Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Nghiên cứu lựa chọn các biện pháp khắc phục những sai lầm thường mắc trong tập luyện kỹ thuật di chuyển chuyền bóng hai tay trước ngực cho sinh viên phổ tu bóng rổ đại học TDTT bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.94 KB, 64 trang )

MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế xã hội, đất
nước, thể dục thể thao (TDTT )có những bước tiến đáng ghi nhận trong lịch sử phát
triển của mình, góp phần xứng đáng vào trào lưu quốc tế, thực hiện tốt nhiệm vụ
chính trị, TDTT hoà nhập vào thể thao khu vực châu á và toàn thế giới.
Sự nghiệp TDTT là một bộ phận quan trọng không thể thiếu được trong
chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và nhà nước nhằm nâng cao và
phát huy nhân tố con người, trước hết là nâng cao sức khoẻ và thể lực, góp phần
nhân cách đạo đức, lối sống lành mạnh, TDTT làm phong phú đời sống tinh thần
của nhân dân, nâng cao năng suất lao động và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ
quốc. Mặt khác TDTT còn là một phương tiện quan trọng để nâng cao hiệu quả
trong các lĩnh vực khác như: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội Trên thế giới
nhiều quốc gia đã sử dụng TDTT như là một công cụ nhằm nâng cao uy tín quốc
gia tạo các mối quan hệ mới, tăng thu nhập quốc dân, thắt chặt tình đoàn kết hữu
nghị giữa các dân tộc trên toàn thế giới.
Ở nước ta cách mạng tháng 8/1945 thành công, đất nước chuyển sang một
thời kỳ mới thì TDTT là một trong những lĩnh vực được Đảng và nhà nước đặc
biệt quan tâm, với lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch: "Mỗi người dân yếu ớt tức là
làm cho cả nước yếu ớt đi một phần, mỗi người dân khoẻ mạnh tức là góp phần
làm cho cả nước khoẻ mạnh". Đứng trước sự quan tâm đó thì ngành TDTT đã,
đang và không ngừng phát triển toàn diện trong đó có một số ngành thể thao mũi
nhọn: Võ, vật, bắn súng, đá cầu, bóng đá… bên cạnh đó thì Bóng Rổ là môn thể
thao phong phú, hấp dẫn và có sức lôi cuốn mạnh mẽ nhất là đối với thanh thiếu
niên ở lứa tuổi học sinh, sinh viên.
Là môn thể thao ra đời ở Mỹ (1891) sau đó phát triển rộng rãi ra toàn thế
giới. ở Việt Nam tuy Bóng rổ mới gia nhập nhưng cũng có những bước phát
triển nhất định. Cũng như các môn thể thao khác, Bóng Rổ chiếm vị trí quan
trọng trong sự nghiệp giáo dục và phát triển con người toàn diện, tập luyện thi
đấu Bóng Rổ sẽ mau chóng nâng cao các tố chất sức nhanh, sức mạnh, sức bền,
1
sự khéo léo, phát triển thông minh, tinh thần sáng tạo và đoàn kết.


Trong Bóng Rổ kỹ thuật rất đa dạng và phong phú, phức tạp nên việc xây
dựng một hệ thống các bài tập giảng dạy cho học sinh, sinh viên, vận động viên
và người tập có hiệu quả đạt thành tích cao trong học tập và thi đấu là vấn đề
cần thiết và quan trọng. Vì thành tích thể thao là kết quả thành tích chuẩn bị toàn
diện về mặt thể lực, kỹ thuật, chiến thụât, tâm lý, ý chí… trong đó kỹ thụât
chuyền bóng đóng vai trò quan trọng, là một mặt không thể thiếu trong quá trình
tập luyện và học tập do vậy, có thể nói kỹ thuật là nền tảng, là yếu tố quyết định
đến thành tích thể thao.
Chất lượng và hiệu quả của mỗi kỹ thuật biểu hiện sự phối hợp nhịp
nhàng ổn định hợp lý về không gian và thời gian, cho nên nếu ngay từ đầu khi
mới học kỹ thuật động tác người tập không tạo cho mình khái niệm đúng về nó
thì dần dần trong quá trình tập luyện có những khái niệm sai về kỹ thuật động
tác và sẽ trở thành thói quen khó sửa từ đó sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả quá trình
tập luyện và thi đấu. Muốn vậy người tập phải nắm vững nguyên lý cơ bản đòi
hỏi họ phải có thời gian tập luyện và sửa chữa. Việc hoàn thiện và thực hiện
đúng động tác là điều kiện quan trọng trong khi học kỹ thuật trong đó có kỹ
thụât di chuyển chuyền bóng hai tay trước ngực cho sinh viên phổ tu Bóng Rổ
trường ĐH TDTT Bắc Ninh. Những người học không phải cũng thực hiện
chuẩn, đúng kỹ thuật khi học, tuỳ vào khả năng tiếp thu động tác, khả năng phối
hợp vận động của mỗi người mà kỹ thuật thể hiện có sự lệch lạc.
Việc mắc phải những sai lầm khi học kỹ thuật động tác đang là một vấn
đề lớn với những người tham gia tập luyện. Do vậy trong quá trình giảng dạy,
huấn luyện cần tìm ra những sai lầm cơ bản cho sinh viên, vận động viên, người
tập trong khi học kỹ thuật để căn cứ vào đó tìm ra biện pháp khắc phục tốt nhất
những sai lầm.
Qua tìm hiếu sách báo và tài liệu chuyên môn chúng tôi thấy đề tài này đã
có tác giả Tống Thị Nhung tiến hành nghiên cứu,tuy nhiên đề tài chỉ nghiên cứu
ở một khía cạnh là tại chổ ném rổ còn với đề tài này chúng tôi nghiên cứu di
2
chuyển chuyền bóng hai tay trước ngức.

Vì thế , trong quá trình giảng dạy , huấn luyện việc sửa chữa những sai
lầm và tìm hiểu về những nguyên nhân dẵn đến sai lầm đó là rất quan trọng và
cần thiết giúp cho việc huấn luyện giảng dạy đạt hiệu quả tốt nhất.
Qua tham khảo tài liệu chuyên môn và một số đề tài nghiên cứu về sửa
chữa những sai lầm của kĩ thuật di chuyển chuyền bóng hai tay trước ngực
chúng tôi thấy chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu để đưa ra bài tập sửa chữa hĩ
thuật này.
Qua quan sát sinh viên chuyên sâu vàsinh viên phổ tu bóng rổ 43 tập
luyện và thi đấu chúng tôi nhận thấy việc thực hiện kĩ thuật di chuyển chuyền
bóng hai tay trước ngực chưa tốt và chưa được hoàn thiện. Vậy nguyên nhân
xuất phát từ đâu? Làm thế nào để nâng cao hiệu quả đó ? Đó là vấn đề bức xúc
chúng tôi cần tìm hiểu.
Với hiểu biết của bản thân và được sự giúp đỡ của giáo viên chỉ đạo tôi
mạnh dạn nghiên cứu đề tài: "Nghiên cứu lựa chọn các biện pháp khắc phục
những sai lầm thường mắc trong tập luyện kỹ thuật di chuyển chuyền bóng
hai tay trước ngực cho sinh viên phổ tu bóng rổ Đại học TDTT Bắc Ninh"
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở đánh giá và xác định những sai lầm
thường mắc của sinh viên phổ tu bóng rổ , trong quá trình tập luyện kỹ thuật di
chuyển chuyền bóng hai tay trước ngực cho sinh viên phổ tu bóng rổ trường Đại
học TDTD Bắc Ninh , và vận dụng các kinh nghiện giảng dạy thực tế cũng như
lý luận khoa học dạy học môn bóng rổ nói riêng và các môn thể thao nói chung .
Đề tài nghiên cứu để lựa chọn ra các biện pháp khắc phục những sai lầm thường
mắc trong quá trình tập luyện kĩ thuật di chuyển chuyền bóng hai tay trước ngực
cho sinh viên phổ tu Bóng rổ.
Mục tiêu nghiên cứu: Để thực hiện mục đich trên đề tai tiến hành giai
quyêt hai mục tiêu sau:
- Mục tiêu 1: Đánh giá thực trạng việc dạy và học kĩ thuật di chuyển
chuyền bóng hai tay trước ngực đối với sinh viên phổ tu bóng rổ Đại học TDTT
3
Bắc Ninh

