giảm
bớt các trở ngại đối với thương mại và đầu tư trên quy mô toàn cầu. Những nỗ
lực liên kết kinh tế khu vực thường có sự tham gia của một vài cho tới hàng
chục quốc gia. Một lợi ích khác của quá trình liên kết kinh tế quốc tế và khu vực
là việc đạt tới sự nhất trí giữa một số lượng nhỏ các nước thành viên sẽ dễ dàng
hơn nhiều so với trường hợp có nhiều quốc gia liên quan.

4.1.3/ Hợp tác chính trị
Liên kết kinh tế quốc tế và khu vực có thể mang lại nhiều lợi ích về mặt
chính trị. Một nhóm quốc gia có thể có tiếng nói chính trị có trọng lượng hơn
trên trường quốc tế so với từng quốc gia riêng lẻ. Vì vậy, các quốc gia sẽ có
được vị thế mạnh hơn khi đàm phán với các quốc gia khác tại các diễn đàn như
WTO hoặc Liên Hiệp quốc. Quá trình liên kết gắn liền với sự hợp tác về chính
trị có thể làm giảm khả năng xảy ra xung đột quân sự giữa các quốc gia thành
viên. Trên thực tế thì hoà bình đã được coi là mục tiêu trọng tâm của những nỗ
lực liên kết ở Châu á trong những năm 50. Hậu quả tàn khốc của hai cuộc chiến
tranh thế giới trong nửa đầu thế kỷ 20 đã buộc Châu Âu phải coi liên kết như là
một cách thức để ngăn ngừa các cuộc xung đột vũ trang.


16
4.1.4/ Các tác động tích cực khác
Ngoài những tác động tích cực nêu trên, liên kết kinh tế quốc tế và khu vực
còn mang lại cho các nước thành viên nhiều lợi ích tĩnh và động khác như tiết
kiệm được chi phí quản lý, cải thiện điều kiện thương mại của cả khối với phần
còn lại của thế giới, gai tăng cạnh tranh và giảm mức độ độc quyền trên thị
trường liên kết, khai thác tính kinh tế theo quy mô, kích thích đầu tư từ các
nguồn trong và ngoài nước, gia tăng hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất, v.v…
Tuy nhiên những lợi ích này chỉ có thể được khai thác triệt để nếu như các nước
thành viên phối hợp với nhau trong việc xây dựng những thể chế và chính sách

kinh tế chung thích hợp. Nói một cách khác, quá trình liên kết phải được diễn ra
dựa trên cách tiếp cận chủ động.

4.2/ Tác động tiêu cực của liên kết kinh tế quốc tế và khu vực
4.2.1/ Chuyển hướng mậu dịch
Ngược với tạo lập mậu dịch là tác động chuyển hướng mậu dịch, hiện tượng
thương mại được chuyển từ những quốc gia nằm ngoài khối liên kết tới các quốc
gia là thành viên của khối liên kết. Chuyển hướng mậu dịch có thể xẩy ra khi
quá trình liên kết dẫn tới việc giảm bớt hoặc thủ tiêu các mức thuế quan giữa các
quốc gia thành viên. Như vậy, chuyển hướng mậu dịch có thể làm giảm quy mô
thương mại giữa một nước thành viên với những quốc gia khác có hiệu quả sản
xuất cao hơn nhưng nằm ngoài khối liên kết, và gia tăng quan hệ thương mại của
nước đó với các nước thành viên khác có hiệu quả sản xuất kém hơn. Xét theo
giác độ này thì liên kết kinh tế mang lại lợi ích cho những nước thành viên sản
xuất kém hiệu quả hơn trong khối liên kết. Nếu như trong khối liên kết không có
sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất hàng hoá và dịch vụ thì người mua sẽ phải
trả giá cao hơn khi chuyển hướng mậu dịch diễn ra.

