Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Mô hình chia sẻ công nghiệp phụ trợ ­ chia sẻ công nghiệp phụ trợ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 81 trang )












LUẬN VĂN






Mô hình chia sẻ công nghiệp phụ trợ 
chia sẻ công nghiệp phụ trợ
ngành điện tử cho các ngành khác









MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ VÀ CÔNG
NGHIỆP PHỤ TRỢ THUỘC NGÀNH CÔNG NGHỆP ĐIỆN
TỬ 4
1.1. Những lý luận cơ bản về công nghiệp phụ trợ 4
1.1.1. Khái niệm về công nghiệp phụ trợ 4
1.1.2. Thành phần của công nghiệp phụ trợ và mối quan hệ với các ngành
khác 8
1.1.3. Các giai đoạn phát triển công nghiệp phụ trợ ở các nước đang phát triển
9
1.1.4. Đặc điểm của công nghiệp phụ trợ 11
1.1.5. Các loại hình công nghiệp phụ trợ 13
1.2. Những lý luận cơ bản về công nghiệp điện tử và công nghiệp phụ trợ cho
công nghiệp điện tử 14
1.2.1. Những khái niệm về công nghiệp điện tử 14
1.2.1.1. Khái niệm chung 14
1.2.1.2. Đặc điểm của ngành công nghiệp điện tử 15
1.2.1.3. Phân loại ngành công nghiệp điện tử 18
1.2.1.4. Vị trí của ngành công nghiệp điện tử 19
1.2.2. Khái niệm về công nghiệp phụ trợ cho ngành công nghiệp điện tử 20
1.2.2.1. Khái niệm 20
1.2.2.2. Một số nhóm phẩm điển hình của công nghiệp phụ trợ trong ngành
điện tử 21
1.2.2.3. Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm điện tử 22
1.2.2.4. Mô hình chia sẻ công nghiệp phụ trợ  chia sẻ công nghiệp phụ trợ
ngành điện tử cho các ngành khác 24
CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ THUỘC
NGÀNH CÔNG NGHIỆP ĐIỆN TỬ TRONG NHỮNG NĂM QUA 27
2. 1.Tổng quan về sự phát triển công nghiệp điện tử khu vực Đông Á và những ảnh
hưởng đến công nghiệp phụ trợ điện tử Việt Nam 27

2.1.1. Bức tranh tổng quát về công nghiệp điện tử khu vực Đông Á 27
2.1. 2.Tổng quan về ngành công nghiệp điện tử của Việt Nam 30
2.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến công nghiệp phụ trợ thuộc ngành điện tử
của Việt Nam 32
2.2. Thực trạng của sự phát triển công nghiệp phụ trợ thuộc ngành điện tử
Việt Nam 37
2.2.1. Thực trạng của công nghiệp phụ trợ Việt Nam 37
2.2.2. Đánh giá chung về công nghiệp phụ trợ của Việt Nam 39
2.2.3.Thực trạng công nghiệp phụ trợ trong ngành điện tử của Việt Nam 41
2.2.4. Sự quản lý của chính phủ đối với công nghiệp phụ trợ trong ngành điện tử của Việt
Nam trong những năm qua 45
2.2.5. Hiện trạng phát triển công nghiệp phụ trợ ngành điện tử ở khu vực
Đông Á và bài học cho Việt Nam 46
2.3. Đánh giá tiềm năng phát triển công nghiệp phụ trợ ngành điện tử 51
2.3.1. Xem xét bối cảnh phát triển công nghiệp phụ trợ của Việt Nam 51
2.3.1.1. Bối cảnh công nghiệp quốc gia 51
2.3.1.2. Bối cảnh công nghiệp quốc tế và khu vực Đông Á 53
2.3.2. Xác định lợi thế so sánh của Việt Nam trong ngành công nghiệp phụ trợ
điện tử tại khu vực Đông Á 54
2.3.3. Đánh giá tầm quan trọng của ngành công nghiệp phụ trợ thuộc ngành công nghiệp
điện tử Việt Nam thông qua mô hình chuỗi giá trị. 56 2.2.4. Đánh giá
nhu cầu mua sắm của các công ty đa quốc gia 59
2.3.4. Đánh giá về công nghiệp phụ trợ điện tử của Việt Nam thông qua phân
tích mô hình SWOT 62
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
PHỤ TRỢ THUỘC NGÀNH CÔNG NGHIỆP ĐIỆN TỬ VN 63
3.1. Dự báo nhu cầu về ngành công nghiệp phụ trợ thuộc công nghiệp điện tử
Việt Nam 64
3.1.1. Nhu cầu về máy nguyên chiếc 64
3.1.2. Nhu cầu về linh kiện 64

3.1.3. Nhu cầu về phụ kiện nhựa 65
3.1.4. Nhu cầu về khuôn mẫu và các chi tiết sắt thép, cơ khí 66
3.1.5. Nhu cầu phát triển công nghiệp phụ trợ trong thời gian tới 67
3.2. Đề xuất các giải pháp phát triển công nghiệp phụ trợ cho ngành công
nghiệp điện tử 67
3.2.1. Xây dựng cơ sở dữ liệu(CSDL) công nghiệp phụ trợ 67
3.2.2. Thu hút vốn đầu tư 69
3.2.3. Phát huy tối đa lợi thế so sánh quốc gia 71
3.2.4. Phát triển các ngành công nghiệp chế tạo cơ bản 72
3.2.5. Đảm bảo nguồn nhân lực 73
3.2.6. Phát triển ngành công nghiệp điện tử 74 KẾT
LUẬN 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO









DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ SƠ ĐỒ

Sơ đồ 1.1 : Khái niệm các ngành công nghiệp phụ trợ 8
Sơ đồ 1.2 : Quan hệ giữa công nghiệp chính và công nghiệp phụ trợ 9
Sơ đồ 1.3 : Quy trình sản xuất sản phẩm điện tử 23
Bảng 1.1 : Mức nhựa phun máy cần thiết cho sản xuất một số sản phẩm 25
Sơ đồ 1.4: Chia sẻ công nghiệp phụ trợ cho nhiều ngành khác 26
Bảng 2.1 :Phân tích SWOT cho công nghiệp điện tử của Việt Nam 34

