Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Tập bài giảng nhập môn ngôn ngữ học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1003.91 KB, 90 trang )

z

TẬP BÀI GIẢNG
NHẬP MÔN NGÔN NGỮ HỌC
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Chương I: MỞ ĐẦU……………………………………………….…………… 1
I. Ngôn ngữ, đối tượng và nhiệm vụ của ngôn ngữ học………………………… 1
1. Ngôn ngữ và ngôn ngữ học………………………………………………….….1
2. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của ngôn ngữ học……………… …… ……2
II.Các ngành nghiên cứu của ngôn ngữ học……………………………… … 2
1. Ngôn ngữ học đại cương và ngôn ngữ học cụ thể…………………… …… 2
2. Các mặt nghiên cứu của ngôn ngữ học…………………………… ………… 2
3. Các bộ môn của ngôn ngữ học………………………………………………… 3
III.Vài nét về quá trình hình thành ngôn ngữ học………………………………….3
Chương II: NGỮ ÂM VÀ CHỮ VIẾT……………….…………………………7
A. Ngữ âm………………………………………………………………………….7
I.Âm tố…………………………………………………………………………… 7
1. Âm tố- đơn vị nhỏ nhất của ngữ âm…………………………………………….7
2. Các đặc trưng chung của âm tố………………………………………………….7
II. Phân loại âm tố…………………………………………………… …………10
1. Phân biệt nguyên âm và phụ âm……………………………………….………10
2. Miêu tả nguyên âm………………………………………………………….…11
3. Miêu tả phụ âm…………………………………………………………… ….13
III. Âm vị và biến thế âm vị…………………………… ……………………… 14
1. Âm vị ………….…………………………………………………………… 14
2. Biến thể âm vị………………………………………………………………….15
IV. Âm vị siêu đoạn tính…………………………………………………….……15
1. Âm vị đoạn tính và âm vị siêu đoạn tính………………………………………16
2. Âm tiết………………………………………………………………… …….16
3. Ngôn điệu và các loại âm vị siêu đoạn tính……………………………………17


V. Sự biến đổi ngữ âm……………………………………………………… ….18
1. Tại sao có sự biến đổi ngữ âm…………………………………………………18
2. Các kiểu biến đổi ngữ âm ………………………………………… …………18
B. Chữ viết …………………………………………………………………….…20
1. Khái quát về chữ viết………………………………………………………… …… 20
2. Các kiểu chữ viết…………………………………………………………… 20
Chương III: TỪ VỰNG ………………………………………… …………….23
I. Hình vị. Từ. Từ vựng…………………………………………… ……………23
1. Hình vị - đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có nghĩa………………………………….23
2. Từ là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ……………………………………….…….23
3. Các đơn vị tương đương với từ………………………………………… ……25
4. Từ vựng là gì? ……………………………….………… 25
II. Cấu tạo của từ……………………………………………………………….…26
1. Đơn vị cấu tạo từ……………………………………………………….………26
2. Phân tích cấu tạo hình vị của từ……………………………………….……….26
3. Hệ thống cấu tạo từ ……………………………………………………….… 26
4. Các phương thức cấu tạo từ………………………………………….……… 27
III. Nghĩa của từ……………………………………………………………….…27
1. Khái quát về nghĩa của từ…………………………………………… … …………27
2. Các thành phần ý nghĩa của từ…………………………………………………28
3. Sự biến đổi ý nghĩa của từ……………………………………… ……………32
4. Các loại nghĩa trong từ nhiều nghĩa……………………………………….… 35
IV. Các nhóm từ và lớp từ ……………………………………………………….36
1. Các nhóm từ……………………………………………………………………36
2. Các lớp từ………………………………………………………… ………….39
V. Từ vựng và từ điển…………………………………………………………….39
1. Một số hiểu biết chung về việc biên soạn từ điển…………………………… 39
2. Các loại từ điển……………………………………………………………… 39
Chương IV: NGỮ PHÁP…………………… …………………….….….44
I. Khái quát ngữ pháp và ngữ pháp học………………………………………… 44

1. Ngữ pháp………………………………………………………………………44
2. Ngữ pháp học…………………………………………………………….……44
II. Ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp trong từ……………………………… 45
1. Phân biệt ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp trong từ……………….….….45
2. Các loại ý nghĩa ngữ pháp và phương tiện biểu hiện chúng……………….… 46
III. Phương thức ngữ pháp…………………………………………………….….47
1.Khái niệm về phương thức ngữ pháp………………………………,….…….…47
2. Các loại phương thức ngữ pháp…………………………………………….….49
IV. Phạm trù ngữ pháp……………………………………………………………49
1. Khái niệm về phạm trù ngữ pháp………………………………………………49
2. Các phạm trù ngữ pháp phổ biến………………………………………… ….50
V. Quan hệ ngữ pháp…………………………………………………………… 50
1. Khái niệm về quan hệ ngữ phá……………………………………………… 50
2. Miêu tả các quan hệ ngữ pháp trong câu bằng sơ đồ………………….…….…52
VI .Đơn vị ngữ pháp…………………………………………………………… 53
1. Khái niệm về đơn vị ngữ pháp……………………………………………… 53
2. Các loại đơn vị ngữ pháp………………………………………………………53
VII. Từ loại….……………………………………………………………………54
1. Cơ sở phân loại……………………………………………………………… 54
2. Các từ loại của ngôn ngữ…………………………………………………… 54
Chương V: NGUỒN GỐC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÔN NGỮ 56
1. Nguồn gốc của ngôn ngữ………………………………………………………56
2. Sự phát triển của ngôn ngữ…………………………………………………….59
3. Tính hệ thống của ngôn ngữ………………………………………………… 63
Chương VI: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG
CỦA NGÔN NGỮ…………………………………………………….… 68
I. Bản chất của ngôn ngữ…………………………………………………………68
1. Ngôn ngữ là một hiện tượng có bản chất xã hội……………………………….68
2. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt………….…………………… …72
3. Bản chất tín hiệu (ký hiệu) của ngôn ngữ ……………………………………74

II. Chức năng của ngôn ngữ…………………………………………….……….77
1. Khái quát về chức năng………………………………………………… … 77
2. Các loại chức năng của ngôn ngữ……………………………………….……77
Tài liệu tham khảo……………………………………………………….……….82
LỜI NÓI ĐẦU
Nhập môn ngôn ngữ học là một học phần tự chọn rất cần thiết đối
với sinh viên chuyên ngành ngôn ngữ Anh bởi lẽ học phần này giúp củng
cố thêm cho sinh viên những kiến thức cơ bản về ngôn ngữ để từ đó giúp
các em có thể sử dụng tốt hơn ngôn ngữ Anh và ngôn ngữ tiếng Việt trong
học tập và giao tiếp.
Thực tế qua giảng dạy học phần Nhập môn ngôn ngữ học, tôi thấy
chưa có tài liệu chính thức cho việc giảng dạy và học học phần này. Trong
quá trình giảng dạy, giảng viên thường phải tham khảo nhiều tài liệu khác
nhau, bởi vậy gặp không ít khó khăn trong việc soạn, giảng. Về phía sinh
viên, lại là sinh viên không chuyên ngữ văn, việc không có tài liệu chính
thức để học là một khó khăn rất lớn trong việc tiếp cận tri thức về ngôn
ngữ.
Từ thực tế đó, tôi biên soạn tập bài giảng môn Nhập môn ngôn ngữ
học (4 ĐVHT) với mong muốn có một tài liệu chính thức để phục vụ cho
việc dạy, học học phần này được thuận lợi và đạt kết quả tốt hơn.
Tập bài giảng Nhập môn ngôn ngữ học hoàn thiện sẽ khắc phục
được khó khăn về tài liệu dạy, học học phần này cho giảng viên và sinh
viên.
Nội dung tập bài giảng được biên soạn dựa trên cơ sở đề cương chi
tiết của học phần và sát với trình độ nhận thức của sinh viên (không
chuyên ngữ văn) sẽ là nguồn tài liệu hữu ích góp phần giúp sinh viên sử
dụng tốt hơn ngôn ngữ trong học tập và giao tiếp.
Viết tập bài giảng Nhập môn ngôn ngữ học cũng là cơ hội để rèn
luyện thêm về khả năng nghiên cứu, tập hợp hệ thống kiến thức lý thuyết
về ngôn ngữ, từ đó góp phần nâng cao năng lực sử dụng tiếng Việt cho bản

