Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tóm lược lý thuyết vê mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.79 KB, 16 trang )

Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giũa nợ công và tăng trưởng kinh tế
Liên hệ facebook : hoặc sdt
0982601826 để cập nhật luận văn hay nhất.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA KẾ TOÁN
Tiểu luận
Tóm lược lý thuyết vê mối quan hệ
giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế
LỜI MỞ ĐẦU
Nợ công đang trở thành vấn đề nóng bỏng không chỉ ở riêng Châu Âu, Mỹ, Nhật
Bản mà nhiều nước đang phát triển trên thế giới cũng đang phải đối mặt, trong đó
có Mệt Nam. Bộ Tài chính dự kiến nợ công của Việt Nam năm 2011 ở mức
khoảng 1.375 nghìn tỷ đồng, tương đương 58,7% QDP. Mặc dù chỉ số tiền vẫn
được xem là trong ngưõng an toàn nhưng nếu không có một chương trình và kế
hoạch quản lý nợ công hiệu quả, đặc biệt là nợ nước ngoài thì nguy cơ mất kiểm
soát nợ công trong tương lai là điều có thể xảy ra.
Nợ công đang đe dọa đến đà phục hồi và sự ổn định của nền kinh tế toàn thế giói,
viễn cảnh của cuộc tái suy thoái kinh tế toàn cầu cũng đã được đặt ra. Trong khi
đó, đối với những quốc gia phát triển và những nền kinh tế thị trường mới nổi nối
quan hệ giũa nợ công và tăng trưởng kinh tế biểu hiện rõ nhất khi nợ vượt mức
90-100% CDP; lúc này, nợ càng tăng, tăng trưởng kinh tế giảm đáng kể.
Như vậy, việc đánh giá đúng nợ công và "thực chất" nợ công của một nền kinh tế,
một quốc gia là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong những thời điểm nhạy cảm.
Bởi lẽ, nếu chỉ chú trọng vào con số tỉ lệ nợ công cao một cách thuần tuý sẽ gây
nên hiệu ứng tâm lý dễ gây rối loạn nền kinh tế, thậm chí dẫn nền kinh tế đến bên
Liên hệ facebook : hoặc sdt
0982601826 để cập nhật luận văn hay nhất.
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giũa nợcông và tăng trưởng kinh tế 2
bờ vực phá sản. Ngược lại, nếu yên tâm với tỉ lệ nợ công còn trong giới hạn an
toàn, mà không phân tích cẩn trọng, chú ý đúng mức đến khoản nợ đó được hình
thành như thế nào, bằng cách nào, thực trạng nền kinh tế ra sao và khả năng trả nợ


thế nào , cũng sẽ dễ đẩy nền kinh tế rơi vào vòng xoáy thâm hụt ngân sách - "thắt
lung buộc bụng" - tác động tiêu cực đến tăng trưởng.
Trong bài tiểu luận này nhóm 27 phân tích mối quan hệ giữa nợ công và tăng
trưởng kinh tế, trong quá trình nghiên cứu nhóm hẳn còn nhiều thiếu sót, mong
nhận được sự góp ý nhiệt tình từ thầy và các bạn.
I. QUAN ĐIỂM VỀ NỢ CÔNG
Tại hầu hết các nước trên thế giới, Luật Quản lý nợ công đều xác định nợ
công gồm nợ của chính phủ và nợ được chính phủ bảo lãnh. Ở một số nước, nợ
công còn bao gồm nợ của chính quyền địa phương ( Đài Loan, Bungari, Rumani),
nợ của doanh nghiệp nhà nuớc phi lợi nhuận ( Thái Lan, Macedonia ).
Tại Việt Nam , theo luật quản lý nợ công được ban hành ngày 29/6/2009 và
có hiệu lực từ ngày 01/01/2010: “Nợ công bao gồm: Nợ chính phủ, nợ được chính
phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương”.
Cũng theo luật này:
Nợ chính phủ: Là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước,
nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính
phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký lết, phát hành, uỷ quyền
phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm khoản
nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách
tiền tệ ừong từng thời kỳ.
Nợ được Chỉnh phủ bảo lãnh: Là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chúc
tài chính, tín dụng vay ừong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
Nợ chính quyền địa phương: Là khoản nợ do ủy ban nhân dân tỉnh,
Liên hệ facebook : hoặc sdt
0982601826 để cập nhật luận văn hay nhất.
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giũa nợcông và tăng trưởng kinh tế 3
thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là ủy ban nhân dân cấp tỉnh) ký
kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành.
Như vậy, các khoản vay như vay vốn ODA, phát hành trái phiếu chính phủ
(trong cũng như ngoài nước), hay một tập đoàn kinh tế vay nợ nước ngoài được