- Mục tiêu 2: Nghiên cứu lựa chọn và đánh giá hiệu quả các biện pháp
khắc phục những sai lầm thường mắc trong tập luyện kỹ thuật di chuyển chuyền
bóng hai tay trước ngực cho sinh viên phổ tu bóng rổ Đại học TDTT Bắc Ninh.
Đối tượng nghiên cứu : Các biện pháp về kỹ thuật di chuyển chuyền
bóng hai tay trước ngực cho sinh viên phổ tu bóng rổ Trường ĐH TDTT Bắc Ninh.
Phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng quan trắc: Sinh viên phổ tu bóng rổ Trường ĐH TDTT Bắc Ninh.
+ Phạm vi nghiên cứu: Tại trường ĐH TDTT Bắc Ninh.
+ Thời gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu từ tháng 03/2010 đến tháng
06/2011.
4
CH ƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Phương pháp giảng dạy kĩ thuật thể thao nói chung.
Dạy học động tác để đạt đến mức kỹ năng kỹ xảo nhất định cùng những
hiểu biết có liên quan là một trong những đặc điểm và nội dung nổi bật nhất của
giáo dưỡng thể chất. Trong quá trình dạy học động tác, người ta thường giải
quyết các nhiệm vụ sau:
- Tạo một “vốn vận động ban đầu” làm cơ sở cho các hoạt động tiếp theo,
cao hơn.
- Dùng làm các bài tập “dẫn dắt” hoặc như các phương tiện để tác động có
chủ đích đến sự phát triển các năng lực thể chất riêng.
- Hình thành và đạt đến mức độ hoàn thiện cần thiết các kỹ năng kỹ xảo
vận động cơ bản cần có trong cuộc sống hàng ngày, lao động, thể thao và các
lĩnh vực hoạt động khác.
Thực hiện các nhiệm vụ có độ khó khác nhau cần thời gian khác nhau.
Ngoài ra đặc điểm của quá trình dạy học cũng phụ thuộc vào mức phức tạp về
cấu trúc của các động tác cần học. Trong đó mức độ phức tạp trước tiên được
xác định bởi số lượng các cử động và giai đoạn tạo lên động tác đó; Thứ 2: bởi
các yêu cầu về độ chuẩn xác của động tác trong không gian theo thời gian và mức độ
gắng sức; Thứ 3 bởi các năng lực phối hợp vận động ở mỗi giai đoạn hay toàn động

tác … bởi tính đơn giản hay phức tạp trong cấu trúc nhịp điệu của động tác; Thứ 4
bởi mức tham gia của các cơ chế tự động bẩm sinh hay vừa tiếp thu được.
Độ phức tạp về cấu trúc động tác cũng phụ thuộc không nhỏ vào sự lựa
chọn phương pháp chủ đạo trong dạy học động tác. Có những động tác đßi hỏi
phải có tính biến dạng cao trong dạy học như các môn bóng và các môn đối
kháng cá nhân (vật, quyền anh …). Ở đây việc dạy học động tác nhằm đảm bảo
được những mối liên hệ tối ưu giữa các yếu tố làm cho các kỹ xảo vận động
củng cố và các yếu tố làm phát triển tính biến đổi hợp lý trong các điều kiện tình
huống thay đổi không ngừng.
Kỹ năng vận động thể hiện mức thực hiện động tác phải tập trung chú ý
5
cao vào các thành phần động tác, cách làm và chưa được ổn định. Nếu được lặp
lại nhiều lần thì động tác trở nên thuần thục, các cơ chế phối hợp vận động dần
được tự động hóa và kỹ năng chuyển thành kỹ xảo. Đặc điểm tiêu biểu chính
của kỹ xảo là sự điều khiển tự động hóa đối với các động tác. Vậy kỹ năng vận
động thể hiện mức hoàn thiện động tác một cách tự động với độ vững chắc cao.
Các kỹ năng vận động có vai trò khác nhau trong quá trình giáo dục thể chất,
kỹ năng là những bậc thang, giai đoạn chuyển tiếp để thành kỹ xảo vận động.
Sự điều khiển tự động hóa đối với các động tác là một đặc điểm có giá trị
và có ý nghĩa quyết định của kỹ xảo vận động, sẽ mở rộng khả năng sử dụng các
động tác đó và nâng cao tính hiệu quả của chúng. Vì vậy, các kỹ xảo vận động
cũng rất cần thiết cả trong các môn luôn biến động như các môn bóng và các
môn đối kháng cá nhân. VĐV khó có thể đạt thành tích, nếu họ không có vốn kỹ
xảo vận động riêng lẻ phong phú và nếu họ luôn phải tập trung suy nghĩ vào
từng chi tiết trong hành vi chiến thuật của mình.
Khi đã thành kỹ xảo thì tính liên tục của động tác biểu hiện của tính nhẹ
nhàng, liên kết và nhịp điệu bền vững của động tác. Sự hình thành một kỹ xảo
hoàn thiện có liên quan đến các tri giác chuyên môn về động tác và về môi
trường xung quanh: “Cảm giác nước” trong môn bơi lội, “cảm giác bóng” trong
các môn bóng …

Tính bền vững của động tác khi đó thành kỹ xảo thì biểu hiện ở sự nâng
cao khả năng duy trì hiệu quả của động tác trước những yếu tố bất lợi khác và
nó cũng liên quan đến tính biến dạng của nó. Có kỹ xảo hoàn thiện sẽ nâng cao
khả năng vận động thích nghi với các điều kiện khác nhau và luôn thay đổi
nhưng vẫn giữ được cơ sở của nó. Một kỹ xảo vận động đủ vững chắc sẽ duy trì
được trong nhiều năm, ai cũng biết những người ngừng hoạt động thể thao từ lâu
vẫn có thể thực hiện lại được kỹ thuật của động tác thể thao.
Các kỹ năng kỹ xảo vận động hình thành theo các quy luật tự nhiên nhất
định. Nếu biết được các quy luật ấy sẽ tạo khả năng xây dựng có ý thức và hiệu
quả quá trính dạy học. Cơ sở tạo lên các hành vi có ý thức của con người là các
6
cơ chế hoạt động phản xạ của hệ thần kinh. Các công trình nghiên cứu trong lĩnh
vực sinh vật học và sinh lý thần kinh về phản xạ cú điều kiện theo quan điểm
điều khiển học hiện đại đó cho phộp P.K. Anôkhin đề ra học thuyết “hệ thống
chức năng) của hoạt động có ý thức – là một cơ cấu chức năng được hình thành
nhanh chúng để thống nhất hoạt động có các hệ thống trong cơ thể theo một ý
thức nhất định. Hệ thống chức năng xuất hiện khi nảy sinh một tổ hợp các kích
thích cảm giác “sự phân tích truyền ngược” trong cơ đại nó làm tiền đề cho việc
ra quyết định thực hiện động tác.
Quá trình ra quyết định thực hiện hoạt động bao gồm sự lựa chọn một
hình thức hoạt động duy nhất từ cơ sở các hình thức cụ thể. Trong giai đoạn
hình thành kỹ năng vận động việc chọn lựa thành phần vận động và cấu trúc
động tác thường xảy ra khá chậm, nhiều lúc phải nghĩ khá lâu; cũng khi đó hình
thành kỹ xảo gần như ngay lập tức. Do vậy, việc ra quyết định thường trực tiếp
kèm theo chương trình hoạt động là hệ thống các kích thích thực hiện được dẫn
đến những cơ quan vận động tương ứng với cấu trúc sinh cơ học của động tác.
Sự đối chiếu các kết quả hoạt động thực tế với các hoạt động được xác định theo
chu trình nhờ “thông tin ngược” là một phần khá quan trọng của hệ thống chức
năng khi điều khiển động tác. Vì vậy trong hệ phương pháp dạy học các động
tác cần đặc biệt chú ý đến các phương pháp có tác dụng thúc đẩy sự thông tin