thân mình.
Tập bài giảng có cấu trúc gồm: mục lục, lời nói đầu, nội dung cụ thể
và danh mục các tài liệu tham khảo.
Nội dung cụ thể của tập bài giảng gồm 6 chương:
Chương I: Mở đầu: Đề cập đến các vấn đề về đối tượng và nhiệm
vụ của ngôn ngữ học, các ngành nghiên cứu của ngôn ngữ học và đôi nét
về quá trình hình thành ngôn ngữ học.
Chương II: Ngữ âm – chữ viết: Trong phần Ngữ âm sẽ nghiên cứu
cụ thể về âm tố, âm vị và biến thể của âm vị, âm vị siêu đoạn tính và về
hiện tượng biến đổi ngữ âm, và nghiên cứu về chữ viết.
Chương III: Từ vựng: Chương này gồm những nội dung cơ bản về
từ vựng như: các đơn vị từ vựng, nghĩa của từ, các lớp từ vựng, vấn đề hệ
thống hóa từ vựng trong từ điển.
Chương IV: Ngữ pháp: Một vài điều khái quát về ngữ pháp và ngữ
pháp học sẽ được tập trung nghiên cứu, các phương thức ngữ pháp, phạm
trù ngữ pháp, quan hệ ngữ pháp và đơn vị ngữ pháp.
Chương V: Nguồn gốc và sự phát triển của ngôn ngữ: Nội dung
chủ yếu của chương này sẽ tập trung vào tìm hiểu các vấn đề về nguồn gốc
và sự phát triển của ngôn ngữ.
Chương VI: Một số vấn đề về bản chất và chức năng ngôn ngữ:
Ở chương này, bản chất xã hội và bản chất tín hiệu của ngôn ngữ sẽ được
tập trung nghiên cứu. Về chức năng của ngôn ngữ, chức năng làm phương
tiện giao tiếp, tư duy và một vài chức năng khác sẽ được giới thiệu.
Mặc dù có nhiều cố gắng trong việc biên soạn, tập bài giảng Nhập
môn ngôn ngữ học chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy,
chúng tôi mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của
đồng nghiệp và sinh viên.
1
Chương I
MỞ ĐẦU

Chương này đề cập tới những vấn đề lý luận cơ bản về ngôn ngữ và ngôn ngữ học
như: Đối tượng, nhiệm vụ của ngôn ngữ học, các ngành nghiên cứu của ngôn ngữ học,
một vài nét về quá trình hình thành và phát triển của ngôn ngữ học.
I. Ngôn ngữ, đối tượng và nhiệm vụ của ngôn ngữ học
1. Ngôn ngữ và ngôn ngữ học
1.1. Khái niệm ngôn ngữ
1.1.1. Phân biệt ngôn ngữ và lời nói:
Để dễ dàng phân biệt ngôn ngữ và lời nói, ta đi từ ví dụ sau:
- Có một số đơn vị ngôn ngữ (từ) như: Lấp lóe, lóng lánh, sao, cánh buồm, lửa chài, mây,
hiện ra, bay…
- Một số quy tắc kết hợp các đơn vị này thành cụm từ, thành câu:danh tính, động tính,
danh-động tính, C-V…
Những đơn vị và những quy tắc ngữ pháp này có sẵn trong óc mỗi người nói tiếng
Việt. Chúng có thể xuất hiện nhiều lần trong những câu nói ở nghiều người, song tùy
cách sử dụng ở những người khác nhau trong từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể mà chúng
tạo ra nhiều câu nói đa dạng, chẳng hạn, có thể có những câu nói sau:
Sao lóng lánh hiện ra, lửa chài lấp lóe, mây bay xa. Xa Xa hiện ra những cánh buồm lóng
lánh. Lửa chài lấp lóe, sao lóng lánh…
Trần Đăng Khoa với trí tưởng tượng bay bổng, với cách dùng từ khéo léo đã tạo ra câu
thơ thú vị:
“Lấp lóe lửa chài - sao hiện ra
Mây bay lóng lánh- cánh buồm xa”
Qua ví dụ trên, ta có thể rút ra nhận xét: Tùy theo từng hoàn cảnh giao tiếp, từng
nội dung thông báo hay thái độ của người nói, cách nói, bằng một số từ và một số quy tắc
ngữ pháp người ta có thể tạo ra nhiều câu nói cụ thể khác nhau. Dù muốn hay không, mỗi
người đều buộc phải sử dụng những đơn vị ngôn ngữ và những quy tắc ngữ pháp chung
để tạo ra những câu nói cụ thể mới có thể làm người khác nghe và hiểu được ý mình.
Những đơn vị và những quy tắc này chính là ngôn ngữ. Nó có tính chất khái quát, có tính
xã hội thống nhất và bắt buộc đối với mọi người trong cùng một cộng đồng sử dụng
chung một ngôn ngữ.

1.1.2. Định nghĩa về ngôn ngữ:
2
Ngôn ngữ là hệ thống các đơn vị (âm vị, hình vị, từ, câu) và những quy tắc kết hợp
các đơn vị này để tạo thành lời nói trong giao tiếp. Những đơn vị ngôn ngữ và các quy tắc
này được phản ánh trong ý thức của cộng đồng và trừu tượng hóa khỏi bất kì một tư
tưởng, một cảm xúc và ước muốn cụ thể nào.
1.2.Khái niệm ngôn ngữ học
Ngôn ngữ học là ngành khoa học nghiên cứu các ngôn ngữ (ngôn ngữ của cả nhân
loại và ngôn ngữ của từng dân tộc) và những hình thức tồn tại sinh động của nó (bao gồm
cả lời nói và hoạt động lời nói).
2. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của ngôn ngữ học
2.1.Đối tượng
Là ngôn ngữ với những quy luật hoạt động và những hình thức tồn tại của nó. Đối
tượng của ngôn ngữ học được cụ thể hóa như sau:
- Đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học là ngôn ngữ.
- Đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học là các dạng của lời nói: Lời nói là một chuỗi
liên tục các đơn vị ngôn ngữ được xây dựng theo những quy tắc nhất định ứng với nhu
cầu biểu hiện những tư tưởng tình cảm của con người.
- Đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học còn là các quy tắc hoạt động của ngôn ngữ.
2.2.Nhiệm vụ
Ngôn ngữ học có hai nhiệm vụ chính là:
- Phải miêu tả và làm lịch sử cho tất cả các ngôn ngữ, các dân tộc mà nó với tới được
(ngôn ngữ học cụ thể).
- Phải tìm ra được các quy luật tác động thường xuyên và phổ biến trong các ngôn ngữ, rút ra
được những quy luật khái quát có thể giải thích được tất cả những hiện tượng cá biệt trong từng
ngôn ngữ (ngôn ngữ học chung)
II.Các ngành nghiên cứu của ngôn ngữ học
1. Ngôn ngữ học đại cương và ngôn ngữ học cụ thể
Ngôn ngữ học phân biệt hai ngành nghiên cứu chủ yếu là ngôn ngữ học đại cương
(miêu tả) và ngôn ngữ học lịch sử. Ngôn ngữ học lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ trong sự

phát triển lịch sử của nó, còn ngôn ngữ học miêu tả nghiên cứu một trạng thái nào đó của
ngôn ngữ.
2. Các mặt nghiên cứu của ngôn ngữ học
Việc nghiên cứu ngôn ngữ có thể đi theo hai hướng khác nhau và nhằm vào hai
mục đích khác nhau: Đồng đại và lịch đại. Nghiên cứu về mặt đồng đại là nghiên cứu nó
ở một thời điểm nhất định, không để ý đến nguồn gốc và sự phát triển lịch sử của nó
3
(ngôn ngữ học miêu tả); Nghiên cứu về mặt lịch đại là nghiên cứu nó trong trạng thái
động, trong sự phát triển lịch sử của nó (ngôn ngữ học lịch sử).
- Ngôn ngữ học miêu tả có nhiệm vụ miêu tả tình trạng của một ngôn ngữ ở một giai
đoạn nào đó, nhằm xác định hệ thống ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp… của nó ở thời điểm
đó.
- Ngôn ngữ học lịch sử nghiên cứu sự phát triển của một ngôn ngữ, nhằm tìm ra những
thay đổi của nó qua các thời đại khác nhau. Mục đích cuối cùng của nó là tìm ra những
quy luật phát triển ngôn ngữ.
3. Các bộ môn của ngôn ngữ học
Ngôn ngữ bao gồm 3 bộ phận chính là ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp trên cơ sở đó
mà hình thành 3 bộ môn ngôn ngữ học là ngữ âm học, từ vựng học và ngữ pháp học.
- Ngữ âm học là bộ môn nghiên cứu mặt âm thanh của ngôn ngữ.
- Từ vựng học: là bộ môn nghiên cứu về hệ thống từ vựng của ngôn ngữ.
- Ngữ pháp học: nghiên cứu hệ thống các phương tiện ngôn ngữ và các quy tắc dùng để
tổ hợp các đơn vị từ vựng thành những đơn vị lớn hơn (cụm từ và câu).
Ngoài ra còn một bộ phận ngôn ngữ học có liên quan đến cả ba bộ phận kể trên đó
là phong cách học. Nhiệm vụ của phong cách học là:
1. Nghiên cứu tất cả các phong cách khác nhau bao gồm cả phong cách cá nhân lẫn
phong cách thể loại
2. Nghiên cứu các quy luật, các thuộc tính biểu cảm của các phương tiện ngôn ngữ cả ở
trong hệ thống lẫn trong quá trình sử dụng ở các phạm vi giao tiếp khác nhau.
III.Vài nét về quá trình hình thành ngôn ngữ học
Cho đến ngày nay, khoa học về ngôn ngữ đã rất phát triển và khá hoàn thiện. Nó