chính phủ bảo lãnh đều được xem là nợ công. Trước nay mọi người thường chỉ
nghĩ đến nợ Chính phủ khi nói đến tổng nợ công. Khi Chính phủ phát hành 1 tỷ
đô-la trái phiếu ở nước ngoài, ai cũng biết nó được tính vào tổng nợ công nhưng
khi đọc tin một doanh nghiệp thu xếp ký kết một khoản vay 2 tỷ đô-la với một
ngân hàng nước ngoài nào đó, có sự bảo lãnh của Chính phủ, có thể có người vẫn
nghĩ đó là nợ doanh nghiệp, không phải nợ công.
Ngoài ra cần chú ý thêm khái niệm “nợ nước ngoài của quốc gia”: Là tổng
các khoản nợ nước ngoài của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ của
doanh nghiệp và tổ chức khác vay theo phương thức tự vay, tự tả (Luật quản lý nợ
công năm 2009). vốn vay từ ADB hay WB đương nhiên là nợ nưóc ngoài rồi
nhưng một doanh nghiệp vay từ đối tác nước ngoài vài trăm triệu đô- la, chẳng
hạn, dù có hay không có bảo lãnh của chính phủ, thì khoản tiền đó vẫn phải tính
vào tổng nợ nước ngoài của quốc gia.
Nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu của chính phủ, khi chi tiêu của chính phủ lớn hơn
số thuế, phí, lệ phí thu được. Do đó, Nhà nước phải đi vay (trong hoặc ngoài nước)
để trang trải thâm hụt ngân sách. Các khoản vay này sẽ phải hoàn tả gốc và lãi khỉ
đến hạn, Nhà nước sẽ phải thu thuế tăng lên để bù đắp. Vì vậy, suy cho cùng nợ
công chỉ là sự lựa chọn thời gian đánh thuế: hôm nay hay ngày mai, thế hệ này hay
thế hệ khác. Vay nợ thực chất là cách đánh thuế dần dần, được hầu hết chính phủ
các nước sử dụng để tài trợ cho các hoạt động chi ngân sách. Nợ chính phủ thể
hiện sự chuyển giao của cải từ thế hệ sau (thế hệ phải trả thuế cao) cho thế hệ hiện
tại.
II. TÁC ĐỘNG CỦA NỢ CÔNG ĐẾN TẢNG IRƯỞNG KINH TẾ - Ý
Liên hệ facebook : hoặc sdt
0982601826 để cập nhật luận văn hay nhất.
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giũa nợcông và tăng trưởng kinh tế 4
NGHĨA CỦA NGƯỠNG NỢ VÀ TRẦN NỢ QUỐC GIA
“Nợ công là một trong những nguồn cần thiết của cấu trúc vốn mỗi quốc
gia Nó góp phần tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn, nhưng
lại gây tổn hại cho nền kinh tế trong dài hạn, do gánh nặng thực hiện nghĩa vụ trả

nợ cả vốn gốc và lãi. Theo tính toán của những nhà kinh tế học, khi vay nợ tăng
vượt ngưỡng 90-100% GDP, tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ suy giảm với tất cả các
nhóm nước, nhóm nước phát triển, mới nổi và cả khu vực sử dụng đồng tiền
chung Châu Âu. Tuy nhiên, môi trường kinh tế khác nhau lại đưa ra kết quả tác
động khác nhau của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế, minh chúng cụ thể với
Nigeria và Nam Phi. Do đó, quản lý nợ công của mỗi quốc gia đòi hỏi phải dựa
trên trần nợ họp lý, tạo khoảng trống bù đắp những rủi ro tiềm ẳn phát sinh thông
qua tham khảo ngưỡng nợ tính toán được phù họp cho mỗi quốc gia. Mức trần nợ
nàyđược MF khuyến nghị là khoảng 3540% GDP đối với những nước mới nổi và
ừong đó có Mệt Nam.”
2.1 Tác đông của nơ công đến tăng trưởng kinh tế - Bằng chứ ng th ự c


nghiêm

Khủng hoảng tài chính toàn cầu đưa đến những hậu quả rất nặng nề cho
nền kinh tế thế giới. Kéo theo nhiều vấn đề về quản trị tài chính quốc gia được lật
lại nhưng nổi trội hơn hẳn là vấn đề nợ công. Nhiều vấn đề được đưa trao đổi
Nguy cơ khủng hoảng nợ công của toàn cầu và nhìn lại nợ công ở Mệt Nam,
Chính Phủ cần phải lưu ý những vấn đề gì trong chính sách quản lý nợ công nói
riêng và tài chính công nói chung? Qua nghiên cứu và tìm hiểu những quan điểm
của các nhà kinh tế học trên thế giới, có năm quan điểm như sau:
❖ Thứ nhất
Nợ công là một nguồn rất cần thiết thuộc cấu trúc vốn tài chính của
các quốc gia, đặc biệt là nhũng quốc gia đang phát triển, góp phần vào sự
phát triển kinh tế đất nước ừong ngắn hạn, nhưng trong dài hạn có nguy cơ
Liên hệ facebook : hoặc sdt
0982601826 để cập nhật luận văn hay nhất.
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giũa nợcông và tăng trưởng kinh tế 5
gây tổn hại cho nền kinh tế bởi những yêu cầu thanh toán cả vốn gốc và lãi

