Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của giờ ngoại khóa đến chất lượng học tập chuyên môn đối với sinh viên chuyên sâu bóng chuyền k45 khoa huấn luyện viên trường đh TDTT bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.39 KB, 43 trang )

M U
Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định mục tiêu tổng
quát của chiến lợc kinh tế - xã hội 2001 - 2010 là: "Đa đất nớc ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của
nhân dân, tạo nền tảng đ đến 2020 nớc ta cơ bản trở thành một nớc công nghiệp
hoá theo hớng hiện đại hoá".
Để đạt đợc các mục tiêu trên, giáo dục và khoa học - công nghệ có vai
trò quyết định, nhu cầu phát triển giáo dục là rất bức thiết. Yêu cầu về con ngời
và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nớc trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cần tạo chuyển biến cơ bản và toàn diện về giáo
dục, thực hiện giáo dục toàn diện về đức, trí, thể, mỹ, lao động.
Thể dục thể thao (TDTT) là một bộ phận quan trọng không thể thiếu đợc
trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nớc, nhằm bồi dỡng
và phát huy nhân tố con ngời, trớc hết là nâng cao sức khoẻ và thể lực, góp phần
giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh. Hoạt động TDTT tạo cho con
ngời có vóc dáng khoẻ mạnh, tinh thần sảng khoái, chống mệt mỏi, bệnh tật và
tạo sự hăng hái cho ngời tập.
Với Trờng Đại học TDTT Bắc Ninh, việc đẩy mạnh và nâng cao chất l-
ợng sinh viên là nhiệm vụ chính trị quan trọng và cấp bách nhất của nhà trờng
nói chung và của các môn học nói riêng, trong đó có môn bóng chuyền. Bóng
chuyền là môn thể thao đợc Tổng cục TDTT rất quan tâm và phát triển cùng với
các môn khác. Bóng chuyền là môn thể thao ra đời ở Mỹ. Nó là môn thể thao
đồng đội đối kháng đòi hỏi VĐV phải hoạt động với cờng độ lớn, có thể lực tốt,
khéo léo và linh hoạt, có tinh thần tập thể cao và chịu sự căng thẳng của thần
kinh. Chính điều này đã giúp cho ngời tham gia tập luyện có một cơ thể khoẻ
mạnh, phản xạ nhanh nhẹn, tâm lý vững vàng, tính kỷ lụât cao. ở nớc ta, môn
bóng chuyền bắt đầu xuất hiện từ những năm 1922, mặc dù phải trải qua những
thăng trầm của lịch sử nhng nó không ngừng duy trì củng cố và phát triển.
Những năm gần đây, nhờ sự quan tâm của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch môn
Bóng chuyền của nớc ta cũng có vị trí ở trong khu vực nhng so với các nớc trên
1


thế giới thì nớc ta ở vị trí khá xa. Điều này đặt ra cho các nhà chuyên môn, các
Huấn luyện viên và các nhà khoa học một nhiệm vụ bức bách vô cùng quan
trọng, đó là làm sao nhanh chóng tìm ra các phơng pháp huấn luyện nâng cao
thành tích thi đấu.
Bóng chuyền đợc phát triển rộng rãi ở nớc ta, nó là môn thể thao hấp
dẫn, phù hợp với mọi lứa tuổi. Cũng nh các môn thể thao khác, nó đòi hỏi trình
độ kỹ thuật - chiến thuật không chỉ dừng lại ở kỹ năng vận động mà phải đạt tới
kỹ xảo vận động cùng một số yếu tố khác nữa mới có thể đạt thành tích cao
trong học tập cũng nh trong thi đấu. Ngoài ra, điều trớc hết với ngời tập là tính tự
giác, tích cực thể hiện sự say mê trong tập luyện, tự giác chấp hành những nội
dung, yêu cầu của buổi tập, tích cực học hỏi, tìm tòi sáng tạo, không ngừng trau
dồi kiến thức để nâng cao trình độ.
Là một sinh viên chuyên sâu bóng chuyền ở trờng, qua theo dõi, tìm hiểu
quá trình học tập và thi đấu của các sinh viên chuyên sâu tôi nhận thấy hiệu quả
thi đấu cha cao. Do đó để nâng cao hiệu quả thi đấu nói riêng cũng nh học tập
môn bóng chuyền nói chung thì chỉ học tập giờ chính khoá thôi cha đủ. Một giờ
học giáo viên chỉ có thể trang bị cho sinh viên các kỹ - chiến thuật cơ bản nhất,
còn việc vận dụng vào thực tế lại cần có thời gian để tập luyện thêm và công việc
này chủ yếu phụ thuộc vào các giờ tự học của sinh viên.
Để sinh viên sau khi ra trờng là những cán bộ, huấn luyện viên, giáo viên
TDTT giỏi, toàn diện không những về thực hành chuyên môn mà cả về phơng
pháp lý luận thì ngay từ khi còn học mỗi sinh viên phải tự trau dồi, rèn luyện để
tự mình có những kinh nghiệm quý báu, hoặc tự rút ra những bài học cho bản
thân nhằm phục vụ công tác giảng dạy cũng nh công tác sau này.
Ngày nay, nhu cầu trong nhà trờng đã mở ra những hớng đi mới cho
những sinh viên đang học tập tại trờng. Trong đó xu hớng đa quá trình đào tạo
chuyển dần thành tự đào tạo của sinh viên nhằm phát huy cao độ vai trò chủ
động tích cực học tập của sinh viên đã đợc áp dụng, đặc biệt là các giờ ngoại
khóa. Nhng trong thực tế hiện nay các giờ ngoại khóa học sinh viên đã đợc sử
dụng nh thế nào? Nội dung của giờ ngoại khóa, chất lợng của giờ học ngoại khóa

2
đối với kết quả học tập môn chuyên sâu bóng chuyền trong nhà trờng nh thế
nào? Đó là những vấn đề chúng tôi cần quan tâm.
Xuất phát từ những suy nghĩ trên, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài:
"Nghiên cứu ảnh hởng của giờ học ngoại đến chất lợng học tập chuyên
môn đối với sinh viên chuyên sâu bóng chuyền khóa 45 khoa huấn luyện trờng
Đại học TDTT Bắc Ninh"
Mục đích nghiên cứu.
Đề tài tiến hành với mục đích là tìm hiểu ảnh hởng của vấn đề tập luyện
ngoại khóa đối với kết quả học tập môn bóng chuyền của sinh viên chuyên sâu
trong nhà trờng nhằm đánh giá cũng nh nâng cao chất lợng học tập chuyên môn
cho các sinh viên chuyên sâu.
Mục tiêu nghiên cứu
Để thực hiện đề tài cũng nh mục đích nêu trên cần xác định và giải quyết
hai mục tiêu nghiên cứu:
1. Tìm hiểu thực trạng việc tập luyện ngoại khóa đối với sinh viên
chuyên sâu bóng chuyền khóa 45 khoa huấn luyện trờng Đại học TDTT Bắc
Ninh.
2. Nghiên cứu ảnh hởng của giờ học ngoại khóa đến kết quả học tập
chuyên môn đối với sinh viên chuyên sâu bóng chuyền khoá 45 khoa huấn luyện
trờng Đại học TDTT Bắc Ninh.
Đối tợng nghiên cứu
Sinh viên chuyên sâu bóng chuyền khoá 45 khoa huấn luyện trờng Đại
học TDTT Bắc Ninh.
Phạm vi nghiên cứu.
Trờng Đại học TDTT Bắc Ninh, Từ Sơn, Bắc Ninh.
3
Chơng 1
Tổng quan các vấn đề nghiên cứu
1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nc đối với công tác giáo dục thể chất

