SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO …
TRƯỜNG THPT …
TÂM TRẠNG BI KỊCH CỦA NHÀ THƠ TRUNG ĐẠI
GIAI ĐOẠN NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX QUA BA TÁC PHẨM
“Thu điếu” (Nguyễn Khuyến), “Thương vợ” (Tú Xương), “Sa
hành đoản ca” (Cao Bá Quát).
Người thực hiện: …
…
1
1. Lý do chọn đề tài
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Thời trung đại là một phạm trù được tính từ khi nước nhà giành độc lập ở
cuối thế kỷ X cho đến hết thế kỷ XIX, thời kỳ này còn gọi là thời kỳ phong kiến.
Thời trung đại là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của văn hóa Đại Việt suốt mười
thế kỷ. Trong đó văn học là một thành tố vô cùng quan trọng tạo nên diện mạo
văn hóa dân tộc. Nói tới văn học nước nhà, chúng ta không thể không nhắc tới
chủ thể sáng tạo của nền thơ ca rực rỡ đó: Văn học nhà nho.
Một trong những đặc trưng thi pháp văn học trung đại là tính quy phạm và
việc phá vỡ tính quy phạm. Một mặt các tác giả tuân thủ những mẫu phạm có
tính chuẩn mực mặt khác luôn có ý thức phá vỡ tính quy phạm để bộc lộ cá tính,
giải phóng cảm xúc, ghi dấu ấn phong cách cá nhân đậm nét. Thời trung đại ý
thức cá nhân, cá thể chưa có điều kiện phát triển. Người viết văn có một kho
điển cố, thi liệu, văn liệu chung, cũng là những hình ảnh, những ngôn từ ước lệ
phi ngã Tất cả đều có nguồn gốc ở kho văn chương cổ Trung Hoa mà người
viết văn, làm thơ cũng như người đọc văn, đọc thơ phải thông thạo.
Tuy nhiên, văn học chân chính thời nào cũng có và ở thời nào nó cũng là
hoạt động sáng tạo, nghĩa là chống công thức và chống phi ngã. Sức sáng tạo
của dân tộc kết tinh ở những cây bút lớn, ở thời nào cũng có cách khẳng định tư
tưởng, cá tính và tài nghệ độc đáo của mình.
Nhìn vào thực tế giảng dạy trong chương trình Ngữ Văn THPT ta dễ nhận ra:
Thứ nhất: Thời lượng dành cho phần văn học trung đại khá lớn: Lớp10:
19 tiết, lớp 11: 21 tiết.
Thứ hai: Phần thơ trữ tình trung đại với những cây bút một mặt tuân thủ
tính quy phạm, mặt khác lại phá vỡ tính quy phạm, tạo nên một luồng gió nhân
văn chủ nghĩa đề cao chất trần tục, trần thế của hạnh phúc, đi sâu vào khám phá
tâm hồn của con người như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn
Khuyến, Tú Xương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát … là chủ yếu.
Thứ ba: Văn học trung đại Việt Nam là văn học nhà nho với chế độ quân
chủ chuyên chế độc đoán đã xuất hiện ở những thế hệ nhà nho chính thống đầu
tiên như Chu Văn An rồi tới Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Tú
Xương, Cao Bá Quát… Đó là tấn bi kịch của cuộc xung đột giữa lý tưởng và
hiện thực. Và ở từng giai đoạn khác nhau, trong mỗi trường hợp cụ thể tấn bi
2
kịch của nhà nho lại có nét riêng biệt: Với Nguyễn Trãi đầy ảo tưởng, với
Nguyễn Du và Cao Bá Quát là những nhà nho tỉnh mộng, Nguyễn Khuyến còn
lo “thẹn với ông Đào” thì với Tú Xương là cả sự bế tắc và bất lực. Chính bi kịch
đó tạo nên những giá trị chủ yếu trong tác phẩm với cá tính sáng tạo riêng.
Ở
phạm vi cũng như mục đích của đề tài, chúng tôi chỉ đề cập tới ba
tác
giả
với ba văn bản trong chương trình THPT: Cao Bá Quát với Sa hành đoản ca,
Nguyễn Khuyến với Thu điếu và Tú Xương với Thương vợ. Soi rọi tấn bi kịch
của nhà thơ để thấy được điểm chung cũng như nét riêng, từ đó giúp giáo viên
cũng như học sinh chiếm lĩnh văn bản thấu đáo hơn, khai thác sâu hơn giá trị cơ
bản đích thực. Bởi xét đến cùng, trong thơ trữ tình, nhân vật trữ tình xuất hiện để
bộc lộ nỗi niềm trước cuộc sống . Đó là con người mang hình thức vô danh, tự
bộc lộ mình bằng cảm xúc, ý nghĩ, cái nhìn bằng thế giới nội cảm.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 11 - THPT (lớp học sinh trình độ đại
trà)
- Chương trình SGK, SGV Ngữ Văn THPT và tài liệu tham khảo.
- Phạm vi nghiên cứu: Thơ trữ tình trung đại: Cụ thể: Tiết 6: Câu cá mùa
thu (Nguyễn Khuyến); Tiết 9,10: Thương vợ (Trần Tế Xương); Tiết 14,15: Bài
ca ngắn đi trên bãi cát (Cao Bá Quát) của chương trình ngữ văn THPT lớp 11.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
- Thơ là tiếng nói độc bạch. Bởi vậy đọc thơ trữ tình trung đại cũng chính
là để hiểu hồn người nhưng thơ trung đại lại độc bạch trong tính quy phạm và
những nhà thơ tài năng đã phá vỡ tính quy phạm để bộc lộ tâm hồn.
- Đây là những nhà thơ tài hoa, có những tư tưởng lớn, khát vọng lớn.
- Hiểu được tâm hồn của người làm thơ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã thực hiện các phương pháp sau:
Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh – đối chiếu, phương pháp thống
kê, phương pháp khảo sát, phương pháp thực nghiệm và phương pháp tổng hợp.
5. Giả thiết khoa học và dự báo về những đóng góp mới của đề tài
- Từ trước đến nay dạy văn học trung đại người dạy luôn tuân thủ cấu trúc
thể loại nhưng những cây bút có tài năng luôn phá vỡ cấu trúc đó
để
biểu
hiện
tâm trạng. Người viết đã phá vỡ những giới hạn để bộc lộ
tâm
trạng
của mình
bởi trữ tình là độc bạch. Nếu dạy như xưa nay thì học sinh cũng khó để thấy
được sự phá vỡ tính quy phạm trực tiếp bộc lộ cái tôi của những nhà thơ có tài
năng, đặc biệt ở ba tác giả: Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Cao Bá Quát. Khi
chúng tôi thể nghiệm qua giờ dạy thì thấy rằng học sinh đã đọc và tranh luận với
chính bản thân mình. Giờ học sôi nổi, mở hơn.