của nó.
Theo quan đểm của Folorunso s. Ayadi và Felix o. Ayad (2008): Nợ là
mộttrong những nguồn thuộc cấu trúc vốn tài chính của bất kỳ một nền kinh tế nào,
đậc trung bởi một cấu trúc vốn nội bộ không thỏa đáng. Do đó, luôn gặp phải vòng
luẩn quẩn của năng suất thấp vì thiếu nguồn vốn đầu tư nâng cấp và xây dụng cơ sở
hạ tầng, cập nhật công nghệ kỹ thuật, thu nhập thấp, kéo theo là tiết kiệm cũng thấp
và tiếp tục quay lại vói cấu trúc vốn nội bộ thiếu thốn. Vì vậy, lúc này, những kiến
thức thuộc về chuyên môn, bộ máy quản lý tải chính quốc gia và sự hỗ trợ tài chính
từ những nước Phuơng Tây để khắc phục sự khó khăn về nguồn lục là điều trở nên
rất cần thiết. Mặt khác, nợ nước ngoài như là một sự ràng buộc chính yếu đến cấu
trúc vốn của những quốc gia đang phát triển. Trong đó, nợ dồn tích lại bởi vì những
yêu cầu thanh toán cả vốn gốc và lãi của nó, dần dần nợ không góp phần một cách
đáng kể cho sự phát triển kinh tế tại những đất nước đang phát triển trong dài hạn.
Phát triển những ý tưởng ừên.
Theo Bmendorf rò Mankiw (1999): Nợ công có ảnh hưởng quan trọng đến
nền kinh tế cả trang ngắn và dài hạn. Các khoản nợ (phản ánh tài tĩợ thâm hụt) có thể
kích thích tổng cầu và sản lượng trong ngắn hạn, đáp ứng nhu cầu huy động vốn của
những cá nhân và tổ chúc ừong nền kinh tế. Nợ công cao có thể ảnh hưởng bất lợi
đến tích lũy vốn và tăng trưởng thông qua lãi suất dài hạn cao han, bóp méo hệ thống
thuế ừong tương lai cao hơn, lạm phát và sự không chắc chắn cao hơn về các triển
vọng và chính sách.
❖ Thứ hai:
Đối với những quốc gia phát triển và những nền kinh tế thị trường mới nổi,
mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế biểu hiện ĩõ
nhất khi nợ vượt mức 90-100% GDP; lúc này, nợ càng tăng, tăng trưởng kinh
tế giảm đáng kể.
Liên hệ facebook : hoặc sdt
0982601826 để cập nhật luận văn hay nhất.
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giũa nợcông và tăng trưởng kinh tế 6
Theo M. Reinhart và s. Rogoff : Đã xem xét mối quan hệ giữa nợ công và tăng

trưởng kinh tế với các mức độ khác nhau của nợ công ở những nền kinh tế tiên tiến
và mới nổi. Nghiên cứu gần đây được thực hiện bỏi hai tác giả này, thông qua thống
kê tương quan đơn giản về những mức khác nhau của nợ công và tốc độ tăng trưởng
GDP thục dài hạn trong mẫu 20 quốc gia phát triển trải dài khoảng hai thế kỷ (1790 -
2009), và mẫu 24 nền kinh tế thị trường mới nổi giai đoạn 1946 - 2009 nhận thấy
rằng:
(i) Mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng dài hạn thì yếu đối vói tỷ số
nợ/GDP dưói ngưõng 90% QDP;
(ii) Tĩên 90%, khỉ nợ tăng, tốc độ tăng trưởng giảm đáng kể. Như vậy,
đâychính là điểm mấu chốt trong việc đề ra những chính sách quản lý nợ công
và tràn nợ công phù hợp cho mỗi quốc gia đựa vào ngưỡng nợ cảnh báo. Từ
đó, tránh vay mượnquá đà, rơi vào trạng thái mất khả năng chi trả và ảnh
hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
❖ Thứ ba:
Có thể xem xét sự tác động của nợ công lên tăng trưởng kinh tế thông
qua đữ liệu nợ nước ngoài cùng với những rủi ro và hệ lụy mà nó đưa lại: sự
không khuyến khích đầu tư, giới hạn sự tham gia của các quốc gia đang phát
triển với nền kinh tế toàn cầu, sự trống rỗng trong dự trữ ngoại hối quốc gia,
cứng nhắc trong chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa.
Một số nghiên cứu của Krugman (1988) và Sachs (1989): Đã xem
xét tác động của nợ công lên tăng trưởng kinh tế thông qua sự tác động của một yếu
tố đóng vai trò quan trọng: Đó là nợ nước ngoài. Hầu hết động cơ của các nghiên
cứu này là giả thuyết "số dư nợ quá múc" - một tình huống trong đó, gánh nặng
nghĩa vụ nợ của một quốc gia là quá nặng đến nỗi một phần sản lượng lớn phải tích
lũy cho các chủ nợ nước ngoài và do đó gây nên sự không khuyến khích đầu tư.
Liên hệ facebook : hoặc sdt
0982601826 để cập nhật luận văn hay nhất.
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giũa nợcông và tăng trưởng kinh tế 7
Theo đánh giá của Ayadi (1999) \à các cộng sự (2003): Gánh nặng nợ nước
ngoài đã giới hạn sự tham gia của những quốc gia đang phát triển với nền kinh tế