Sơ đồ 2.1 :Giá trị nhập khẩu các hàng điện tử, máy tính và linh kiện điện tử
của VN 44
Hình 2.3: Chuỗi giá trị của một ngành công nghiệp 57
Bảng 2.2 :Phân tích SWOT cho công nghiệp phụ trợ thuộc ngành công nghiệp
điện tử của Việt Nam 63
Bảng 3.1: Dự báo nhu cầu về linh kiện 65
Bảng 3.2 : Dự báo nhu cầu về phụ kiện nhựa 66
Bảng 3.3 : Dự báo nhu cầu về khuôn mẫu 67
Sơ đồ 3.1 : CSDL CNPT giúp giảm thời gian dao dịch tiếp xúc 68
Sơ đồ 3.2 : Đảm bảo đầy đủ các thông tin trong CSDL về CNPT 69


Thế giới ngày nay đã chuyển dần từ thời đại công nghiệp sang thời đại công
nghệ, trong đó thành công thuộc về các lực lượng nắm giữ công nghệ và thông tin,
do đó quá trình sản xuất công nghiệp trong các thập kỷ vừa qua cũng đã có những
biến đổi hết sức sâu sắc và rõ nét. Trình độ phân công lao động quốc tế và phân chia
quá trình sản xuất đã đạt đến mức rất cao. Các sản phẩm công nghiệp hầu hết không
còn được sản xuất trọn bộ tại một không gian hay một địa điểm, mà được phân chia
thành nhiều công đoạn, ở các châu lục, các quốc gia, các địa phương khác nhau. Khái
niệm Công nghiệp phụ trợ ra đời như là một cách tiếp cận sản xuất công nghiệp mới
với nội dung cơ bản là việc chuyên môn hoá sâu sắc các công đoạn của quá trình sản
xuất.
Đề tài: “Một số đề xuất nhằm phát triển công nghiệp phụ trợ thuộc ngành
công nghiệp điện tử Việt Nam trong bối cảnh phát triển công nghiệp điện tử của
khu vực Đông Á” là sự kết hợp giữa những hiểu biết lý luận về công nghiệp phụ trợ
và những đặc thù của ngành công nghiệp điện tử. Qua những phân tích về công
nghiệp phụ trợ trong ngành công nghiệp điện tử sẽ cho thấy những tồn tại trong sản
xuất công nghiệp và chỉ ra rằng công nghiệp phụ trợ chính là mũi đột phá chiến lược
giúp cho quá trình công nghiệp hóa của Việt Nam tiến nhanh thêm một bước. Trong
chuyên đề này cũng mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển công nghiệp

phụ trợ trong ngành công nghiệp điện tử nói riêng và những hướng gợi mở cho các
ngành công nghiệp Việt Nam nói chung.
Đề tài được chia làm ba chương:
+ Chương I: Những lý luận cơ bản về công nghiệp phụ trợ và công nghiệp
phụ trợ thuộc ngành công nghiệp điện tử.
+ Chương II: Sự phát triển công nghiệp phụ trợ thuộc ngành công nghiệp
điện tử trong những năm qua.
+Chương III: Một số đề xuất nhằm phát triển công nghiệp phụ trợ thuộc
ngành công nghiệp điện tử Việt Nam.
Do vấn đề còn khá mới mẻ và với tr×nh ®é kiÕn thøc cßn h¹n chÕ nên chuyên
đề thực tập này kh«ng thÓ tr¸nh khái nh÷ng sai sãt .KÝnh mong các thầy c« gi¸o vµ
các bạn đóng góp ý kiến để đề ti của em đ-ợc hoàn thiện hơn CHNG 1:
NHNG Lí LUN C BN V CễNG NGHIP PH TR
V CễNG NGHIP PH TR THUC NGNH CễNG NGHP IN T
******************
1.1. Nhng lý lun c bn v cụng nghip ph tr
1.1.1. Khỏi nim v cụng nghip ph tr
Khỏi nim v cụng nghip ph tr (hay cụng nghip h tr) ó bt u xut
hin t nhng nm 1960 Nht Bn, xut phỏt ban u t cỏch thc t chc sn xut
ca ngi Nht trong qỳa trỡnh xõy dng cỏc mt xớch chuyờn mụn húa ca tng
cụng on sn xut cỏc sn phm v dch v cụng nghip. cỏc nc khỏc nhau,
tựy theo tỡnh hỡnh c th v c thự ca tng quc gia khỏi nim v cụng nghip ph
tr hin cng cha rừ rng v cú nhng s khỏc bit nht nh.
Trong th k 20, cỏc hot ng sn xut kinh doanh trong cỏc ngnh cụng
nghip thng c t chc theo cỏc cỏch thc nh sau:
Cỏch thc th nht: mụ hỡnh tớch hp liờn kt theo chiu dc ca cụng ngh
sn xut.
Theo cỏch ny thỡ trong ton b quỏ trỡnh sn xut kinh doanh s cú s tp
trung kim soỏt t khõu u n khõu cui cựng, ngha l t sn xut nguyờn liu
u vo cho n khi tiờu th cỏc sn phm tiờu dựng cui cựng, trong ú vic kim

soỏt bao trựm tt c cỏc hot ng u t, sn xut kinh doanh nh: kim soỏt giỏ c,
kim soỏt cht lng sn phm, kim soỏt cụng ngh, kim soỏt khi lng sn xut
v tiờu th
õy l mụ hỡnh t chc truyn thng v rt ph bin hu ht cỏc ngnh cụng
nghip v dch v trong th k 20, t ú ó to nờn nhng t chc, tp on sn xut
cụng nghip ln trờn th gii.
Cỏch thc th hai: phõn chia quỏ trỡnh sn xut thnh nhiu cụng on.
Đây là cách mà các nhà lắp ráp không sở hữu các bộ phận sản xuất, cung cấp
nguyện liệu thô hay các vật tư, linh kiện, sản phẩm trung gian cấu thành của quá
trình sản xuất kinh doanh hoặc các công đoạn thương mại tiêu thụ các sản phẩm cuối
cùng. Các nguồn lực sẽ được tập trung vào một số khâu hay công đoạn chủ yếu mà
các nhà sản xuất có thế mạnh nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo vệ các bản
quyền sở hữu công nghiệp và phát triển thị trường. Các yếu tố đầu vào của doanh
nghiệp sẽ được cung cấp bởi các đơn vị ngoài hệ thống doanh nghiệp đó, những đơn
vị này được coi là những tổ chức thầu phụ của doanh nghiệp (hay còn gọi là tổ chức
vệ tinh của doanh nghiệp).
Liên kết theo kiểu này hiện nay ngày càng phát triển cả về chất và về lượng.
Hình thức tổ chức này được gọi là tổ chức thầu phụ (vệ tinh) hay hướng thị trường.
 Cách thức thứ ba: tổ chức sản xuất kinh doanh mạng toàn cầu (global
network)
Trong vài thập kỷ gần đây, sự tác động của quá trình tự do hóa thương mại
ngày càng diễn ra mạnh mẽ cùng với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, các hoạt
động kinh tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ cùng với sự bùng nổ của công nghệ thông
tin, các hoạt động kinh tế ngày càng mang tính chất toàn cầu, điều đó đã hình thành
nên các tập đoàn đa quốc gia hoạt động trên thị trường toàn cầu.
Trong mạng lưới sản xuất kinh doanh theo kiểu này, một tập đoàn sẽ nắm giữ
vai trò trung tâm kiểm soát và điều phối các luồng hàng hóa và thông tin giữ vô số
các công ty độc lập nhằm đáp ứng yêu cầu thị trường một cách hiệu quả nhất.
Nhận thấy, hai cách thức tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh thứ hai và
thứ ba dẫn đến quá trình sản xuất kin doanh một loại sản phẩm hàng hóa nào đó được