đã trải qua hơn hai thế kỷ phát triển liên tục và không ngừng.
Cần phải nhận thức rằng, lịch sử ngôn ngữ học không tách rời sự phát triển nội tại
của bản thân ngôn ngữ, đồng thời cũng không thể tách rời sự phát triển của các ngành
khoa học khác cũng như sự tiến hoá chung của nhân loại. Mặt khác, trong lịch sử phát
triển của ngôn ngữ học, sự xuất hiện những lý thuyết mới, những giả thuyết mới chính là
hình thức để giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình nghiên cứu mà các thời
kỳ trước đó chưa nhận thức, khám phá được. Do đó, các khuynh hướng, trường phái ngôn
ngữ học ra đời cũng có thể coi là các thành tựu đánh dấu các giai đoạn các thời kỳ trưởng
thành và phát triển của ngôn ngữ học. Sau đây là các giai đoạn chính của lịch sử ngôn
ngữ học:
Thời kỳ ngữ văn cổ đại đến ngôn ngữ học thế kỷ XVIII. Những tài liệu ngôn ngữ
học cổ nhất được tìm thấy ở Ấn Độ, Hy Lạp và Ả rập. Ngôn ngữ học ra đời do những nhu
4
cầu thực tiễn đặt ra trong đời sống con người. Nhìn chung ngôn ngữ học cổ đại gắn liền
với những tìm tòi về triết học và ngữ văn thời cổ đại.
Thời cổ Ấn Độ, Kinh Vệ Đà (vê đa) rất được tôn kính. Ngôn ngữ kinh Vệ Đà là
tiếng Phạn (ngôn ngữ cổ của người Ấn Độ), trừ tiếng Xan – xcrit được coi là thứ ngôn
ngữ thiêng liêng và mẫu mực. Do nó chỉ được dùng trong các buổi tế lễ nên hầu như
không bị biến đổi. Trong khi đó, ngôn ngữ hàng ngày của người dân Ấn Độ(tiếng Ấn) lại
biến đổi không ngừng và liên tục, làm cho những bản kinh Vệ Đà ngày càng trở lên khó
hiểu. Để hiểu được thứ ngôn ngữ linh thiêng đó và để giữ cho các bản kinh Vệ Đà khỏi bị
đọc sai trong các buổi lễ, người ta biên soạn các sách ngữ pháp tiếng Xan-xcrit mà công
trình nổi tiếng nhất là cuốn “Ngữ pháp” của Panini khoảng thế kỷ IV tr.CN, nó miêu tả
một cách khá chính xác và tỷ mỉ về tiếng Xanxcrit cả về ngữ âm và ngữ pháp.
Ở Hy Lạp ngôn ngữ học ra đời do nhu cầu cần bảo tồn và giải thích ngôn ngữ của
các tác phẩm văn học cổ đại lớn là “Iliat” và “Ôdixê”. Sau khi ra đời, cùng với sự xuất
hiện chữ viết và nhu cầu truyền giáo, ngôn ngữ học Hy Lạp được truyền bá rộng rãi ở
châu Âu và sau này nó phát triển thành khuynh hướng “ngữ pháp đại cương và duy lý”
vào thế kỷ XVIII. Cốt lõi của ngôn ngữ Hy Lạp gắn liền với những tìm tòi về triết học
trong các lĩnh vực rộng lớn có tư duy và thực tế. Trong một thời gian khá dài, các nhà

triết học cổ Hy Lạp là Pla ton, A-ri-xtot (384 – 322 tr.CN) đã tranh luận về bản chất của
từ, mối quan hệ của từ với các sự vật và tư tưởng. Về sau môn ngữ pháp học đã dần dần
tách khỏi áp lực của triết học để trở thành một khoa học độc lập với các tác giả như A-rit-
xtot, Đi–ô-ni-xi, A-pô-lô-ni, Đi-xcô-lơ. Sau đó, người la Mã đã cải tiến sớm ngữ pháp
của người Hy Lạp, đem áp dụng vào ngôn ngữ của mình. Và trong một thời gian dài, ngữ
pháp La Mã vẫn được coi là mẫu mực và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến ngữ pháp học thời
trung đại ở Tây Âu.
Người Ả Rập đã tiếp thu được những thành tựu ngữ pháp của người Ấn Độ và Hy
Lạp vào khoảng từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ X sau CN và họ đã mô tả tiếng Ả rập
khá tỷ mỷ, chính xác và hệ thống về ngữ âm,có những tìm tòi đáng chú ý về ngữ pháp,
đặc biệt có nhiều thành tựu về từ điển học.
Đáng tiếc là những thành tựu rực rỡ của ngôn ngữ thời cổ đại nói trên trong suốt
thời kỳ trung đại đã không tiến thêm được bao nhiều bởi hệ giáo lý và triết học kinh viện
suốt thời kỳ trung cổ đã đè nặng lên khoa học nói chung và ngôn ngữ học nói riêng. Phải
đến thế kỷ ánh sáng (từ thế kỷ thứ XV trở đi) ngôn ngữ học mới được phục hưng trở lại.
- Ngôn ngữ học so sánh và triết học ngôn ngữ:
Từ cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX do sự phát triển mạnh mẽ của ngành
hàng hải, thương mại, và kỹ thuật, địa lý thiên văn, vật lý và văn học cùng với việc phát
minh ra máy in, đặc biệt là cùng với các cuộc xâm lược và truyền bá đạo Cơ đốc ra ngoài
phạm vi châu Âu đã buộc người Âu phải tiếp xúc với rất nhìêu ngôn ngữ xa lạ ở châu Á,
5
Phi, Mỹ - la tinh. Nhu cầu thực tế và bức xúc đã buộc ngôn ngữ học thời ấy phải vượt ra
ngoài những sơ đồ hệ thống và quy tắc phổ quát bất biến của ngữ pháp Latin, các nhà bác
học lúc đó đặt ra cho mình những nhiệm vụ thực tiễn là biên soạn các cuốn từ điển và
miêu tả các từ vựng và ngữ pháp của các ngôn ngữ khác nhau. Chính điều ấy đã đặt nền
móng cho ngôn ngữ học so sánh và lịch sử ra đời vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX
với các đại biểu như Phơ-gan-xơ- Bốp (1791 – 1867) người Đức, Rat-mu-xơ Ra-xca
(1787 – 1832) người Đan Mạch, I-a-cốp Grim (1785 – 1863) người Đức, A – le –xan-dr
Va-xto-cop (1781 – 1864) người Nga.
Ngôn ngữ học so sánh lịch sử thừa nhận ngôn ngữ là một trong những bằng chứng