ngược như vậy.
Sự tạo thành kỹ xảo vận động gần với sự hình thành định hình động lực
(tính hệ thống vững chắc) của các quá trình thần kinh của vỏ đại não. Nói một
cách khác, định hình động lực là một trạng thái của hệ thống chức năng khi đó
được khu trú và được củng cố nhờ lặp lại động tác nhiều lần.
Quá trình dạy học động tác: Sẵn sàng tiếp thu động tác là một tiên đề của
dạy học trong giáo dục thể chất. Trước khi dạy một động tác nào đó phải xem
người tập đó sẵn sàng để tiếp thu chưa. Có thể phát hiện sự sẵn sàng đó bằng
cách các bài tập kiểm tra (thử nghiệm), các thông tin về kinh nghiệm trước đây
của người tập, các bài tập chuẩn bị, dẫn dắt. Sự chuẩn bị thường biểu hiện 3 yếu
7
tố: mức độ phát triển các tố chất thể lực, kỹ năng vận động, và yếu tố tâm lý.
Việc giáo dục các tố chất thể lực bằng các bài tập chuẩn bị chung và
chuyên môn có vai trò quyết định để đảm bảo sự sẵn sàng dạy học những động
tác đỏi hỏi các tố chất có biểu hiện ở mức độ cao.
Muốn chuẩn bị dạy học tốt các động tác phức tạp, nói chung phải dựa trên
cơ sở biết hoàn thiện khéo léo các nguyên tắc thích hợp và cá biệt hóa, hệ thống
và phát triển từ từ yêu cầu.
Sự phân đoạn, quá trình dạy học những động tác riêng lẻ cần phải dựa
trên các giai đoạn tương ứng của quá trình hình thành kỹ năng kỹ xảo vận động.
Muốn học thành kỹ xảo tương đối hoàn thiện thì phải trải qua 3 giai đoạn tiêu
biểu khác nhau cả về nhiệm vụ sư phạm cũng như phương pháp giảng dạy.
Giai đoạn 1: Là dạy học ban đầu về động tác
Mục đích của giai đoạn này là dạy học các nguyên lý kỹ thuật của động
tác, hình thành kỹ năng hoàn thiện nó, mặc dù dưới dạng thô thiển. Các nhiệm
vụ để đạt mục đích trên:
Tạo kỹ năng chung và động tác và tân thế tốt để tiếp thu động tác đó
Học từng phần (từng giai đoạn hay yếu lĩnh) của kỹ thuật động tác mà
trước đây chưa biết.
Ngăn ngừa hoặc loại trừ những cử động không cần thiết và những sai

phạm lớn trong kỹ thuật động tác.
Hình thành nhịp điệu chung của động tác.
Việc dạy học động tác thường được bắt đầu từ hình thành kỹ năng chung
về các cách thực hiện hợp lý động tác đó và hình thành tâm thế tốt để tiếp thu
cách thức thực hiện. Trước hết thường dùng phương pháp sử dụng lời nói cũng
như các phương pháp làm mẫu động tác … Trước khi mô tả bằng lời nói cần
làm mẫu một lần hoàn chỉnh. Làm chính xác, đẹp đẽ sẽ gây hứng thú ham muốn
học động tác.
Nghệ thuật sư phạm ở đây chính là ở chỗ tạo nên cho người tập liên tưởng
thay đổi các nhiệm vụ vận động trước mắt với kỹ năng vận động sẵn có của
8
mình. Sự so sánh, đối chiếu, đặc biệt là so sánh đối chiếu có tố chất hiện tượng
là rất quan trọng. K.D. Usinxkin có nói:
“Tất cả những gì trên thế giới này mà ta biết được đều không phải bằng
cách nào khác ngoài việc thông qua so sánh”. Để giảm nhẹ những sai lầm đầu
tiên thực hiện một động tác phức tạp, có thể đơn giản hóa bằng cách chia nhỏ ra
nhiều phần hay tách các khâu riêng lẻ và sử dụng các dụng cụ bổ trợ sẽ gây cảm
giác sơ bộ, đúng hướng, đúng thời cơ sự giúp sức từ bên ngoài, đối với giáo viên
thí giúp họ có những thông tin sát hơn về nội dung dạy học sắp tới và cho phép
cá biệt hóa về phương pháp.
Việc phân chia động tác trong dạy học ban đầu là hoàn toàn hợp lý vỡ
việc hoàn thiện một hệ thống chức năng phức tạp luôn gây cho hệ thần kinh một
khó khăn lớn nên phải giảm nhẹ nhiệm vụ vận động về mặt tâm lý, tránh được
sự củng cố những sai lầm trong vận động cơ bản nảy sinh ngay từ những lần đầu
hoàn thiện mà không kịp uốn nắn cùng một lúc ở tất cả các khâu của hệ vận
động; giảm bớt được sự tiêu hao sức lực. Nhưng, việc chia nhỏ như thế có thể
làm lệch lạc các phần bị chia đó, bởi vỡ mối liên quan hợp nhất chúng thành một
cấu trúc nhịp điệu và động lực học bị phá hủy. Do đó cần phải tiến hành trên cơ sở
phân tích với trính độ chuyên môn cao về kỹ thuật. Động tác đó sao cho có thể tách
chúng ra thành những phần tương đối độc lập mà vẫn đảm bảo tính logic hoàn chỉnh