toàn cầu và kèm theo đó là những nghĩa vụ nợ đã gây trở ngại đến tăng trưởng và
phát triển kinh tế. Hơn thế nữa, gánh nặng nợ quốc gia gây cản ừở chi tiêu công cho
đầu tư phát triển, hạn chế việc tích lũy nguồn vốn và có khuynh hướng cản trở áp
dụng những chính sách tiền tệ linh hoạt để củng cố những doanh nghiệp vừa và nhỏ
do nguồn thu được phải đáp ứng phần lán ngtùá vụ nợ cả gốc và lãi. Điều này đã ảnh
hưởng một cách gián tiếp đến việc làm, học vấn và sự bần cùng, nghèo khó của
người dân trong một quốc gia.
❖ Thứ tư:
Tăng trưởng kinh tế, tiết kiệm và đàu tư có mối quan hệ vói nhau, khi vốn
nội địa không đủ để tài trợ cho chi tiêu đàu tư trong nước thì vay nợ là tất yếu
để phục vụ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, vay nợ luôn kèm theo những rủi ro
do lãi suất, thời hạn, cơ cấu vay mượn, gây ảnh hưởng tiêu cực lên tăng trưởng
kinh tế, do đó vấn đề quản lý nợ hiệu quả đang trở nên cấp thiết.
Theo Hunt (2007): Sự tăng lên trong tiết kiệm và đầu tư của nền kinh tế dẫn đến
tăng trưởng kinh tế. Sachs (2002) tranh luận rằng sự tăng truởng sẽ không tăng cho
đến khi tổng lượng vốn tăng đạt đến một ngưỡng nhất định. Lý thuyết “dual-gap” nói
rằng đầu tư là một hàm của tiết kiệm, và ừong những quốc gia đang phát triển, mức
độ tiết kiệm nội địa không đủ để tài trợ cho đầu tư cần thiầ để đảm bảo phát triển
kinh tế và thật hợp lý khỉ tìm kiếm sử dụng những sản phẩm và dịch vụ từ bên ngoài.
Cdaco (1985): Đã giải thích tính chất nhạy cảm của việc thanh toán nợ đối với
những nước đang phát triển thông qua sử dụng ba kịch bản:
(i) Quy mô khoản nợ nước ngoài đạt đến một mức độ mà lớn hơn so với
vốn tự có, dẫn đến sự không cân bằng giữa nợ và vốn tự có;
(ii) Tỷ lệ nợ vói lãi suất thả nổi tăng đột ngột, vĩ vậy những người vay
mượn phải đối mặt trục tiếp với việc lãi suất tăng cao;
Liên hệ facebook : hoặc sdt
0982601826 để cập nhật luận văn hay nhất.
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giũa nợcông và tăng trưởng kinh tế 8
(iii) Thời hạn vay lút ngắn đảng kể, một phần bởi vĩ sự giảm đi của những
nguồn chính thức. Do đó, điều cần tham khảo ở đây chính ]à ác định đúng