Trong hệ thống giáo dục đào tạo của nớc ta, giáo dục thể chất là một bộ
phận của giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ nhằm đào tạo họ thành những chủ
nhân tơng lai của đất nớc, có trình độ chuyên môn vững vàng, có sức khoẻ, tự
chủ, năng động, sáng tạo, có đạo đức, có tinh thần yêu nớc. T tởng bao trùm của
chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc đặt nền tảng xây dựng sự nghiệp TDTT của nớc
ta là: khẳng định rõ TDTT vừa là công tác cách mạng, vừa là nhu cầu, vừa là
quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của quần chúng. Mục tiêu của TDTT là bảo vệ và tăng
cờng sức khoẻ của nhân dân, góp phần cải tạo nòi giống Việt Nam, làm cho dân
cờng nớc thịnh. Tiêu biểu là lời kêu gọi toàn dân tập thể dục: Giữ gìn dân chủ,
xây dựng nớc nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng có sức khoẻ mới thành công.
Mỗi một ngời dân yếu ớt tức là làm cho cả nớc yếu ớt một phần, mỗi một ngời
dân khoẻ mạnh tức là góp phần làm cho cả nớc mạnh khoẻ. Vậy luyện tập thể
dục bồi bổ sức khoẻ là bổn phận của mỗi ngời dân yêu nớc
Khi đất nớc giành đợc độc lập cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền
kinh tế, công tác TDTT của nớc ta không ngừng đợc quan tâm điều đó đợcthể
hiện thông qua: Chỉ thị 36 CT/TW Ban Bí th ngày 24/3/1994.
Trớc tình hình mới, sự nghiệp TDTT cần đợc phát triển đúng hớng theo
những quan điểm sau đây:
- Phát triển TDTT là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển
kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nớc nhằm bồi dỡng và phát huy nhân tố con
ngời. Công tác TDTT phải góp phần tích cực nâng cao sức khoẻ, thể lực, giáo
dục nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh, làm phong phú đời sống văn hoá,
tinh thần của nhân dân, nâng cao năng suất lao động xã hội và sức chiến đấu của
các lực lợng vũ trang.
4
- Xây dựng nền TDTT có tính chất dân tộc, khoa học và nhân dân. Giữ
gìn và phát huy bản sắc và truyền thống dân tộc, đồng thời nhanh chóng tiếp thu
có chọn lọc những thành tựu hiện đại. Phát triển rộng rãi phong trào TDTT quần
chúng với khẩu hiệu khoẻ để xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Từng bớc xây dựng lực
lợng thể thao chuyên nghiệp và đỉnh cao.

- Phát triển TDTT là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các
đoàn thể nhân dân và tổ chức xã hội, là nhân viên của toàn xã hội. Trong đó,
ngành TDTT giữ vai trò nòng cốt. Xã hội hoá tổ chức hoạt động TDTT dới sự
quản lý thống nhất của Nhà nớc.
- Mở rộng giao lu và hợp tác quốc tế về TDTT phục vụ cho sự phát triển
TDTT của đất nớc, tăng cờng tình hữu nghị, sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân
ta và nhân dân các nớc.
Mục tiêu cơ bản và lâu dài của công tác TDTT là hình thành nền TDTT
phát triển và tiến bộ, góp phần nâng cao sức khoẻ, thể lực, đáp ứng nhu cầu văn
hoá, tinh thần của nhân dân và phấn đấu đạt đợc vị trí xứng đáng trong các hoạt
động thể thao quốc tế, trớc hết là ở khu vực Đông Nam á.
Trong chỉ thị 36 CT/TW Ban Bí th khẳng định rõ về hoạt động giáo dục thể chất:
- Thực hiện giáo dục thể chất trong tất cả các trờng học. Làm cho việc
tập luyện TDTT trở thành nếp sống hàng ngày của hầu hết học sinh, sinh viên,
thanh niên, chiến sĩ, các lực lợng vũ trang, cán bộ, công nhân viên chức và một
bộ phận nhân dân.
- Hình thành hệ thống đào tạo tài năng thể thao quốc gia. Đào tạo đợc
một lực lợng VĐV trẻ, có khả năng nhanh chóng tiếp cận các thành tựu thể thao
tiên tiến của thế giới. Tham gia và đạt kết quả ngày càng cao trong các hoạt động
thể thao khu vực Châu á và thế giới trớc hết ở các môn thể thao mà ta có nhiều khả
năng.
- Kiện toàn hệ thống đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ khoa học, huấn
luyện viên, giáo viên TDTT. Kiện toàn tổ chức ngành TDTT các cấp. Nâng cấp,
xây dựng mới và hiện đại hoá một số cơ sở vật chất, kỹ thuật TDTT; hình thành
5
các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng khoa học, y học TDTT, tạo điều kiện cho sự phát
triển mạnh mẽ nền TDTT Việt Nam vào thế kỷ XXI.
Chỉ thị 17 CT/TW Ban Bí th ngày 23/10/2002 Công tác TDTT phải góp
phần tích cực thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và
mở rộng quan hệ đối ngoại của đất nớc, trớc hết là góp phần nâng cao sức khoẻ,

rèng luyện ý chí, giáo dục đạo đức, nhân cách lối sống và nâng cao đời sống văn
hoá tinh thần của nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, nâng cao lòng
tự hào dân tộc và đẩy lùi tệ nạn xã hội ở từng địa phơng.
1.2. Vấn đề giáo dục thể chất trong trờng học và việc sử dụng hình
thức tập luyện ngọa khóa của các sinh viên
Sự quan tâm của các cấp lãnh đạo đối với công tác giáo dục thể chất cho
học sinh, sinh viên nói chung đã có kích thích đáng kể trong công tác thực hiện
nhiệm vụ này. Điều đó đc thể hiện qua sự đầu t thời gian giờ học, đội ngũ giáo
viên đc đào tạo cơ bản, dụng cụ, trang thiết bị khá đầy đủ Coi trọng việc
phát triển các trng chuyên ngành về TDTT để đào tạo đội ngũ cán bộ có trình
độ chuyên môn phục vụ công cuộc phát triển sự nghiệp TDTT của đất nc.
Trng Đại học TDTT Bắc Ninh đã trải qua 50 năm xây dựng và phát
triển, quá trình đào tạo của nhà trờng đã trang bị cho sinh viên những kiến thức
rất toàn diện, đặc biệt là các môn học chuyên sâu. Song vì điều kiện thời gian có
hạn nên những tri thức chuyên môn nh các kỹ thuật, chiến thuật của môn học
cùng với việc phát triển thể lực và các năng lực s phạm khoa học cần thiết. Bởi
vậy, muốn học tập đạt kết quả cao, đặc biệt là nâng cao thành tích môn bóng
chuyền mỗi sinh viên phải tích cực ngoài học tập chính khoá phải tìm cho mình
một hng đi đúng, đó là việc chủ động và tự giác học tập chuyên môn thêm vào
các giờ học ngoại. Đây thực sự là một hình thức tập luyện rất cần thiết, hợp lý,
tập trung sinh viên tham gia trên cơ sở tự nguyện, tạo nên một sân chơi lành
mạnh vừa tránh xa các tệ nạn xã hội vừa không ngừng củng cố, hoàn thiện kỹ năng
kỹ xảo, nâng cao trình độ chuyên môn.
6
1.3. Quán triệt đầy đủ các nguyên tắc tập luyện - cơ sở khoa học để
nâng cao chất lợng học tập cho các sinh viên chuyên sâu.
Nguyên tắc tập luyện là những luận điểm khoa học đợc đúc rút từ các
hoạt động thực tiễn trong giáo dục, giảng dạy của nhiều thế hệ, đợc dùng để chỉ
đạo và hớng dẫn cho các hoạt động giáo dục, giảng dạy đạt hiệu quả cao, tránh
đợc các sai lầm, thất bại. Trong hoạt động của mình, các nhà chuyên môn đó