phân chia thành rất nhiều công đoạn và phân đoạn, do vậy số lượng các tổ chức sản
xuất kinh doanh hoạt động với tư cách độc lập (hoặc cùng là thành viên cấu thành
của tổ chức nắm giữ vai trò chủ đạo trong quá trình) tham gia vào các công đoạn của
cùng một quá trình sản xuất kinh doanh ngày càng nhiều.
Tổ chức chủ đạo với vai trò tạo cung có tác động thúc đẩy các tổ chức khác
hoạt động trong các công đoạn đầu ra còn ở vai trò tạo cầu có tác động lôi kéo và
thu hút các tổ chức khác hoạt động trong các công đoạn đầu vào của sản phẩm cuối
cùng. Tác động của các tổ chức cấu thành hoạt động trong từng công đoạn của quá
trình sản xuất kinh doanh tới tổ chức chủ đạo cũng giống như vậy nhưng theo chiều
ngược lại. Mặt khác, hoạt động của các tổ chức cấu thành không chỉ hỗ trợ riêng cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ chức chủ đạo nào đó, mà còn có thể hỗ trợ
thêm cho các hoạt động của tổ chức sản xuất kinh doanh khác có liên quan. Một cách
tổng thể, những tổ chức nắm giữ vai trò chủ đạo trong quá trình sản xuất kinh doanh
trên có thể chỉ nắm giữ vai trò là các tổ chức hoạt động trong các phân ngành của
một ngành công nghiệp nào đó.
Mô hình sản xuất thứ hai và thứ ba thường phát triển ở khu vực Đông Á, đặc
biệt là Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, rồi gần đây là Trung Quốc và khu vực
ASEAN.
Nếu xét về tỷ lệ giá trị gia tăng trong nội bộ tổ chức thì thông thường tổ chức
nào có mức độ sản xuất tích hợp theo chiều dọc cao (cách thức một) thì có giá trị gia
tăng nội bộ cao hơn so với chiều ngang (cách thức hai, ba).
Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận hiệu quả của xu hướng tổ chức tổ chức
sản xuất tích hợp theo chiều ngang vì cách thức này dựa trên sự phân công hợp tác
sản xuất chặt chẽ, có mức độ chuyên môn hóa sâu, hoạt động và sử dụng hiệu quả
nhiều nguồn lực từ tổ chức bên ngoài tổ chức chủ đạo, có khả năng xử lý linh hoạt
các biến động của thị trường, thay đổi mẫu mã nhanh với chi phí giá thành thấp có
khả năng cạnh tranh cao trong bối cảnh hội nhập, tự do hóa thương mại mạnh mẽ.
Từ cách thức tổ chức thứ hai và thứ ba, dưới tác động của các tổ chức sản xuất
chủ đạo sẽ hình thành một loạt các cơ sở sản xuất vệ tinh, có nhiệm vụ sản xuất
những phụ tùng, nguyên liệu, linh phụ kiện, cấu kiện được chuyên môn hóa cao về

công nghệ sản xuất nhằm cung ứng cho nhà lắp ráp sản phẩm cuối những sản phẩm
chất lượng với giá thành cạnh tranh cao.
Đối với các cơ sở sản xuất vệ tinh này, trong quá trình sản xuất kinh doanh,
hoàn thiện, cải tiến công nghệ sản xuất của mình sẽ trở thành nhà sản xuất, gia công
các loại sản phẩm tương tự, cung ứng không chỉ riêng cho các tổ chức sản xuất chủ
đạo chính của mình mà còn có thể vươn ra đáp ứng nhu cầu sản xuất của các tổ chức
sản xuất khác.

Vậy, công nghiệp phụ trợ (hay công nghiệp hỗ trợ) là hệ thống các nhà sản
xuất sản phẩm và công nghệ sản xuất có khả năng tích hợp theo chiều ngang,
cung cấp nguyên vật liệu, linh kiện, phụ tùng cho khâu lắp ráp cuối cùng.
Sơ đồ 1.1 sau đây sẽ giúp làm rõ khái niệm về công nghiệp phụ trợ

Vậ
t li
ệu



Sơ đồ 1.1 : Khái niệm các ngành công nghiệp phụ trợ
Một điều rõ ràng rằng, ngành công nghiệp phụ trợ cần được xem là một cơ sở
công nghệ hoạt động với nhiều chức năng để phục vụ một số lượng lớn các ngành
lắp ráp chứ không nên coi nó đơn giản chỉ là ngành thu nhập ngẫu nhiên những linh
kiện mà quan trọng hơn là nó còn thực hiện quá trình sản xuất hỗ trợ việc sản xuất
các bộ phận nhựa và kim loại như cán, ép, dập khuôn, đúc
1.1.2. Thành phần của công nghiệp phụ trợ và mối quan hệ với các ngành
khác
 Công nghiệp phụ trợ có thể được chia thành hai phần chính là:
- Phần cứng: là các sơ sở sản xuất nguyên vật liệu và linh phụ kiện lắp ráp.
- Phần mềm: là các cơ sở sản xuất thiết kế sản phẩm, mua sắm, hệ thống dịch vụ

công nghiệp và marketing.
 Mối quan hệ giữa công nghiệp chính và công nghiệp phụ trợ được minh họa
bằng sơ đồ sau:
Nguyên li

