Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

ĐỒ ÁN THU HỒI VÀ TÁI CHẾ TÀI NGUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (637.11 KB, 36 trang )

TRƯỜNG ĐH NÔNG LÂM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA MÔI TRƯỜNG VÀ TÀI NGUYÊN

ĐỀ TÀI:
THU HỒI VÀ TÁI CHẾ TÀI
NGUYÊN

GVHD: Th.S Lê Tấn Thanh Lâm
SVTH: Bùi Thanh Phong
Nguyễn Quang Đại
Nguyễn Hùng Đức
Ngô Thanh Tuấn
Nguyễn Thành Duy
Nguyễn Phan Hoàng

1
Mục Lục
Mục Lục 2
ĐẶT VẤN ĐỀ 2
PHẦN I: TÁI CHẾ GIẤY VÀ BÌA CARTON 4
I. Mở đầu 4
2. Mục tiêu 5
3. Nội dung 5
4. Phương pháp thực hiện 6
5.Ý nghĩa của việc tái chế giấy carton 6
II. Hiện trạng và sơ lược về cộng nghệ sản xuất giấy 6
III. Các nghiên cứu trong tái chế giấy 14
I.2. Công nghệ tái chế 27
II.Thủy tinh 31
II.1.Nguồn gốc và phân loại 31
II.2. Tính chất 32


II.3.Ứng dụng 32
II.4. Công nghệ tái chế 32
III.Tái chế kim loại 34
IV. Tái chế cao su (lốp xe máy) 35
V.Tái chế Pin Gia dung 36
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, với sự phát triển của các ngành công nghiệp, nhu cầu tiêu dùng của người
dân cũng tăng cao đòi hỏi quá trình khai thác, sản xuất tăng mạnh nhằm đáp ứng
những nhu cầu đó. Tuy nhiên, tài nguyên thiên nhiên là nguồn nguyên liệu có hạn,
việc phục hồi tái chề nguồn nguyên liệu thải sẽ góp phần giảm thiểu lượng chất thải,
bảo tồn nguồn tài nguyên cho thế hệ sau, giảm thiểu gây ô nhiễm môi trường.
Việc tiến hành tái chế phế thải tạo nguồn nguyên liệu mới cho quá trình sản suất đã
được ứng dụng tại nhiều quốc gia, và cũng từ khá lâu rồi. Từ đó có thể thấy việc cần
thiết từ quá trình tái chế phục hồi tài nguyên.
Những lợi ích đặt được khi ta tiến hành tái chế, phục hồi tài nguyên:
2
- giảm lượng khai thác nguyên liệu thô, từ đó tiết kiệm, bảo tồn tài nguyên cho các thế
hệ sau.
- tiết kiệm năng lượng cho quá trình sản xuất mới
- giảm sức ép về rác thải cho môi trường
- tiết kiệm chi phí trong quá trình sản xuất
Ngoài ra việc thu hồi và tái chế tài nguyên còn có nhiều Ý nghĩa đối với quá trình sản
xuất, kinh doanh.
Tp. Hồ Chí Minh (Tp.HCM), là một trong những khu vực đông dân của cả nước, và
tập trung nhiều công trình công cộng như trường học, bệnh viện đa khoa, chợ, siêu thị,
khu thương mai… và các cơ sở công nghiệp (lớn, vừa và nhỏ). Mỗi ngày Tp.HCM
thảira khoảng 6000-6500 tấn chất thải rắn đô thị. Trong đó khối lượng chất thải rắn
sinh hoạt chiếm từ 3500-4500 tấn/ngày, bên cạnh đó, còn khoảng 700-1200 tấn rác
phát thải từ ngành xây dựng.
Tại Tp.HCM thị trường thực hiện thu hồi, tái chế phế liệu đã được thực hiện và phát