những yếu tố thuộc môi trường quản lý nợ công của mỗi quốc gia, đặctrưng
vốn có của chúng để có thể đề ra được chính sách quản lý phù họp: môi truờng
kiểm soát, hệ thống kế toán nợ công, vấn đề thực hiện minh bạch và chống
tham nhũng, quy trình ra quyết định khỉ vay nợ và xét duyệt dự án.
♦> Thứ năm:
Nợ tích lũy theo thời gian và dòng chi trả nợ đã gây cản trở lớn đến tăng
trưởng kinh tế do những trở ngại thuế khóa, bất ổn vĩ mô và sự giảm bớt chi
tiêu cho đầu tư phát triển của Chính Phủ.
Cohen (1993) \à Clements (2003): Cũng làm vững thêm cho tác động đã nói
ở trên của nợ, như họ quan sát thấy tác động tiêu cực của nợ lên tăng trưởng không
chỉ thông qua sự tồn đọng của nợ, mà còn thông qua dòng chi trả nợ, điều mà giống
như sự giảm bớt chi tiêu cho đầu tư Chính Phủ. Điều này lất quan trọng cho việc
đánh giá, xem xét vì chi tiêu công được xem là yếu tố quyết định chủ yếu của các
hoạt động kinh tế ừong nhiều vấn đề chúc năng. Nợ tích lũy làm giảm súc mạnh của
nền kinh tế và bất ổn định vĩ mô. Tĩở ngại thuế khóa nghĩa là tồn nợ lởn không
khuyến khích đầu tư vì những người đầu tư tiềm năng nhận thấy rằng sẽ có thuế cao
hơn trên thu nhập tương lai để tạo nên khoản hoàn trả nợ. Bất ổn vĩ mô có liên quan
đến việc gia tăng thiếu hụt tài chính, không
Liên hệ facebook : hoặc sdt
0982601826 để cập nhật luận văn hay nhất.
Đê Tài 5: Tóm lược lý thuyấ về mối quai hệ giũa nợ công và tăng trưởng kiili tế 9
chắc chắn do sự huy động vốn bầ thường, sự suy giảm giá trị đồng nội tệ, mở
rộng tiền tệ và lạm phát dự đoán.
2.2 Ỷ nghĩa của ngưỡng nợ và trần nợ Ọuếc g ia.
Theo quan điểm thứ hai Khi nợ công vượt ngưỡng 90% GDP thì tăng
trưởng kinh tế sẽ giảm - Bằng chứng ở các nước phát triển, mới nổi và nhóm nưóc
sử đụng đồng tiền chung châu Âu
❖ Nhóm nuớc phát triển
Hình 1: Nợ công, tăng trưởng và lạm phát: Những thị trường mới nổi được chọn
lọc, 1946-2009.Nguồn: IMF, World Economic Outlook, World Bank, Global

Development Fmance, and Reinhart and Rogoff (2009b) và những nguồn được trỉch
dẫn tại đó
Sau đây là mối quan hệ giũa tỷ lệ tăng trưởng GDP và các múc DỢ khác
nhau của 20 nước phát triển trong khoản gthời gian 1946 - 2009. Quan sát hàng
Liên hệ facebook : hoặc sdt
0982601826 để cập nhật luận văn hay nhất.
Đề Tài 5: Tóm lượclý thuyấ về mối quan hệ giũa nợcông và tăng trưởng kirỉi tế 10
năm được gộp thành 4 nhóm, dựa theo tỷ lệ nợ trên CDP trong suốt phạm vi quan
sát, cụ thể như: những năm khi nợ công/GDP đưới 30% (nợ thấp) , những năm mà
nợ công/GDP từ 30% đến 60% (nợ trung bình), 60 đến 90% (nợ cao),và ừên 90%
(lất cao).
Có tổng số 1142 quan sát hàng năm, cụ thể là: 502 quan sát cho Nợ/GDP dưới
30%, 385 cho Nợ/GDP từ 30 đến 60%, 145 cho Nợ/GDP từ 60 đến 90%, và 110 cho
Nợ/GDP trên 90%. Đáng ngạc nhiâi là mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng thì
tương tự nhau một cách đáng chú ý ở cả những thị trường mói nổi lẫn những nền
kinh tế phát triển.Trong giai đoạn 1946 đến 2009, tốc độ tăng trưởng trung vị và bình
quân ấp xỉ khoảng 4 - 4,5% cho tất cả những mức độ nợ khoảng 90% GDP. Tuy
nhiên, tốc độ tăng tniởng GDP trung vị giảm mạnh còn 2,9% đối với tỉ lệ nợ tĩền
90%, sự sụt giảm này còn lớn hơn khi ?ét đến tốc độ tăng trưởng bình quân, giảm chỉ
còn 1%. Như vậy, đối với những nước mới nổi, tỷ lệ nợ có ảnh hưởng đến tăng
trưởng kinh tế nhiều nhất cíăng được tìm thấy là mức 90% GDP. Do đó, có thể nói,
mức nợ 90% GDP là mức nợ đe dọa chung đến tăng trưởng kinh tế của tất cả các
nhóm nước, từ đó, giúp các Chính Phủ có thể nhận định được ngưỡng nợ trung bình
tác động tiêu cực đến tăng truởng kinh tế trên thế giói.Tuy nhiên, những kết quả ừên
được tính toán cho trung bình các quốc gia, do đó, chưa kể đến môi trường kinh tế
đặc trung, chính sách quản lý và điều hành đất nước của mỗi Chính Phủ, do đó, việc
phân tích những đặc trưng riêng cho mỗi nước là điều cần thiếtvà ngưỡng nợ của mỗi
quốc gia sẽ thay đổi khác nhau. Khu vục sử dụng đồng tiền chung Châu Âu CUỘC
khủng hoảng 2008 - 2009 đã tạo ra những căng thẳng đáng kể lên Gnh vực tài chính
công trong khu vực đồng tiền chung châu Âu, cụ thể là nợ công của mỗi quốc gia.