u thô




Ngành cơ khí chế tạo

Sơ đồ 1.2 : Quan hệ giữa công nghiệp chính và công nghiệp phụ trợ
Sản xuất phụ trợ với những ngành công nghiệp khác nhau cũng có nhiều tầng
cấp, thứ bậc khác nhau. Đồng thời giữa các nhà sản xuất phụ trợ cũng hình thành
nhiều mối quan hệ hợp tác kinh doanh với thứ bậc khác nhau. Chẳng hạn, một nhà
sản xuất lắp ráp A nào đó có thể có nhiều đối tượng hợp tác chuyên sản xuất và cung
ứng các sản phẩm phụ trợ. Đối tượng thứ nhất là các cơ sở sản xuất tin cậy nhất được
đầu tư vốn và chỉ chuyên sản xuất các sản phẩm riêng của chính hãng thiết kế đặt
hàng. Đối tượng thứ hai là các cơ sở sản xuất phụ trợ nhận gia công cho chính hãng
đặt hàng và cũng có thể tổ chức tổ chức sản xuất cho đối tượng khác, thường thì
chính hãng chỉ quan hệ với đối tượng này theo quan hệ hợp đồng gia công. Đối tượng
thứ ba là các cơ sở sản xuất các sản phẩm phụ trợ hàng loạt, mua sẵn, quan hệ với
chính hãng là quan hệ mua bán thông thường.
1.1.3. Các giai đoạn phát triển công nghiệp phụ trợ ở các nước đang phát
triển










Ngành công
nghi

p ph


tr


Ngành xe máy

Ngành đi

n t


Ngành đi

n gia d

ng

Ngành d

t may


Ngành da giày

Ngành ô tô

Sự hình thành công nghiệp phụ trợ của các nước rất khác nhau, thường ở các
nước phát triển, ngành công nghiệp phụ trợ hình thành trước hoặc đồng thời với
ngành công nghiệp sản xuất chính, có vai trò quyết định tới sự thành công và uy tín
của các sản phẩm công nghiệp cuối cùng.
Đối với các nước NICS như Nhật Bản, Hàn Quốc ngành công nghiệp phụ trợ hình
thành trước hoặc đồng thời với việc tổ chức lắp ráp, sản xuất các sản phẩm công
nghiệp cuối cùng.
Đối với các nước đang phát triển như ASEAN, Việt Nam do thiếu vốn, công nghệ
và thị trường tiêu thụ, thông thường công nghiệp lắp ráp phát triển trước, ngành công
nghiệp hỗ trợ hình thành theo sau với tiến trình nội địa hóa các sản phẩm được tập
đoàn, công ty có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện trên lãnh thổ của nước sở tại, sau
đó tùy theo trình độ phát triển và khả năng cạnh tranh của hệ thống các cơ sở sản
xuất sản phẩm phụ trợ, có thể vươn ra xuất khẩu các sản phẩm phụ trợ sang các thị
trường khác.
Thông thường, quá trình phát triển công nghiệp phụ trợ ở các nước đang phát triển
diễn ra theo năm giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất: Việc sản xuất được thực hiện dựa vào cơ sở sử dụng các cụm
linh kiện nhập khẩu nguyên chiếc, số lượng các nhà cung cấp các linh kiện, các chi
tiết đơn giản sản xuất trong nước có rất ít.
Giai đoạn thứ hai: Nội địa hóa thông qua sản xuất tại chỗ, các nhà sản xuất lắp ráp
chuyển sang sử dụng các loại linh kiện, phụ kiện sản xuất trong nước, thông thường
các linh kiện, phụ kiện này là những loại thông dụng lắp lẫn, dùng chung. Tỷ lệ nội
địa hóa trong các sản phẩm công nghiệp ở trong nước có tăng lên nhưng thông
thường là ít tăng số lượng các nhà sản xuất phụ trợ và tính cạnh tranh trong sản xuất
các sản phẩm này không cao.

Giai đoạn thứ ba: Xuất hiện các nhà cung ứng các sản phẩm phụ trợ chủ chốt trong
các ngành như sản xuất động cơ, hộp số đối với ngành ô tô – xe máy, chíp IC điện
tử và nguyên vật liệu cao cấp một cách độc lập và tự nguyện không theo yêu cầu
của các nhà lắp ráp. Trong giai đoạn này việc gia công phát triển mạnh mẽ tại các
nước sở tại. Các phụ tùng, các chi tiết có độ phức tạp cao và khối lượng hàng hóa
nhập khẩu để lắp ráp giảm hẳn.
Giai đoạn thứ tư: Giai đoạn tập trung của các ngành công nghiệp phụ trợ. Ở giai
đoạn này hầu như tất cả các chi tiết, các phụ tùng, các loại linh kiện đã được tiến
hành sản xuất ở nước sở tại, kể cả một phần các sản phẩm nguyên liệu sản xuất các
linh kiện đó cũng được sản xuất tại nước sở tại.Trong giai đoạn này, số lượng nhà
cung cấp các sản phẩm phụ trợ tăng lên 34 cơ sở cho mỗi chủng loại sản phẩm.
Cạnh tranh giữa các nhà sản xuất phụ trợ trở nên gay gắt hơn cùng với xu thế chung
của cạnh tranh lúc này là hạ giá thành sản xuất trong khi chất lượng sản phẩm vẫn
được duy trì và phát triển.
Giai đoạn thứ năm: Nghiên cứu, phát triển và xuất khẩu. Đây là giai đoạn cuối của
quá trình nội địa hóa với sự chuyển dịch các thành tựu nghiên cứu , phát triển của
các nhà đầu tư nước ngoài tại nước sở tại. Năng lực nghiên cứu và phát triển ở các
nước sở tại cũng đã được củng cố và phát triển, bắt đầu giai đoạn sản xuất phục vụ
xuất khẩu triệt để.
1.1.4. Đặc điểm của công nghiệp phụ trợ
 Đặc điểm:
Khái niệm về ngành công nghiệp phụ trợ là một khái niệm rộng và mang tính
tương đối, tuy nhiên nó có một số đặc điểm sau:
- Công nghiệp phụ trợ phát triển gắn kết với ngành công nghiệp hoặc sản phẩm
công nghiệp cụ thể (đối tượng hỗ trợ) và có nhiều tầng cấp tích hợp theo cả chiều
ngang và chiều dọc.
- Công nghiệp phụ trợ xuất hiện trong các hình thức tổ chức công nghiệp theo
kiểu thầu phụ, nằm trong một mạng lưới tổ chức sản xuất phối hợp, thống nhất và có
tính hợp tác cao giữa các doanh nghiệp chủ đạo và các doanh nghiệp phụ trợ (mối
liên kết công nghiệp).