17
Có thể minh hoạ và phân tích thông ở qua ví dụ biểu đồ dưới đây trong
tường hợp hội nhập dưới hình thức liên minh thuế quan:
Biểu đồ 2: Liên minh thuế quan – Chuyển hướng mậu dịch


Trong biểu đồ trên có 3 quốc gia cùng sản xuất sản phẩm x. Dx và sản xuất
là đường cầu và đường cung của sản phẩm x trong thị trường nội địa của quốc
gia 2.
Giả sử quốc gia 1 và 3 là những quốc gia sản xuất sản phẩm x trên quy mô
lớn. Trên biểu đồ S1 và S3 là đường cung co giãn hoàn toàn của sản phẩm x từ
quốc gia 1 và 3 đối với quốc gia 2 trong điều kiện mậu dịch tự do; còn S1+T là

đường cung khi đánh thuế sản phẩm x đối với quốc gia 1 là 100%.
Khi chưa có liên minh thuế quan, thuế nhập khẩu đối với sản phẩm x đồng
đều là 100%, nên quốc gia 2 sẽ nhập khẩu sản phẩm x từ quốc gia 1 với giá Px 2
USD. ở mức giá này, quốc gia 2 sẽ tiêu thụ 70x (GH), trong đó 40x (GJ) được
0 20

30

70

80

X
A B
G 2
1
M N
C
J H
S1
Dx
Sx
Px
($)
1,5
G’
40 90
S3
S1+T


H’ J’
C


B



18
sản xuất trong nước và 30x (JH) được nhập khẩu từ quốc gia 1. quốc gia 2 cũng
thu được 30 USD (JMNH) thuế nhập khẩu.
Trong trường hợp quốc gia 2 và quốc gia 3 thành lập liên minh thuế quan và
xoá bỏ thuế nhập khẩu đối với sản phẩm x. Khi đó, quốc gia 2 sẽ nhập khẩu x
với giá rẻ hơn giá nhập khẩu từ quốc gia 3 (Px = 1,5 USD), tại mức giá này quốc
gia 2 tiêu thụ 80x (G’B’), trong đó 30x (G’C’) được sản xuất trong nước và 50x
(C’B’) được nhập khẩu từ quốc gia 3. Trong trường hợp này quốc gia 2 sẽ
không thu được thuế nhập khẩu. Việc nhập khẩu sản phẩm x vào quốc gia 2
được chuyển từ các nhà sản xuất có hiều quả hơn ở quốc gia 1 sang các nhà sản
xuất kém hiệu quả hơn ở quốc gia 3 vì bây giờ thuế quan có sự phân biệt giữa
các nước trong liên minh và ngoài liên minh thuế quan.
Sau khi thành lập liên minh thuế quan, mức nhập khẩu sản phẩm x của quốc
gia 2 tăng từ 30x lên 50x. Điều đó có nghĩa là liên minh thuế quan vừa có tác
động chuyển hướng mậu dịch, vừa có tác động tạo lập mậu dịch.
Xét một cách tổng thể thì kết quả của một liên minh thuế quan chuyển
hướng mậu dịch đem lại là:
Thứ nhất, đối với quốc gia 2, phúc lợi đạt được từ việc tạo lập mậu dịch
thuần tuý thể hiện ở tam giác C’J’J và B’H’H. Tam giác C’J’J đạt giá trị 2,5
USD và tam giác B’H’H cũng đạt 2,5 USD, tổng của chúng là 5 USD, thể hiện
lợi ích thực sự của người tiêu dùng ở quốc gia 2 đạt được do có liên minh thuế
quan mang lại. Mặt khác, liên minh thuế quan gây ra chuyển hướng mậu dịch

với các tác động khác nữa. Hình chữ nhật MNHJ biểu thị thuế nhập khẩu cảu
quốc gia 2 trước khi thành lập liên minh thuế quan nay không còn nữa, trong đó
phần JJ’H’H được chuyển cho người tiêu dùng do họ không phải đóng thuế nữa,
nhưng phần MNH’J’ lại là phúc lợi mất đi do chuyển hướng mậu dịch từ việc
nhập khẩu ở quốc gia 1 có giá thấp sang quốc gia 3 có giá cao. Tỷ giác G’GJC’
thẻ hiện thặng dư của người sản xuất ở quốc gia 2 bị di chuyển sang cho người