của lịch sử dân tộc, thừa nhận sự biến đổi của ngôn ngữ theo thời gian và lấy phương
pháp lịch sử là phương pháp chủ yếu trong nghiên cứu ngôn ngữ. Nó xác lập và thừa
nhận tính họ hàng của các ngôn ngữ,.Thừa nhận khả năng cũng như sự cần thiết phải
nghiên cứu ngược trở lại quá khứ xa xôi của các ngôn ngữ cho tới tận thời kỳ mà người ta
giả thuyết rằng có một ngôn ngữ nào đó làm cơ sở.
Về sau khuynh hướng ngôn ngữ học so sánh lịch sử xuất hiện một số trường phái
như trường phái tự nhiên, trường phái logic ngữ pháp, trường phái ngữ pháp hình thức,
trường phái tâm lý. Trong đó, trường phái tự nhiên áp dụng học thuyết Đác–uyn vào
ngôn ngữ, coi ngôn ngữ là một biểu hiện đặc tính sinh vật của con người. Trường phái
tâm lý coi ngôn ngữ là một trong những hoạt động tinh thần của con người nên gắn liền
nghiên cứu ngôn ngữ với việc nghiên cứu tâm lý cá nhân, tâm lý dân tộc. Còn trường
phái logic ngữ pháp thì đồng nhất ngôn ngữ với logic, nên chủ trương giải thích cơ cấu
ngữ pháp dựa trên cơ sở giải thích cơ cấu của thao tác tư duy logic, đưa các quy luật của
tư duy áp dụng vào giải thích ngôn ngữ.
- Khuynh hướng ngữ pháp trẻ: xuất hiện vào giữa thế kỷ XIX, goi là ngữ pháp trẻ vì nó
được đề xướng bởi nhà ngôn ngữ học trẻ người Đức là F.Xác-kơ-ne. Phái này chỉ đặc biệt
chú ý tới các sự kiện của hoạt động lời nói với cá nhân và tiếng địa phương, họ chỉ chú ý
tới các sự kiện ngôn ngữ được ghi lại trên các văn bản chứ không tin vào các giải thuyết
phán đoán nhằm phục hồi ngôn ngữ cổ. Ngữ pháp trẻ nghiên cứu các sự kiện ngôn ngữ
một cách rời rạc, riêng lẻ theo kiểu nguyên tử luận.
- Ngôn ngữ xã hội học: xuất hiện đầu thế kỹ XX với những người đứng đầu là F.de
Saussure (1857 – 1913) An–toan Mây–ê (1866 – 1936, Giô – dep Van-dri-et (1875 –
1960). Khuynh hướng này coi ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội, thừa nhận sự tác động
của xã hội đối với sự tồn tại và phát triển của ngôn ngữ, coi trọng việc nghiên cứu sinh
ngữ và các tiếng địa phương.
- Ngôn ngữ học cấu trúc: là khuynh hướng ngôn ngữ mạnh nhất từ đầu thế kỷ XX kéo dài
cho tới tận ngày nay. Xuất phát điểm là từ học thuyết của F.de Saussure được trình bày
trong cuốn “Giáo trình ngôn ngữ học đại cương” của Ông. Tư tưởng cơ bản của trạng thái
6
cấu trúc là coi ngôn ngữ như một kết cấu, một chỉnh thể toàn vẹn, chặt chẽ của các yếu tố

có quan hệ quy định lẫn nhau. Nhiệm vụ hàng đầu của ngôn ngữ học cấu trúc là nghiên
cứu chính bản thân hệ thống - cấu trúc ngôn ngữ, mà quan trọng nhất là các mối quan hệ
giữa các yếu tố ngôn ngữ. Muốn vậy, ngôn ngữ học cấu trúc phân biệt rạch ròi ngôn ngữ
lời nói, yếu tố bên trong và bên ngoài ngôn ngữ, đồng đại và lịch đại, thể chất và cấu trúc
nhằm tách ra chỉnh thể cấu trúc của hệ thống ngôn ngữ. Nhiều phương pháp nghiên cứu
mới và độc đáo đã được áp dụng như: phân tích thành thành tố trực tiếp, phép phân bố,
phép độc lập, phép thay thế…. đồng thời vận dụng cả thành tựu của khoa học chính xác
khác. Ngày nay ngôn ngữ học cấu trúc xuất hiện thêm các khuynh hướng mới nữa như
nhân chủng học – ngôn ngữ, ngôn ngữ khu vực, tâm lý ngôn ngữ.
- Ngôn ngữ học văn bản: ngôn ngữ học văn bản thực chất mới xuất hiện vào khoảng
những năm 60 lại đây nhưng có sức mạnh nhất từ trường phái ngôn ngữ học Pra-ha và
ngôn ngữ học chức năng. Ngôn ngữ học văn bản lấy hoạt động ngôn ngữ làm phục vụ
mục đích giao tiếp làm đối tượng khảo sát nghiên cứu cũng là mục đích hướng tới. Để đạt
mục đích ấy, ngôn ngữ học văn bản vượt khỏi giới hạn câu của ngôn ngữ học cấu trúc để
nghiên cứu các đơn vị trên câu nhằm tạo thành chỉnh thể giao tiếp trọn vẹn. Tuy mới ra
đời nhưng ngữ pháp văn bản đã đạt được những thành tựu rực rỡ, mở ra những chân trời
rộng lớn cho nghiên cứu và ứng dụng ngôn ngữ mà những lý luận trước đó đã bộ lộ nhiều
hạn chế tưởng chừng như không thể vượt qua nổi.
Câu hỏi ôn tập
1. Đối tượng và nhiệm vụ của ngôn ngữ học là gì?
2. Phân biệt ngôn ngữ học đại cương và ngôn ngữ học cụ thể. Hãy kể tên các ngành
nghiên cứu của ngôn ngữ học.
3. Nêu sự hiểu biết về quá trình hình thành ngôn ngữ học?
__________________________________________________________________
7
Chương II
NGỮ ÂM VÀ CHỮ VIẾT
Chương này tập trung tìm hiểu về các vấn đề: Khái niệm ngữ âm, các đơn vị ngữ
âm (âm tố, âm vị), sự biến đổi ngữ âm; Khái niệm chữ viết và các kiểu chữ viết.
A. Ngữ âm

Ngữ âm được hiểu là mặt âm thanh của ngôn ngữ đó là âm thanh tiếng nói của con
người. Đây chính là mặt thể chất (chất liệu) của ngôn ngữ.
Ngữ âm tồn tại dưới tác dụng: 1. Sóng âm do sự chấn động của không khí từ
miệng người nói lan truyền đến tai của người nghe; 2. Hình ảnh của âm thanh tiềm tàng
trong đầu óc người sử dụng ngôn ngữ khi suy nghĩ hoặc khi đọc thầm; 3. Hình ảnh của
âm thanh được ghi lại bằng một loạt ký hiệu tượng hình là chữ viết.
I.Âm tố
1. Âm tố- đơn vị nhỏ nhất của ngữ âm
Đặc tính của âm thanh ngôn ngữ là có tính phân tiết. Tức là, trong một chuỗi lời
nói, người ta có thể phân chia được chúng thành những đơn vị nhỏ hơn. Bước đầu tiên
của sự phân chia đó, ta được các âm tiết. Chẳng hạn: Quân đội nhân dân có 4 âm tiết.
Tuy nhiên, về mặt thính giác, người ta thấy ngay rằng trong một âm tiết cũng có
thể thấy ngay nó bao gồm những yếu tố không đồng nhất, không cùng độ cao, không
cùng độ dài, âm sắc… Nhờ đặc điểm ấy, người ta có thể tiếp tục chia âm tiết thành những
đơn vị nhỏ nhất, tận cùng của sự phân chia. Chẳng hạn âm tiết “hoá” có thể phân chia ra
được bốn yếu tố nhỏ nhất khác nhau là h, o, a và thanh sắc. Về mặt cấu âm, người ta cũng
thấy rằng các yếu tố nói trên được cấu tạo tại các vị trí cấu âm khác nhau theo những
cách thức khác nhau. Mỗi yếu tố tận cùng cùa sự phân tiết trong chuỗi lời nói như vậy
được gọi là một âm tố.
Vậy âm tố là một đơn vị thuộc bình diện lời nói, nó là đơn vị cấu âm – thính
giác nhỏ nhất của chuỗi lời nói trong quá trình phân tiết.
Người ta dùng ký hiệu chữ cái La tinh đặt trong móc vuông để ghi lại âm tố. Ví dụ: [a].
2. Các đặc trưng chung của âm tố
2.1. Các đặc trưng âm học (mặt vật lý của ngữ âm)
Âm thanh ngôn ngữ cũng giống như các âm thanh khác trong thế giới quanh ta, về mặt
bản chất vật chất đều là những sóng âm lan truyền trong một môi trường nhất định (chủ
yếu là không khí).Những thuộc tính âm học sau đây là những đại lượng thường được
khảo sát khi nghiên cứu ngữ âm.
8
2.1.1. Cao độ:

Cao độ là độ cao thấp của âm và được đo bằng đơn vị gọi là tần số dao động của
âm thanh. Tần số là những chu kỳ giao động của sóng âm được thực hiện trong một giây.
Tần số lớn thì giọng phát ra cao và ngược lại. Đơn vị đo tần số là Hz (Hertez). Nhìn
chung giọng của phụ nữ và trẻ em có tần số cao hơn nam giới nên âm thanh cũng bổng
hơn, còn âm thanh tiếng nói của nam giới thì trầm hơn và đục hơn. Nhưng dù bổng hay
trầm, trong hay đục thì độ lớn cũng ở trong phạm vi từ 26 – 2500Hz thì tai người mới
nghe được.
Ngôn ngữ học phân biệt cao độ tương đối và cao độ tuyệt đối. Sự khác nhau về
cao độ của giọng nói giữa người này với người khác, giữa các cá nhân với nhau gọi là cao
độ tuyệt đối; điều này hoàn toàn không có ý nghĩa gì vì nó không tạo ra một giá trị khu
biệt nào cả. Ngôn ngữ học chỉ quan tâm tới cao độ tương đối, tức là sự khác nhau về cao
độ giữa các bộ phận, các đơn vị ngữ âm, bởi lẽ chính điều đó mới tạo nên sự phân biệt
giữa các đơn vị ấy với nhau và mới tạo ra sự khu biệt về ý nghĩa của các đơn vị ngữ âm.
Cao độ tương đối cũng là yếu tố cơ bản để tạo ra những hiện tượng ngữ âm thanh điệu,
ngữ điệu và trọng âm.
2.1.2. Cường độ:
Cường độ là độ mạnh yếu của âm thanh, yếu tố quyết định cường độ lời nói là độ
chấn động (độ rung) mạnh hay yếu của dây thanh. Đơn vị đo cường độ là dB (decibel).
Cũng như cao độ, trong ngữ âm học thì cường độ tương đối mới là điều quan trọng, nó là
yếu tố cùng với độ cao tương đối tạo nên các hiện tượng ngữ âm như thanh điệu, ngữ
điệu trọng âm nói trên.
2.1.3. Trường độ:
Còn gọi là độ dài ngắn của âm. Trường độ của các âm tạo nên sự tương phản giữa
các bộ phận khác nhau của lời nói. Nó là cơ sở để tạo nên hiện tượng đối lập giữa nguyên
âm với phụ âm, hoặc giữa các nguyên âm với nhau, giữa các phụ âm với nhau. Đồng thời
trường độ cũng là một yếu tố cơ bản cùng với cường độ, cao độ, âm sắc tạo nên hiện
tượng ngữ điệu, trọng âm của lời nói.
2.1.4. Âm sắc:
Âm sắc là sắc thái riêng của âm thanh, âm thanh lời nói cũng giống như mọi âm
thanh khác trong tự nhiên, là một phức hợp âm thanh bao gồm một âm trầm nhất được

gọi là âm cơ bản và một loạt âm cao hơn bao quanh nó được gọi là hoạ âm. Chính mối
tương quan giữa âm cơ bản và các âm cao hơn (hoạ âm) về mặt cao độ và cường độ sẽ
tạo nên những âm khác nhau của âm. Trong giọng nói của con người âm được tạo nên
bởi sự rung động hoặc sự căng lên của dây thanh phát ra từ cổ họng gọi là âm cơ bản. Khi
đi qua các khoang cấu âm, một mặt nó được các khoang cấu âm cộng hưởng cho to lên,
9
mặt khác sự cộng hưởng của miệng, mũi cũng tạo ra các hoạ âm. Do sự khác nhau về hoạ
âm mà âm sắc của các âm cũng có sự khác nhau.
Nhìn chung âm cơ bản trong giọng nói của mọi người gần giống nhau nhưng do
hộp cộng hưởng và cấu trúc các bộ phận cấu âm trong khoang cộng hưởng của mỗi người
có khác nhau mà âm sắc giọng nói của người này cũng khác người kia. Có thể so sánh âm
sắc giọng nói của các cá nhân với âm thanh tiếng đàn. Mọi loại đàn đều có 6 nốt nhạc cơ
bản là: đồ, rê, mi, pha, son, la, xi nhưng do chất liệu và cấu trúc hộp cộng hưởng của các
loại đàn khác nhau mà âm sắc của chúng cũng khác nhau.
2.2. Các đặc trưng cấu âm (mặt sinh lý của ngữ âm)
Vì âm thanh tiếng nói là do con người phát ra nên nó không chỉ được nghiên cứu
từ các đặc trưng âm học mà nó còn được nghiên cứu từ những đặc trưng cấu âm, tức là
các đặc trưng sinh lý học nhằm chỉ ra các cơ chế cấu tạo đối với các bộ phận âm thanh
khác nhau của lời nói. Dưới đây là một số vấn đề có liên quan đến phương diện nghiên
cứu này.
Bộ máy phát âm của con người:
2.2.1. Dây thanh: Đó là hai cơ mỏng nằm song song nhau theo chiều dọc của thanh hầu
nằm trong phía trên khí quản. Thanh hầu được cấu tạo bằng một hộp sụn nhô ra phía
trước (người Châu Âu gọi là quả táo ông Ađam và người Lào gọi là Cổ ốc). Dây thanh
khi mở ra, khép lại hay căng nên đều tạo ra sóng âm. Đây là bộ phận cấu âm đầu tiên biến
luồng hơi từ phổi thành âm thanh tiếng nói.
2.2.2. Các khoang cộng hưởng phía trên thanh hầu: Bao gồm các khoang như: khoang
yết hầu và phần tiếp giáp với thanh hầu, khoang miệng và khoang mũi, giữa khoang
miệng và khoang mũi ngăn cách nhau bởi vòm miệng gọi là ngạc. Ngạc chia làm 3 bộ
phận: phía trước gần răng gọi là ngạc cứng, phía gần họng gọi là ngạc mềm, phía giữa

trên vòm họng đựơc gọi là mạc. Khoang yết hầu ngăn cách với khoang miệng bởi tiểu
thiệt còn gọi là nắp họng. Mỗi lần dao động, dây thanh tạo ra một âm cơ bản với một âm
sắc tương ứng với các khoang cộng hưởng ở phía trên. Trong mỗi khoang cộng hưởng có
các bộ phận cấu âm khác nhau góp phần làm thay đổi các hoạ âm. Đây là cơ sở để miêu
tả đối với các nguyên âm và phụ âm.
1.Môi trên 9. Môi dưới
2. Răng cửa hàm trên 10. Răng cửa hàm dưới
3. Lợi 11. Đầu lưỡi
4. Ngạc cứng 12. Mặt lưỡi
5. Khoang mũi 13. Gốc lưỡi
6. Khoang miệng 14. Yết hầu
7. Ngạc mềm 15. Nắp họng
8. Lưỡi con 16. Dây thanh
10
- Các kiểu tạo âm:
+ Xét theo luồng hơi có 3 kiểu tạo âm:
1. Kiểu tạo âm lấy nguồn hơi từ phổi là kiểu tạo âm phổ biến và quen thuộc trong nhiều
ngôn ngữ, trong đó có tiếng Việt, ở kiểu tạo âm này, những phụ âm tắc như [b], [d]…
gọi là “âm nổ” để phân biệt với phụ âm tắc trong các kiểu tạo âm khác không sử dụng
nguồn hơi ở phổi.
2. Kiểu dùng nguồn hơi ở họng chỉ gặp ở một số ít ngôn ngữ. ở kiểu này có 2 trường
hợp: Một là: khi khe thanh hay thanh môn đóng lại, khối không khí ở phía trên thanh
môn được đẩy ra ngoài nhưng bị chặn lại ở một vị trí nào đó (chẳng hạn ở môi hoặc ở
răng, hoặc giữa đầu lưỡi và lợi) làm cho không khí ở đó tăng lên đến mức phải phá vỡ sự
cản trở ấy tạo thành tiếng bật mạnh gọi là âm bật. Người ta dùng ký hiệu dấu “ ’” đặt ở
phía trên, sau ký hiệu ghi âm để ghi âm bật. Ví dụ: [t’], [k’] . Hai là thanh môn không
đóng hẳn mà khi đó thanh hầu hạ xuống thấp xuống làm cho không khí ở họng không đi
ra mà lại đi vào. Những âm được tạo ra theo kiểu này gọi là âm đóng và người ta dùng
ký hiệu là một móc vòng phía trên đầu ký hiệu ghi âm. Ví dụ: [b] [d] là âm [b] đóng và
âm [d] đóng.

3. Kiểu phát âm lấy luồng hơi từ vòm họng (mạc) là kiểu rất phổ biến, chỉ thấy ở một số
ngôn ngữ thổ dân châu Phi. Kiểu này giống như người Việt chậc lưỡi miễn cưỡng hoặc
gọi gà. Âm tạo ra theo cách này gọi là âm mút. Ký hiệu dùng để ghi lại âm mút này là
chữ ‘t’ lộn ngược, còn âm mút ngạc là chữ ‘e’ hoa vuông [e].
+ Xét theo sự khép mở của dây thanh: Khi phát âm, hai dây thanh khép vào mở ra dưới
sự điều khiển của hai sụn hình chóp. Nếu khi hai dây thanh khép vào mở ra liên tục thì
sẽ tạo ra các âm gọi là hữu thanh. Còn khi hai dây thanh căng lên thanh môn mở rộng,
không khí đi ra tự do thì sẽ tạo ra các âm không có chút thanh nào mà chỉ có tiếng động,
được gọi là âm vô thanh. Còn khi thanh môn mở không rộng lắm, hai dây thanh tuy căng
ở xa nhau nhưng có một chút rung động nhẹ, ta sẽ được một phụ âm giọng mở hoặc
tiếng thì thào, ký hiệu là một dấu ngang đặt trên ký hiệu ghi âm ví dụ [h-]. Trong trường
hợp hai sụn hình chóp giáp lại kẹt chặt lấy dây thanh, làm cho dây thanh chỉ rung động
được ở một phía bên kia thanh âm, âm dược tạo ra trong trường hợp này gọi là âm giọng
kẹt và người ta dùng ký hiệu là dấu phảy đặt trước ký hiệu ghi âm của âm đó. Ví dụ [‘y].
II. Phân loại âm tố
1. Phân biệt nguyên âm và phụ âm
Khi quan sát các âm tố trong chuỗi lời nói, người ta thấy rằng mỗi âm tố có những
đặc trưng về mặt cấu âm và thính giác (âm học) khác nhau. Chẳng hạn trường đo độ dài
hay ngắn, âm được phát ra theo phương thức tắc hay sát hoặc rung, vị trí cấu âm của âm
đó là ở bộ phận nào trên bộ máy phát âm. Dựa trên các cơ sở về cấu âm và âm học như
11
vậy, người ta quy các âm tố về hai loại là nguyên âm và phụ âm. Có thể thấy được sự
khác nhau giữa các âm tố nguyên âm và các âm tố phụ âm qua bảng so sánh sau đây:
Nguyên âm
Phụ âm
- Khi phát âm hai dây thanh căng đều,
nắp họng mở ra, luồng hơi đi ra tự do
không bị cản trở bởi bất kỳ bộ phận nào
trên các khoang cộng hưởng nên được
gọi là nguyên âm.