của những nhiệm vụ vận động ở đây theo một trính tự chặt chẽ nhất.
Tùy theo mức độ tiếp thu các phần chia nhỏ đó mà cách thức hợp nhất
chúng có thể khác nhau tùy theo đặc điểm của động tác. Điều quan trọng trong
tất cả các trường hợp là khi hính thành những kỹ năng kỹ xảo riêng lẻ thì không
tách rời nhau, như thế sẽ cản trở việc hợp nhất chúng thành động tác nguyên
vẹn. Các phần chia nhỏ cần đơn vị hợp nhất với nhau ngay từ lúc vừa có khả
năng thực hiện đúng các phần đó khi chúng được gắn với nhau.
Trong dạy học ban đầu bao giờ cũng có những lệch lạc đáng kể trong làm
động tác so với hình mẫu quy định. Do đó, cần phải để phòng và loại trừ ở mức
cú thể những lệch lạc lớn nhất làm lệch lạc nhiều đối với kỹ thuật động tác.
9
Những lệch lạc tiêu biểu nhất trong giai đoạn này: Thêm những động tác phụ,
không cần thiết; Động tác bị lệch lạc về phương hướng và biên độ; Nỗ lực cơ
bắp không đúng mức và nhiều nhóm cơ bắp bị căng thẳng quá mức; Nhịp độ
chung của cơ bắp bị sai.
Những nguyên nhân cơ bản dẫn đến các sai lầm lớn trong động tác ở giai
đoạn ảnh hưởng ban đầu thường là: Thể lực chưa đầy đủ; Sợ hãi; Hiểu nhiệm
vụ vận động chưa đúng; Tự kiểm tra động tác chưa đủ mức; Sai sót khi thực
hiện các động tác trước đó; Mệt mỏi; Chuyển xấu các kỹ xảo vận động; Các
điều kiện không thuận lợi đối với việc hoàn thiện động tác.
Các phương pháp làm mẫu và định hướng trực quan đơn thuần cần phải
đảm bảo chuẩn xác về phương hướng cơ bản và biên độ động tác. Sau từng lần
tập, phải có sự đánh giá và chỉ trừ những sai sót để sửa chữa ngay trong lần tới.
Giai đoạn 2: Giai đoạn dạy học đi sâu.
Mục đích ở giai đoạn này là đưa trình độ tiếp thu ban đầu, còn “thô thiển”
đối với kỹ thuật động tác lên mức tương đối hoàn thiện. Các nhiệm vụ cơ bản
của giai đoạn này là: Hiểu các quy luật vận động của động tác cần học sâu hơn;
Chính xác hóa kỹ thuật động trác theo các đặc tính không gian, thời gian và
động lực của nó, sao cho tương ứng với các đặc điểm cá nhân của người tập;
Hoàn thiện nhịp điệu động tác, hoàn thiện động tác tự nhiên liên tục; Tạo tiền đề

để hoàn thiện động tác biến dạng; Các phương pháp tập luyện nguyên vẹn, có
chọn lọc, đi sâu vào những chi tiết kỹ thuật là cơ sở phương pháp dạy học ở giai
đoạn này.
Trong dạy học động tác đòi hỏi biểu hiện cao nhất các tố chất thể lực thì
lúc này tốt nhất nên kích thích động viên được hết khả năng vận động tất nhiên
không làm sai lệch kỹ thuật hoàn thiện động tác. Nói chung việc nắm vững kỹ
thuật động tác ở giai đoạn này đòi hỏi phải chú ý đến các đặc điểm riêng của
người tập.
Các phương pháp sử dụng lời nói dùng trong dạy học đi sâu, trước hết
nhằm cung cấp những kiến thức chi tiết về các cơ chế kỹ thuật động tác để các
10
nguyên nhân nảy sinh và tìm chọn con đường hoàn thiện động tác.
Vai trò của “tập luyện vận động bằng tư duy” càng tăng theo mức độ tiếp
thu kỹ thuật động tác và định hướng cảm giác vận động. Việc tập luyện này phối
hợp với các bài tập cơ bản sẽ giúp chuẩn xác hóa động tác để chuẩn xác hóa kỹ
thuật động tác, người ta cũng sử dụng rộng rãi các phương pháp phân tích khi
trình diễn sách báo trực quan ảnh, fim và làm mẫu thực hay theo mô hình cơ thể.
Các phương pháp định hướng theo cảm giác, dùng người hay vật dẫn dắt,
kèm cặp vận động cũng vẫn giữ nguyên ý nghĩa của mình trong giai đoạn này.
Mức kịp thời và độ chuẩn xác trong tự kiểm tra đối với động tác khi dạy
học cần phải tăng lên, muốn thế phải tính toán đến các điều kiện sau: Thứ nhất,
khả năng của giáo viên,huấn luyện viên (HLV) đánh giá bằng mắt thường mức
độ động tác chuẩn xác của người tập bị hạn chế, hơn nữa sự thông tin của giáo
viên (HLV) không phải lúc nào cũng hoàn toàn khớp với cảm giác của bản thân
người tập. Thứ 2, sự phản ánh các cảm giác vào trong ý thức thường không ngay
lập tức và không được hoàn toàn thường có sự không phù hợp đáng kể giữa thực
tế của động tác với sự phản ánh chủ quan động tác đó ở người tập.
Giai đoạn 3: Giai đoạn củng cố và tiếp tục hoàn thiện
Mục đích dạy học ở giai đoạn này là đảm bảo tiếp thu và vận dụng động
tác hoàn thiện trong thực tế. Muốn vậy cần phải giải quyết các nhiệm vụ sau:

Củng cố kỹ xảo kỹ thuật động tác; Mở rộng biến dạng của kỹ thuật động tác để
có thể thực hiện nó hợp lý trong các điều kiện khác nhau, kể cả lúc phải biểu
hiện các tố chất thể lực ở mức cao nhất; Hoàn thiện sự cá biệt hóa kỹ thuật động
tác cho phù hợp với đặc điểm và các năng lực cá nhân; Nếu cần cấu tạo lại kỹ
thuật động tác rồi tiếp tục hoàn thiện nó trên cơ sở phát triển các tố chất thể lực.
Ở giai đoạn thứ 3 này cần phải củng cố định hình động lực vừa hình
thành, đồng thời tăng tính linh hoạt của nó. Cái đó quyết định khả năng thích
nghi của hoạt động đối với sự thay đổi khác nhau của môi trường bên ngoài.
Đầu giai đoạn này, cần chú ý đặc biệt đến việc củng cố kỹ năng đó hình
thành. Quá trình củng cố kỹ xảo diễn ra thống nhất nguyên vẹn. Cần phải sử
11
dụng các phương pháp trên sao cho chuẩn xác hóa đúng hướng đối với cơ sở
thông tin ngược trong điều khiển động tác và trong bản thân các thông số của
động tác.
Tính biến dạng của động tác thể hiện trong tập luyện lặp lại nhiều lần ở
các điều kiện khác nhau. Động tác phải được thực hiện với sự thay đổi các chi tiết
về đặc tính động học, động lực học và nhịp điệu của động tác trong các tình huống.
Khi phức tạp hóa các điều kiện bên ngoài (điểm tựa, không gian bị hạn
chế, thời tiết không thuận lợi …)
Khi trạng thái thể lực và tâm lý của người tập thay đổi (mệt mỏi, sự chỳ ý
bị phân tán …)
Khi sự nỗ lực thể chất tăng lên.
Trong giai đoạn củng cố và hoàn thiện động tác đó có các quá trình hoàn
thiện kỹ thuật kết hợp hữu cơ với giáo dục các tố chất thể lực nhằm đảm bảo
tính hiệu quả tối đa của động tác.
1.2. Đặc điểm kỹ thuật giảng dạy môn Bóng rổ.
Quá trình giảng dạy Bóng rổ nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức
kỹ năng và kỹ xảo thường xuyên phát triển và hoàn thiện chúng, cũng như nhằm
hình thành hệ thống những kiến thức về các vấn đề kỹ thuật, chiến lược và chiến
thuật, luật thi đấu, phương pháp huấn luyện … Điều chiếm vị trí đáng kể trong