3
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
1. Cơ sở lý luận
Tác giả theo nghĩa chung nhất là người sản xuất ra các sản phẩm của sáng
tạo trí tuệ, của tình cảm. Tác giả văn học chỉ chủ thể của các sáng tác văn học,
người sáng tạo ra những giá trị văn học. Tác giả là phạm trù quan trọng để xác
định diện mạo đặc sắc cho sự tiến triển của một quá trình văn học. Ứng với mỗi
thời kỳ văn học có một kiểu tác giả sáng tạo ra những giá trị tiêu biểu cho thời
kỳ ấy. Từ lâu các nhà nghiên cứu đã thống nhất nhận diện thời trung đại có ba
loại hình tác giả tiêu biểu. Đó là loại hình nhà nho hành đạo, loại hình nhà nho ở
ẩn và loại hình nhà nho tài tử.
Việt Nam không phải nơi phát tích của một trong ba học thuyết Nho giáo,
Phật giáo, Đạo giáo, càng không phải là nơi một trong ba học thuyết trên phát
triển đến đỉnh cao như Nho, Lão ở Trung Quốc, Phật giáo ở Nhật Bản. Nhưng
hơn bất cứ học thuyết nào trong tam giáo, Nho giáo có vai trò ảnh hưởng quyết
định đến lịch sử văn học Việt Nam cũng như một số nền văn học khác trong khu
vực: Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên. … Nền văn học viết Việt Nam bắt đầu
hình thành và phát triển liên tục từ cuối thế kỷ X-XIV, lực lượng sác tác văn học
chủ yếu là các nhà sư. Sau đó Nho giáo dần dần chiếm ưu thế và đạt tới mức
toàn thịnh ở thế kỷ XV.
Ở
vị trí ý thức hệ chính thống, Nho giáo chi phối
sâu
sắc
tới văn học nghệ thuật trên nhiều mặt và qua nhiều nhân tố khác
nhau.
“Tất
cả làm hình thành trong lịch sử cả vùng một loại hình văn sỹ, văn nghệ, một
loại hình văn học nghệ thuật viết cùng những thể loại, theo cùng một quan niệm
văn học, cùng những tiêu chuẩn về cái đẹp nghệ thuật” (Trần Đình Hượu).
Văn học nhà nho là phần chủ yếu của văn học viết Việt Nam thời trung đại.
Khái niệm này cũng để chỉ văn học do nhà nho viết dưới ảnh hưởng của quan
niệm Nho giáo. Mọi người đều biết , nhà nho đi học ra làm quan. Ra hành đạo
làm quan không đơn giản chỉ làm những công việc giấy tờ, hành chính sự vụ mà
còn đem hiểu biết về văn hóa, chính trị giảng giải, khuyên bảo, can gián người
lãnh đạo, trước hết là vua chúa. Nhà nho bao giờ cũng chủ trương nhập thế, chủ
trương lối sống có trách nhiệm với xã hội Vũ trụ nội mạc phi phận sự (Những
việc trong vũ trụ không việc gì không là phận sự - Nguyễn Công Trứ). Nhà nho
luôn quan sát, trăn trở, suy tư về cuộc sống xã hội, với những vấn đề mà cuộc
sống gợi ra. Và khi đứng trước những thay đổi sơn hà, thời cuộc nhiễu nhương
4
vua không ra vua, bề tôi chẳng ra bề tôi thì giấc mộng múa kiếm dưới trăng vỡ
òa. Vì thế nỗi đau ngấm ngầm về sự bơ vơ, mất phương hướng càng thêm chua
chát ngậm ngùi.
Bi kịch của những nhà nho trước hết là tấn bi kịch của cuộc xung đột giữa
lý tưởng và hiện thực. Và ta đã chứng kiến trong lịch sử những thế hệ nhà nho
để bảo vệ văn hóa của Nho giáo thậm chí đã phải chết để kết thúc tấn bi kịch đó.
Có những nhà nho đã tìm lối thoát khác, một phương thức hữu hiệu khác, trở về
với thiên nhiên trong sạch cao khiết (như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Khuyến…) Và ở trong từng giai đoạn khác nhau tấn bi kịch của nhà nho
lại có nét riêng biệt.
Vấn đề này đã được một số nhà nghiên cứu như Trần Đình Hượu,Trần
Ngọc Vương…bàn tới trong những chuyên sâu của mình, ở đây chúng tôi muốn
nhắc lại về loại hình nhà nho để thấy được tình huống lưỡng nan trong tâm hồn
nhà nho - bi kịch sâu sắc trong tâm hồn mỗi nhà nho làm nên những giá trị chủ
yếu trong thơ trữ tình trung đại.
Tác giả nhà nho có ba dạng thức: nhà nho hành đạo, nhà nho ẩn dật, nhà
nho tài tử.
Nói tới nhà nho hành đạo, chúng ta nghĩ ngay tới kiểu mẫu nhà nho học
chữ thánh hiền, tích cực nhập thế với lý tưởng trí quân trạch dân, phò vua giúp
đời. Nhà nho hành đạo sống đúng với lý tưởng Tu thân - Tề gia - Trị quốc -
Bình thiên hạ. Họ sống theo đúng chuẩn mực của đạo lý nhà nho. Trong thơ ca,
nhà nho hành đạo thường để lại cho đời thể tài ngôn chí vô cùng độc đáo và giàu
tính nhân văn.
Ở
đó con người bổn phận, trách nhiệm của cá nhân với sơn
hà
xã
tắc được đề cao thành lý tưởng sống. Tư tưởng ấy sẽ khích lệ, cổ vũ kẻ sỹ lập
công và ghi danh để trả món nợ công danh với vua với nước.
Loại hình nhà nho ở ẩn là những con người xuất thân từ cửa Khổng sân
Trình thời trẻ cũng theo đuổi nghiệp đèn sách nhưng gặp thời loạn lạc, kỷ cương
đổ nát họ chủ động từ bỏ chốn quan trường về ở ẩn theo triết lý lánh đục về
trong để bảo toàn khí tiết thanh cao của một nhà nho trọng danh dự. Nhà nho ở
ẩn từ bỏ giấc mơ tham chính là để vui thú điền viên, tìm chốn non kỳ thủy tú,
sống hòa mình với tự nhiên. Và chính nơi đây hồn thơ cất cánh và để lại cho hậu
thế mảng thơ điền viên rất độc đáo. Mọi quy phạm, công thức của thơ cổ điển ít
nhiều bị hiện thực cuộc sống hóa giải. Mảng thơ điền viên đã ghi lại những bức
tranh phong cảnh hữu tình, những vần thơ thiên nhiên thanh nhã.
Nếu nhà nho ở ẩn đứng trước sự lựa chọn xuất - xử, hành - tàng đã quyết
5
định cách cáo lui theo minh triết bản thân thì nhà nho tài tử sinh ra trong thời
buổi lý tưởng của nhà nho bị phá sản, mọi giềng mối bị rối loạn, nhà nho không
còn biết tin cậy vào đâu, họ chỉ còn trông vào cái tài và nhân cách của mình. Và
kẻ sỹ thời kỳ này chỉ còn biết dựa vào điểm tựa ấy để tồn tại, ứng xử với đời.