triển hơn 30 năm qua với nhiều nguyên liệu được thu mua , tái chế như giấy, thủy
tinh, nhôm, nylon, kim loại … Theo thống kê hiện nay có khoảng 400 cơ sở tái chế
vừa và nhỏ, tập trung nhiều ở khu vực Bình Tân, Bình Chánh, Hooc Môn, Thủ Đức,
Quận 9… với khối lượng rác thải được tái chế hàng ngày ước tính khoảng 2000 –
3000 tấn tương đương khoảng 600 – 800 triệu đồng lợi nhuận mỗi ngày.
Thực tế cũng cho thấy ngày nay với yêu cầu về chất lượng sản phẩm ngày càng nâng
cao để đáp ứng với xu thế cạnh tranh trên thị trường thì việc sử dụng các nguyên liệu
tái chế đang đứng trước nguy cơ ngày càng hạn chế. Trước tình hình đó, việc nghiên
cứu và đề xuất các biện pháp kỹ thuật nhằm tái chế, tái sử dụng và tuần hoàn chất thải
rắn cho Tp.HCM là một nhu cầu bức thiết nhằm giảm bớt các sức ép đối với bãi rác và
cũng để nhằm góp phần ngăn chặn các thảm họa ô nhiễm môi trường do chất thải rắn
gây ra. Việc lựa chọn công nghệ xử lý nào cho thích hợp và có hiệu quả đối với những
nét đặc thù của chất thải rắn tại Tp.HCM, qui mô và hình thức đầu tư nào là phù hợp,
địa điểm lựa chọn ở đâu để xây dựng nhà máy xử lý cùng với việc xem xét đánh giá
các tác động môi trường kèm theo, điều kiện cung cấp thiết bị và hàng loạt các vấn đề
khác có liên quan là những công việc bức thiết hiện nay của Tp.HCM nói riêng và cả
nước nói chung.
3
Xuất phát từ những ly do trên, nhóm quyết định thực hiện đề tài “thu hồi và tái chế tài
nguyên” để làm rõ hơn về giá trị của việc thu hồi và tái chế phế liệu trong quá trình
sản xuất cũng như đời sống của người dân.
PHẦN I: TÁI CHẾ GIẤY VÀ BÌA CARTON
I. Mở đầu
1.Tổng quan
Như chúng ta đã biết, giấy rất quan trọng và cần thiết trong cuộc sống hàng ngày
của chúng ta, từ những cuốn giáo trình, sách giáo khoa, báo, hay những thùng
carton…Việc sản xuất ra giấy đòi hỏi lượng tài nguyên rất lớn, cần từ 2,2 đến 4,4 tấn
gỗ để sản xuất một tấn bột giấy, trong khi đó từ 1,4 tấn giấy thải cũng sản xuất 1 tấn
bột tái chế.
Ở các quốc gia phát triển trên thế giới, việc thu gôm và tái sinh giấy được quan