giảng dạy không chỉ là phát triển các tố chất thể lực và đạo đức, mà còn hình
thành những kỹ năng và kỹ xảo chuyên môn mà các vận động viên bóng rổ cần
phải tiếp thu đến mức hoàn thiện. Người tập bóng rổ cần áp dụng hợp lý những
kỹ xảo đã tiếp thu được dựa trên cơ sở kiến thức và kỹ năng. Đó là bản chất của
quá trình giảng dạy.
Việc tiếp thu các kỹ xảo vận động đòi hỏi phải nắm thật vững các động
tác để việc thưc hiện chúng được diễn ra một cách tự động hóa, và tất cả hệ
thống động tác có sự ổn định trước tác động của các yếu tố cản phá.
Kỹ năng - là kỹ năng hoạt động có ý thức khi lựa chọn động tác cần thiết.
Trong khi hình thành những kỹ năng cấp cao, cần phải thực hiện các bài tập
12
trong những điều kiện thường xuyên thay đổi.
Nhằm rút ngắn thời gian giảng dạy, người ta có thể chia các động tác
thành các yếu lĩnh động tác riêng lẻ để tự nghiên cứu. Song trong khi chia đó
không được phá hủy sự thống nhất hữu cơ của động tác. Để làm được điều này
cần tuân thủ tính liên tục và tính đồng thời trong giảng dạy.
Điều quan trọng trong quá trình giảng dạy các thao tác thi đấu không chỉ
là nắm vững các động tác hợp lý theo quan điểm sinh cơ học, mà còn biết áp
dụng các động tác đó trong thi đấu. Vì vậy cần tiến hành giảng dạy các thao tác
kỹ thuật và các động tác chiến thuật cá nhân song song với nhau. Ban đầu học
các kỹ thuật riêng lẻ; sau đó kết hợp các thao tác này lại thành những động tác
thi đấu mà mỗi động tác này có thể kết hợp hai hay nhiều động tác khác nhau.
Những thao tác kỹ thuật tấn công cần được học trước các thao tác phòng
thủ. Chỉ sau khi đã học các thao tác tấn công tương ứng mới có thể học các thao
tác phòng thủ nhằm chống lại các thao tác tấn công tương ứng.
Người ta quy ước chia ra 3 giai đoạn giảng dạy :
- Giai đoạn hình thành kỹ năng ban đầu, khi vận động viên bóng rổ tiếp thu
những động tác cơ bản, nói cách khác đây là giai đoạn tiếp thu cấu trúc kỹ năng.
- Giai đoạn chính xác hệ thống các động tác;
- Giai đoạn hoàn thiện kỹ xảo.

Trong mỗi giai đoạn giảng dạy, việc đề ra những nhiệm vụ sư phạm bảo
đảm tính liên tục là điều đặc biệt quan trọng. Cần bảo đảm để cho người tập:
- Nắm chắc tư thế chuẩn bị, là nơi bắt đầu thực hiện những động tác;
- Biết rõ những bộ phận nào của cơ thể tham gia vào việc thực hiện những
động tác đó và bộ phận đó vận động theo các hướng, biên độ, phối hợp vơi nhau
như thế nào và trong không gian.;
- Thực hiện các động tác với các biên độ tối ưu theo nhịp độ thích hợp;
- Giữ đúng cấu trúc động tác và tiếp thu tốt các chi tiết động tác;
- Chuyển sang hoàn thiện các động tác.
Khi học phối hợp các thao tác, cần chú ý chủ yếu dến những mối liên kết
13
các thao tác, nếu các thao tác được phối hợp với nhau theo nghuyên tắc dây
chuyền, nghĩa kà thực hiện hết một động tác này tiếp đến động tác khác. Khi học
các mối liên kết thao tác là học sự chuyển đổi từ một thao tác này sang thao tác
khác, đó là nơi xảy ra sự biến dạng các cử động cuối của thao tác trước và các
cử động ban đầu của thao tác tiếp theo.
Khi tiếp thu các phối hợp vận động, mà trong đó các động tác được phối
hợp với nhau không phải tuân theo tuần tự mà là đồng thời, khi một động tác trở
thành nền cho động tác khác (ví dụ: chuyền bóng trong khi chạy), thì người ta
học cách phối hợp những động tác đã được họa từ trước theo các giai đoạn. Để
đạt được mục đích này, thông thường người ta áp dụng các bài tập dẫn dắt.
Khi học chiến thuật thi đấu cần đề ra mục đích:Học cách sử dụng hợp lý
những động tác đã nắm được từ trước và học cáhc phối hợp vận động vơi các
vận động viên khác căn cứ vào các tình huống trên sân; Học cách tạo ra tình
huống thuận lợi nhất cho vận động viên khác để giúp anh ta hoại động đạt hiệu
quả cao hơn.
Khi học bất kỳ động tác kỹ thuật hay phối hợp chiến thuật nào cũng cần
chuyển đổi có tuần tự từ các nhiện vụ sư phạm này đến nhiệm vụ sư phạm khác
dựa trên cơ sở bản chất sinh lý của việc hình thành các kỹ xảo vận động.
Làm quen với động tác.

Việc làm quen với động tác được bắt đầu từ việc hình thành kỹ năng về
động tác đó. Những người tập cần phải có trước mặt động tác mẫu mà mình cần
làm theo. Muốn vậy, những người tập cần không chỉ được thông báo những nét
chung về động tác, về vị trí và ý nghĩa của nó trong thi đấu, mà cần tạo cho họ
khả năng nhận được những cảm giác vận động đầu tiên xuất hiện khi thể hiện
động tác. Giai đoạn học tập này có các nhiệm vụ.
Đem lại cho người tạp những hiểu biết về động tác đang học, cũng như
tạo những cảm giác gắn với những khả năng vận động đó của anh ta.
Cung cấp những thông tin sơ bộ về động tác đang học như về vị trí và ý
nghĩa của nó trong thi đấu, về tác dụng cơ bản và cách áp dụng có hiệu quả nhất
14
của nó …
Hình thành nhiệm vụ thị giác và khả năng vận động về những động tác
được thực hiện đúng và tuần tự hoàn thiện các động tác đó.
Những nhiệm vụ này được giải quyết nhờ có phương pháp trực quan và
phương pháp dùng lời nói và nhờ việc tự thực hiện các bài tập.
Căn cứ vào các tính chất của nội dung cần học những nhiệm vụ giảng dạy
mà có thể sử dụng phim, các sơ đồ, ảnh, bằng hình, sau khi hình thành khái niệm
về động tác, về động tác mẫu cần học, người tập thứ tự thực hiện động tác đó.
Chỉ sau như làm như thế người tập mới có khái niệm đúng về những khó khăn
liên quan đến việc tiếp thu các động tác cần học, đồng thời mới có được khả
năng vận động về tính chất của các động tác và tuần tự thực hiện chúng.
Học động tác trong những điều kiện được đơn giản hóa: Nhiệm vụ chủ
yếu của giai đoạn này là nắm vững cấu trúc cơ bản của động tác và học cách
thực hiện đúng cấu trúc đó. Những người lập cần phải: Nắm vững cấu trúc động
tác; Tránh bị căng thẳng và loại bỏ các động tác thừa là điều không tránh khỏi
xuất hiện trong những lần đầu thực hiện động tác.
Loại trừ các sai sót đó mắc: Sự chú ý của các VĐV được chuyển tuần tự
từ tư thế chuẩn bị đến các khâu cơ bản của động tác và sau đó mới đến các chi
tiết. Trong giai đoạn này cần tiếp thu vững chắc cấu trúc cơ bản của động tác.