Trong thơ ca trung đại, bên cạnh kiểu con người bổn phận, con người an phận ta
bắt gặp con người ý thức cá nhân bắt đầu xuất hiện. Họ cậy vào tài năng và nhân
cách hơn đời của mình để tự xếp mình đứng cao hơn thế nhân. Chính kiểu nhà
nho này mang tới cho văn học dân tộc ở giai đoạn cuối của xã hội phong kiến
kiểu tác giả thị tài và đa tình vô cùng độc đáo. Làm nên một trào lưu văn học
nhân đạo với thể tài thi duyên tình rất hấp dẫn. Chính loại hình tác giả này là chủ
thể thúc đẩy quá trình phá vỡ tính quy phạm của thơ ca cổ điển tích cực nhất
nhằm giải phóng cảm xúc, bộc lộ cá tính và cuối cùng là thúc đẩy văn học dân
tộc tiếp cận với văn học hiện đại phương tây.
Việc phân loại trên là một thao tác cần thiết để nhận diện ra đặc trưng
phong phú của thơ ca trung đại, làm nên diện mạo một nền văn học trung đại rực
rỡ trong tiến trình lịch sử văn học nước nhà. Đây là tiến trình một đi không trở
lại nhưng mãi mãi ghi dấu ấn sâu sắc trong đời sống tâm hồn dân tộc. Bởi xét
đến cùng lịch sử văn học dân tộc là lịch sử tâm hồn dân tộc.
2. Cơ sở thực tiễn
Hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản văn học đòi hỏi người giáo viên có
năng lực thẩm văn tốt, có nghệ thuật sư phạm để tổ chức, dẫn dắt. Bên cạnh đó,
vốn tri thức văn học sử vững vàng và cách đọc liên văn bản cũng mang yếu tố
quyết định đến việc tạo hứng thú, sức hấp dẫn và khoa học trong giờ dạy văn.
Nếu thiếu đi cái nhìn liên văn bản, tri thức văn hóa học, người dạy rất dễ rơi vào
tình trạng “thấy cây nhưng không thấy rừng”, không nhận ra dòng chảy liên tục
của văn hóa trong đó có văn học. Người dạy thiếu đi một cái nhìn tham chiếu, so
sánh. Hoặc giả có so sánh thì rơi vào tư duy so sánh hơn kém, một lối tư duy tối
kị trong dạy văn. Trên thực trạng chung đó, chúng tôi đề xuất hướng tiếp cận
dưới cái nhìn tham chiếu với mục đích vừa nhận ra cái độc đáo, riêng biệt của
mỗi phong cách tác giả đồng thời thấy được sự gặp gỡ, thống nhất ở một loại
hình tác giả, một thời kì văn học. Nhất là văn học trung đại, một loại hình có sự
gián cách về thời gian lịch sử và văn hóa đối với học sinh hiện nay và ít nhiều
đối với giáo viên. Xuất phát từ thực tiễn đó chúng tôi lựa chọn cách tiếp cận tâm
trạng bi kịch của nhà thơ trung đại giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX qua ba tác
phẩm nhằm tạo hứng thú học văn và rèn kĩ năng sống cho học sinh trong giờ đọc
văn. Bởi xét đến cùng văn học là nhân học và lịch sử văn học dân tộc là lịch sử
6
tâm hồn dân tộc.
II. Tâm trạng bi kịch của nhà thơ trung đại giai đoạn nửa cuối thế kỉ
XIX qua ba tác phẩm “Thu điếu”, “Thương vợ”, “Sa hành đoản ca”.
1. Thu điếu (Nguyễn Khuyến)
Cùng nằm trong chùm thơ thu được đánh giá là tam tuyệt nhưng Thu điếu
có nét đặc sắc riêng về thể hiện cảnh thu và sự tương hợp giữa cảnh và tình. Đó
là sự cộng hưởng giữa mối sầu ủ sẵn trong cảnh và niềm cô đơn ẩn sâu trong
lòng người.
Là nhà thơ của làng quê Việt Nam, gần suốt đời mình ông gắn bó với thôn
quê, hòa hợp và thấu hiểu mảnh đất quê nhà. Vì thế, cảnh vật làng quê trong thơ
ông hiện lên chân thực và giản dị. Đọc Thu điếu ta đã như được đắm mình vào
một không gian thu của vùng tác giả. Sự giàu có những hình ảnh, chi tiết gợi tả
đầy tính hiện thực trong bài thơ cho ta ấn tượng đó.
Nét riêng của hồn quê Bắc Bộ, cái hồn dân dã được gợi lên từ khung ao
hẹp, từ cánh bèo, từ ngõ trúc quanh co. Không khí mùa thu được gợi lên từ sự
dịu nhẹ, thanh sơ của cảnh vật.
Ở
màu sắc: nước trong veo, sóng biếc,
trời
xanh
ngắt.
Ở
đường nét, sự chuyển động: sóng hơi gợn tý, lá vàng khẽ đưa vèo, tầng
mây lơ
lửng.
Ở
sự hòa sắc tạo hình: cái thú vị của bài Thu điếu
là
ở
các điệu
xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu
vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi (Xuân Diệu).
Ở
đây, tất cả sự vật được
nhắc tới đều xứng hợp với nhau, như tuân theo một trật tự: ao thu nhỏ nên
thuyền câu bé, gió nhẹ nên sóng gợn tý: Trời xanh nên nước thêm trong; khách
vắng teo nên người ngồi câu cũng trầm ngâm yên lặng; đặc biệt mảng màu xanh
của nước, của tre hòa hợp với màu xanh của trời.
Cảnh vật được miêu tả ở bài thơ nổi bật nhất với đặc điểm trong và tĩnh. Ao
nước trong có thể nhìn thấy đáy (trong veo). Sóng biếc phản chiếu màu mây trời,
màu cây cối. Trời ít mây nên càng nổi bật màu xanh ngắt. Bên cạnh phạm trù
trong là thuộc tính tĩnh: mặt ao lặng (lạnh lẽo), sóng hơi gợn (gợn tý), gió khẽ
đưa lá vàng, khách vắng teo, tiếng cá đớp động nghe như có như không, càng
làm tăng sự yên ắng, tịch mịch của cảnh vật.
Đến với Thu điếu là đến với vẻ đẹp của cảnh thu gần gũi, thân thuộc cho
mùa thu làng cảnh Việt Nam vùng đồng bằng Bắc Bộ. Đến với Thu điếu là đến
với cõi lòng ẩn kín đầy tâm sự của thi nhân qua mọi yếu tố cấu thành của bài
thơ: từ ngữ, vần, nhịp, sự đối xứng, hòa thanh, phối sắc. Đến với Thu điếu không
7
phải đến với câu chuyện câu cá bởi phải chăng đó chỉ là cái cớ để mượn cảnh
nói tình theo lối đề vịnh.
Nói câu cá nhưng thực ra là để đón nhận trời thu, cảnh thu vào cõi lòng.