19
tiêu dùng. Khi hình chữ nhật MNH’J’ biểu thị trị giá 15 USD là phúc lợi bị mất
đi từ việc chuyển hướng mậu dịch lớn hơn tổng hai tam giác C’J’J (2,5 USD) và
tam giác B’H’H (2,5 USD) thì điều đó có nghĩa là liên minh thuế quan này đã
mất đi 10 USD phúc lợi thực sự của quốc gia 2.
Thứ hai, quốc gia 1 mặc dù có giá Px rẻ hơn quốc gia 3, nhưng do không
thuộc liên minh thuế quan nên sản phẩm của quốc gia này bị đắt lên vì phải chịu
thuế nhập khẩu.
Bây giờ quốc gia 1 sẽ không xuất khẩu được 30x sang quốc gia 2 nữa, thay
vào đó quốc gia 3 sẽ xuất khẩu 50x sang quốc gia 2. Trên góc độ của quốc gia 3
mà xét, thì liên minh thuế quan đã đưa tới phúc lợi cho quốc gia này trong khi
quốc gia 1 bị thiệt hại và trên góc độ chung của toàn thế giới thì sự di chuyển
hướng mậu dịch đã làm di chuyển sản xuất từ nơi có hiệu quả cao hơn (nhưng ở
bên ngoài liên minh thuế quan) sang nơi kém hiệu quả (ở trong liên minh thuế
quan). Điều đó có nghĩa là các liên minh thuế quan cục bộ đã làm giảm phúc lợi
chung của toàn thế giới nếu như liên minh đưa đến sự khuyến khích các ngành
sản xuất kém hiệu quả. Các quốc gia ngoài liên minh thuế quan phải hứng chịu
những phúc lợi bị giảm này.

4.2.2/ Chuyển hướng việc làm
Như đã chỉ ra ở trên, liên kết kinh tế quốc tế và khu vực mang lại nhiều lợi
ích cho các quốc gia thành viên, thế nhưng một số tầng lớp nhất định trong từng
quốc gia có thể phải gánh chịu những tác động tiêu cực. Cụ thể là những ngành

công nghiệp sử dụng nhiều lao động giản đơn ở những nước có mức lương cao
sẽ có xu hướng được chuyển tới những quốc gia thành viên khác có giá nhân
công rẻ hơn, từ đó dẫn tới tình trạng mất việc làm của nhiều công nhân trong các
ngành đó. Chẳng hạn kể tự năm 1994, khi Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ
(NAFTA) có hiệu lực, nhiều doanh nghiệp dệt may của Mỹ và Canada đã

20
chuyển hoạt động sản xuất tới Mêhicô. Một số tính toán cho thấy đến cuối năm
1997, nước Mỹ đã bị mất khoảng từ 32.000 đến 100.000 việc làm trong các
ngành sản xuất công nghiệp do tác động trực tiếp của hiệp định thương mại tự
do giữa Canada, Mêhicô và Mỹ.
Tuy nhiên, tác động tới việc làm có lẽ là chủ đề gây tranh cãi nhiều nhất khi
bàn tới liên kết kinh tế quốc tế và khu vực. Có nhiều ý kiến cho rằng đối với mỗi
quốc gia thì liên kết có thể tác động tiêu cực đến một số ngành công nghiệp,
nhưng nếu đó là những ngành hoạt động kém hiệu quả và không có khả năng
cạnh tranh quốc tế thì việc thu hẹp quy mô của chúng là cần thiết. Hơn nữa, quá
trình liên kết sẽ thúc đẩy sự phát triển những ngành có ưu thế cạnh tranh, từ đó
tạo ra nhiều việc làm mới. Số liệu thống kê cho thấy cho đến cuối năm 1997
việc gia tăng xuất khẩu sang Mêhicô đã giúp tạo ra từ 90.000 đến 160.000 việc
làm ở Mỹ. Nhìn chung, các hiệp định thương mại khu vực có xu hướng dẫn đến
sự chuyển dịch trên thị trường lao động - việc làm trong một số ngành có thể bị
giảm, nhưng nhiều việc làm mới lại được tạo ra ở những ngành khác.

4.2.3/ Hy sinh chủ quyền quốc gia
Quá trình liên kết kinh tế đòi hỏi các quốc gia thành viên phải có sự hy sinh
một phần chủ quyền quốc gia. Mức độ hy sinh chủ quyền là thấp nhất trong khu
vực mậu dịch tự do. Các quốc gia thành viên vẫn có quyền dựng nên những rào
cản thương mại mà họ coi là phù hợp với tất cả các quốc gia không phải là thành
viên. Mức độ hy sinh chủ quyền tăng dần nếu liên kết đạt tới các cấp độ cao
hơn. Mức độ hy sinh chủ quyền là lớn nhất khi các quốc gia hình thành một liên

minh kinh tế, đông thời có xu hướng liên minh chặt chẽ hơn về mặt chính trị.
Khi đó các quốc gia thành viên phải chấp nhận áp dụng chính sách đối ngoại
chung đối với các quốc gia không phải là thành viên, và thậm chí các chính sách
về kinh tế, chính trị trong từng quốc gia, trong chừng mực nào đó, cũng có thể bị