phải hành động xuất phát từ các luận điểm cơ bản đã đợc thử thách bằng toàn bộ
kinh nghiệm giáo dục của xã hội. Những luận điểm hình thành trên cơ sở nhận
thức đợc các quy luật của thực tiễn giáo dục nh một sự hớng dẫn chung đối với
các hoạt động.
Trong các hoạt động ngoại khóa, chúng ta phải thờng xuyên vận dụng
tổng hợp và riêng lẻ một số nguyên tắc về mặt phơng pháp của giáo dục thể
chất sau:
1.3.1. Nguyên tắc tự giác tích cực:
Nguyên tắc này hớng tới việc tạo cho sinh viên phấn khởi, tự giác say mê
tập luyện, có động lực, có quyết tâm rèn luyện, phấn đấu.
Theo các nhà tâm lý học, tính tự giác, tích cực bắt nguồn từ nhu cầu và
hứng thú. Nhu cầu có vai trò là động lực của hoạt động tích cực. Khi không còn
nhu cầu thì hoạt động tích cực sẽ suy giảm.
Hứng thú của con ngời có thể là ngẫu hứng trớc hình thể đẹp, động tác
hấp dẫn, ham thích tự nhiên môn tập nào đó.
Hứng thú tự nhiên nếu gặp hoàn cảnh thích hợp, đạt đợc mong muốn của
cá nhân thì có thể đợc kéo dài thời gian. Ngợc lại nếu gặp hoàn cảnh khó khăn,
động tác khó thực hiện, nguy hiểm hay bị tai nạn thì sự hứng thú dễ bị mất đi.
Còn nhu cầu là do xác định trách nhiệm học tập. Học để nâng cao thể lực
cho bản thân, học để hiểu đợc bản chất xã hội của TDTT để phát triển cơ thể cân
đối, để chuẩn bị cho lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc.
Nguyên tắc tự giác tích cực còn đòi hỏi làm cho ngời tập nhận thức đợc ý
nghĩa cụ thể của môn học, các nhiệm vụ cần đợc thực hiện. Nêu rõ đợc bản chất
các nhiệm vụ, ý nghĩa là chứng minh đợc sự cần thiết của nhiệm vụ đó nh là một
7
trong các bớc tuần tự trên con đờng đạt đợc mục đích đã định đồng thời xây
dựng đợc nhận thức về các quy luật và các điều kiện quyết định đối với việc thực
hiện các nhiệm vụ đó.
Bên cạnh sự hăng say, tự giác tích cực của các sinh viên thì giáo viên,
ngời dạy cũng đóng góp một vai trò quan trọng. Nếu ngời thầy giáo cha thật say

mê với nghề nghiệp của mình thì khó có thể truyền thụ niềm say mê, hứng khởi
cho ngời học.
1.3.2. Nguyên tắc trực quan:
Ta đều biết rằng nhận thức thực tế đợc bắt đầu từ mức độ cảm giác, từ
trực quan sinh động đến t duy trừu tợng, từ t duy trừu tợng đến thực tế. Hình ảnh
sinh động của các động tác cần học đợc hình thành với sự tham gia của các cơ
quan cảm thụ bên ngoài cũng nh bên trong, những cơ quan tiếp nhận cảm giác
của mắt, tai, cơ quan tiền đình, cơ quan cảm giác cơ Điều quan trọng ở đây là
sự hoạt động của các cơ quan cảm giác khác nhau, vừa bổ xung cho nhau, vừa
làm chính xác hoá bức tranh về động tác. Hình ảnh cảm giác càng phong phú thì
các kỹ năng, kỹ xảo vận động đợc hình thành trên cơ sở cảm giác đó càng nhanh,
và các tố chất thể lực, phẩm chất ý chí biểu hiện càng hiệu quả hơn.
Trong quá trình học tập, tính trực quan đóng một vai trò đặc biệt quan
trọng, bởi vì hành động của ngời tập về cơ bản là mang tính chất thực hành và
chứa đựng một trong những nhiệm vụ chuyên môn của mình là phát triển toàn
diện các cơ quan cảm giác.
Khi xây dựng các tiền đề cảm giác để tiếp thu động tác thì phải khắc
phục một khó khăn đáng kể về mặt phơng pháp. Để có cảm giác thực sự về động
tác thì phải thực hiện nó nhng không thể thực hiện đúng động tác nếu sơ bộ cha
có đợc những biểu tợng vận động cơ bản.
Tuỳ theo mức độ tiếp thu hành vi vận động mà các cơ quan cảm giác
khác sẽ hoạt động với sự phối hợp ngày càng chặt chẽ với nhau, đồng thời tạo
nên một cơ quan phân tích tổng hợp thống nhất. Điều đó sẽ tạo điều kiện cho
việc thụ cảm tinh tế hơn, đồng thời tổng hợp hơn, tuỳ theo sự cần thiết của việc
điều khiển hoàn chỉnh các động tác.
8
Tính trực quan là quan trọng không chỉ vì tự bản thân nó mà còn vì nó là
điều kiện chung nhất để thực hiện các nguyên tắc giảng dạy và giáo dục. Việc sử
dụng rộng rãi các hình thức trực quan khác làm tăng hứng thú đối với tập luyện,
làm dễ hiểu và dễ thực hiện nhiệm vụ, đồng thời tạo điều kiện để tiếp thu các

kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo khác. Do vậy, việc xây dựng biểu tợng chính xác
cho sinh viên để bớc vào tập luyện kỹ thuật là hết sức quan trọng.
1.3.3. Nguyên tắc vừa sức cá biệt hoá:
Mỗi ngời lại có sự khác nhau căn bản về thể trạng, chiều cao, cân nặng,
mức độ tiếp thu kỹ thuật, động tác và khả năng hoàn thiện kỹ năng, kỹ xảo trong
từng động tác. Hiểu đợc nguyên tắc này, các sinh viên có thể tự xây dựng cho
mình hay nói đúng hơn là lựa chọn cho mình các hình thức tập luyện phù hợp với
bản thân, tránh đợc những sai lầm, thất bại trong tập luyện cũng nh trong
thi đấu.
Bóng chuyền là môn thể thao đòi hỏi cao về sức bật giậm nhảy. Tuy
nhiên, bên cạnh đó sự khéo léo trong xử lý tình huống cũng nh sự linh hoạt trong
các tình huống cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Nhận thấy bản thân
phù hợp với hình thức nào để có hiệu quả nhất điều đó mới đem lại hiệu quả.
1.3.4. Nguyên tắc hệ thống:
Yêu cầu ngời học phải học thng xuyên, liên tục, có kế hoạch, chơng
trình tập luyện rõ ràng, cụ thể (ít nhất phải tập từ 2 -3 buổi trở lên trong 1 tuần).
Cần tập luyện liên tục vì những biến đổi về chức năng và cấu trúc đã xảy ra trong
cơ thể trong thời gian luyện tập và do kết quả các bài tập có thể phát triển ngợc
lại trong trờng hợp ngừng tập luyện. Ngời ta đã chứng minh đợc chỉ cần ngừng
tập luyện trong một thời gian tơng đối ngắn (5 - 7 ngày) là những mối liên hệ
phản xạ có điều kiện vừa xuất hiện đã bị tắt, mức độ phát triển các khả năng,
chức năng vừa đạt đợc đã bắt đầu bị giảm và ngay cả một số chỉ tiêu về thể hình
cũng bắt đầu bị tụt xuống.
Vì vậy, để nâng cao hiệu quả của việc tập luyện, không bị mất đi những
kết quả đạt đợc, điều đơn giản là phải tập luyện liên tục, thờng xuyên.
Cần phải tập luyện có hệ thống vì trong quá trình ấy ngoài việc không
cho phép nghỉ dừng làm tiêu hao mất hiệu quả tốt qua tập luyện, còn phải xuất
9
phát từ yêu cầu hiệu quả của mỗi buổi tập. Kết quả là hiệu quả của một số buổi
tập dờng nh đợc cộng gộp lại, làm xuất hiện hiệu quả tích luỹ của cả một hệ