Nhiều nước ừong liên Minh Châu Âu và khu vực đồng tiền chung châu Âu đang ở
múc lủi ro cao có liên quan đến việc duy ừĩ ổn định tài chính. Nợ công tăng lên đảng
kể qua nhiều thập niâi và xu hướng này càng được thấy lõ khi quan sát sự mở rộng
ừong quy mô của Chính Phủ. Đối với nhiều nước công nghiệp, tăng trưởng tổng chi
tiêu Chính Phủ thì khổng lồ trong thế kỷ 20. Vảo cuối giai đoạn hiện nay, tỷ lệ nợ
công/GDP trung bình là 79% đối với những Chính Phủ cỡ lớn, 60% đối với những
Liên hệ facebook : hoặc sdt
0982601826 để cập nhật luận văn hay nhất.
Đề Tài 5: Tóm lượclý thuyấ về mối quan hệ giũa nợcông và tăng trưởng kirỉi tế 11
Chính Phủ cỡ vừa và 53% đối với Chính Phủ cỡ nhỏ.Khủng hoảng kinh tế và tài
chính có khuynh hướng đóng góp vào việc gia tăng nợ, cuộc khủng hoảng 2008-
2009 đã tạo những căng thẳng đáng kể lên nợ, và tổng quát, lên Bnh vục tài chính
công ở các nước trong khu vực đồng tiền chung Châu Âu. Tỷ lệ thâm hụt chính phủ
khu vực này được ước tính tăng lên nhanh chóng từ 0,6Vo GDP năm 2007 lên đến
6,6% QDP năm 2011, trong khi tỷ lệ tổng nợ chính phủ được cho là bùng phát từ
66,0% đến 88,5% GDP trong suốt cùng một giai đoạn. Nhìn chung, sự đuy trì ổn
định tài chính dài hạn trong khu vực đồng tiền chungchâu Âu đã trở nên xấu hom
một cách rõ rệt và nhiều nhận định rằng những ảnh hưởng như thế sẽ tiếp tục kéo dài
trong trung và dài hạn. Dựa theo bản báo cáo mói nhất về sự bền vững của Hội đồng
Châu Âu, nhiều quốc gia ừong khu vục đồng tiền chung và Liên Minh Châu Âu (8
nước trong khu vực đồng tiền chung và 13 nước ừong Liên Minh châuÂu) đang ở
múc lủi 1D cao về sự duy trì ổn định tài chính. Điều này phản ánh sự thâm hụt tài
chính lớn hiện tại, dự đoán về khả năng tăng trưởng GDP bị chế ngự. Như vậy,
chúng ta đều biết mức nợ kìm hãm tăng truởng kinh tế cho hầu hết các nước ừên thế
giới đều ở ngưỡng 90 - 100% GDP.
Liên hệ facebook : hoặc sdt
0982601826 để cập nhật luận văn hay nhất.
Đề Tài 5: Tóm lượclý thuyấ về mối quan hệ giũa nợcông và tăng trưởng kirỉi tế 12
Hình 2: Nợ công, tăng trưởng và lạm phát: những thị trường mới nổi được chọn
lọc, 1946-2009.Nguồn: IMF, World Economic Outlook, World Bank, Global