Một cõi lòng yên tĩnh, vắng lặng, một tâm trạng u hoài. Cõi lòng đó được thể
hiện qua sự cảm nhận độ trong veo của nước, của sóng, của lá, của trời, âm
thanh của cá… Đặc biệt tâm sự của người viết được bộc lộ qua các từ láy: lạnh
lẽo, tẻo teo, lơ lửng và cả vần eo tử vận tài tình. Từ lạnh lẽo không chỉ nói về
khí lạnh tỏa ra từ mặt nước cùng vẻ hiu hắt của cảnh vật mà còn gợi nghĩ đến cái
gì như là nỗi u uẩn trong lòng nhà thơ. Tẻo teo vừa miêu tả kích thước bé tý của
chiếc thuyền câu lại vừa góp phần đưa đến cho người đọc suy nghĩ: mọi sự vật
như đang cố thu mình lại để không làm ảnh hưởng tới không khí trầm mặc mà
nhân vật trữ tình muốn có. Cùng với từ lơ lửng đã diễn tả tài tình trạng thái phân
thân hay mơ màng của người ngồi câu giữa ao thu lặng. Và nét vẽ quanh co -
một mặt tạo hình được sự ngoắt ngoéo của ngõ xóm hút sâu vào màu xanh tre
trúc, mặt khác đem đến cho chúng ta ít nhiều liên tưởng về tình trạng không
thông thoát của những ý nghĩ đang làm cho tác giả phải muộn phiền. Đặc biệt
vần eo một loại “tử vận” oái oăm, khó làm được thi nhân sử dụng một cách thần
tình, góp phần diễn tả một không gian thu nhỏ, phù hợp với tâm trạng đầy uẩn
khúc của thi nhân.
Nói Thu điếu nhưng xem ra nhân vật trữ tình không mấy quan tâm đến
chuyện câu cá. Nhà thơ nếu không chăm chú dõi nhìn cảnh sắc mùa thu thì cũng
dễ hút hồn vào cái màu xanh thăm thẳm của bầu trời. Cho đến khi:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Nhà thơ trở về với việc câu cá một cách hờ hững. Bởi vậy nên dù với ý cá
đâu có đớp động dưới chân bèo hay cá đâu như đang đớp động dưới chân bèo thì
cũng đều thấy rõ tâm trạng không phân định đâu là hư, đâu là thực, thấy rõ nhân
vật trữ tình không quan tâm gì đến việc câu cá.
Thực ra nghịch lý trên không có gì khó hiểu. Trong văn thơ truyền thống
lấy việc câu cá để từ chối việc làm quan, coi câu cá là việc câu người, câu
quạnh, câu lười như trong thơ của Bạch Cư Dị, thơ của Lục Du (đời Tống), hay
như Nguyễn Trãi: Thương ta lâu nay bị cái mũ nhà nho làm hỏng việc. Vốn ta là
người chỉ ưa cày nhàn câu quạnh thôi (Ta dư cửu bị nho quan ngộ. Bản thị canh
nhàn điếu tịch nhân – Đề canh ẩn đường của Từ Trọng Phủ).
Rõ ràng việc câu cá trong bài thơ là một cái cớ nghệ thuật. Câu cá mà
8
không cần được cá, câu cá mà ở tư thế bất động thế kia khác nào ngư ông từ bao
thế kỷ trước hiện về, hiện về trong tâm thế hoài cổ đến xa xăm để tìm lại cái gì
nơi quá vãng. Con thuyền trên chiếc ao thu đã dẫn tâm linh nhà thơ tới cái niềm
nguồn cội với bao nhiêu thao thức tủi hờn. Tâm sự, tâm trạng của một nhà nho
khí tiết, nó chỉ nhẹ như tiếng đớp động dưới chân bèo của con cá kia thôi mà
vọng vào tâm tưởng như một khúc đoạn trường thăm thẳm, mênh mông giữa trời
thu cao rộng ngút ngàn. Tính đa nghĩa, đa tầng, sự hàm súc của văn chương với
tài năng của nhà thơ cho ta một định nghĩa đích thực: văn chính là người.
Như vậy song song với việc cảm thụ vẻ đẹp tươi trong có phần quạnh quẽ
của cảnh vật, người đọc đã thực sự thấu hiểu niềm tâm trạng riêng của thi nhân.
Tâm trạng u hoài là yếu tố thứ nhất khiến nhà thơ tìm tới biểu hiện và bộc lộ
một cách trọn vẹn trong Thu điếu. Vậy tại sao tác giả lại có tâm trạng ấy? Muốn
lý giải một cách thấu đáo ta phải đặt nó trong chỉnh thể của toàn bộ sáng tác
Nguyễn Khuyến.
Nguyễn Khuyến vốn tiêu biểu cho người nho sỹ thành công trên con đường
học vấn và hoạn lộ trong môi trường đào tạo của chế độ phong kiến. Thế nhưng
khi Nguyễn Khuyến đạt tới đỉnh cao danh vọng - làm đến hàng Tổng Đốc, thì
ông lại quày quả xin cáo quan về ở ẩn. Bi kịch bắt đầu từ đây. Trước hết là tình
thế rối ren trong nội bộ triều đình nhà Nguyễn, tiếp đến Pháp chiếm Hưng
Hòa… Chế độ phong kiến trở thành gánh nặng của lịch sử, không đủ khả năng
đưa đất nước thoát khỏi họa ngoại xâm và nô dịch. Hệ tư tưởng mà nhà nho từng
tôn thờ đã trở nên lỗi thời. Loại hình nhà nho như Nguyễn Khuyến bó tay trước
những đòi hỏi của thời cuộc. Và hơn ai hết, Nguyễn Khuyến ý thức sâu sắc về
tất cả những điều đó. Ông luôn cảm thấy băn khoăn, bứt rứt vì mình không được
làm gì hơn cho đất nước, không đủ dũng khí xả thân nơi hòn tên mũi đạn như
nhiều chí sỹ Cần Vương khác. Nguyễn Khuyến luôn cảm thấy cô độc và sợ mọi
người không hiểu cho mình, coi thường mình. Điều duy nhất mà ông có thể làm
là tỏ thái độ bất hợp tác với kẻ thù dân tộc, lui về quê ở ẩn nhằm giữ gìn tiết
tháo, nhân cách và cũng để quên đi những dằn vặt đớn đau. Nhưng muốn quên
mà không quên được. Hơn thế tại chốn ẩn dật, ông lại phải đối diện với muôn sự
phức tạp của cuộc đời. Không phải khó hiểu khi ta thấy tâm sự buồn, u uẩn, day
dứt chi phối trong sáng tác của Nguyễn Khuyến, dù ông có viết về đề tài nào đi
nữa.
2. Thương vợ (Trần Tế Xương)
Thương yêu, kính trọng vợ là cảm xúc có phần mới mẻ so với những cảm
xúc quen thuộc trong văn học trung đại. Vậy mà Tú Xương đã có hẳn một chùm
9
thơ viết về vợ. Và Thương vợ là một trong những bài thơ xuất sắc nhất. Trong
Thương vợ cũng như nhiều sáng tác khác của Tú Xương viết về bà Tú nhưng
thực ra luôn có sự song hành của hai hình tượng: hình tượng bà Tú được thể
hiện một cách nổi bật trực tiếp và hình tượng ông Tú được khắc họa một cách
gián tiếp nhưng vẫn rất sắc nét, sâu sắc.