Các phương pháp để đơn giản hóa tình huống luôn luôn cụ thể và phụ
thuộc vào tính chất của động tác đang học.
Khi học chiến thuật, thì tình huống cô thể được đơn giản hóa bằng cách
giảm hay tăng số đồng đội, cụ thể hóa mục đích cần đạt, tạo ra những điều kiện
thuận lợi hơn bằng cách bố trí đội hình, hay bằng thay đổi số lượng các nhiệm
vụ chiến thuật phải giải quyết đồng thời hay tuần tự, chỉ ra các cách thức có thể
giải quyết nhiệm vụ…
Hoàn thiện động tác theo tình huống phức tạp: Khi cấu trúc cơ bản của
động tác đó được tiếp thu cần đưa vào giờ học các yếu tố cản phá, nhằm làm cho
tình huống giờ học giống với tình huống trong thi đấu. Để giải quyết những
15
nhiệm vụ của giai đoạn giảng dạy này người tập cần phải: Học các biến thể thực
hiện động tác; Học định hướng theo tình huống và đánh giá tình huống đó; Thực
hiện động tác trong những điều kiện có phản công lại (có điều kiện và không có
điều kiện).
Có thể phức tạp tình huống bằng các cách khác nhau, đưa vào các yếu tố
làm phân tán sự chú ý, thay đổi tính chất chuyển chỗ, biên độ động tác … Các
yếu tố phức tạp hóa tình huống đưa vào giờ học lúc đầu chỉ là một phối hợp
động tác, sau đó là một số phối hợp khác nhau.
Định hình động tác trong thi đấu: Biết thực hiện động tác một cách riêng
lẻ ngoài thi đấu cũng chưa có nghĩa là động tác đó thành định hình trong thi đấu.
Động tác được củng cố thành định hình trong thi đấu được xem xét trước hết là
sự tiếp thu những khả năng biết chọn thời điểm và biết thực hiện động tác đúng lúc,
biến bất ngờ chuyển sang động tác khác trong tình huống thi đấu vừa thay đổi về sắc
thái cảm xúc, về cơ sở sinh lý khác nhau, về mức độ phản công lại đa dạng.
Trong giai đoạn học tập này cần giải quyết những nhiệm vụ sau đây:
Củng cố kỹ xảo và biết áp dụng trong tình huống hình thành bất ngờ.
Hoàn thiện tính linh hoạt và tính biến dạng của động tác.
Hoàn thiện động tác khi bị phản công nảy sinh bất ngờ.
Hoàn thiện phẩm cách cá nhân trong hoàn thiện động tác.

Áp dụng động tác một cách tự do trong thi đấu.
Các bài tập trong giai đoạn này cần phải mang tính chất thi đấu. Cần
giành chú ý chính cho việc vận dụng sáng tạo động tác và các biến dạng của nó
phụ thuộc vào những điều kiện bên ngoài.
1.3. Đặc điểm tâm - sinh lý
Tâm lý con người không những phong phú đa dạng mà sự biểu hiện nó rất
sinh động, muôn hình muôn vẻ, tâm lý con người phụ thuộc vào rất nhiều yếu
tố: Lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp trình độ, điều kiện sống … Do vậy mà tâm
lý của mỗi người rất khác nhau, từ thực tế đó mà quá trình huấn luyện và giảng
dạy thể thao núi chung và môn bóng rổ nói riêng cần đặc biệt quan tâm đến tâm
16
lý của các sinh viên, vì nó là một phần quyết định hiệu quả của quá trình thi đấu.
Bóng rổ là môn thi đấu tập thể và trong quá trình thi đấu có sự đấu tranh
gay go quyết liệt, có sự va chạm thể chất lớn khi đối phương chơi chắc, chậm
thậm chí thô bạo đó tạo lên cảm xúc căng thẳng cho VĐV. Sự biến đổi cảm xúc
cũng liên quan đến việc bám nhau từng điểm, sự cổ vũ của cổ động iên, hay xử
lý thiếu cảm xúc của trọng tài, điều kiện sân bãi, thời tiết, khí hậu …
Do vậy quá trình huấn luyện, giảng dạy giáo viên phải quan tâm đến sự
nảy sinh của các hình thái chức năng tâm lý tốt có ảnh hưởng tích cực đến tập
luyện và thi đấu phải biết khống chế sự xuất hiện các chức năng tâm lý tốt xấu
giúp cho sinh viên, VĐV, người tập đạt được thành tích cao nhất trong điều kiện
căng thẳng của tập luyện và thi đấu. Các bài tập KH, phương pháp giảng dạy
huấn luyện đúng đắn sẽ rút ngắn khoảng cách thành tích từ tập luyện đến thi
đấu. Cần tạo cho VĐV biết cách làm chủ cảm xúc của mình, biết tự khống chế
sự xuất hiện của những cảm xúc xấu. Sự nỗ lực ý trí khi hoạt động cơ bắp căng
thẳng để thể hiện cảm xúc ý đồ động tác, sự tập trung chú ý cao độ trong thời
gian thi đấu dài, sự chuyển xấu của bản thân nhiều khi xác định tính chất bay
đến của bóng, khoảng cách bóng bay đến, khoảng cách đến đồng đội khi định
chuyền bóng, khả năng quan sát vị trí di chuyển của đồng đội và đối phương để lựa
chọn kĩ chiến thuật hợp lý. Phải bám vào đặc điểm tâm lý lứa tuổi của sinh viên.

Ngoài ra quá trình giảng dạy huấn luyện cũng đòi hỏi tạo cho sinh viên
biết thay đổi tập trung chú ý, tư duy và cách thả lỏng tích cực gắng sức tối đa
trong huấn luyện và thi đấu dẫn đến hiệu quả cao.
Khi giảng dạy huấn luyện thể thao nói chung và bóng rổ nói riêng về mặt
kỹ thuật, chiến thuật, thể lực cần phải quan tâm đến đặc điểm sinh lý của từng
lứa tuổi. Đối với sinh viên lứa tuổi (18 – 20) có đặc điểm sinh lý cơ thể đang
phát triển.
Hệ thần kinh: Hình thái cơ thể tương đối hoàn thiện nên vỏ não và hành tủy
đạt đến mức trưởng thành hoạt động phân tích tổng hợp ở vỏ não tăng lên, khả năng
suy nghĩ sáng tạo độc lập, tư duy trừu tượng trong học tập đạt đến mức độ cao.
17
Hệ hô hấp: Các chỉ số hô hấp đó tương đối ổn định, khả năng hấp thu oxy
thấp hơn nhiều lớn một chút đạt tần số 16 – 18 lần/phút trong điều kiện yên tĩnh.
Hệ tuần hoàn: Tần số co bóp tim khoảng 60 – 80 lần/phút, mạch đập 160
– 180 lần/phút, tim hoạt động tinh tế hơn, lứa tuổi này công suất hoạt động ở
mức độ cao, khả năng hồi phục sau vận động đặc biệt là lượng vận động cao gần
với người trưởng thành.
Hệ vận động: Xương, cơ bắp đó phát triển ở mức độ cao, phù hợp với
huấn luyện thể lực, sự phát triển các tố chất thể lực không đồng đều, cần đặc biệt
chú ý đến tập luyện.
Sức bền chung của các nhóm cơ nói chung tăng lên.
Sức nhanh: Thời gian phản ứng vận động đơn giản đạt mức độ cao.
Khéo léo: Khả năng định hướng trong không gian tốt.
=> Ở lứa tuổi này đặc điểm sinh lý có đủ điều kiện để đạt được thành tích
thể thao cao nếu được đào tạo một cách toàn diện, có kỹ - chiến thuật cũng như
thể lực đạt mức độ cao, sự chuẩn bị tốt.
1.4. Đặc điểm giảng dạy kỹ thuật Bóng rổ cho sinh viên phổ tu trường
ĐHTDTT Bắc Ninh
18
Bảng 1.1: Tiến trình giảng dạy Bóng rổ dành cho phổ tu