Development Finance, and Reinhart and Rogoff (2009b) và những nguồn được trick dẫn
tại đó
^ Khi nợ công quá lớn cũng sẽ đặt các quốc gia vào tình trạng khó khăn:
Khi nợ công quá lớn, việc thắt chặt chi tiêu, thực hiện chính sách "thắt lưng
buộc bụng" để giảm thâm hụt ngân sách là điều kiện phải đáp ứng để được nhận
sự hỗ trợ cần thiết từ các tổ chức tín dụng quốc tế, thế nhưng, "thắt lưng buộc
bụng" lại dẫn tới những cuộc biểu tình phản đối của quần chúng, gây căng thẳng,
bất ổn chính trị, xã hội, bởi những người nghèo, những người yếu thế trong xã hội
là những người bị tác động mạnh nhất từ chính sách cắt giảm
Atmiic SirOừu Avc;íiạ; Median MciittL A*CT«|£C MCUẼKI
Liên hệ facebook : hoặc sdt
0982601826 để cập nhật luận văn hay nhất.
Đề Tài 5: Tóm lượclý thuyấ về mối quan hệ giũa nợcông và tăng trưởng kirỉi tế 13
phúc lợi, cắt giảm chi tiêu của chính phả Chẳng hạn, để được nhận gói cứu trợ
nhằm giải quyết khủng hoảng nợ, Chính phủ Hy Lạp đã phải quyết định tăng
nhiều loại thuế, từ thuế giá trị gia tăng đến thuế thu nhập, thuế bất động sản; và
đánh thuế vào nhiều sản phẩm như rượu, thuốc lá._, đồng thời chấp nhận áp dụng
các biện pháp cắt giảm chi tiêu mạnh tay. Để phản đối chính sách này của chính
phủ, các cuộc tổng ánh công đã diễn ra, hàng chục ngàn người đã tham gia biểu
tình trên khắp đất nước Hy Lạp, nhất là tại thủ đô A-ten. Năm 2001, Ác-hen-ti-na
đã phải đối mặt với tình trạng rói bạn nghiêm trọng do các làn sóng biểu tình khắp
nơi phản ứng các biện pháp "thắt img buộc bụng", để rồi Tổng thống Ác-hen-ti-na
khi đó là ông Féc-nan-đô đơ la Rua đã phải từ chức, và 4 ngày sau đó, người kế
nhiệm là A-đôn-phơ RÔ4Ì-get Saa phải tuyên bố tình trạng vỡ nợ quốc gia, với
khoản nợ 90 tỉ USD - mức nợ lớn nhất trong lịch sử đất nước này.
Trong thòi điểm hiện nay, khi nền kinh tế toàn cầu mới thoát khỏi khủng
hoảng, bắt đàu có dấu hiệu phục hồi do kết quả của các gói kích thích kinh tế mà
chính phủ các nước đã chi ra trong những năm trước đây, thì việc cắt giảm chi
tiêu, tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư, kìm hãm sự phục hồi của nền kinh tế, làm
chậm tốc độ tăng truởng, thậm chí có thể đẩy nền kinh tế vào "khủng hoảng kép".

Nghiêm trọng hơn, việc tung ra các gói kfch thích kinh tế chính là một trong
những nguyên nhân làm tăng nợ công của các chính phủ, vậy nếu như khủng
hoảng "tái xuất" thì liệu các chính phủ có còn đủ khả năng xoay ró, cứu vãn nền
kinh tế của mình? vấn đề đặt ra cho các chính phủ là phải chèo lái để giải quyết
được thâm hụt ngân sách nhưng không đẩy nền kinh tế trở lại tình trạng suy thoái,
trong khi các biện pháp để giải quyết hai vấn đề này lại có tác động không thuận
chiều.
Khi nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm theo báo cáo
của các tổ chúc chuyên đi đánh giá tín nhiệm các công ty và quốc gia khác, niềm
tin của người dân và giới đầu tư bị lung lay, khi đó nền kinh tế dễ trở thành mục
tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế. Thí dụ, đối với Hy Lạp, khi tổ chúc
Liên hệ facebook : hoặc sdt
0982601826 để cập nhật luận văn hay nhất.
Đề Tài 5: Tóm lượclý thuyấ về mối quan hệ giũa nợcông và tăng trưởng kirỉi tế 14
íếp hạng tín dụng Standard & Poor's hạ bậc tín nhiệm đối với trái phiếu chính phủ
của A-ten, các quỹ đầu tư lớn lập túc bán ra bại ừái phiếu này, đồng thời từ chối
mua vào trong các đợt phát hành tiếp theo. Nếu chính phủ muốn huy động tiền từ
thị truờng tài chính sẽ phải chấp nhận chi phí vốn cao hơn và sau đó, roi vào vòng
xoáy: tiếp tục bị tụt bậc tín nhiệm Việc đưa ra xếp hạng tối nhiệm trong thời điểm
nhạy cảm, dễ tổn thương của nền kinh tế có nguy cơ làm cho cuộc khủng hoảng
thêm tầm trọng, có tác dụng như một "cú huých", đẩy nền kinh tế lún sâu thêm
vào khó khăn, bế tắc.
Việc căn cứ vào mức nợ công ừên GDP để ác định tình trạng nợ công là hết
súc quan trọng, tuy nhiên, điều quan trọng không kém là phân tích "thụe chất" nợ
công. Đó là: nợ chính phủ là vay nợ trong nước hay vay nợ nước ngoài; tốc độ
tăng trưởng của nền kinh tế, hay tình trạng "sức khoẻ" nói chung của nền kinh tế;
Luựng dự trữ quốc gia Chẳng hạn, hiện nay, dư luận đang lo ngại liệu Nhật Bản
có thể trở thành "một Hy Lạp thứ hai", thế nhung, một số nhà phân tích, khi phân
tích nợ công của Nhật Bản đã cho thấy có sự khác biệt khá lán giữa nợ công của
nước này vói nợ công của Hy Lạp, thể hiện ở chỗ, 95% trái phiếu chính phủ của