- Công nghiệp phụ trợ có tác động thúc đẩy những ngành công nghiệp, sản phẩm
công nghiệp chính phát triển, cung cấp đầu vào theo hợp đồng hoặc theo kế hoạch
cho sản xuất chính và thu hút đầu ra của các cơ sở sản xuất phụ trợ cấp dưới theo
kế hoạch sản xuất chính hoặc theo hợp đồng.
- Đối với một ngành công nghiệp hay một sản phẩm công nghiệp cụ thể nào đó,
các tổ chức hoạt động trong các ngành công nghiệp phụ trợ thường có quy mô vừa
và nhỏ với mức độ chuyên môn hóa sâu, dễ thay đổi mẫu mã, dải sản phẩm hẹp, có
sức sống và tính cạnh tranh cao.

Từ những đặc điểm trên rút ra một số ưu điểm và nhược điểm của công
nghiệp phụ trợ như sau:
 Ưu điểm:
- Các doanh nghiệp phụ trợ có trình độ chuyên môn hóa cao và phân công lao
động cao sẽ giúp cho ngành công nghiệp chính phát triển nhanh và bền vững.
- Các doanh nghiệp phụ trợ thường được tiếp nhận các hướng dẫn kỹ thuật, thiết
kế sản phẩm của các doanh nghiệp sản xuất chính,không phải lo khâu lập kế hoạch,
thiết kế các sản phẩm nguyên bản. Mặt khác nhờ có được các hợp đồng thường xuyên
của các hãng chính mà công việc của các doanh nghiêp phụ trợ trở nên ổn định.
- Các ngành công nghiệp phụ trợ thường do các doanh nghiệp vừa và nhỏ đảm
nhận nên có điều kiện ứng phó nhanh và linh hoạt hơn với các biến động thường
xuyên xảy ra của thị trường. Quá trình thay đổi mẫu mã, ứng dụng khoa học công
nghệ vào việc đổi mới sản xuất, đáp ứng nhanh yêu cầu của thị trường sẽ diễn ra
nhanh và hiệu quả hơn.
- Với ngành công nghiệp phụ trợ thì không nhất thiết phải đầu tư và sản xuất từ
A đến Z mà vẫn có thể tổ chức sản xuất các loại sản phẩm công nghiệp có chất lượng
cao. Tổng số vốn đầu tư dể sản xuất ra các sản phẩm cuối cùng được phân tán, được
cấu thành từ nhiều nguồn đầu tư khác nhau, sự rủi ro được phân tán.
- Phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ sẽ có điều kiện thuận lợi hơn để thu
hút đầu tư từ các thành phần kinh tế, nhất là từ đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các
công ty đa quốc gia.

 Nhược điểm:
- Sự phát triển của công nghiệp phụ trợ bị phụ thuộc vào chiến lược phát triển sản
phẩm và điều tiết thị trường của các công ty đa quốc gia, các doanh nghiệp FDI.
- Sự hợp tác phát triển được đặt ra với yêu cầu cao cộng với sự chia sẻ thông tin
và cộng đồng trách nhiệm tương đối lớn, trong khi đó đa phần các doanh nghiệp phụ
trợ là doanh nghiệp vừa và nhỏ với xuất phát điểm thấp, vốn và nhân lực còn thiéu
thốn, môi trường kinh doanh chưa được minh bạch, có xu thế khép kín, thiếu hợp tác
và liên kết với nhau.
1.1.5. Các loại hình công nghiệp phụ trợ
Công nghiệp phụ trợ và tỷ lệ nội địa hóa dường như tách biệt nhau về hình thức
nhưng nếu nhìn nhận theo mục tiêu phát triển công nghiệp nội địa thì hai vấn đề này
thực chất lại là một. Tương ứng với ba hình thức của nội địa hóa sẽ có ba hình thức
của công nghiệp phụ trợ.
Ba hình thức nội địa hóa
Ba hình thức công nghiệp phụ trợ
- Sản xuất nội bộ của các công ty
lắp ráp.
- Hỗ trợ ruột.
- Thu mua từ các doanh nghiệp có
vốn FDI tại nước sở tại.
- Hỗ trợ hợp đồng.
- Thu mua từ các doang nghiệp
nội địa.
- Hỗ trợ thị trường.

Các hình thức này được hiểu như sau:
- Hỗ trợ ruột: là loại hình mà một tập đoàn công nghiệp sẽ thành lập và phát triển
cho mình một mạng lưới các nhà cung cấp dưới hình thức công ty mẹ  con, các
công ty cung ứng chỉ thực hiện sản xuất linh kiện, phụ tùng quan trọng, hàm chứa
các bí quyết công nghệ theo yêu cầu của công ty lắp ráp trong tập đoàn.

Loại hình này khá phổ biến ở các nước công nghiệp, được các tập đoàn mạnh
ứng dụng rất thành công.
- Hỗ trợ hợp đồng: là loại hình hỗ trợ được thực hiện theo cam kết giữa các nhà
cung ứng với các công ty lắp ráp theo từng yêu cầu và trong từng thời điểm nhất định
đối với các linh kiện ít quan trọng hơn.
- Hỗ trợ thị trường: là loại hình hỗ trợ mà các phụ tùng, phụ kiện có tính phổ biến
không chứa đựng nhiều bí quyết công nghệ, được các nhà sản xuất bán trên thị
trường, không theo một cam kết nào đối với các nhà lắp ráp. Các công ty lắp ráp
cũng có thể tự do lựa chọn các sản phẩm mình càn trên thị trường, tuy nhiên, đối với
các loại sản phẩm có tính hỗ trợ là đầu vào cho các ngành trung gian hay ngành sản
xuất cuối cùng thì hình thức này chưa được phát triển và nhìn chung khả năng phát
triển là khá thấp.
1.2. Những lý luận cơ bản về công nghiệp điện tử và công nghiệp phụ trợ cho
công nghiệp điện tử
1.2.1. Những khái niệm về công nghiệp điện tử
1.2.1.1. Khái niệm chung
Công nghiệp điện tử: là ngành sản xuất vật liệu, linh kiện – phụ kiện, sản xuất
cấu kiện điện tử, cơ điện tử và các thiết bị. Trong sản xuất thiết bị lại có: thiết kế
tổng thể thiết bị, thiết kế công nghệ mỹ thuật công nghiệp, mạch điện, thiết kế chế
tạo mạch in, vỏ, đế máy và lắp ráp thiết bị. Lắp ráp là khâu cuối cùng và là một biện
pháp quan trọng trong sản xuất công nghiệp điện tử.
Lắp ráp thiết bị bao gồm 3 dạng chính là : lắp ráp từ các cấu kiện, lắp ráp từ
các chi tiết rời trọn bộ và lắp ráp từ các linh kiện rời không đồng bộ, cụ thể :
+ SKD – lắp ráp từ các cấu kiện ( semi knock down) : ở dạng này đã có sự
chuẩn bị đầy đủ về toàn bộ linh phụ kiện của thiết bị và được lắp ráp thành từng cụm
chi tiết đã căn chỉnh. Công việc cần làm ở đây là lắp ráp các cụm đó lại, vào vỏ máy
và tiến hành căn chỉnh kiểm tra toàn bộ thiết bị lần cuối.
+ CKD – lắp ráp từ các chi tiết rời trọn bộ(Complex knock down): toàn bộ
linh phụ kiện của thiết bị đã được chuẩn bị đầy đủ và đồng bộ. Việc làm ở đây là lắp
ráp từ các linh kiện rời thành các cụm chi tiết để được bộ linh kiện SKD, sau đó lắp