- Sau khi chấn động của dây thanh nắp
họng đóng lại, luồng hơi từ đó thoát
mạnh ra ngoài và bị cản trở ở khoang
cấu âm, bị các bộ phận cấu âm chặn lại.
Âm tạo ra chủ yếu do sức đẩy của
không khí thắng sự cản trở nói trên nên
gọi là phụ âm.
- Do luồng hơi đi ra tự do nên cường độ
của âm yếu. Khi phát âm, toàn thể cơ
quan phát âm đều căng lên.
- Do luồng hơi đi ra bị cản trở nên để
thoát được ra ngoài ở vị trí cấu âu phải
tạo ra một lực mạnh thắng được sự cản
trở ấy. Do vậy mà cường độ của âm
mạnh, cơ quan cấu âm căng cục bộ.
- Các tiêu chí cấu âm được xét là độ mở
miệng (rộng hay hẹp) hình dáng của
môi (tròn hay không tròn) độ nâng cảu
lưỡi (cao hay thấp) vì khi phát âm
không khí đi ra tự do nên không xác
định được các điểm cấu âm cụ thể.
- Các tiêu chí cấu âm được xét chủ yếu
là tại các điểm không khí bị cản trở,
điểm đó được gọi là các vị trí cấu âm và
các âm tạo ra sẽ được gọi tên theo các
vị trí cấu âm đó như: môi- môi, đầu lưỡi
– răng, đầu lưỡi - ngạc
2. Miêu tả nguyên âm
- Cơ sở và các tiêu chuẩn: Để phân biệt được các nguyên âm, đương nhiên là không thể
căn cứ vào vị trí cấu âm (vì luồng hơi không bị cản trở tại bất kỳ vị trí cấu âm nào) mà

phải căn cứ vào âm sắc của chúng, âm sắc của nguyên âm lại phụ thuộc vào các khoang
cộng hưởng. Vì thế, miêu tả các nguyên âm để xác định chúng thực chất là miêu tả các
khoang cộng hưởng, xem với mỗi nguyên âm thì các khoang cộng hưởng khác nhau ra
sao.
Các khoang cộng hưởng được miêu tả với 3 tiêu chuẩn:
1. Độ mở của miệng: có 4 mức là rộng, hơi rộng, hơi hẹp và hẹp.
2. Vị trí của lưỡi ở phhía trước hay thụt về phía sau: có ba vị trí của lưỡi là: hàng
trước, hang giữa, hàng sau.
3.Hình dáng của môi: tròn môi hay không tròn môi (dẹt). Ba tiểu chuẩn đó là cần
và đủ để xác định khả năng cộng hưởng của mỗi khoang rỗng (khoang miệng) vì nó nói
lên được thể tích, hình dáng và lối thoát không khí của khoang cộng hưởng đó.
12
- Hình thang nguyên âm quốc tế: Tất cả các nguyên âm được miêu tả theo ba tiêu
chuẩn trên đây đều là các âm chuẩn hay là các nguyên âm tiêu biểu. Người ta dùng một
loại biểu đồ có thể miêu tả và trình bày tất cả các nguyên âm chuẩn của một ngôn ngữ
nào đó, gọi là sơ đồ hình thang nguyên âm quốc tế. sơ đồ này được xây dựng với những
quy ước sau:
+ Ba vạch đứng từ trái qua phải là 3 hàng nguyên âm: trước, giữa, sau
+ Bên trái mỗi vạch đứng dành để ghi các nguyên âm không tròn môi. Bên phải các
nguyên âm tròn môi.
+ Trên mỗi vạch đứng từ trên xuống dành để ghi các nguyên âm theo độ mở của miệng
với 4 mức từ hẹp đến rộng.
- Ký hiệu phiên âm đối với một số nguyên âm chuẩn tiêu biểu,
Để ghi lại lời nói người ta dùng chữ viết, song có những thứ tiếng lại không ghi âm trực
tiếp mà sử dụng loại chữ ghi ý (như chữ Trung Quốc) hoặc có loại chữ ghi âm nhưng ghi
cả âm tiết nên những chữ viết ấy không thể ghi lại chính các âm thanh của ngôn ngữ ấy.
Mặt khác, ngay trong các loại văn tự ghi âm tố thì quan hệ giữa âm và chữ cũng có nhiều
trường hợp không nhất quán, thường có những hiện tượng xảy ra như sau: Hoặc là một
chữ ghi nhiều âm như chữ a của tiếng Anh ghi cả những âm [a] dài và âm [a] ngắn thậm
chí có thể ghi tới 8 âm: a, c, â, ơ,… Hoặc là một âm nhưng lại dược ghi bằng nhiều con

chữ như trong tiếng Việt, một âm [k] được ghi bằng 3 con chữ khác nhau: k, c, q. Do đó,
để có một hệ thống ký hiệu thống nhất dùng trong mọi trường hợp, ghi lại mọi âm trong
các ngôn ngữ khác nhau. Hội ngữ âm học quốc tế đã đề nghị mộ bộ ký hiệu phiên âm.
Các ký hiệu phiên âm trong hệ thống này phần lớn giống với các chữ cái Latinh nhưng
đôi khi cũng có thay đổi chút ít như chữ cái bị đảo ngược, ví dụ chữ ‘c’ đổi thành chữ ‘c’
lộn ngước về bên trái để để ghi âm ‘o’ dùng ‘∂’ để ghi âm ‘â’ có trường hợp dùng thêm
chữ cái Hy Lạp như “ép – xi-lon” “ε” để ghi âm “e” hoặc sử dụng triệt để các dạng khác
nhau của cùng một chữ cái để ghi các âm khác nhau như A, a, hoặc a viết thường và a
viết thường lộn ngược để ghi các dạng nguyên âm [a]. Ngoài ra người ta còn dùng thêm
một số dấu phụ như : [~] dùng để ghi nguyên âm bị mã hoá
Dưới đây là một số nguyên âm chuẩn thường gặp:
[i]: trong ‘đi’ tiếng Việt “Seat” [si:i] (chỗ ngồi) tiếng Anh; “Si” [si] (nên) tiếng Pháp
[I] trong “Sit” [sit] (ngồi, động từ) tiếng Anh
[e] trong ‘bê’ tiếng Việt , ‘bed’ (giường) tiếng Anh, fee (fe) (tiếc) tiếng Pháp
[ε ] trong ‘xe’ tiếng Việt, fête [fεt ] (tết) tiếng Pháp
[A ] a hàng sau như trong “an” tiếng Việt, “hard” [ha:d] (cứng) tiếng Anh
[ ] a hàng trước như trong “qua” tiếng Việt, “patte” [pat] (chân) tiếng Pháp
[o] a tròn môi gần như o trong “hot” [hot] (nóng) tiếng Anh, “dog’’ [dog] (chó) tiếng
Anh.
13
[o] trong “cô” tiếng Việt “mode” [mod] (mốt) tiếng Pháp
[u] không tròn môi hơi mở hơn bình thường như “good” [gu:d] (tốt) tiếng Anh.
[Y] tròn môi như “tu” [tY] (mày, anh) tiếng Pháp
[oe] tương ứng với [ε ] nh ưng dẹt hơn
[^] trong ‘but’ [b^t ] (nh ưng) tiếng anh
[∂] trong ‘m ở c ờ’’ tiếng Việt
Ngoài ra còn có một số ký hiệu ghi bán nguyên âm. Bán nguyên âm những nguyên âm
không ở đỉnh âm tiết, khi phát âm thường bị lướt đi vào tiếng xát nhẹ. Để ghi những âm
ấy, người ta dùng 3 ký hiệu là [j] [w] [Y] [j] trong tiếng Việt khi đứng sau nguyên âm
chính: ‘đa” [daj] trong tiếng Anh khi đứng trước nguyên âm chính như “yes” [jes] (vâng)