thống các buổi, tức là làm xuất hiện những biến đổi thích nghi tơng đối vững
chắc mang tính chất cấu trúc và chức năng. Chính các biến đổi này là cơ sở của
trình độ chuẩn bị thể lực, trình độ huấn luyện và các kỹ xảo vận động vững chắc.
Giờ học TDTT ngoại khóa không bắt buộc đối với mọi sinh viên, tuỳ
theo điều kiện của nhà trờng và nguyện vọng của sinh viên. Quán triệt sâu sắc
những quan điểm khoa học của nguyên tắc hệ thống - thờng xuyên liên tục - coi
đó là t tởng chỉ đạo để chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu.
1.3.5. Nguyên tắc tăng dần yêu cầu:
Nguyên tắc này yêu cầu ngời tập phải nâng cao dần các yêu cầu về mức
độ khó khăn, nâng cao dần lợng vận động của bài tập để nâng cao về hiệu quả,
kỹ thuật và phát triển thể lực.
Trong quá trình tập luyện các phản ứng đáp lại của cơ thể đối với cùng
một lợng vận động cũng luôn thay đổi. Tuỳ theo mức độ thích nghi với một lợng
vận động cụ thể thì những biến đổi sinh vật học do lợng vận động đó gây ra sẽ
trở lên ít hơn. Sự tiêu hao năng lợng đối với một đơn vị công bên ngoài sẽ giảm
xuống ngời ta gọi đó là Sự tiết kiệm hoá các chức năng. Đó chính là ý nghĩa
sinh vật học của sự thích nghi đối với lợng vận động. Nhng khi lợng vận động
vừa trở thành quen thuộc (đã thích nghi) và không còn gây nên thích nghi thừa
ra nữa thì nó sẽ không còn là nhân tố cơ bản gây lên những thay đổi tốt cho cơ
thể. Để đảm bảo tiếp tục nâng cao khả năng chức phận của cơ thể thì cần phải
đổi mới một cách có hệ thống lợng vận động, đồng thời tăng cả khối lợng và c-
ờng độ vận động.
Trong quá trình tập luyện có nhiều hình thức để tăng lợng vận động. Về
nguyên tắc muốn nâng cao chất lợng học tập chuyên môn ngời tập phải luôn đổi
mới và nâng cao lợng vận động cũng nh khả năng thực hiện động tác. Song tuỳ
theo đặc điểm thể lực của cơ thể, tuỳ theo trình độ tập luyện của ngời tập mà sử
dụng hình thức tăng nào, vào thời điểm nào là thích hợp. Bởi vì cơ thể chúng ta
thích nghi với một lợng vận động nào đó không thể ngay lập tức, ngay trong một
10
lúc, một buổi tập. Mà cần phải có thời gian nhất định để cơ thể kịp xảy ra các

biến động thích nghi, là cái cho phép nâng trình độ huấn luyện lên một trình độ
mới cao hơn.
1.3.6. Mối quan hệ lẫn nhau của các nguyên tắc về mặt phơng pháp:
Khi phân tích các điều nói trên về mặt nguyên tắc giáo dục thể chất ta dễ
dàng nhận thấy rằng nội dung của chúng có liên hệ chặt chẽ với nhau tới mức
các bộ phận có thể trùng nhau. Điều đó không có gì ngạc nhiên bởi vì tất cả các
nguyên tắc đó phản ánh các mặt riêng lẻ và các quy luật của cùng một quá trình
mà về bản chất là thống nhất và chỉ trình bày có tính quy ớc thành các nguyên
tắc riêng lẻ mà thôi.
Nguyên tắc tự giác và tích cực là tiền đề chung để thực hiện tất cả các
nguyên tắc khác của giáo dục thể chất. Bởi vì thái độ tự giác và tích cực của ngời
tập đối với công việc sẽ quyết định đến tính thích hợp của tài liệu học tập, tính
bền vững của các kiến thức, kỹ năng kỹ xảo đã tiếp thu đợc, mối liên hệ giữa cái
trớc và cái tiếp theo, cách thức đề ra mục tiêu tiến bộ tiếp theo.
Mặt khác hoạt động tích cực của ngời tập chỉ đợc coi là tự giác thực sự,
chỉ đạt đợc mục đích đã khẳng định, khi nó phối hợp đợc các yêu cầu xuất phát
từ các nguyên tắc trực quan, thích hợp, cá biệt hoá, hệ thống, tăng tiến. Mối liên
hệ nh thế cũng hợp nhất các nguyên tắc khác. Chẳng hạn nếu không tính toán
đến nguyên tắc thích hợp và cá biệt hoá thì không thể lựa chọn đợc tuần tự hợp
lý, cũng không thể tăng tiến đợc LVĐ. Về phần mình các ranh giới của tính
thích hợp cũng mở rộng trên cơ sở thực hiện các nguyên tắc hệ thống và tăng
tiến.
Nh vậy rõ ràng không nguyên tắc nào lại có thể thực hiện đầy đủ mà loại
trừ các nguyên tắc khác. Chỉ có trên cơ sở thống nhất các nguyên tắc thì mới có
thể đạt đợc hiệu quả lớn nhất của từng nguyên tắc một.

11
1.4. Vai trò của tập luyện ngoại khóa tới kết quả học tập môn chuyên sâu
bóng chuyền.
Đối với mỗi ngời để đạt đến một trình độ nhất định đều phải trải qua một

quá trình tập luyện lâu dài và gian khổ. Kỹ năng vận động là tổng hoà của nhiều
động tác riêng lẻ, mỗi một kỹ thuật động tác đều phải thực hiện nhiều lần mới
đem lại kết quả. Nh đã nêu ở phần trên, giờ chính khoá chỉ có thể trang bị cho
sinh viên những kiến thức ở mức độ cơ bản nhất còn việc thực hành nó và thực
hành có hiệu quả cao thì đòi hỏi phải có một quá trình tập luyện. Các giờ ngoại
khóa sẽ giúp bản thân ngời tập củng cố và hoàn thiện kỹ thuật động tác nâng cao
khả năng tiếp thu, thực hành và khả năng ứng dụng trong thực tế. Ngoài ra, các
giờ ngoại khóa nếu đợc sử dụng tốt, có kế hoạch sẽ giúp ngời tập phát huy khả
năng đồng thời phát huy sự khéo léo, linh hoạt góp phần nâng cao năng lực
chuyên môn trong chuyên sâu của mình để sau này có thể vận dụng tốt các kiến
thức đã thu đợc trong quá trình truyền thụ, giảng dạy.

12
Chơng 2
phơng pháp và tổ chức nghiên cứu
2.1. Phơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra, đề tài sử dụng các phơng pháp sau:
2.1.1. Phơng pháp đọc và phân tích tài liệu.
Đây là phơng pháp đợc sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu trên cơ
sở tham khảo những tài liệu khoa học lý luận chung nh lý luận và phơng pháp
giáo dục thể chất, tâm lý học TDTT, giáo trình bóng chuyền, chơng trình giảng
dạy nhằm rút ra những cơ sở lý luận liên quan đến giờ học ngoại khóa để làm cơ
sở chung cho đề tài. Đặc biệt là thông qua hồ sơ lu trữ của tổ môn trong đó kết
quả giữa kỳ thi trớc, trong và sau quá trình tập luyện tự học để xác định kết quả
học tập của các đối tợng nghiên cứu mà đề tài đề cập tới.
2.1.2 Phơng pháp quan sát s phạm.
Thông qua phơng pháp này đã giúp theo dõi cũng nh thống kê số lợng
các sinh viên chuyên sâu bóng chuyền khóa 45 khoa huấn luyện một cách cụ thể
về vấn đề học tâp ngoại khóa trong nhà trờng cùng với việc quan sát nội dung tập
luyện của họ trong mỗi buổi ngoại khóa đó để lấy đợc số liệu một cách chính

xác, phục vụ cho quá trình nghiên cứu của đề tài.
2.1.3 Phơng pháp phỏng vấn.
Ngoài phơng pháp quan sát, chúng tôi còn tiến hành sử dụng phơng pháp
phỏng vấn trực tiếp và phỏng vấn gián tiếp thông qua phiếu phỏng vấn (ở phần
phụ lục của đề tài). Nội dung của phiếu phỏng vấn bao gồm: những nhận thức và
động cơ học tập ngoại khóa của các sinh viên, thời gian ngoại khóa cũng nh nội
dung ngoại khóa, những điều kiện chủ quan và khách quan ảnh hởng trực tiếp
đến thời gian, chất lợng của giờ ngoại khóa mà họ tiến hành nhằm nâng cao độ
tin cậy của thông tin sử dụng trong đề tài.
13
2.1.4. Phơng pháp toán học thống kê.
Đợc sử dụng ở giai đoạn cuối của quá trình nghiên cứu nhằm xử lý số
liệu đã thu thập đợc thông qua các công thức sau:
n
X
n
XXXX
X
i
n