NỘI DUNG
GIÁO ÁN SỐ
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15
I Lý thuyết
1 Lịch sử, luật thi đấu và trọng tài BR 
2 Phương pháp giảng dạy môn bóng rổ 
II Thực hành
1 Kỹ thuật di chuyển không bóng 
 

2 Kỹ thuật dẫn bóng 
 
   

3 Kt chuyền,bắt bóng hai tay trước ngực 


4 Kt dẫn bóng hai bước ném rổ 
           
KT
5 Kt tại chỗ ném rổ 1 tay trên cao 
         
KT
6 Kt di chuyển chuyền bắt bóng 
        
KT
7 Kt dẫn bóng 2 bước ném rổ 1 tay thấp 


8 Kt Cầm bóng qua người bước chéo 


9 Đội hình chiến thuật 


10 Thi đấu và trọng tài 


11 Thể lực 


III Bồi dưỡng phương pháp
IV Thi và kiểm tra 
19
Trong chương trình học môn Bóng rổ dành cho sinh viên phổ trường đại
học TDTT Bắc Ninh, đối với môn Bóng rổ một học kỳ (5 tháng) có 30 tiết học
tương ứng với 15 giáo án. Nội dung kiểm tra: 3 nội dung
- Kỹ thuật dẫn bóng hai bước ném rố.
- Kỹ thuật tại chỗ ném rổ một tay trên cao.
- Kỹ thuật di chuyển chuyền bắt bóng.
Qua bảng trên chúng tôi thấy thời gian học 1 buổi trên một tuần, 1
buổi tập là 90 phút, trong đó dành 10 – 15 phút để tập luyện kĩ thuật di chuyển
chuyền bắt bóng. Các nội dng được học:
1 Lý thuyết: Học 1 giáo án số 8.
+ Lịch sử, luật thi đấu và trọng tài BR,
+ Phương pháp giảng dạy môn BR
2 Thực hành: Học 12 giáo án.
Giáo án 2: Kĩ thuật di chuyển không bóng.
Kĩ thuật dẫn bóng
Kĩ thuật dẫn bóng 2 bước ném rổ
Giáo án 3: Kĩ thuật di chuyển không bóng.

Kĩ thuật dẫn bóng
Kĩ thuật chuyền, bắt bóng hai tay trước ngực.
Kĩ thuật dẫn bóng 2 bước ném rổ
Giáo án 4: Kĩ thuật dẫn bóng.
Kĩ thuật dẫn bóng hai bước ném rổ.
Kĩ thuật tại chỗ ném rổ một tay tay trên cao
Giáo án 5: Kĩ thuật dẫn bóng.
Kĩ thuật dẫn bóng hai bước ném rổ.
Kĩ thuật tại chỗ ném rổ một tay trên cao
Kĩ thuật di chuyển chuyền bắt bóng.
Giáo án 6: Kĩ thuật dẫn bóng.
Kĩ thuật dẫn bóng hai bước ném rổ.
20
Kĩ thuật tại chỗ ném rổ một tay trên cao
Kĩ thuật di chuyển chuyền bắt bóng.
Kĩ thuật dẫn bóng hai bước ném rổ 1 tay thấp
Giáo án 7: Kĩ thuật dẫn bóng.
Kĩ thuật dẫn bóng hai bước ném rổ.
Kĩ thuật tại chỗ ném rổ một tay trên cao
Kĩ thuật di chuyển chuyền bắt bóng.
Giáo án 8: Học lý thuyết
Giáo án 9 : Kĩ thuật dẫn bóng hai bước ném rổ.
Kĩ thuật tại chỗ ném rổ một tay trên cao.
Kĩ thuật di chuyển chuyền bắt bóng.
Giáo án 10 : Kĩ thuật dẫn bóng hai bước ném rổ.
Kĩ thuật tại chỗ ném rổ một tay trên cao.
Kĩ thuật di chuyển chuyền bắt bóng.
Kĩ thuật cầm bóng qua người bước chéo.
Giáo án 11 : Kĩ thuật dẫn bóng hai bước ném rổ.
Kĩ thuật tại chỗ ném rổ một tay trên cao.

Kĩ thuật di chuyển chuyền bắt bóng.
Đội hình chiến thuật.
Giáo án 12 : Kĩ thuật dẫn bóng hai bước ném rổ.
Kĩ thuật tại chỗ ném rổ một tay trên cao.
Kĩ thuật di chuyển chuyền bắt bóng.
Thi đấu và trọng tài.
Thể lực.
Giáo án 13 : Kĩ thuật dẫn bóng hai bước ném rổ.
Kĩ thuật tại chỗ ném rổ một tay trên cao.
Kĩ thuật di chuyển chuyền bắt bóng.
Giáo án 14 : Kĩ thuật dẫn bóng hai bước ném rổ.
Kĩ thuật tại chỗ ném rổ một tay trên cao.
21
Kĩ thuật di chuyển chuyền bắt bóng.
Giáo án 15 : Kiểm tra
- Bồi dưỡng phươg pháp.
- Thi và kiểm tra.
Giảng dạy kĩ thuật trong trường Đại học TDTT giáo viên thường sử
dụng các phương pháp:
Phương pháp tập luyện có định mức chặt chẽ.
Phương pháp trò chơi và thi đấu.
Phương pháp sử dụng lời nói và trực quan.
+ Phương pháp tập luyện có định mức chặt chẽ.
- Đặc điểm của phương pháp này là hoạt động của người tập được tổ chức
quản lý và điều chỉnh một cách chi tiết. Sự định mức thể hiện ở những điểm sau:
Định mức chặt chẽ trước chương trình động tác; định mức chính xác và điều
khiển diễn biến lượng vận động và quãng nghỉ phải chặt chẽ;sử dụng các điều
kiện bên ngoài, các dụng cụ tập luyện cũng được định trước một cách chặt chẽ.
- Ý nghĩa của việc định mức là ở chỗ đảm bảo điều kiện tối ưu cho tiếp thu
KNKX vận động mới và phát triển tố chất thể lực.Phương pháp tập luyện định