trong tiếng Pháp cũng vậy: “pied” [Pje] (bàn chân).
[w] nhưng dẹt hơn gần như “uy” tiếng Việt hoặc như “we” [wi] chúng tôi trong tiếng
Anh, “oui” [wwi] (vâng) trong tiếng Pháp “oan” (wan) trong tiếng Việt.
[Y] nhưng chỉ có trong tiếng Pháp như “nyit” (đêm)
*Các nguyên âm đôi: Khi hai nguyên âm đứng với nhau mà không có âm nào bị đọc
lướt đi mà có xu hướng hoà thành tổ hợp để tạo thành âm tiết chung thì gọi là nguyên âm
đôi là “ươ-ưa” “uô-ua”, “iê-ia” trong tiếng Anh có cặp “ow” trong How [hau] (sao thế,
nào). Nhưng cũng có những ngôn ngữ không có hiện tượng nguyên âm đôi nói trên.
3. Miêu tả phụ âm
3.1. Cơ sở và tiêu chuẩn: Các phụ âm được cấu tạo do sự cản trở không khí trên lối thoát
của nó. Có nhiều cách cản trở khác nhau gọi là các phương thức cấu âm, còn cản trở ở vị
trí nào của bộ máy phát âm thì được gọi là vị trí cấu âm. Do đó, miêu tả phụ âm tức là
xác định phụ âm theo 2 tiêu chuẩn: phương thức cấu âm và vị trí cấu âm.
Về phương thức cấu âm thì có 3 phương thức: tắc, xát, rung.
Về vị trí cấu âm thì nếu tính từ ngoài vào trong có các nhóm phụ âm: môi –
môi, môi – răng, đầu lưỡi – răng, đầu lưỡi - lợi, đầu lưỡi - ngạc, quặt lưỡi, mặt lưỡi, ngạc
cứng, âm yết hầu, âm thanh hầu….
3.2. Các ký hiệu phụ âm: Theo phương thức tắc, có các phụ âm thuộc các nhóm sau:
+ Phụ âm tắc điển hình [b, d, p,k,t], (b, đ, p, k, q, c, t)
+ Phụ âm tắc bật hơi: [t’, p’, k’] (th, ph, kh)
+ Phụ âm tắc mũi: [m, n] (m, n)
+ Phụ âm tắc xát: [t’] (ch)
3.2.1 Theo phương thức xát: Khi phát âm, luồng hơi không bị cản trở hoàn toàn mà
nách qua một khe hở hẹp do hai bộ phận cấu âm tạo ra và cọ sát với thành cửa khe hẹp đó
mà tạo ra tiếng xát hay âm xát. Có 2 nhóm:
+ Phụ âm xát điển hình ờ, v, z, s, t’] (ph, v, d, r, s, th)
14
+ Phụ âm xát bên: [I] (i)
3.2.2. Theo vị trí cấu âm có các nhóm phụ âm sau:
+ Hai môi: [b, p,m]

+ Môi răng: [f, v]
+ Giữa răng: đầu lưỡi để giữa răng cửa hàm trên và hàm dưới [η]
+ Đầu lưỡi – răng: đầu lưỡi và răng của hàm trên [t, d] vô thanh
+ Đầu lưỡi - lợi: [t,d, s, z, n]
+ Quặt lưỡi: [tr, s]
+ Đầu lưỡi ngạc cứng: [k, p]
+ Gốc lưỡi: [h]
3.2.3. Cấu âm bổ sung: Những phụ âm miêu tả trên đây là những phụ âm điển hình và bị
cô lập khỏi hoàn cảnh ngữ âm cụ thể. Nhưng trong thực tế lời nói thì hầu như không có
hiện tượng cô lập hoàn toàn như vậy nên ngoài những đặc trưng cấu âm vốn có, chúng
còn mang thêm những cách cấu âm khác nữa gọi là cấu âm bổ sung hoặc cấu âm phụ. Có
4 loại cấu âm phụ quan trọng như sau:
+ Ngạc hoá: là hiện tượng lưỡi nâng cao thêm một chút khi phát âm so với trường hợp
bình thường. Ký hiệu là thêm vào chữ “j” bên trên ký hiệu phiên âm chính. Ví dụ [K
j
]
+ Môi hoá: là hiện tượng thêm vào tính chất tròn môi so với bình thường. Ký hiệu: thêm
vào bên trên ký hiệu phiên âm chữ “o” hoặc “w” như: [t
w
] hoặc [t
o
]
+ Mạc hoá” : là hiện tượng khi phát âm lưỡi thích về phái mạc hơn so với bình thường.
Khi ghi âm thường dùng thêm dấu ngã vào phía trên ký hiệu phiên âm. Ví dụ “milk”
[mĩlk] (sữa)
+ Yết hầu hoá: Là hiện tượng thêm vào động tác co yết hầu so với bình thường. Ký hiệu
thêm dấu “α”bên ký hiệu phiên âm như [m
α
]
III. Âm vị và biến thế âm vị

1. Âm vị
Khi phân tích âm tố, đơn vị cấu âm – thính giác nhỏ nhất, người ta xác nhận được
các đại lượng đặc trưng về âm học và cấu âm tiêu biểu của từng âm. Đó là những đặc
trưng thoả đáng mà nhờ nó, không những có thể phân biệt được về ý nghĩa của các đơn vị
ngôn ngữ do chúng tạo nên mà còn phân biệt được các âm tố với nhau trong cùng một
chuỗi âm thanh. Chẳng hạn [t] có các đặc trưng: tắc, không bật hơi, đầu lưỡi - lợi có thể
phân biệt với [t’] có các đặc trưng: tắt, bật hơi, đầu lưỡi - lợi. Đó là các đặc trưng có tính
bắt buộc ở mỗi lần phát âm. Mọi lần hát âm [t] đều phải theo phương thức tắc, không bật
hơi và đặt đầu lưỡi vào lợi hàm trên. Tổng thể các đặc trưng thoả đáng xuất hiện đồng
thời trong tất cả moi lần phát âm được gọi là âm vị. Ký hiệu âm vị là âm tố đặt trong hai
vạch chéo. Ví dụ /t/
15
Martinet định nghĩa âm vị như sau: “âm vị là một tổng thể các đặc trưng thoả
đáng xuất hiện đồng thời dùng cho mọi lần phát âm.
Âm vị là tổng thể các nét khu biệt được thể hiện đồng thời của cùng một loại âm tố
và có chức năng phân biệt các đơn vị ngôn ngữ
Như vậy, âm vị là một đơn vị trừu tượng, làm cơ sở cho mọi lần phát âm. Trong việc
sản sinh ra lời nói phục vụ giao tiếp, mỗi lần phát âm là một âm vị được thực hiện hoá
thành âm tố. Các âm tố này trên thực tế không hoàn toàn giống hệt nhau trong tất cả các
lần phát âm. Mọi người không thể đặt lưỡi, để môi,mở miệng hay khép miệng y như
nhau. Ngay trong một cá nhân thì mọi lần phát âm cũng không thể giống nhau hoàn toàn.
Do đó, mỗi lần phát âm sẽ tạo ra một biến thể của âm vị. Biến thể đó chính là các âm tố,
là sự hiện thực hoá của âm vị trong mỗi lần phát âm. Như thế, một âm vị sẽ có thể có vô
số các âm tố, tức là có vô số các biến thể.
Nếu đối lập ngôn ngữ và lời nói thì có thể coi âm vị thuộc bình diện ngôn ngữ, còn âm tố
thuộc bình diện lời nói.
2. Biến thể âm vị
Trong số các biến thế của âm vị, người ta chia ra biến thế tự do và biến thế bắt
buộc:
+ Biến thể tự do là những biến thể do cách thể hiện âm vị của mỗi cá nhân. Mỗi