=
++++
=

321
Công thức so sánh các tỷ lệ quan sát:
( )



=
i
ii
L
LQ
X
2
2
2.2. Tổ chức nghiên cứu
Đề tài đợc tiến hành từ tháng 03/2010 đến tháng 05/2011 và đợc chia
làm 3 giai đoạn:
* Giai đoạn 1: Từ tháng 03/2010 đến tháng 04/2010: Xác định tên đề
tài, lập đề cơng nghiên cứu và bảo vệ.
* Giai đoạn 2: Từ tháng 05/2010 đến tháng 02/2011: Đọc và phân tích
tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu, thu thập và xử lý số liệu, giải quyết
nhiệm vụ 1 và 2.
* Giai đoạn 3: Từ tháng 03/2011 đến tháng 05/2011: Viết và hoàn thiện
luận văn, chuẩn bị báo cáo trớc Hội đồng khoa học.
14
Chơng 3
kết quả nghiên cứu và bàn luận
3.1. Tìm hiểu thực trạng việc tập luyện trong giờ học ngoại khóa của
sinh viên chuyên sâu bóng chuyền khóa 45 khoa huấn luyện trờng Đại học
TDTT Bắc Ninh.
Để đạt đợc thành tích trong thể thao nói chung cũng nh trong Bóng
chuyền nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố con ngời. Đó là tinh thần tự
giác, tích cực, tự tìm tòi tập luyện với tinh thần trách nhiệm, hăng say, phấn đấu
hết mình. Ngoài ra, tố chất trong thể thao có ý nghĩa quan trọng trong chiều h-
ớng phát triển cũng nh kế hoạch đào tạo, huấn luyện. Từ thực tế những năm qua,
vấn đề tham gia ngoại khóa của sinh viên trờng ta cha tích cực thể hiện ở số lợng

ngời giam gia, nội dung tập luyện, thời gian ngoại khóa Điều đó có ảnh hởng
trực tiếp đến kết quả học tập chuyên môn của sinh viên chuyên sâu. Chính vì thế
ngời giáo viên phải thực sự đóng vai trò chủ đạo trong đánh giá và uốn nắn hoạt
động của ngời tập, xây dựng tinh thần tự giác, tích cực trong sinh viên, hớng họ
vào các hoạt động có ích. Bóng chuyền là môn thể thao mang tính đối kháng
không trực tiếp, thể hiện cao về tinh thần tập thể, khả năng phố hợp khéo léo, hài
hoà của từng cá nhân. Qua hoạt động học tập và thi đấu ta có thể nhận thấy
ngoài việc không ngừng phát triển các chiến thuật, kỹ thuật, các yếu tố về tâm
sinh lý, thể lực còn phải nâng cao hiệu quả trong các tình huống tấn công và
phòng thủ. Các giờ chính khoá chỉ trang bị cho sinh viên những kiến thức ở mức
độ rất cơ bản, việc vận dụng thành thạo kiến thức ấy trong thực tiễn tập luyện và
thi đấu đòi hỏi phải có một quá trình tập luyện lâu dài mới mang lại hiệu quả.
Muốn vậy không còn con đờng nào khác chính là phải thờng xuyên tập luyện
thêm vào các giờ ngoại khóa, không ngừng củng cố, hoàn thiện những kỹ năng
đã học, trang bị tri thức chuyên môn phục vụ công tác sau này.
Tinh thần tự giác, tích cực chính là nền tảng, là động lực quan trọng thúc
đẩy việc học tập ngoại khóa của các sinh viên nhằm cố gắng vơn lên, khắc phục
những điều không thuận lợi và dần trở thành một thói quen có ích. Ngoài ra sự h-
15
ng phấn và hứng thú cá nhân cũng chính là những đặc điểm và điều kiện cơ bản
cho việc tiến hành học tập ngoại khóa, nó có tác dụng kích thích tích cực của ng-
ời tập, đồng thời thông qua buổi học ngời tập có thể lựa chọn nội dung tập luyện
phù hợp với bản thân và nếu có sự hớng dẫn của ngời thầy hay ngời cùng tập họ
có thể tận dụng các giờ ngoại khóa này để khắc phục những thiếu sót của bản
thân về các mặt khác nhau của môn học mà giờ học chính khoá cha có điều kiện
sửa chữa.
Hoạt động thi đấu là tổ hợp các hình thức chiến thuật bao gồm cả chiến
thuật cá nhân và chiến thuật đồng đội, sự phối hợp tốt các hình thức chiến thuật
mới đem lại hiệu quả trong thi đấu. Cũng nh các giờ học chính khoá, hiệu quả
học tập ngoại khóa phụ thuộc rất nhiều vào nội dung, hình thức và thời gian của

buổi tập. Trong những giờ tự học việc tập các môn thể thao nói chung và Bóng
chuyền nói riêng, muốn có tác dụng tốt đòi hỏi ngời tập phải có kiến thức hiểu
biết một cách toàn diện về cơ sở lý luận khoa học cũng nh các phơng pháp tập
luyện. Một buổi tập phải đặt ra nội dung, nhiệm vụ cụ thể, có cấu trúc hợp lý, có
hình thức hấp dẫn và một yêu cầu nữa đối với ngời tập là phải hiểu đợc mối quan
hệ giữa nội dung và hình thức của buổi tập để từ đó hoàn thiện kỹ năng kỹ xảo,
trau dồi kiến thức chuyên môn.
So với các giờ học chính khoá thông thờng các giờ ngoại khóa có cấu
trúc đơn giản hơn, hẹp hơn về việc lựa chọn phơng pháp và hình thức tập luyện.
Còn ngợc lại nếu nội dung, hình thức không hợp lý, không mang tính khoa học
thì không những không đem lại hiệu quả, thậm chí có thể ảnh hởng tới sức khoẻ,
hình thành những kỹ thuật sai, khó sửa chữa. Hình thức của buổi tập ngoại khóa
chính là phơng thức tơng đối ổn định liên kết các chi tiết nội dung với nhau, hình
thức tập luyện này đòi hỏi cao về tinh thần trách nhiệm của bản thân, ý thức kỷ
luật, tính độc lập sáng tạo kết hợp với kinh nghiệm học hỏi nhằm sửa chữa
những yếu điểm, phát triển điểm mạnh và các hình thức có thể là cá nhân, theo
nhóm
Hiện tại trong các buổi tập bóng chuyền nói chung, các sinh viên hay
thực hiện theo chủ quan, nhng nội dung và hình thức lại theo kiểu ớc chừng. Cấu
trúc của buổi tập ngoại khóa thờng không đảm bảo để đạt đợc mục đích cụ thể,
16
không tạo điều kiện tốt cho việc thực hiện các hoạt động chính cũng nh kết thúc
không hợp lý. Phải chăng đây là những nguyên nhân làm hạn chế mục đích của
việc tập luyện ngoại khóa. Ngoài ra xuất phát từ những động cơ khác nhau, điều
kiện về dụng cụ sân bãi, sự chi phối về thời gian của các môn học khác cũng
phần nào ảnh hởng tới việc học tập ngoại khóa của các sinh viên.
Do đặc điểm của giờ học ngoại khóa dựa trên tính tích cực của ngời học
nên trớc tiên họ phải nhận thức đợc sự cần thiết của việc tập luyện ngoại khóa
nh thế nào mà xác định cho đúng. Mặc dù việc tập luyện ngoại khóa của các sinh
viên phụ thuộc vào nhiều vấn đề khác nhau song điều trớc tiên lại là nhận thức