21
chi phối bởi chính sách chung của cả khối. Đây là lý do giải thích tại sao việc
hình thành liên minh chính trị là rất khó khăn. Do các tình trạng một số quốc gia
thành viên không có quan hệ thân thiện đối với những nước ngoài khối liên kết,
nhưng những quốc gia thành viên khác lại có quan hệ rất chặt chẽ với những
nước này nên việc hoạch định một chính sách đối ngoại chung là hết sức phức
tạp.
Tuy nhiên, bất chấp những mặt hạn chế nói trên của các hiệp định thương
mại khu vực, quá trình liên kết kinh tế vẫn đang tiếp tục diễn ra một cách mạnh
mẽ trên thế giới.

5/ Tính tất yếu phải hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
Xu hướng khu vực hóa toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ, với kết
quả là sự ra đời và phát triển của hàng loạt các tổ chức khu vực và toàn cầu như
EU, ASEAN, NAFTA, WTO… với mục tiêu giống nhau là tăng cường năng lực
và hiệu quả hoạt động thương mại của mỗi nước thành viên cũng như củng cố
sức mạnh toàn cầu. Đặc biệt với sự ra đời của WTO đã và đang ảnh hưởng mạnh
mẽ với sự phát triển của thương mại thế giới cũng như của mỗi nước thành viên
cùng với nguyên tắc cơ bản như nguyên tắc tối huệ quốc đã áp dụng ở nhiều
nước kể cả các nước chưa phải là thành viên của WTO. Nhiều nước sẵn sàng
nhân nhượng điều chỉnh hàng lọat các chính sách và kiên trì đàm phán trong thời
gian dài để trở thành thành viên chính thức của tổ chức này. Đồng thời sự ra đời
của ASEAN cũng tạo ảnh hưởng mạnh mẽ đối với các nước nằm trong khu vực
và thế giới với nguyên tắc như bình đẳng thực hiện nhằm đảm bảo tất cả các
thành viên không kể lớn nhỏ, giàu nghèo thì đều được bình đẳng trong việc chia

sẻ lợi ích, nguyên tắc có đi có lại thực hiện nhằm đảm bảo quyền lợi và thắt chặt
hơn nữa trong mối quan hệ kinh tế và ngoại giao của các quốc gia thành viên…
đã thể hiện tầm quan trọng của tổ chức này.

22
Thêm vào đó hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực đang là một xu hướng
hiện nay và không có quốc gia nào muốn đứng ở ngoài cuộc. Quá trình tự do
hóa thương mại, dịch vụ đầu tư đã tạo ra những lợi ích mới thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển, đẩy mạnh giao lưu kinh tế góp phần khai thác lợi thế so sánh
của các nước tham gia vào nền kinh tế thế giới. Hầu như không có một quốc gia
nào đứng ở ngoài vòng xoáy của sự hội nhập nếu không muốn tự cô lập và rơi
vào nguy cơ tụt hậu. Việc tham gia quá trình hội nhập càng chủ động thì càng có
hiệu quả và tránh được nhiều rủi ro. Có thể nhận thấy tính tất yếu khách quan
của xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và khu vực nói riêng ở 2 khía
cạnh sau:
Thứ nhất, trên toàn thế giới và trong mỗi quốc gia đều đã có sẵn đến một
mức nào đó các điều kiện vật chất-kỹ thuật như tiềm lực kinh tế kỹ thuật, sức
mạnh quân sự chính trị, nền tảng văn hóa-xã hội. Khi các tiềm lực này phát triển
mạnh mẽ sẽ đạt đến một điểm mà tại đó bản thân các tiềm lực này đòi hỏi một
môi trường rộng lớn để phát triển. Khi đó, các nguồn lực se di chuyển từ quốc
gia này sang quốc gia khác và ngược lại. Đây chính là điều kiện cơ bản để các
quốc gia tiến hành phát triển kinh tế quốc tế.
Thứ hai, toàn bộ quá trình toàn cầu hóa là một tất yếu vì lợi ích thu được từ
quá trình trên đối với quốc gia là xu hướng chủ đạo. Nếu quốc gia nào không
theo xu hướng đó thì chắc chắn phải chịu tổn thất to lớn hơn nhiều; là chặn
đường tiến lên của mình trong thời đại ngày nay. Vấn đề đặt ra ở đây không còn
là cân nhắc xem nên tham gia vào quá trình hội nhập hay không mà là hội nhập
như thế nào, theo lộ trình nào để lợi ích thu được từ đó là lớn nhất, hiệu quả cao
nhất và rủi ro nhỏ nhất.