người có một cách phát âm riêng, phụ thuộc vào bộ máy cấu âm của chính người đó và
rất nhiều yếu tố khác nữa.
+ Còn biến thể bắt buộc là những biến thể do bối cảnh ngữ âm quy định và còn
được gọi là biến thể kết hợp. chẳng hạn [t] khi đi kèm với một nguyên âm tròn môi nên
nó cũng bị tròn môi hoá thành [t
0
] ví dụ trong từ two trong tiếng Anh, từ tu, to trong
tiếng Việt. Tuy nhiên, nói biến thể tự do cũng không phải là tự do hoàn toàn mà chỉ được
tự do trong khuôn khổ xã hội chấp nhận được. Mỗi các nhân có thể phát âm theo cách của
mình trong một phạm vi nào đó, quá phạm vi đó sẽ bị coi là sai. Chẳng hạn, nếu một
người Việt phát âm [d] thành [t] như kiểu đồng chí thành tổng chí thì sẽ bị coi là sai;
nhưng lời lẽ thành nhời nhẽ lại có thể chấp nhận được. Trong vô vàn các biến thể, một
cộng đồng ngôn ngữ bao giờ cũng lấy những biến thể trong một phạm vi nào đó và coi là
chuẩn và chấp nhận được. Người học ngoại ngữ cần biết điều này để tránh hai thái cực:
hoặc là quá câu nệ phải bắt chước cho kỳ được giọng nói của người bản ngữ (điều này tốt
nhưng không thật cần thiết bởi vì cho dù giọng đó có hay đến bao nhiêu cũng chỉ là một
dạng biến thể mà thôi); hoặc phát âm tuỳ tiện, không chịu rèn luyện những cách phát âm
cơ bản và hợp với quy định, tạo ra một giọng ngoại lai không được người bản ngữ chấp
nhận.
IV. Âm vị siêu đoạn tính
16
1. Âm vị đoạn tính và âm vị siêu đoạn tính
Khi phát âm một âm tiết, nếu theo dõi trên trục thời gian tuyến tính thì sẽ thấy, trong
một âm tiết thường xảy ra hai loại sự kiện. Một loại sự kiện có thể phân đoạn được về
mặt thính giác và cấu âm theo trình tự thời gian như các nguyên âm và phụ âm. Người ta
gọi loại sự kiện này là sự kiện đoạn tính, chẳng hạn khi phát âm “nhân” thì rõ ràng các
nguyên âm và phụ âm phải lần lượt được xuất hiện theo trình tự nh – a – n. Loại sự kiện
thứ hai không thể phân biệt được về cấu âm và thính giác trên trục trình tự thời gian như
ngữ điệu, thanh điệu, trọng âm, và chúng được gọi là các sự kiện siêu đoạn tính.
2. Âm tiết

2.1. Vấn đề định nghĩa âm tiết: Âm tiết là một đơn vị phát âm nhỏ nhất, mỗi âm tiết
tương đương với một lần phát âm. Tuy thế định nghĩa về âm tiết lại thật không đơn giản.
Nguyên nhân là định nghĩa đó khó có thể thích ứng với tất cả các ngôn ngữ được. Vì thế
chỉ có thể chấp nhận các định nghĩa khác nhau tuỳ theo đặc điểm của một nhóm ngôn
ngữ nào đó. Sau đây là một số cách định nghĩa.
2.1.1. Định nghĩa theo chức năng: Âm tiết là một đoạn âm thanh được cấu tạo bởi một
hạt nhân là nguyên âm, ngoài ra còn có thể có các phụ âm bao quanh. Theo cách định
nghĩa này, tên gọi nguyên âm là có ngụ ý chỉ một loại âm mà tự nó có thể làm âm tiết
được hoặc làm hạt nhân trọng tâm của âm tiết. Còn phụ âm là loại âm phải kết hợp với
các nguyên âm khác thì mới có thể tạo thành âm tiết được. Đây là cách quan niệm âm tiết
và gọi tên âm tiết theo chức năng. Cách này chỉ phù hợp với các ngôn ngữ đơn lập là loại
ngôn ngữ có cấu trúc âm tiết theo kiểu VC, CVC, CV, V+ thanh điện (C=phụ âm, V=
nguyên âm) như tiếng Việt, tiếng Hán. Còn ở một số ngôn ngữ khác, tình hình không
phải đúng như vậy. Bởi ở các ngôn ngữ đó, không phải nguyên âm mà phụ âm đóng vai
trò hạt nhân âm tiết. Chẳng hạn trong tiếng Tiệp: ‘vek’ [vlk] (chó sói) hoặc trong tiếng
Anh “bottle” [botl] (cái chai) thì các phụ âm như b, l, t đóng vi trò hạt nhân âm tiết. Do
đó, quan niệm âm tiết theo chức năng cũng không thể phổ quát cho mọi ngôn ngữ được.
2.1.2. Định nghĩa theo độ vang: Ol-to-Jes-per-sen nhận thấy rằng, các âm tạo thành âm
tiết có xu hướng tập hợp theo độ vang lớn nhất mà trong đại đa số các trường hợp độ
vang lớn nhất của âm tiết là nguyên âm, chỉ có một số trường hợp là phụ âm. Theo sự
quan sát của ông, các âm được ông sắp xếp theo độ vang từ thấp đến cao là:
Với phụ âm: Tắc vô thanh - tắc hữu thanh – xát – mũi – rung phân được về mặt thính giác
và cấu âm theo trình tự thời gian như các nguyên âm và phụ âm. Người ta gọi loại sự kiện
này là các sự kiện đoạn tính chẳng hạn khi phát âm “nhân” thì rõ ràng cá nguyên âm và
phụ âm phải lần lượt được xuất hiện theo trình tự nh –a - n Loại sự kiện thứ hai không thể
phân biệt được về cấu âm và thính giác trên trục trình tự thời gian như ngữ điệu, thanh
điệu, trọng âm, và chúng được gọi là các sự kiện siêu đoạn tính.
17
Học thuyết này tỏ ra phù hợp trong phần lớn các trường hợp, tuy thế có nhiều trường hợp
cũng không hoàn toàn thật chính xác. Chẳng hạn, âm tiết ‘ p–rin-zm” (lăng kính) có [m]

là phụ âm cuối mà lại có độ vang cao hơn z [s] đi trên nó thành ra âm tiết này có 2 đỉnh
về độ vang. Vì vậy nên theo định nghĩa trên, nó phải có 2 âm tiết. Tương tự như vậy
“spa” vốn là một âm tiết nhưng có 2 đỉnh về độ vang, nếu theo định nghĩa nó phải là 2 âm
tiết.
2.1.3. Định nghĩa theo độ căng cơ: Đây là cách định nghĩa dựa trên cơ sở sinh lý học do
M.Gam – mtrt, P,Fou-ché và L.V Sher-ba chủ trương. Quan điểm này cho rằng khi phát
âm bao giờ cũng có hiện tượng các cơ căng ở đầu âm tiết và chùng với cuối âm tiết. Định
nghĩa này đạt được tính phổ quát cao nhất và được chứng minh bằng các thành tựu của
lĩnh vực âm học. Song khó khăn là ở chỗ, khi vận dụng vào các trường hợp nghiên cứu
cụ thể, việc sử dụng các máy móc chính xác để theo dõi độ căng, cùng của các cơ là hết
sức khó khăn và không phổ biến rộng rãi, không đơn giản và tiện lợi được.
2.2. Phân loại âm tiết: âm tiết thường được phân loại theo kết thúc âm tiết. Âm tiết được
kết thúc bằng nguyên âm được gọi là âm tiết mở. Ví dụ: ta, cha, sơ hử, đê mê… âm tiết
được kết thúc bằng phụ âm gọi là âm tiết khép. Ví dụ: bát, bác
3. Ngôn điệu và các loại âm vị siêu đoạn tính
3.1. Ngôn điệu
Trong các ngôn ngữ có những hiện tượng ngữ âm không được thể hiện riêng rẽ
trên tuyến thời gian mà được thể hiện đồng thời với các hiện tượng ngữ âm khác. (âm
tiết, cụm âm tiết ) và do đó không thể xác định được khoảng thời gian kéo dài của chúng
như là những khúc đoạn trên dòng thời gian. Người ta gọi chung đây là những hiện tượng
ngôn điệu.
Các hiện tượng ngôn điệu có thể được dùng để khu biệt các đơn vị ngôn ngữ và
khi ấy chúng sẽ được coi là những âm vị, tức là những âm vị siêu đoạn tính.
3.2. Các loại âm vị siêu đoạn tính
3.2.1. Thanh điệu:
Thanh điệu là yếu tố tạo ra sự thay đổi cao độ của giọng nói trong một âm tiết và có
tác dụng phân biệt nghĩa của âm tiết. chẳng hạn “ma”/”mà”
Số lượng thanh điệu ở mỗi ngôn ngữ không giống nhau. Ví dụ tiếng Việt có 6 thanh,
tiếng Hán 4 thanh, tiếng Lào 6 thanh.
3.2.2. Trọng âm

Trọng âm là một biện pháp ngữ âm nhấn mạnh cường độ âm vào một bộ phận âm tiết
hoặc ,một bộ phận của từ. Trọng âm có chức năng khu biệt nghĩa và chức năng phân giới
về mặt hình thức giữa các đơn vị lời nói. Ví dụ về chức năng phân biệt nghĩa như trong
tiếng Anh.
‘import’ đọc: [‘imp:t] sự nhập khẩu (danh từ)

×