của họ đối với giờ ngoại khóa một cách tích cực. Mỗi cá nhân đều có sự nhận
thức khác nhau và thông qua kết quả phỏng vấn đối với 20 sinh viên bóng
chuyền khoá 45 khoa huấn luyện chúng ta có thể biết đợc phần nào nhận thức
của họ đối với việc tự học qua bảng thống kê sau:
Bảng 3.1: Kết quả phỏng vấn về nhận thức của sinh viên đối với
giờ ngoại khóa(n = 20)
Mức độ nhận thức Số lợng Tỷ lệ %
Rất cần thiết 18 90
Cần thiết 2 10
Không cần thiết 0 0
Qua bảng số liệu trên chúng ta có thể rút ra nhận xét : Phần lớn các sinh
viên đều cho rằng giờ học ngoại khóa là rất cần thiết đối với bản thân, còn một
số ngời cho rằng cần thiết và không có cá nhân nào cho rằng giờ học ngoại khóa
là không cần thiết. Trong sự nhận thức khác nhau này dẫn đến quá trình hình
thành động cơ trong giờ học ngoại khóa cũng rất đa dạng, nó có ảnh hởng trực
tiếp đến tính tích cực trong học tập và rèn luyện. Từ đây dẫn đến hiệu quả đạt đ-
ợc của giờ học ngoại khóa cũng không đồng nhất, thông qua bảng 3.2 ta có số
liệu cụ thể sau:

17
Bảng 3.2: Kết quả phỏng vấn về động cơ học tập giờ ngoại khóa
(n = 20)
Các động cơ
Vì công việc
sau khi ra tr-
ờng
Vì kết quả
học tập ở tr-
ờng
Vì cảm thấy

hứng thú
thích đi tập
Vì bạn bè rủ
đi tập
Số ngời 10 7 3 0
Tỷ lệ (%) 50 35 15 0
Qua bảng số liệu trên chúng ta nhận thấy hầu hết các sinh viên đi tập
ngoại khóa vì hai động cơ cơ bản, đó là vì công việc sau khi ra trờng và vì kết
quả học tập tại trờng. Hai động cơ này đều thuộc động cơ bền vững nhng ở cấp
độ khác nhau. Đối với những ngời tiến hành tập luyện vì hai động cơ này lại thể
hiện bằng sự tự giác đợc xuất phát từ một thái độ học tập tốt, luôn nỗ lực phấn
đấu nhằm hoàn thiện kỹ năng kỹ xảo cũng nh hiểu biết có liên quan nhằm phát
triển những phẩm chất thể lực và tinh thần, khắc phục những khó khăn trong học
tập. ở đây, tính tự lập là một trong những hình thức cao nhất của sự tích cực, đợc
biểu hiện qua các hoạt động hăng hái giải quyết nhiệm vụ do kích thích nội tâm
tạo nên. Xét về mặt tâm lý học, động cơ là sự giác ngộ về ý nghĩa tầm quan trọng
của hoạt động, đối với cá nhân tính tích cực đợc hình thành trong những động cơ
học tập của mỗi cá nhân sẽ quy định thái độ học tập của cá nhân đó. Bởi vậy
thông qua phỏng vấn chúng ta thấy đợc đa số ngời có nhận thức rằng đI tập
ngoại khóa là rất cần thiết thì đều xuất phát từ những động cơ đúng đắn và bền
vững. Số còn lại do nhận thức cha rõ ràng và động cơ học tập không bền vững.
Từ nhận thức về những động cơ trên chúng ta có thể rút ra rằng tính tích cực, sự
nỗ lực trong khi tiến hành các giờ tự học mà mỗi cá nhân hình thành cho mình
những động cơ khác nhau, dẫn đến thực tiễn tiến hành các giờ tự học cũng không
đồng nhất giữa các cá nhân.
Thông qua quá trình phỏng vấn chúng ta thấy đợc các cấp độ tiến hành
giờ ngoại khóa là khác nhau, có thể chia thành: thờng xuyên, rất thờng xuyên và
đôi khi mới đi. Nhng đặc biệt không có sinh viên bóng chuyền khóa 45 khoa
18
huấn luyện nào là không bao giờ học ngoại khóa. Phải chăng đây là điều đáng

mừng đầu tiên đối với sinh viên chuyên sâu vì tự nhận thức đợc việc làm của họ.
Bảng 3.3: Kết quả phỏng vấn số buổi tập ngoại khóa trung bình trong tuần
(n = 20)
Số giờ ngoại
khóa trong một
tuần
Đôi khi
(2 buổi trở
xuông)
Thờng xuyên
(3 đến 4 buổi)
Rất thờng xuyên
(5 buổi trở lên)
Số ngời 3 9 8
Tỷ lệ (%) 15 45 40
Qua bảng số liệu trên chúng ta thấy rằng số sinh viên đi tập ngoại khóa
hàng tuần là rất khác nhau. Có sinh viên đi tập ngoại khóa trong một tuần rất th-
ờng xuyên, từ 5 buổi trở lên, có sinh viên đi tập ngoại khóa chỉ 3 - 4 buổi và có
ngời chỉ tập 2 buổi trở xuống. Vì sao vậy? Thông qua trao đổi trực tiếp chúng tôi
biết đợc ở mỗi sinh viên đều có các điều kiện riêng của bản thân mình cùng với
sự nhận thức về tác dụng của giờ học ngoại khóa khác nhau dẫn đến sự chênh
lệch này. Ngoài ra còn các nguyên nhân khách quan khác nh: thích học thêm
một số môn thể thao khác hoặc do điều kiện sân bãi, bóng v.v chi phối. Cũng
có thể do cách bố trí giờ học ở mỗi cá nhân khác nhau. Trong mỗi ngày trung
bình các sinh viên lên lớp chính khoá từ 4 - 6 tiết và có thể cao hơn. Khoảng thời
gian không lên lớp chính khoá còn lại tơng đối hạn chế mà mỗi cá nhân phải giải
quyết và hoàn tất rất nhiều công việc của của bản thân trong cuộc sống hàng
ngày. Vì vậy mỗi sinh viên phải có kế hoạch học tập để sắp xếp bố trí khoảng
thời gian hợp lý để đi ngoại khóa môn chuyên sâu của mình một cách đều đặn.
Do vậy số lợng các giờ lên lớp chính khoá là một trong những nguyên nhân hạn

chế bớc đầu tới số lợng ngời tham gia ngoại khóa.
Hiện tại trong nhà trờng có tất cả 5 sân bóng chuyền. Trong đó 2 sân
dành cho sinh viên phổ tu, 3 sân dành cho sinh viên chuyên sâu, trong đó có 1
sân dành cho nữ. Sân 1 là sân có chất lợng đảm bảo các tiêu chuẩn tốt nhất, lại
gần vị trí ra vào nên thờng các sinh viên khá, giỏi hoặc các sinh viên thuộc khoá
19
trên chơi. Vậy là sân 3 là nơi tập trung rất nhiều sinh viên đi tập ngoại khóa,
nhiều khi bao gồm cả các sinh viên phổ tu đi tập thêm, thế nên không phải tất cả
các sinh viên đi ngoại khóa cũng đợc thi đấu hay tự chọn cho mình một vị trí
thích hợp để luyện tập. Đây cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hởng tới
nội dung, hình thức và số lợng ngời tham gia tập luyện ngoại khóa.
Ngoài ra, còn một số nguyên nhân khách quan ảnh hởng đến việc học tập
ngoại khóa đợc thống kê dới bảng sau:
Bảng 3.4: Những nguyên nhân ảnh hởng đến giờ học tập ngoại khóa
(n = 20) (Qua phỏng vấn)
Những nguyên nhân Số ngời Tỷ lệ %
Do điều kiện sân tập hạn chế 1 5
Do không có thời gian 2 10
Các lý do khác 17 85
Qua bảng thống kê về kết quả phỏng vấn trên đây chúng ta có thể nhận
thấy mặc dù 100% số sinh viên đều có nhận thức đúng học tập ngoại khóa là cần
thiết để nâng cao trình độ chuyên môn cũng nh kết quả học tập. Song thực tế cho
thấy khi đi ngoại khóa đợc đều đặn hay không lại phụ thuộc nhiều vào những
nguyên nhân đã phân tích ở trên.
Nh vừa phân tích ở phần các nguyên nhân đã ảnh hởng đến việc học tập
vào giờ tự học thờng xuyên là do số giờ học chính khoá của các sinh viên tơng
đối dầy. Trung bình từ 4 - 6 tiết/ngày, thờng ở đây trùng theo các khoá học tập.
Thông thờng các khoá ở năm thứ nhất, thứ hai số giờ học chính khoá nhiều hơn
các khoá năm thứ ba, thứ t đôi chút. Một thực tế là các giờ chính khoá hay đợc
bố trí vào các tiết 1 + 2; 3 + 4; 5 + 6. Thời gian này số lợng ngời đi ngoại khóa