Nhìn chung, thơ của Tú xương phức tạp nhưng vẫn thống nhất ở một điểm:
Đó là nỗi đau trước sự đảo ngược giá trị xã hội. Trong khi thơ Nguyễn Khuyến
lựa chọn sự vinh nhục, thì thơ Tú Xương vạch trần hiện thực, xem giá trị nào là
thật, giá trị nào là giả. Vì ở thời Tú Xương - cuối thế kỷ XIX khi bắt đầu xảy ra
sự va chạm giữa xã hội phong kiến và nền văn minh tư sản, dưới ách thống trị
thực dân, cuộc sống tưởng như xây dựng trên nền tảng bất khả xâm phạm, bỗng
nhiên bị phủ định không thương xót, cái tưởng là thiêng liêng, là bất di bất dịch
bỗng trở thành lỗi thời, thảm hại, lố lăng. Mọi giá trị xã hội đều bị đảo lộn dưới
áp lực của đồng tiền và biến đổi kinh tế xã hội. Mọi sự vật đều bị cái giả bao
trùm che đậy. Nỗi bất hạnh của cuộc đời trào ra nên ông thể hiện quan niệm về
con người thông qua nhân vật trữ tình là chính bản thân mình. Và con người
trong thơ Tú Xương là con người bế tắc quay lưng lại với xã hội và bị xã hội đẩy
ra lề.
Cả đời Tú Xương đi tìm chân lý lẽ sống trong thi cử để có danh vọng. Con
đường danh vọng bế tắc nên ông uất ức. Ông tìm lẽ sống trong con đường dạy
học, con đường dạy học làm ông thất vọng. Tìm lẽ sống ở giai tầng nho sĩ thì kẻ
sĩ khoanh tay đứng nhìn, người làm cách mạng, kẻ đào ngũ, người bơ vơ giữa
ngã ba đường như Tú Xương lại không dám vượt rào chắn lịch sử. Cả ba con
đường đi tìm lẽ sống đều bế tắc, ba lý do tồn tại cả đời người đã mất. Tú Xương
quay về gia đình, sào huyệt cuối cùng. Và Thương vợ là tâm tư của một kẻ sống
thừa khi về với gia đình đời thường. Ông ý thức được nỗi đau đó đến tột bậc khi
bày tỏ tình cảm của mình với vợ. Ông đã đi trước Nam Cao nửa thế kỷ đủ nhận
ra cái tận cùng của nỗi đau đời thừa và đã chết mòn trong cuộc đời sống mòn.
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Câu thơ ngắn gọn đã phản ánh cụ thể chi tiết không gian, địa điểm và công
việc làm ăn của bà Tú. Hai từ quanh năm nói lên được nỗi vất vả, tảo tần của bà
Tú triền miên hết ngày này sang ngày khác, tháng này sang tháng khác, năm này
sang năm khác. Vòng quay vô tận của thời gian cùng với sự tăng cấp ý được sử
dụng để diễn tả sự vất vả từ thời gian (quanh năm), nghề nghiệp (buôn thúng
bán mẹt) cho đến không gian địa điểm làm ăn: mom sông.
Mom sông là nơi chênh vênh với ba bề là nước, nó gợi lên sự bất trắc, hiểm
10
nguy. Bởi vậy, hơn ai hết, Tú Xương hiểu rõ mục đích của nỗi vất vả đó nơi
người vợ:
Nuôi đủ năm con với một chồng
Đôi quang gánh cuộc đời trên đôi vai bà Tú thật quá nặng. Và quả thật đây
cũng là sự vô lý, bất công khi gánh nặng gia đình dồn hết lên đôi vai người vợ.
Tú xương đã tách ra làm hai cái gánh nặng gia đình: năm con với một chồng, để
thấy rõ công ơn của bà đối với gia đình và với riêng ông. Nhưng gánh nặng gia
đình dường như nghiêng lệch, trĩu nặng hơn về một bên, phía ông chồng đoảng
dài lưng tốn vải, khiến cho câu thơ cũng như oằn hẳn về phía cuối. Nhà thơ đã
tự hạ mình xuống mức thấp hơn cả con, đứng riêng một bên vì ông là thứ chồng
đặc biệt mà bà Tú phải nuôi. Liên từ với nghe thật buồn, thật hài hước, thật hổ
thẹn và thảm hại. Câu thơ tả thực vì thế chất chứa ý vị tự trào đắng cay, xót xa,
cười ra nước mắt.
Theo quan niệm truyền thống, kẻ làm trai phải để chí ở công danh, sự
nghiệp. Trong xã hội phong kiến ấy có biết bao nhiêu ông quan ăn lương vợ mà
vẫn lên mặt hành hạ vợ con. Thói gia trưởng, sĩ diện khiến mấy ai dám nói thật
cái hoàn cảnh ăn bám vô tích sự của mình. Nhưng đã có một Tú Xương dám bêu
ra trước thiên hạ những kém cỏi, sĩ diện hảo để tôn vinh công lao người vợ, để
sống thật với những cảm xúc, suy nghĩ của chính mình. Hơn ai hết, Tú Xương
nhận thức rõ ràng về sự thừa ra, vô ích của mình. Con người thừa nhỏ bé thảm
hại ấy không ngần ngại tự phủ định mình.
Lòng tri ân với vợ càng được biểu hiện một cách cụ thể ở hai câu thực:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Tác giả dùng biện pháp đảo ngữ, đối lập, nghệ thuật dùng từ láy và đặc biệt
sử dụng kết hợp hai hình ảnh thân thuộc trong dân gian thân em và con cò để lột
tả được cảm giác vừa cô đơn đầy hiểm nguy trong một không gian heo hút, rợn
ngợp vừa khắc khoải côi cút về thời gian của sự vất vả, tảo tần. Thơ Tú Xương
vừa phảng phất ca dao lại vừa rất Đường thi, ý tại ngôn ngoại là ở chỗ này. Cái
cò ở ca dao nỉ non ai oán trong tiếng khóc và dòng lệ, còn bà Tú biết hy sinh nên
chẳng nhiều lời cứ âm thầm lặn lội một mình mình biết, một mình mình hay.
Câu thơ thứ nhất thuộc về vế vô thanh để cho nỗi cô đơn lủi thủi của bà Tú
lặng lẽ in vào ký ức người đọc. Câu thực thứ hai thuộc về vế hữu thanh gợi nên
nỗi nhọc nhằn của bà Tú giữa cái láo nháo của cuộc đời. Tú Xương nhận biết
sâu sắc cái hiện thực phũ phàng đó mà ngày càng xót thương vợ. Bởi vậy, đằng
11
sau mỗi câu chữ là ánh mắt lo âu đầy ăn năn tự vấn của người chồng đang dõi
theo bóng dáng đơn lẻ, côi cút, lam lũ, tảo tần của người vợ trên con đường gập
ghềnh sương gió, giữa thời buổi bon chen và tình đời bạc bẽo.