Nhật Bản do người dân nước này nắm giũ; trong khi 70% nợ chính phủ Hy Lạp
do người nước ngoài nắm giữ. Bên cạnh đó, Nhật còn tự chủ về tỉ giá hối đoái, dự
trữ ngoại tệ của Nhật cũng ở múc rất cao (theo con số mà Bộ Tài chính Nhật Bản
công bố ngày 12-5, tính đến cuối tháng 4-2010, đự trữ quốc gia của Nhật là
1.046,873 tỉ USD). Do vậy, nền kinh tế Nhật Bản, mặc dù ngoài nợ công cao còn
đứng trước nhiều khó khăn khác nữa, nhưng vẫn được dự báo là khó có thể ừở
thành mục tiêu tấn công của giói đàu cơ quốc tế. Như vậy, việc đánh giá đúng nợ
công và "thực chất" nợ công của một nền kinh tế, một quốc gia là vô cùng quan
ừọng, đặc biệt trong những thời điểm nhạy cảm. Bởi lẽ, nếu chỉ chú ừọng vào con
số tỉ lệ nợ công cao một cách thuần tuý sẽ gây nên hiệu ứng tâm lý hoang mang,
kích động, thiếu tin tưởng, làm gia tăng căng thẳng xã hội, bị giới đầu cơ bi đụng
tấn công, dễ gây rối loạn nền kinh tế, thậm chí dẫn nền kinh tế đến bên bờ vực
phá sản. Ngược lại, nếu yên tâm với tỉ lệ nợ công còn trong giói hạn an toàn, mà
Liên hệ facebook : hoặc sdt
0982601826 để cập nhật luận văn hay nhất.
Đề Tài 5: Tóm lượclý thuyấ về mối quan hệ giũa nợcông và tăng trưởng kirỉi tế 15
không phân tích cẳn ừọng, chú ý đúng múc đến khoản nợ đó được hình thành như
thế nào, bằng cách nào, thực trạng nền kinh tế m sao và khả năng trả nợ thế nào ,
cững sẽ dễ đẩy nền kinh tế Bơi vào vòng xoáy thâm hụt ngân sách - "thắt lung
buộc bụng" - tác động tiêu cực đến tăng trưởng.
KẾT LUẬN
Tóm ki từ những phân tích ở trên cho thấy giữa nợ công và sự tăng trưởng kinh tế
có 1 mối quan hệ mật thiết vói nhau.Khi chính phủ vay nợ để bù đắp cho thâm
hụt ngân sách do cắt giảm các nguồn thu từ thuế trong khi mức chi tiêu công
không thay đổi sẽ tác động đến hành vi tiêu đùng của người dân, từ đó hạn chế
tăng trưởng kinh tế, dẫn đến nền kinh tế ừì trệ, chậm phát triển .Ngược lại, xét về
mặt tích cục, Chính phủ các quốc gia có thể sử dụng nợ công như là một công cụ
để tài trợ vốn, đảp ứng nhu cầu đầu tư cho các dự án, công trình trọng điểm quốc
gia, khuyến khích phát triển sản xiất, kích thích tăng truởng kinh tế.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng, nợ công vẫn thật sự cần thiết cho nền kinh tế

mọi quốc gia. Bài toán về nợ công vốn phức tạp và hiệu úng của nó vẫn luôn là
khó luờng, chính vì vậy mỗi quốc gia cần phải đánh giá đúng quy mô, năng lực
của nành để có thể hấp thụ một luồng vốn tương úng, để từ đó chủ động nhận
thúc, kiểm soát, quản lý việc vay- sử dụng nợ một cách họp lý cả trong ngắn hạn
và dài hạn, đảm bảo khả năng thanh toán và xử lý các vấn đề phát sinh từ nợ công
một cách hiệu quả, giảm thiểu các tác động tiêu cực, giữ vững sự ổn định và phát
triển nền kinh tế.
Tài liệu tham khảo:
[ 1 ] http y/www.tapchicongsan. Qrg.vn/Home/kmh-te-thi-truong
XHCN/2012/16541/No-cong-cua-\let-Nam-Nhung-van-de-va-tac-dong-
tiemaspx
[2] httpy/www.hvnh.edu.vn/sites/defaul1/files/tai_ng\uyen/MũứiNgoc-
Nocong- sutacdong.pdf
Liên hệ facebook : hoặc sdt
0982601826 để cập nhật luận văn hay nhất.
Đề Tài 5: Tóm lượclý thuyấ về mối quan hệ giũa nợcông và tăng trưởng kirỉi tế 16
[3] httpy/www.scribd.coĩn/doc/l 04440968/Bai-Tong-Hop

×