có hạn chế hơn là các giờ nh trớc tiết 1+ 2 và tiết 7 +8. Bảng số liệu phỏng vấn
sau đây sẽ giúp chúng ta xác định đợc sinh viên chuyên sâu bóng chuyền khoá
45 khoa huấn luyện hay đi ngoại khóa vào các giờ nào trong ngày.
Bảng 3.5: Số lợng sinh viên tự học môn chuyên sâu vào các giờ trong ngày
(n = 20) (theo phỏng vấn)
Số tiết Trớc tiết (1 + 2) Tiết (7 + 8) Các giờ ôn tập
Số ngời 3 14 3
Tỷ lệ (%) 15 70 15
20
Qua bảng số liệu trên đây chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy phần lớn
sinh viên đI ngoại khóa chuyên sâu vào tiết 7 + 8 (70%) trớc tiết 1 + 2 (15%) số
sinh viên đi tập ít và chủ yếu là tập nhằm hoàn thiện kỹ thuật hoặc tập thể lực.
Các giờ ôn tập ở đây bao gồm các tiết (1 + 2; 3 + 4; 5 + 6) đợc nghỉ ngẫu nhiên
trong tuần có số lợng sinh viên đi ngoại khóa cũng không nhiều, một phần vì lý
do trong các giờ này thờng có lớp khác học, phần vì nhiều điều kiện khách quan
chi phối nên số lợng đi thờng ít.
Đó là theo phỏng vấn còn trong thực tế quan sát một số tuần để theo dõi
số sinh đI ngoại khóa môn chuyên sâu bóng chuyền chúng tôi thu thập đợc các
số liệu sau:
Bảng 3.6: Số lợng sinh viên đi ngoại khóa môn chuyên sâu vào các giờ trong
ngày(n = 20) (theo quan sát)
Số tiết Trớc tiết 1 + 2 Tiết 7 + 8 Các giờ ôn tập Tổng
Số giờ quan sát 6 14 4 24
Số ngời 2 15 3 20
Tỷ lệ (%) 10 75 15 100
Qua bảng thống kê trên cho chúng ta biết đợc số sinh viên đi ngoại khóa
chuyên sâu tập trung vào các tiết nào và trung bình một ngày có bao nhiêu sinh
viên đi tập ngoại khóa môn chuyên sâu.
Hai bảng phân tích số 5 và số 6 chúng ta thấy tỷ lệ giữa thực tế quan sát
và kết quả thông qua phiếu hỏi không có sự chênh lệch đáng kể và số lợng sinh

viên thờng đi ngoại khóa môn chuyên sâu vào tiết 7 + 8 chiếm tỷ lệ lớn nhất. Vì
đây là các giờ có các điều kiện tơng đối thuận lợi so với các tiết khác trong ngày
nh: thời tiết mát mẻ hơn (về mùa hè), các giờ chính khoá ở tiết này cũng đợc
nghỉ, ngoài ra còn có thể tập thêm các bài tập thể lực vì sau tiết 7 + 8 không còn
giờ chính khoá nữa, cơ thể sau một đêm nghỉ ngơi sẽ khoẻ mạnh, linh hoạt và
thoải mái đầu óc trở lại. Các tiết nh trớc tiết (1 + 2) hoặc các giờ ôn tập (1 + 2; 3
+ 4; 5 + 6) số sinh viên đi tập rất hạn chế. Thực tế qua phỏng vấn cũng nh quan
sát cho thấy phần đông sinh viên không có thói quen dậy sớm vào buổi sáng để
đi tập thêm các bài tập, mặt khác các tiết ( 1+2; 3 + 4; 5 + 6) thờng hay có giờ
21
chính khoá của các lớp chuyên sâu hoặc phổ tu. Đồng thời đây cũng là thời gian
các sinh viên phải quan tâm nhiều vào việc học các môn khác nữa nên số sinh
viên mới ít nh vậy. Các ngày nghỉ trong tuần thời gian đi tập vào giờ tự học của
các sinh viên cũng không có nhiều sự khác biệt. Một phần là do có nhiều sinh
viên về quê, phần khác còn phải lo hoàn thiện học các môn phổ tu khác trong ch-
ơng trình chính khoá nên số sinh viên đi tập ngoại khóa cũng chỉ tập trung đông
nhất vào tiết (7 + 8).
Xuất phát từ những giờ tập luyện trên, một vấn đề đặt ra mà chúng ta cần
tìm hiểu là thời gian đầu t cho các giơ ngoại khóa thờng là bao nhiều, chúng ta
hãy nghiên cứu qua bảng số liệu sau:
Bảng 3.7: Thời gian trung bình cho mỗi buổi tập ngoại khóa của sinh viên
(n = 20) (theo phỏng vấn)
Thời gian trung
bình một buổi tập
Từ 30 phút
trở xuống
Khoảng
45 phút
Khoảng
60 phút

Khoảng
90 phút
Trên 90
phút
Số ngời 0 4 7 5 4
Tỷ lệ (%) 0 20 35 25 20
Qua bảng này chúng ta biết các sinh viên thờng tập vào thời gian nào là
đông nhất và ít nhất. Đối với sinh viên tập với khoảng thời gian 60 phút là đông
nhất, đây là khoảng thời gian tập luyện cơ thể đủ phát huy hết năng lực vận
động. Thông qua phỏng vấn giúp xác định rõ vấn đề: Đối với các sinh viên có
thời gian tập trên 90 phút bao gồm cả việc tập kỹ - chiến thuật và giành thời gian
cho việc tập thể lực vào cuối buổi.
Qua bảng số liệu trên phần nào cho chúng ta đánh giá đợc thờng xuyên
có bao nhiêu sinh viên chuyên sâu đi tập ngoại khóa môn bóng chuyền và thời
gian cho mỗi buổi ngoại khóa thờng là bao nhiêu và vào thời gian nào trong
ngày, cùng với nguyên nhân làm ảnh hởng đến thời gian đi học ngoại khóa của
họ. Vậy trong quá trình tập luyện ngoại khóa họ thờng tập nh thế nào? Nội dung
tập ra sao?
Bảng 3.8: Nội dung tập vào giờ tự học của sinh viên
(n = 20) (theo phỏng vấn)
22
Nội dung
tập
Tập kỹ
thuật
Tập thể
lực
Tập chiến
thuật
Tập thi

đấu
Tập tổng
hợp
Số ngời 9 2 2 0 7
Tỷ lệ (%) 45 10 10 0 35
Qua bảng số liệu theo phơng pháp phỏng vấn trên ta dễ dàng nhận thấy:
Nội dung tập kỹ thuật và tập tổng hợp là hai hình thức có số lợng sinh viên tập
đông nhất và để kiểm chứng tính xác thực của phơng pháp phỏng vấn, chúng tôi
đã tiến hành quan sát trên thực tế và có bảng số liệu sau:
Bảng 3.9: Nội dung tập ngoại khóa của sinh viên (n = 20)
(lấy theo số buổi quan sát).
Số tiết
Trớc tiết
(1 + 2)
Tiết
(7 + 8)
Các giờ
ôn tập
Tổng
Tỷ lệ
(%)
Số buổi quan sát 6 14 4 24 100
Số ngời 2 15 3 20 100
Nội dung
tập
Tập kỹ thuật 1 7 1 9 45
Tập thể lực 1 2 0 3 15
Tập chiến thuật 0 1 0 1 5
Tập thi đấu 0 0 0 0 0
Tập tổng hợp 0 5 2 7 35