mức chặt chẽ có rất nhiều phương án cụ thể, việc sử dụng chúng tùy thuộc vào
nội dung buổi tập và từng thời kì trong quá trình GDTC.
- Phương pháp tập luyện trong quá trình học động tác:Việc tiếp thu ban đầu
các động tác có thể diễn ra theo hai hướng:
Phương pháp phân chia hợp nhất: được sử dụng trong trường hợp đối với
động tác hoặc tổ hợp những động tác cần học có thể phân chia thành các phần
tương đối độc lập mà có thể không ảnh hưởng tới cấu trúc động tác (ví dụ trong
giảnh dạy kĩ thuật di chuyển chuyền bóng hai tay trước ngực người ta có thể chia
thành các giai đoạn : tập tay không di chuyển, tập có bóng di chuyển…)
Phương pháp tập luyện nguyên vẹn: trong trường hợp việc phân chia nhỏ
động tác mà gây lên những động tác lớn tới cấu trúc động tác, người ta áp dụng
phương pháp tập luyện nguyên vẹn. Đối với những động tác phức tạp vẫn sử
22
dụng phương pháp tập luyện nguyên vẹn, nhưng thường sử dụng các bài tập bổ
trợ, bài tập bẫn dắt…
- Các phương pháp tập luyện định mức LVĐ và quãng nghỉ: các phương
pháp này nhằm hoàn thiện KNKX vận động và phát triển các tố chất thể lực. Căn
cứ vào mục đích và tùy thuộc vào đặc điểm định hướng và biến thiên các thông số
bên ngoài của LVĐ mà các phương pháp này được chia thành 2 nhóm
lớn:phương pháp tập lặp lại ổn định,phương pháp tập biến đổi và trong mỗi
nhómlại phân thành các phương pháp tập luyện liên tục không có quãng nghỉ và
phương pháp ngắt quãng.
Phương pháp tập luyện lập lại ổn định theo chế độ lượng vận động liên tục
và ngắt quãng trong quá trình tập luyện lặp lại ổn định, động tác được lặp lại
không có sự thay đổi đáng kể về cấu trúc và các thông số bên ngoài của LVĐ.
Phương pháp này dược sử dụng trong giáo dục tất cả các tố chất vận động.
Phương pháp tập lặp lại ổn định có thẻ thực hiện với quãng nghỉ và không có
quãng nghỉ, từ đó có 2 phương pháp đó là:Phương pháp tập luyện lặp lại ổn định
liên tục là không có sự thay đỏi đáng kể về cấu trúc động tác, về LVĐ vá các điều
kiện để tiến hành tập luyện,phương pháp này được sử dụng trong giáo dục SB,

một trong những phương pháp điển hình là phương pháp đồng đều. Phương pháp
tập luyện lặp lại ổn định ngắt quãng là phương pháp tập luyện lặp lại động tác với
quãng nghỉ tương đối ổn định.
Phương pháp tập luyện biến đổi theo chế độ LVĐ liên tục và ngắt quãng :
Tùy từng trường hợp mà thay đổi các thông số vận động, thay đổi cáhc thức thực
hiện động tác, thay đổi quãng nghỉ và các điều kiện bên ngoài. Bản chất của vấn
đề thể hiện ở chỗ dặt ra những yêu cầu mới cao hơn để kích thích các chức năng
của cơ thể đồng thời mở rộng tính linh hoạt kỹ xảo vận động và hoàn thiện kỹ xảo
vận động.
Phương pháp tập luyện tổng hợp:trên thực tế các phương pháp thường được
kết hợp vơi nhau trong quá trình GDTC thành phương pháp tổng hợp.
Phương pháp tập luyện lặp lại tăng tiến: có đặc điểm lặp lại ổn định trong
23
mỗi lần tập nhưng lại tăng LVĐ đó ở những lần tập sau.
Phương pháp tập luyện lặp lại với quãng nghỉ giảm dần: có đặc điểm
LVĐ ổn định nhưng quãng nghỉ giảm dần, tạo sự biến đổi mạnh mẽ trong cơ thể
khi thực hiện bài tập.
Phương pháp tập luyện vòng tròn ( tuần hoàn): quá trinh thực hiện bài tập
theo thứ tự từng nhóm với những bài tập đã được lựa chọn và hợp nhất thành bài
tập liên hợp. Các bài tập được thực hiện thei từng trạm kế nhau, các trạm bố trí
theo hình tròn. Tại mỗi trạm người tập thực hiện một loạt các động tác hoặc
những hành động nhất định. Số lần lặp lại ở mỗi trạm được xác định theo đặc
điểm của người tập. Hình thức tập luyện vòng tròn nhằm giáo dục các tó chất thể
lực. Phương pháp tập luyện vòng tron có nhiều dạng khác nhau và các dạng của
phương pháp này là; tập luyện vòng tròn theo phương giãn cách với quãng nghỉ
ngắn được sử dụng chủ yếu để phát triển SBTĐ và SM bền; tập luyện vòng tròn
theo phương pháp giãn cách với quãng nghỉ đầy đủ được sử dụng phát triển SM
và tốc độ.
+ Phương pháp trò chơi và thi đấu.
- Phương pháp trò chơi: ý nghĩa của phương pháp trò chơi như một hiện

tượng xã hội đa diện đã vượt qua ngoài GDTC và GD nói chung. Song một trong
những chức năng chủ yếu nhất của trò chơi là chức năng GD. Từ xa xưa, tro chơi
đã là một trong những phương tiện và phương pháp cơ bản của GD. Phương pháp
trò chơi không nhất thiết phải gắn với một trò chơi cụ thể nào đó như bóng đá,
bóng chuyền hoặc các trò chơi vận động đơn giản. Về nguyên tắc, phương pháp
trò chơi có thể sử dụng trong bắt kì bài tập thể lực nào. Tất nhiên chúng phải
được tổ chức phù hợp với đặc điển của phương pháp trò chơi.Phương pháp trò
chơi trong GDTC có những đặc điểm sau:
Tổ chức theo chủ đề: Hoạt động của những người chơi được tổ chức tương
ứng với chủ đề giả định hoặc có tính chất hình ảnh.
Phong phú về phương thức đạt mục đích: Hầu như bao gời cũng có nhiếu
cách để chiến thắng được luật chơi cho phép.
24
Là một hoạt động độc lập sáng tạo, có yêu cầu cao về sự nhanh trí, khéo léo
của người chơi.
Tạo lên sự đua tranh căng thẳng giữa các cá nhân hoặc giữa các nhóm và
tạo lên cảm xúc mạnh mẽ.
- Phương pháp thi đấu: Trong GDTC thi đấu được sử dụng cả hình thức
tương đối đơn giản và hình thức phát triển phức tạp.
Trường hợp thứ nhất: Được sử dụng như các bài tập thi đấu tập, thi thử
nhằm kích thích hứng thú và tính tích cực của người tập.
Trường hơp thứ hai: Được sử dụng như một hình thức tương đối độc lập
như thi kiểm tra, các cuộc thi đấu thể thao chính thức…
Đặc điểm của phương pháp thi đấu là so sánh sức lực trong điều kiện đua
tranh thứ bậc, vị trí để dạt thành tích cao nhất. Yếu tố đua tranh trong thi đấu
cũng như điều kiện tiến hành tổ chức cuuộc thi sẽ tạo nên cảm xúc và những biến
đổi sinh lý đặc biệt làm tăng thêm tác dụng của bài tập.
+ Phương pháp sử dụng lời nói và trực quan trong GDTC.
Phương pháp sử dụng lời nói: bằng lời nói để truyền thụ kiến thức cho
người học, kích thích tư duy và điều khiển việc thực hiện chúng. Phương pháp sử

dụng lời nói còn để phân tích, đánh giá kết quả và điều chỉnh hành vi của người
học.
Phương pháp lời nói cũng rất cần thiết trong quá trình nhận thức, tự đánh
giá, tự điều chỉnh hành động.
Do có chức năng đa dạng đó mà lời nói được sử dụng trong nhiều phương
pháp khác nhau: phân tích, giảng giảy, chỉ thị, mệnh lệnh.
+ Phương pháp trực quan.
Qúa trình nhận thức của con người = trực quan - tư duy - thực tiễn. Trực
quan có 2 loại: trực quan trực tiếp và trực quan gián tiếp. Tùy từng trường hợp cụ
thể trong GDTC mà sử dụng trực quan trực tiếp hay gián tiếp cho phù hợp.
Các nguyên tắc lý luận trong giảng dạy
Kết quả của quá trình giảng dạy và độ dài thời gian giảng dạy phụ thuộc
25

×