ráp tiếp tục dạng SKD các cụm chi tiết này.
+ IKD – lắp ráp từ những linh kiện không đồng bộ (incomplex knock down).
Ở dạng này, nhận thấy các dấu hiệu của nhà sản xuất từ chế tạo thêm những linh kiện
và cấu kiện còn thiếu, sẽ tự thiết kế lại thiết bị, có thể thay đổi một phần hoặc thay
đổi toàn bộ thiết kế ban đầu. Những linh kiện ngoại nhập được thay thế bằng những
linh kiện nội địa (với trường hợp phải nhập chi tiết để lắp ráp ICD). Tất cả các sửa
đổi và thay thế này cần phải chiếm một tỷ lệ giá trị nhất định nào đó trong toàn bộ
giá trị.
Khái niệm về dây chuyền lắp ráp thiết bị : đó là tổng hòa sự tương tác của 3
yếu tố : băng chuyền, quá trình lắp ráp và những thiết bị công nghệ phục vụ cho lắp
ráp. Có 3 loại dây chuyền lắp ráp là : thủ công, bán tự động và tự động.
1.2.1.2. Đặc điểm của ngành công nghiệp điện tử
Mặc dù ra đời chậm hơn so với các ngành khác (chỉ từ khi Thomson chứng
minh được có sự hiện diện của điện tử năm 1897) từ đây nền khoa học điện tử, công
nghiệp điện tử và các sản phẩm điện tử mới xuất hiện trên thị trường thế giới và phát
triển một cách mạnh mẽ từ đó cho đến nay. Sự phát triển của ngành công nghiệp
điện tử còn được đánh giá là nhanh và mạnh nhất trong 2 thập kỷ qua so với các
ngành khác.
 Công nghiệp điện tử có tốc độ phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng.
Do quá trình cạnh tranh vô cùng gay gắt trên thị trường, bên cạnh đó là làn
sóng đổi mới công nghệ cùng với những áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới
nhất vào sản xuất đã thúc đẩy công nghiệp điện tử phát triển một cách nhanh chóng
cả về số lượng lẫn chất lượng. Cùng với đó là khả năng đổi mới một cách liên tục,
đưa sản phẩm mới vào thị trường nhanh chóng là một trong những yếu tố mang lại
ưu thế cạnh tranh vô cùng quan trọng. Thời gian để đưa sản phẩm ra thị trường cho
đến ngày thay thế bởi sản phẩm khác tốt hơn ngày càng được rút ngắn. Sự phát triển
như vũ bão của công nghệ thông ti trong thời gian qua là kết quả từ sự tiến bộ không
ngừng của các tiến bộ công nghệ trong lĩnh vực điện tử. Vì thế sự phát triển nhanh
chóng cả về số lượng lấn chất lượng đa là một mục tiêu chiến lược mang tính chất
quyết định của ngành công nghiệp điện tử.

 Công nghiệp điện tử là một ngành công nghiệp hiện đại có công nghệ phát
triển với tốc độ nhanh và được ứng dụng nhiều kết quả khoa học tiên tiến.
Ngành công nghiệp điện tử được xây dựng trên các thành tựu đã đạt được của
rất nhiều lĩnh vực : quang học, vật lý bán dẫn, công nghệ laser , bằng chứng là công
nghệ chế tạo các mạch tích hợp lớn như bộ vi xử lý , một trong những bộ phận quan
trọng nhất của các thiết bị điện tử tin học. Sản phẩm vi mạch hiện đại hay bộ vi xử
lý có trên thị trường là kết quả của nhiều cải tiến liên tiếp về công nghệ trong ngành
chế tạo bán dẫn, các công nghệ chế tạo bán dẫn mới nhất được đưa vào chế tạo bộ
vi xử lý như: công nghệ làm tăng số lượng Transitor / chip. Công nghệ cấu trúc
khoảng cách giữa các thành phần trong bộ vi xử lý, kích thước đường nối giữa các
phần tử giảm xuống còn 1,13 micômet và còn có thể giảm cuống nữa trong thời gian
tới. Kích thước các Transitor (phần tử cơ bản tạo nên chíp) ngày càng được giảm
nhỏ về kích thức, cụ thể năm 1974, bộ xử lý Intel 8080 sản xuất theo công nghệ 6
micromet chứa 6000 transitor thì năm 2002 bộ vi xử lý Pentium 4 cũng của Intel ứng
dụng công nghệ 0,13 micômet chứa tới 42000000 transitor. Sự phát triển của cac
ngành khoa học khác nhau đã được ứng dụng vào trong ngành công nghiệp điện tử
và đã mang lại những kết quả một cách không ngờ.
 Công nghiệp điện tử có giá thành sản phẩm giảm nhanh và sản phẩm nhanh
chóng lạc hậu
Sự phát triển không ngừng của công nghệ bán dẫn đã làm cho khả năng tích
hợp và xử lý các vi mạch điện tử không ngừng tăng. Theo đạo luật More thì khả năng
của bộ vi xử lý tăng gấp đôi sau 18 tháng và từ đó cho đến nay dạo luật này vẫn rất
đúng đắn, chưa có một dấu hiệu nào thể hiện việc tốc độ các bộ vi xử lý sẽ giảm
xuống trong thời gian tới. Song song với tăng khả năng xử lý thì giá thành chip điện
tử cũng không ngừng giảm với tốc độ 25%/năm. Thực tế thị trường cho thấy từ năm
1991 cho đến nay cứ sau 12 tháng giá các bộ vi xử lý giảm 2 lần. Ví dụ : giá 1 MPS
(1 triệu phép tính giây) năm 1991 là 230 USD thì năm 1997 còn 3,42 USD và hiện
nay chỉ còn vài cent.
Đồng thời với sự giảm giá sản phẩm điện tử là sự lạc hậu nhanh chóng của nó.
Ví dụ năm 2000 bộ vi xử lý pentium III – 800 MHz của Intel xuất hiện thì cuối năm