II/ Phát triển kinh tế đối ngoại của Cămpuchia
1/ Tình hình kinh tế và chính trị của Cămpuchia

23
1.1/ Tình hình phát triển kinh tế của Cămpuchia
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Vương quốc Cămpuchia, tuy phát triển ở những thang bậc khác nhau
song cũng như các nước, Cămpuchia là nền kinh tế đang phát triển trong một
khu vực đang sôi động là Châu á - Thái Bình Dương. Cămpuchia và thị trường
của các nước phát triển khác mà Cămpuchia nhận được qua sự ưu đãi thuế quan
(GSP) và tối huệ quốc (MFN) trong đó có cả thị trường Mỹ và Liên minh châu
Âu. kinh tế Cămpuchia bắt đầu tăng trưởng và phát triển. Năm 1990 tăng trưởng
kinh tế đạt ở mức 2,8%, năm 1996 tốc độ tăng trưởng GDP của Cămpuchia đạt ở
mức 6,5%; năm 1997 do khủng hoảng chính trị nên tăng trưởng kinh tế chỉ đạt ở
mức 1%; năm 1998 tăng trưởng đạt 3%, năm 1999 đạt 6,5%; năm 2000 đạt
4,5%; năm 2001 đạt 5,7%; năm 2002 tăng trưởng kinh tế đạt 5,5%; năm 2003
tăng trưởng kinh tế đạt 5% và năm 2004 tăng trưởng kinh tế đạt 5,5 %.

Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng GDP của Cămpuchia (1990-2004)
Năm

1996

1997

1998

1999

2000


2001

2002

2003

2004


GDP (%)

6,5

1

3

6,5

4,5

5,7

5,5

5

5,5




24
Tèc ®é t¨ ng tr ëng GDP cña C¨ mpuchia
3
6.5
1
6.5
4.5
5.7
5.5
5
5.5
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005

Lạm phát giảm mạnh trong những năm 1990-2000, và có sự tăng lên khá
ổn định trong những năm 2001-2005. Năm 1990 chỉ số lạm phát là 151%, năm
1994 xuống còn 18%, năm 1998 là 14,8%, năm 1999 lạm phát xuống còn 4%,
năm 2000 xuống còn -0,8%, năm 2001 tăng lên 0,3%, năm 2002 tăng lên 3,3%,

năm 2003 xuống còn 1,2% và năm 2004 tăng 2,9% và năm 2005 tăng lên 3,3%.

Bảng 2: Tỷ giá hối đoái Riel/USD (1997-2005)
Năm

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005


T


giá

3000


3800

3819

3850

3850

3850

3950

4000

4040



25
3000
3800
3819
3850
3850
3850
3950
4000
4040
0

500
1000
1500
2000
2500
3000
3500
4000
4500
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Tû gi¸ hèi ®o¸i Riel/USD

Sản xuất công nghiệp
Cămpuchia là nước nông nghiệp, sản phẩm chủ yếu là lúa, ngô, lạc, cao su,
thuốc lá, thuỷ sản v.v… Cămpuchia có nhiều tài nguyên quý hiếm như đá quý,
hồng ngọc, vàng, gỗ. Ngoài ra, Cămpuchia có Angkorwat là một kì quan nổi
tiếng của thế giới, trở thành thế mạnh của ngành du lịch của Cămpuchia. Nền
công nghiệp của Cămpuchia còn rất yếu kém, chủ yếu là nền công nghiệp dệt và
da giày, công nghiệp nặng chưa có gì. Hàng năm, Cămpuchia phải nhập siêu
hàng trăm triệu USD.
Sau Hiệp định Paris về Cămpuchia, một số nhà đầu tư nước ngoài đã vào
kinh doanh ở Cămpuchia như: Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kồng, Hàn Quốc,
Nhật Bản, Pháp, Mỹ…, chủ yếu đầu tư vào các ngành du lịch, dịch vụ, công
nghiệp nhẹ, công nghiệp may mặc và khách sạn. Nhưng do tình hình chính trị
chưa ổn định, bộ máy hành chính cồng kềnh và các tệ nạn tham nhũng, hối lộ
nặng nề nên đầu tư nước ngoài và Cămpuchia còn bị hạn chế.
Sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản

×