Qua hai bảng số liệu trên trớc hết chúng ta rút ra đợc tỷ lệ về từng nội
dung tập luyện thông qua phỏng vấn và thực tế quan sát chênh lệch không đáng
kể. Điều này một lần nữa chứng minh rằng kết quả phỏng vấn đối với các sinh
viên chuyên sâu bóng chuyền khoá 45 khoa huấn luyện là có độ tin cậy cao. Còn
nội dung tập luyện của họ chúng ta có thể đánh giá đợc rằng các sinh viên có ý
thức trong việc tập luyện, họ tập thờng xuyên với nhiều nội dung khác nhau. Tuy
nhiên nh chúng ta đã phân tích ở phần đầu của đề tài nội dung tập luyện ngoại
khóa phụ thuộc rất nhiều vào hứng thú và sở thích cá nhân. Bởi vậy, số ngời tập
các nội dung khác nhau cũng có sự khác biệt đáng kể. Cụ thể, số sinh viên tập
nội dung kỹ thuật chiếm tỷ lệ cao nhất trong năm hình thức tập luyện. Tiếp đó là
nội dung tập tổng hợp. Thực ra cũng dễ hiểu bởi tự hoàn thiện và nâng cao năng
lực chuyên môn là điều mà tất cả sinh viên đều hớng tới và chỉ có nội dung này
23
mới có thể phát huy hết khả năng cũng nh vận dụng các kiến thức đã học vào
trong cùng một bài tập. Ngợc lại, nội dung tập thi đấu rất ít khi và thậm chí là
không có sinh viên nào. Thông qua phỏng vấn trực tiếp chúng tôi đợc biết: Các
sinh viên khóa 45 là sinh viên mới vào trờng, năng lực chuyên môn còn nhiều
hạn chế, các em quan tâm nhiều đến tập kỹ thuật và tập tổng hợp (trong đó có
nội dung tập thể lực) hơn là tập thi đấu. Tuy nhiên họ cũng không phủ nhận vai
trò của nội dung tập luyện này. Nội dung tập thể lực thờng đợc thực hiện vào
cuối buổi tập, mục đích chính là nâng cao thể lực trong đó quan trọng là sức bật
vào đà đập bóng. Đây là yếu tố quyết định đến tính hiệu quả trong các tình
huống đập bóng tấn công. Ngoài ra còn vì nội dung thi học phần luôn có hai nội
dung về thể lực, đó là bật cao với bảng và chạy ziczắc,
Nói chung, những sinh viên này biểu hiện một thái độ hiểu biết rất đúng
đắn về nguyên tắc và phơng pháp tập luyện. Họ đã phần nào tổ chức đợc một
buổi ngoại khóa có kết cấu gần giống với buổi học chính khoá để đa dần lợng
vận động từ thấp đến cao. Sinh viên chuyên sâu bóng chuyền khóa 45 khoa huấn
luyện viên còn đang trên con đờng tích luỹ năng lực chuyên môn, học tập là
nhiệm vụ đợc đặt lên hàng đầu, có điều kiện đi tập với thời gian dài và thông th-

ờng các buổi nh vậy mang lại hiệu quả cao.
Tóm lại: Qua quá trình tìm hiểu hiện trạng việc tập luyện vào ngoại khóa
của các sinh viên chuyên sâu bóng chuyền khoá 45 khoa huấn luyện chúng ta
thấy đợc mức độ nhận thức của các sinh viên về sự cần thiết của việc tập luyện
ngoại khóa là tơng đối cao (100%), các sinh viên đã xác định đợc động cơ đúng
đắn là tập luyện vì công việc sau khi ra trờng chiếm tỷ lệ 50%, sinh viên thờng
xuyên tập luyện từ 3 - 4 buổi/tuần chiếm tỷ lệ 45%. Tuy nhiên bên cạnh việc
nhận thức đợc ý nghĩa của việc tập luyện ngoại khóa của các sinh viên cũng gặp
không ít khó khăn, trong đó thời gian và việc phân bổ các tiết học có tác động
nhất định đến tính tự giác cũng nh tinh thần hứng thú tập luyện trong các sinh
viên. Do vậy họ thờng đi tập đông vào các tiết 7 + 8 dẫn đến việc sân bãi không
đáp ứng hết nhu cầu của ngời tập. Ngoài ra cũng phải thừa nhận một thực tế các
sinh viên cha tích cực tập vào các tiết 1 + 2; 3+ 4; 5 + 6 trong ngày biểu hiện là
số lợng ngời đi tập ít, nội dung tập luyện nghèo nàn, tản mạn. Về mặt thời gian
24
trung bình mỗi buổi ngoại khóa của sinh viên kéo dài từ 60 - 90 phút chiếm tỷ lệ
cao với 2 nội dung tập chủ yếu là tập kỹ thuật và tập tổng hợp. Nh vậy qua quan
sát và tìm hiểu ta thấy sinh viên khá tích cực tham gia ngoại khóa, nội dung và
hình thức tập luyện phong phú hơn nội dung và hình thức kiểm tra. Điều này có
ảnh hởng nhất định đến kết quả học tập chuyên môn, mức độ ảnh hởng đến đâu
chúng ta sẽ đợc biết trong phần giải quyết mục tiêu 2 của đề tài.
3.2. Nghiên cứu ảnh hởng của giờ học ngoại khóa đến chất lợng học
tập chuyên môn đối với sinh viên chuyên sâu bóng chuyền khoá 45 khoa
huấn luyện trờng Đại học TDTT Bắc Ninh.
Quá trình nghiên cứu về hiện trạng học tập ngoại khóa của các sinh viên
chuyên sâu bóng chuyền khoá 45 khoa huấn luyện trờng Đại học TDTT Bắc
Ninh nhằm mục đích tìm hiểu thực tiễn giờ học ngoại khóa của các sinh viên,
đánh giá đúng những mặt tích cực và những mặt còn hạn chế. Bên cạnh đó điều
mà chúng tôi quan tâm, đề cập và nghiên cứu chính là việc học tập ngoại khóa có
ảnh hởng nh thế nào đến kết quả học tập môn chuyên sâu bóng chuyền của sinh

viên hiện nay.
Qua quá trình phỏng vấn và tìm hiểu các tài liệu lu trữ và điểm thi học
phần của các sinh viên, chúng tôi thấy rằng với mức độ nỗ lực khác nhau thì kết
quả đạt đợc cũng khác nhau. Để thuận tiện cho việc nghiên cứu chúng tôi tiến
hành chia số lợng sinh viên tham gia tập luyện ngoại khóa theo các mức độ:
- Mức độ tập luyện ngoại khóa rất thờng xuyên (từ 5 buổi trở lên trong 1 tuần)
- Mức độ tập luyện ngoại khóa thờng xuyên (từ 3 - 4 buổi trong 1 tuần)
- Mức độ đôi khi mới tập luyện ngoại khóa (từ 2 buổi trở xuống trong 1 tuần).
Thông qua việc phân các mức độ nh trên chúng tôi đã tiến hành thống kê
kết quả học tập của các sinh viên qua kết quả kiểm tra học kỳ I và học kỳ II (các
số liệu đã xử lý qua công thức tính giá trị chung của một tập hợp và bảng chi tiết
đợc nêu ở phần phụ lục của đề tài).
Bảng 3.10: Thành tích ở các nội dung kiểm tra
qua các mức độ tập luyện ngoại khóa (n = 20)
25

×