2000 đưa ra bộ xử lý P4 tốc độ 1GHz và tháng 8 năm 2001đưa ra bộ vi xử lý Pentium
4 với tốc độ 1,8 GHz, hiện nay đã có bản lên đến hơn 3GHz.
 Công nghiệp điện tử là ngành có yêu cầu đầu tư lớn, thu lợi nhuận cao, cạnh
tranh của thị trường gay gắt và độ rủi ro cao.
Vốn đầu tư cho ngành công nghiệp điện tử là rất lớn mới có thể đáp ứng
được các nhu cầu tạo ra sản phẩm đòi hỏi sự đầu tư lớn về nghiên cứu và phát triển
sản phẩm, xâ dựng nhà máy đào tạo nhân lực …
Nhu cầu đầu tư cho ngành là vô cùng lớn vừa để phát triển khoa học công
nghệ và để xây dựng cơ sở vật chất bắt đầu nhưng nếu chỉ trông vào thị trường
trong nước thì rất khó thu hồi vốn mà rủi ro khá lớn vì không có thị trường tiêu thụ
và có giá thành cao. Vì thế cần phải tính đến thị trường quốc tế và liên doanh liên
kết với các công ty đa quốc gia.
Ngành công nghiệp điện tử tuy mang lại lợi nhuận cao nhưng cạnh tranh cũng
hết sức gay gắt và khả năng rủi ro trong đầu tư cũng là khá lớn.
 Công nghiệp điện tử có xu hướng chuyển dịch công nghệ từ các nước phát
triển sang các nước đang phát triển nơi có nhân công rẻ hơn.
Toàn cầu hóa kinh tế đang là xu hướng phát triển của thế giới. Theo xu hướng toàn
cầu hóa, để tăng khả năng cạnh tranh và có lợi nhuận cao, các nước có nền công
nghiệp điện tử phát triển dịch chuyển việc sản xuất sản phẩm có công nghệ thấp
sang các nước đang phát triển có nguồn lao động dồi dào và giá nhân công rẻ hơn.
Chính vì thế đã tạo được cơ hội tiếp thu, thu hút đầu tư đào tạo nguồn nhân lực
nhằm phát triển sản phẩm có công nghệ cao cho các nước đang phát triển.
1.2.1.3. Phân loại ngành công nghiệp điện tử
 Phân chia ngành công nghiệp điện tử theo nhóm sản phẩm
- Thiết bị điện tử dân dụng: theo định nghĩa của từ này là các thiết bị điện tử được
sử dụng trong đời sống gia đình như radio (R), television (TV), radiocassettle
(R/C), đầu video (V/C). Ở một số nước người ta coi một số loại máy tính cá nhân,
máy quay video, cả máy điện thoại cúng là một thiết bị điện tử vì chúng chiếm một
tỷ trọng lớn.
Ở Việt Nam thiết bị điện tử dân dụng bao gồm cụ thể: R, TV, R/C và V/C.

- Thiết bị điện tử công nghiệp : là thiết bị điện tử được dùng trong công nghiệp.
- Thiết bị tin học : gồm cả các thiết bị ngoại vi, máy tính và các phần mềm (chương
trình đảm bảo) kèm theo đó.
- Thiết bị viễn thông: gồm tất cả các phương tiện điện tử dùng để liên lạc, trao đổi,
truyền tin từ xa và gồm cả phần cứng lẫn phần mềm.
Điện tử, viễn thông và công nghệ thông tin là ba lĩnh vực riêng biệt nhưng
lại có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và thường được nghiê cứu đánh giá dưới góc
độ như một ngành công nghiệp chung .Tất cả đều được trình bày cụ thể trong các
tài liệu, các tạp chí chuyên ngành và đa phần được các chính phủ đề cập một cách
toàn diện trong đường lối chính sách trọn gói của mình.
 Phân chia ngành công nghiệp điện tử theo các thành phần mang tính
quản lý
Xác định được các mức độ hoặc đóng gói, hoặc bắt đầu bằng các linh kiện
và lắp ráp từng phần của sản phẩm và kết thúc bằng lắp ráp cuối cùng sản phẩm và
hệ thống các sản phẩm.
Tiến hành phân chia theo các mức độ đóng gói và theo một dây chuyền quan trọng
điển hình của ngành công nghiệp điện tử.
- Nguyên liệu: thủy tinh, kim loại, phôi silicon, chất dẻo, hóa chất… 
Linh kiện: bán dẫn, bảng vi mạch, đầu ổ đĩa, bộ nối .
- Lắp ráp một phần: bảng vi mạch lắp ráp, ổ đĩa, moniter
- Sản phẩm cuối cùng: máy tính cá nhân, tivi, VCR
- Hệ thống: hệ thống thông tin bệnh viện, hệ thống chuyên dùng hàng không.
Tuy nhiên việc phân chia như thế cũng gặp những trường hợp ngoại lệ chẳng
hạn : Ổ đĩa được coi là lắp ráp toàn phần vì chúng được đưa vào máy tính cá nhân
trong quá trình lắp ráp cuối cùng, nhưng cũng được lắp ráp vào hộp riêng và bán
như là sản phẩm cuối cùng.
Ngành điện tử, tin học, viễn thông là 3 phân ngành độc lập nhau nhưng chúng
có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Trong nội dung chuyên để này tôi chỉ nghiên cứu
về ngành công nghiệp điện tử bao gồm : công nghiệp điện tử dân dụng và chuyên
dụng, công nghệ thông tin, công nghiệp điện tử phục vụ bưu chính viễn thông, y tế,