Nếu ở hai câu đề và hai câu thực tác giả còn đứng ngoài để miêu tả, thì đến
hai câu luận Tú Xương đã nhập thân vào nhân vật để diễn tả một cách chân tình
nỗi niềm sâu kín của bà Tú. Người chồng đầy tình nghĩa này đã phân thân ở
nhiều điểm nhìn khác nhau để nhìn cho thấu, cho hết công lao thầm lặng của
người vợ:
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Ông bà lấy nhau có tới năm mặt con, ông Tú lại là người có tài có tình. Kể
ra cũng là một mối lương duyên “trời” ban. Nhưng duyên thì chỉ một mà nợ thì
những hai. Niềm cay cú của ông đối với việc thi cử và kéo theo đó là cái nghèo
đeo đuổi đã khiến bà phải lăn lộn kiếm sống. Ông Tú tự nhận mình là cái nợ của
đời bà. Ông thương cảm cho bà và tự dằn vặt mình. Tú Xương thương xót cho
bà Tú mà thành dằn vặt thay, vật vã thay. Âu là cam, đành cũng là cam. Nói âu
đành phận là như cam chịu lại là như muốn không cam chịu. Cái ý có vẻ như
ngược chiều nhau này chính là tâm trạng Tú Xương trong thơ khi nghĩ đến cuộc
đời của vợ. Cái sự thật khách quan chua chát và cái tâm trạng chủ quan thương
vợ của ông Tú. Ta thấy xen lẫn trong ý thơ là sự bất lực của chính nhà thơ.
Cái đau của Tú Xương là cái đau bất lực với xã hội, với bản thân. Nỗi đau
tăng dần lên và đạt đến điểm tận cùng ở cuối bài:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không
Câu thơ buột ra tự nhiên như một tiếng chửi nhưng lại ngậm ngùi như một
lời than. Đằng sau tiếng chửi ấy là bi kịch của một con người chất chứa bao
phẫn uất, đau xót và tê tái; là nỗi hổ thẹn và tình yêu thương vô bờ… Bi kịch
của một kẻ sĩ hết thời, mất phương hướng trong cuộc đời và đó còn là bi kịch
thân phận. Rõ ràng ở đây đã thể hiện sự thức nhận của một con người biết vượt
lên khỏi hạn chế của tầng lớp và thời đại mình để cảm thương với những kiếp
người quanh mình. Vì vậy, lời chửi ấy không chỉ để dành trách mình mà còn để
chửi đời, chửi cả cái xã hội lố lăng đã sinh ra cái thứ chồng hờ hững. Chính cái
xã hội thực dân nửa phong kiến ấy đã đẻ ra thói đời bạc bẽo, những kẻ hợm hĩnh
sống trên lưng người khác, xã hội ấy đã đẩy một Tú Xương tài hoa vào bước
đường cùng, khiến người vợ vốn con gái nhà dòng phải vất vả, cực khổ. Ý nghĩa
12
tố cáo xã hội trở nên nổi bật ở kết bài và man mác toàn bài, nóng hổi hơi thở
thời đại.Thương vợ mà cũng là thương hại cho chính mình.
Trong thơ trữ tình, nhân vật trữ tình xuất hiện để bộc lộ nỗi niềm trước
cuộc sống. Đó là con người mang hình thức vô danh, tự bộc lộ mình bằng cảm
xúc, ý nghĩ, cái nhìn bằng chính thế giới nội cảm. Như vậy, phải chăng bà Tú
cũng là phương tiện văn học để nhân vật trữ tình ông Tú bộc lộ cõi lòng của
mình, tình cảm của mình và cả nỗi đau của mình. “Không tỏ ra bằng khóc thì tỏ
ra bằng cười, trước nhất là cười mình, chửi mình”. Bài thơ kết thúc độc đáo, bất
ngờ thấm đẫm cái bi, cái bất hạnh, cái cay đắng và cả chút hài hước… Bao nhiêu
là cung bậc tình cảm của cuộc đời hiển hiện trong những câu thơ giản dị, khiêm
nhường, tự nhiên ấy.
3. “Sa hành đoản ca” – Bài ca ngắn đi trên bãi cát (Cao
Bá
Quát)
Sa hành đoản ca là một bài ca ngắn nhưng ở đó lại chứa những suy tư có
tầm vóc, thể hiện cái tâm lớn, khí phách lớn và cả sự bế tắc lớn của một nhân
cách cao cả.
Bài thơ mở ra với một không gian và thời gian đặc biệt: Bãi cát dài rồi lại
bãi cát dài, rộng lớn, mờ mịt vì trời đã về chiều, mặt trời đã lặn, nắng đã tắt.
Trên hành trình vạn dặm ấy xuất hiện hình ảnh một con người dấn thân mà mỗi
bước chân đều bị lún xuống cát, cho nên hễ tiến một bước lại phải lùi lại một
bước.
Trường sa phục trường sa
Nhất bộ nhất hồi khước
Ngay từ đầu bài thơ đã sử dụng điệp âm, và điệp âm được đặt trong cách
ngắt nhịp 2/3 liên tiếp ở câu thơ năm chữ. Sự phối hợp thanh điệu bằng trắc với
việc đặt thanh trắc ngắt ở giữa câu đã mô phỏng được hình tượng con đường đầy
trắc trở, gập ghềnh với những bước chân người đi luôn bị kéo giật lại. Hai câu thơ
tiếp theo cũng trập trùng thanh trắc: Nhật nhập hành vị dĩ Khách tử lệ giao lạc.
Giữa không gian mênh mông hoang vắng ấy, thật dễ hiểu vì sao những giọt
nước mắt của người lữ khách lại lã chã tuôn rơi. Kẻ đồng hành duy nhất là mặt
trời thì đã lặn; chỉ còn có nỗi cô đơn và bóng tối mịt mùng bủa vây lấy người đi
đường.
Hình ảnh bãi cát dài và hình ảnh người đi trên bãi cát có thể là kết quả tri
nhận trực tiếp của nhà thơ trên hành trình từ quê nhà Phú Thị vào kinh đô Huế
ứng thi. Đây là dải đất hẹp, có nhiều bãi cát mênh mông mà bước chân người đi
trên cát, cát trôi nên cứ bước về phía trước thì chân lại thụt về phía sau. Từ hình
13
ảnh không gian thời gian mang tính tả thực đã chuyển thành hình ảnh con đường
đời và thời gian tâm lí, thời gian sinh mệnh đời người một cách tự nhiên. Tạo
nên sự hòa thấm, giao thoa giữa tính hiện thực và tính biểu tượng.
Bốn dòng thơ ngũ ngôn gân guốc mở đầu bài thơ đã hàm chứa tâm sự và
tâm trạng của người đi trên bãi cát. Nhưng phải đến những câu thơ tiếp theo, tâm
sự và tâm trạng của kẻ sa hành mới dần dần bộc lộ:
Quân bất học tiên gia mỹ thụy ông
Đăng sơn thiệp thủy oán hà cùng!
Tâm sự u uất, tâm trạng chán ngán của kẻ đi trên bãi cát bật lên với một
lời
tự trách đầy chua chát. Nó vang lên như một lời cật vấn, một tiếng nói nghiêm
khắc đối với bản thân. Lời tự trách chua chát pha chút tự trào chính là lời chối từ
cao ngạo một lối sống hèn nhát của kẻ sĩ đầy kiêu hãnh. Từ giọng bi phẫn oán
thán nhà thơ chuyển sang giọng bình luận - trữ tình.