giao thông vận tải, an ninh quốc phòng, phục vụ cho lĩnh vực tự động hóa và
nghiên cứu khoa học kỹ thuật.
1.2.1.4. Vị trí của ngành công nghiệp điện tử
Công nghiệp điện tử là ngành sản xuất vật chất mang tính cơ bản của nền
kinh tế quốc dân, đó là một trong những ngành chính, quan trọng của công nghiệp,
vì thế sự phát triển của công nghiệp điện tử đã được coi là 1 trong những tiêu
chuẩn đánh giá trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Thực tế đã cho thấy rằng công nghiệp điện tử là một ngành phát triển nhanh và
mạnh nhất trong sự phát triển của khoa học công nghệ đặc biệt là trong 3 thâp kỷ
qua, khi mà cả thế giới đang sống trong ‘‘xã hội điện tử’’. Chính sự phát triển này
đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của các nền kinh tế khác và của cả nền kinh tế.
Trong thời gian tới công nghiệp điện tử sẽ là động lực lớn để tạo ra trao đổi
trong đời sống vật chất kinh tế  xã hội của toàn thế giới.
Do đó công nghệ điện tử là không thể thiếu và nó mang vai trò đặc biệt quan
trọng trong công nghiệp giúp tối ưu hóa quá trình sản xuất, hợp lý hóa sử sụng tài
nguyên và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Qua số liệu và báo cáo có thể rút ra một đánh gia mang tính chất tổng quát
về những thành tựu của ngành công nghiệp điệntử: đứng thứ 3 về doanh số trao đổi
(sau ngành lọc dầu và ô tô) thứ 2 về doanh số trên vốn (sau ngành luyện kim) và
thứ nhất về thu hút lao động.
1.2.2. Khái niệm về công nghiệp phụ trợ cho ngành công nghiệp điện tử
1.2.2.1. Khái niệm
Công nghiệp phụ trợ cho công nghiệp điện tử là ngành công nghiệp sản xuất linh
kiện, vật liệu điện tử (ngoài các sản phẩm của công nghiệp bán dẫn), các bộ phận
linh kiện và các vật tư khác hỗ trợ cho công nghiệp lắp ráp đến sản phẩm cuối cùng
của công nghiệp điện tử.
Thuật ngữ công nghiệp phụ trợ được sử dụng ở đây chỉ các nhóm ngành cơ bản
dựa trên công nghệ sản xuất các linh kiện hỗ trợ như: linh kiện điện tử thụ động, cụm
linh kiện, tấm đế bảng mạch, nhựa, cao su, chất dẻo, vỏ, giá đỡ, giắc nối, phích cắm,
dây dẫn Các ngành công nghiệp phụ trợ của công nghiệp điện tử bao gồm: gia công

nhựa, dập khuôn, đúc kim loại, nén, nhựa, đóng gói, quá trình xử lý cao su, gia công
kim loại, sơn kim loại, đúc kim loại, mạ tẩm
Ở đây cần hiểu rằng công nghiệp sản xuất linh kiện cũng là một trong những
ngành công nghiệp phụ trợ tạo ngay ra các sản phẩm hoặc chuyển đổi vật liệu thô
dùng trong sản xuất các sản phẩm điện, điện tử khác.

1.2.2.2. Một số nhóm phẩm điển hình của công nghiệp phụ trợ trong ngành
điện tử
Nhóm thiết bị thông tin liên lạc: bao gồm nhiều loại sản phẩm có tỷ lệ tăng
trưởng cao trên thị trường thế giới như màn hình, máy in, máy tính cá nhân, ổ đĩa
mềm, đĩa mật độ cao, ODDs, CDROMs , điện thoại di động, điện thoại không dây,
máy fax. Các hãng sản xuất thiết bị và linh kiện thiết bị này luôn tìm kiếm các địa
điểm đầu tư tối đa nhất để xây dựng các nhà máy lắp ráp. Hầu hết các linh kiện quan
trọng trong các thiết bị (chủ yếu là sản phẩm bán dẫn) đều được phát triển và sản
xuất tại những nước phát triển ở Bắc Mỹ, ở Nhật Bản và Châu Âu, còn công đoạn
lắp ráp thì chủ yếu lại được thực hiện ở các nước đang phát triển. Các sản phẩm hầu
hết là có vòng đời ngắn nhưng chịu sự cạnh tranh rất khốc liệt, do điều này khiến các
hãng thích chọn địa điểm xây dựng nhà máy có chi phí thấp và có quy mô sản xuất
lớn, có hạ tầng giao thông liên lạc và điều kiện tài chính ngân hàng tốt.
Nhóm các linh kiện lắp ráp đơn giản: Các bộ phận lắp ráp đơn giản bao gồm
biến thế, cuộn dây, động cơ mô tô nhỏ, đầu quang và đầu từ. Chúng có nhiều loại và
thường tốn nhiều nhân công để sản xuất. Mức đầu tư cần thiết cho nhà xưởng sản
xuất tương đối thấp, chỉ khoảng vài triệu đến vài chục triệu USD. Các linh kiện này
được sử dụng rộng rãi trong các thiết bị thông tin liên lạc, kích thước và trọng lượng
nhỏ nên rất dễ cho việc vận tải hàng không, do vậy nhu cầu về chúng tăng rất nhanh
và đòi hỏi chi phí thấp. Điều này đòi hỏi các hãng đi đầu về các linh kiện đó không
ngừng tìm kiếm mức chi phí hiệu quả và theo đó ưu tiên lựa chọn các nước đang
phát triển để đầu tư.
Nhóm các bộ phận, linh kiện dạng nguyên vật liệu: triển vọng phát triển của loại
này phụ thuộc tùy thuộc vào mức độ tích tụ tập trung trong công nghiệp. Các linh

kiện thuộc nhóm này bao gồm điện trở, bộ nối và tụ điện. Việc xây dựng các nhà
máy để sản xuất tổ hợp bao gồm cả hai công đoạn mặt trước và mặt sau (ngoại vi và
phụ trợ) có thể đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn hàng trăm triệu USD. Nếu so sánh
với việc tiến hành xây dựng các nhà máy sản xuất linh kiện lắp ráp đơn giản thì các
hãng nước ngoài vốn đã có các nhà máy ở các nước ASEAN khác như Singapore,
Malaysia, Trung Quốc, Thái Lan sẽ gặp khó khăn nếu phải đa dạng hóa đầu tư của
mình. Trong khi đó nhu cầu về linh kiện trong lĩnh vực thiết bị thông tin liên lạc có
tốc độ tăng trưởng rất nhanh (như điện thoại di động chẳng hạn) và đặc biệt là các
linh kiện mạch gia công bề mặt, các thiết bị này chủ yếu dành để xuất khẩu được
Nhật Bản đáp ứng và mới chỉ có một phần nhỏ được cung cấp bởi các nhà máy ở các
nước ASEAN.
1.2.2.3. Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm điện tử
Trong ngành công nghiệp điện tử thì công nghiệp phụ trợ luôn chiếm một tỷ
lệ lớn, trên 80% giá trị của ngành. Điều này được thể hiện rõ trong quy trình công
nghệ sản xuất sản phẩm điện tử gồm ba bước theo sơ đồ sau:

×