Cổ lai danh lợi
nhân
Bôn tẩu lộ đồ
trung
Rõ ràng, từ nghĩa tả thực của bãi cát, tác giả dẫn dắt người đọc liên tưởng
tới con đường danh lợi. Sự đối lập giữa hình ảnh cô độc của người đi tìm chân lí
trên đường đời mù mịt, gian khổ là hình ảnh đông đảo của phường danh lợi
đang tất tả trên đường đời. Nét độc đáo của giọng điệu trữ tình là tính đa thanh
của nó. Câu thơ vừa hướng tới khách thể, hướng tới đám danh lợi nhân, đồng
thời hướng vào chủ thể trữ tình. Trong đám danh lợi nhân ấy, trong đám người
say vì bả vinh hoa ấy có sự tham dự của chính nhà thơ, có cả bản thân tác giả! Ý
thức phản tỉnh trước thực tại đã tạo nên một sự thức nhận sâu sắc. Trong tiếng
cười người đâu thiếu vắng chất giọng tự trào, tự cười mình trong đó. Nhà thơ đã
khách thể hóa cái tôi trữ tình để tự diễu tự cười cái con người tục có trong bản
thân ông. Trên con đường nhà thơ đã lựa chọn, đã và đang dấn thân có một ý
thức hệ nghiêm túc mà suốt phần trai trẻ tác giả đã dành bao tâm huyết, hoài
bão.
Khi nhà thơ có ý thức phản tỉnh, suy ngẫm về con đường đời, về chúng
nhân thì tác giả nhận thấy trong đám cầu danh kiếm lợi ấy có một Cao Chu
Thần! Đây là một cái nhìn hiện thực mang dư vị đắng cay nhưng không kém
phần dũng cảm và giàu tính nhân văn.
Từ giọng bình luận nhà thơ chuyển sang giọng triết luận - trữ tình:
Phong tiền tửu điếm hữu mĩ tửu
Tỉnh giả thường thiểu túy giả đồng
Câu thơ mang ý nghĩa suy ngẫm của tác giả. Liệu trong hai loại người ấy ta
14
thuộc vào tỉnh giả hay túy giả đây? Dường như Cao Bá Quát không có ý tự xếp
mình vào một trong hai hạng người theo kiểu phân loại, đối lập. Trong cái
thường tình của đám chúng nhân, của đám người say có cá nhân ông. Nhưng có
điều trong lúc hòa cùng đám túy giả nhà thơ mới ngộ ra, mới nhận thức lại ý
nghĩa của con đường đã chọn và thấy được sự vô nghĩa của nó mà bấy lâu nay
kẻ trí thức nho sĩ cuối mùa như ông hoài công đeo đuổi.
Vỡ mộng, bất lực trước hiện thực, nhà thơ chỉ biết ngẩng đầu lên trời hát
khúc bi ca của kẻ cùng đường. Đối mặt với thực tại nghiệt ngã: Thản lộ mang
mang úy lộ đa, trước con đường bằng phẳng thì mờ mịt không thấy đích còn con
đường ghê sợ đầy chông gai thì lại quá nhiều, tâm trạng trữ tình đẩy đến đỉnh
điểm của sự bi phẫn. Niềm uất ức được gửi vào từng câu từng chữ, đã kiến tạo
nên những câu thơ điệp trùng thanh trắc như che chắn mất tầm nhìn và ngăn
vướng bước chân của người lữ khách. Cách kiến tạo ấy nằm ngay trong đoạn thơ
kết. Tất cả diễn tả tột cùng của bế tắc và niềm bi phẫn.
Bắc sơn chi bắc sơn vạn điệp
Nam sơn chi nam ba vạn cấp
Quân hồ vi hồ sa thượng lập?
Thi nhân trung đại khi gặp bế tắc trên đường đời họ thường ngẩng đầu lên
cao hay nhìn về bốn phương mong tìm được sự tương thông, giải thoát. Nhưng
lúc này đây nhà thơ hướng về bốn phương cũng chẳng thấy gì ngoài núi tiếp
núi, sóng tiếp sóng. Sự mất hướng của chủ thể trữ tình đã dồn lên số phận của
câu chữ. Cả ba câu cuối cùng có sự xuất hiện ba thanh trắc liên tiếp ở mỗi câu
cùng phụ âm “p” tắc vô thanh như chắn mất tầm nhìn và dồn nén tâm trạng bi
phẫn dội trở lại, hướng vào nội tâm của chủ thể. Câu kết là một câu hỏi lớn, một
câu hỏi không có lời đáp về tấn bi kịch của cuộc đời nhà thơ và cũng là của
những trí thức nho sĩ vỡ mộng.
Góp phần vào việc bộc lộ ý thức về bi kịch của cái tôi tác giả, Cao Bá Quát
đã sáng tạo nên hình tượng thơ người đi trên bãi cát để nói về con đường vất vả
gian nan nhưng bế tắc: cùng đồ và tâm trạng bi phẫn của kẻ sĩ chưa tìm được lối
đi trong hoàn cảnh của chế độ phong kiến. Đồng thời, Cao Bá Quát đã “phân
thân” để đối thoại, tự soi chiếu để bộc lộ tâm trạng của mình. Các đại từ khách
(ngôi thứ 3), quân (ngôi thứ 2) và ngã (ngôi thứ nhất) xuất hiện bốn lần trong
một bài thơ 16 câu quả là một tần số có nhiều ý nghĩa.
Hình tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ được soi rọi từ nhiều phía. Khi
được khách quan hóa: Khách tử lệ giao lạc. Khi tự phân thân đối thoại với chính
mình: Quân bất học tiên gia mĩ thụy ông. Khi tự bộc lộ bằng lời cảm thán hoặc
15
tự vấn: Quân hồ vi hồ sa thượng lập? Chính điều này làm cho hình tượng nhân
vật trữ tình không đơn giản, một chiều mà phong phú đa chiều. Tất cả là cái tôi
phản tỉnh đa diện, muôn mặt như muôn vẻ của đời thường. Qua các điểm nhìn
ấy, chủ thể trữ tình tự bộc lộ là kẻ lữ khách (khách tử), là người cùng đường
(cùng đồ), kẻ vỡ mộng trước hiện thực. Tâm trạng trữ tình là cả một tấn bi kịch
giằng xé quyết liệt giữa hoài bão, ước mơ cao đẹp, lí tưởng sáng ngời và hiện
thực tầm thường đen tối.
Không ngẫu nhiên khi một đời trai trẻ hăm hở nuôi nhiều hy vọng vào đấng
minh quân để mai này thành lương tướng tôi hiền, nhưng rốt cuộc Cao Bá Quát
lại làm quân sư cho cuộc khởi nghĩa nông dân chống lại Triều Nguyễn, chống lại
thể chế mà mình đã tôn thờ. Và kết cục là thảm tru di tam tộc. Suy cho đến
cùng, tấn bi kịch của nhà thơ là tấn bi kịch mang tính thời đại. Thời đại của Cao
Bá Quát, chế độ phong kiến Việt Nam trong thời kỳ khủng hoảng: Triều Nguyễn
thiết lập chế độ phong kiến chuyên chế, ban hành nhiều chính sách hà khắc, sưu
cao thuế nặng khiến cho nhiều tầng lớp nhân dân vô cùng cực khổ. Những người
như Cao Bá Quát vốn tài danh đất Bắc, học giỏi lừng tiếng, thơ văn rất hay, chữ
viết cũng rất đẹp. Là con người có hoài bão lớn, cốt cách phóng khoáng. Khi va
vào thực tế nghiệt ngã, tài năng, ý chí của ông bị quăng quật và lần hồi bị nghiền
nát. Sự tương phản giữa nghị lực phi thường của cá nhân và sức ép xã hội tàn
nhẫn, giữa mộng ước cao xa và thực tế bi thảm tạo nên một âm hưởng thơ kỳ lạ;
là điệp khúc tuyệt vọng của một con người biết mình thất bại trước gông xiềng
song cũng biết chống chọi đến cùng.
Tiếng nói bi phẫn được khắc họa rõ nét trong Sa hành đoản ca qua hình
tượng một con người cô đơn nhưng kỳ vĩ trên bước đường gian truân mờ mịt đi
tìm chân lý. Người ra đi vừa quả quyết vừa tuyệt vọng, quên mình vì lý tưởng
nhưng bế tắc hoang mang vì không tìm được lối thoát.
4. Sau khi khảo sát ba tác phẩm: Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến,
Thương vợ của Trần Tế Xương, Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát,
chúng ta rút ra kết luận chung:
- Đều trực tiếp bộc lộ cái tôi trữ tình của nhà thơ trong một giai đoạn lịch sử
nhiễu nhương. Đó là những nhà nho Tài cao phận thấp chí khí uất và nhân cách
rất cao thượng, tuy biểu hiện ở mỗi người khác nhau: Nguyễn Khuyến lui về ở
ẩn để giữ vững tiết tháo. Cao Bá Quát bằng hành động để chống lại trật tự của
triều đình phong kiến. Còn Tú Xương không chấp nhận trật tự tây – ta buổi đầu.
Vì xã hội đã biến một Tú Xương từ tài hoa thành người thừa.
Đọc thơ của họ ta đều yêu mến, xúc động, cảm khái. Ta sảng khoái với
16
nghệ thuật thơ điêu luyện, cao cường. Và ở họ dù tả cảnh thiên nhiên hay trực
tiếp bộc lộ tâm trạng đều nhuốm màu bi kịch do lịch sử quy định.
Khi xác định được bi kịch, nỗi đau trong tâm hồn của nhà thơ thì đó mới
chính là điều sâu sắc nhất trong thơ trữ tình.
III. Kết quả của đề tài
Với những định hướng về cách tiếp cận thơ trữ tình trung đại, chúng tôi đã
cụ thể hóa nó thành bài soạn và tiến hành dạy thử nghiệm ở trường chúng tôi
trong những năm học vừa qua dưới hình thức dạy thao giảng kết hợp làm
chuyên đề, với sự chứng kiến và tham gia đánh giá góp ý của lãnh đạo nhà
trường và các đồng nghiệp trong tổ chuyên môn. Hiệu quả nhìn thấy rõ rệt nhất
là từ phía học sinh. Các em hứng thú với giờ học, tích cực, sôi nổi xây dựng bài
và tiếp thu nhanh hơn. Giờ dạy được tổ chuyên môn đánh giá đúng đặc trưng thể
loại, sâu sắc, phát huy tính tích cực chủ động của học sinh.
Thành công của những tiết dạy đã đem lại niềm vui cho bản thân tôi về tính
khả thi của đề tài. Đề tài có thể áp dụng rộng rãi với nhiều đối tượng học sinh
khác nhau (học sinh đại trà, học sinh khá giỏi).
17
1. Quá trình nghiên cứu
C. KẾT LUẬN
Để hoàn thành được đề tài này tôi đã nhận được rất nhiều sự động viên, góp
ý chân thành quý báu của các đồng chí phụ trách chuyên môn, các bậc đàn anh
đàn chị có kinh nghiệm; với quá trình nghiên cứu nghiêm túc khách quan của
bản thân và sự huy động, hỗ trợ của các nguồn tài liệu chính thống có độ tin cậy
cao.
1. Ý nghĩa của đề tài
Thực hiện đề tài là một cách để tôi trau dồi, rèn luyện chuyên môn nghiệp
vụ; tạo cơ hội cho tôi tìm hiểu, để có những hiểu biết sâu hơn về chương trình,
sách giáo khoa Ngữ văn trung học phổ thông. Việc nghiên cứu và thực hiện đề
tài đã giúp tôi và đồng nghiệp trong tổ chuyên môn nhà trường có dịp trao đổi,
thảo luận nhằm tìm ra hướng dạy phù hợp, hiệu quả cho thể loại thơ trữ tình
trung đại.
Thành công của đề tài góp một phần nhỏ vào thực tiễn đổi mới phương
pháp dạy học văn có hiệu quả; đáp ứng ngày càng cao của xã hội.
2. Kiến nghị đề xuất
Hướng dẫn học sinh đọc - hiểu văn bản văn học theo đặc trưng loại hình tác
giả và loại thể yêu cầu người dạy phải có năng lực tự học và tư duy sáng tạo
cũng như am hiểu đối tượng người học. Nhất là dạy học những tác phẩm văn
học quá khứ. Để hoàn thành tốt được nhiệm vụ trên, chúng tôi xin đề xuất:
2.1. Tổ chuyên môn cần tư vấn, đề xuất Ban chuyên môn trang bị sách
tham khảo, sách chuyên khảo có chất lượng, gắn với dạy học của bộ môn.
2.2. Hình thành cho học sinh phương pháp, thói quen tự học, chủ động tiếp
cận tri thức bài học trước khi tổ chức dạy học ở lớp.
2.3. Xây dựng đề thi, đáp án theo hướng dạy học tích cực để phát huy hiệu
quả của phương pháp dạy.
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1. Trần Đình Hượu ( 1999), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại,
Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
2. Đinh Gia Khánh (chủ biên) - Bùi Duy Tân - Mai Cao Chương (2002),
Văn học Việt Nam (thế kỷ X – Nửa đầu thế kỷ XVIII), Nhà xuất bản Giáo dục,
Hà Nội.
3. Nguyễn Lộc (1997), Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỷ XVIII – hết thế
kỷ XIX), Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
4. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
hóa, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
5. Vũ Thanh (1999), Nguyễn Khuyến về tác gia và tác phẩm, Nhà xuất bản
Giáo dục, Hà Nội.
6. Trần Ngọc Vương (1999), Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam, Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia, Hà Nội.
7. Vũ Văn Sỹ - Đinh Minh Hằng - Nguyễn Hữu Sơn (2003), Trần Tế
Xương về tác gia và tác phẩm, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
8. Phan Quốc Thanh - Ý thức phản tỉnh và bi kịch của người trí thức nho sĩ
qua bài thơ “Sa hành đoản ca” (Ngữ văn 11), Tạp chí Giáo dục Số 323 Kì 1
(12/2013).
9. Phan Huy Dũng - Tác phẩm văn học trong nhà trường phổ thông (2009),
Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.