tâm và đẩy mạnh, tuy nhiên, ở Việt Nam thì chúng ta đang lãng phí nguồn giấy đã qua
sử dụng (giấy loại). Trong khi đó, hàng năm chúng ta đều phải nhập khẩu giấy loại để
tái sản xuất ra giấy, gây hao tổn tài nguyên và lãng phí tiền bạc của quốc gia.
Ngành tái chế giấy tại VN đã có từ lâu, thế nhưng theo đánh giá của các chuyên
gia trong ngành thì chúng ta đang để phí một lượng lớn giấy đã qua sử dụng, nguyên
nhân chính ở đây là công tác thu gom gặp nhiều khó khăn. Tổng thư ký Hiệp hội Giấy
và Bột giấy Việt Nam, Tiến sĩ Vũ Ngọc Bảo, cho biết: “Hiện nhu cầu giấy trong nước
mỗi năm đang cần tới hơn 1,8 triệu tấn, sản xuất trong nước mới cung ứng được 1,13
triệu tấn, còn lại là giấy nhập khẩu. Trong tổng số giấy sản xuất trong nước, có tới
70% là nguyên liệu từ nguồn giấy tái chế, nhưng hiện chỉ có 25% giấy đã qua sử dụng
được thu hồi. Trong đó, lượng giấy đã qua sử dụng cũng chỉ đáp ứng 50% tổng lượng
giấy phế liệu mà ngành công nghiệp giấy trong nước cần. Như vậy, hầu hết số giấy
còn lại bị đem tiêu huỷ lãng phí, trong lúc VN phải dùng ngoại tệ để nhập khẩu một
lượng giấy phế liệu, giấy tái chế khổng lồ từ nước ngoài để làm nguyên liệu sản xuất
giấy. Vì vậy, cần có thêm nhiều nỗ lực từ các doanh nghiệp, Nhà nước và các cơ quan
có liên quan để có thể xây dựng và phát triển ngành công nghiệp tái chế bao bì giấy
Việt Nam”.
4
Hiện nay, tỉ lệ thu hồi giấy đã qua sử dụng ở Việt Nam thuộc loại thấp nhất khu
vực, chỉ đạt 25% so với Thái Lan là 65% (Theo báo cáo của Hiệp Hội giấy của các
nước trong khu vực, năm 2007 hiệu suất thu hồi giấy tại Trung Quốc là 31%; Nhật
Bản, 61,4%; Đài Loan, 88%; Hàn Quốc, 67% ). Nguồn giấy đã qua sử dụng chủ yếu
được thu gôm riêng lẻ chứ chưa có công ty chuyên doanh giấy thu hồi. Tỉ lệ giấy đã
sử dụng thu hồi được so với tổng lượng giấy tiêu dùng ít thay đổi, chỉ ở mức 24-25%
và tỉ lệ giấy thu hồi trong nước so với giấy thu hồi nhập khẩu hầu như không thay đổi
từ 48% (1999) lên 50% (2007).
Ngành giấycần có giải pháp tích cực trong việc thu hồi và tái chế giấy đã qua sử
dụng, để tận dụng tài nguyên, giảm ô nhiễm môi trường, tiết kiệm điện năng, nước và
tăng thêm việc làm cho lao động phổ thông.
Tuy nhiên, tại VN thì việc thu gôm giấy đã qua sử dụng mới chỉ mới bắt đầu.

Trong đó, Cty CP Giấy Sài Gòn từ đầu năm 2009 đến nay triển khai thu gom giấy vở
từ học sinh. Hiện Cty này đang tổ chức được 3 trạm thu mua tại khu vực TP HCM,
mỗi tháng thu gom được từ 4.500 đến 5.000 tấn giấy phế liệu. Sản xuất giấy từ bột
nguyên cũng thải nhiều nước hơn sản xuất giấy từ việc tái chế giấy. Nước thải từ việc
sản xuất giấy bằng bột nguyên dù đã qua quá trình xử lý vẫn còn chứa nhiều độc tố
hơn sản xuất giấy bằng cách tái chế giấy. Giấy có thể tái chế tới 6 lần trước khi chôn
lấp hoặc đốt bỏ, nên lợi ích về tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường là rất to lớn
2. Mục tiêu
- Tiết giảm nguyên liệu cho quá trình sản xuất giấy mới và bột giấy.
- Tiết kiệm năng lượng cho quá trình sản xuất mới giấy và bột giấy.
- Trình bày về các quy trình tái sinh và thu hồi giấy – carton.
- Tính toán, thiết kế quy trình tái chế giấy carton với công suất 4 tấn sản phẩm/
ngày
- Đưa ra các giải pháp hoàn thiện hơn trong công tác thu gom cũng như tái sinh
giấy.
3. Nội dung
- Đưa ra các số liệu về nguyên liệu và mức năng lượng cần thiết để tiến hành sản
xuất giấy và carton. Trình bày các số liệu khi tiến hành tái chế giấy. So sánh
hai mẫu số liệu để thấy lợi ích từ việc áp dụng biện pháp tái chế giấy cũ.
5
- Nêu ý kiến của các chuyên gia về ảnh hưởng của quá trình sản xuất giấy với
môi trường và những lợi ích khi áp dụng biện pháp tái chế
- Thiết kế một quy trình tái chế giấy carton từ các loại giấy đã qua sử dụng với
công suất 4 tấn/ ngày
4. Phương pháp thực hiện
- Tìm kiếm trên Internet các số liệu liên quan
- Phân tích, so sánh, đánh giá số liệu
5. Ý nghĩa của việc tái chế giấy carton
Từ các số liệu ở trên, việc tái chế giấy là rất cần thiết bởi việc sản xuất mới đòi hỏi
một lượng nguyên liệu đầu vào như gỗ, nước, điện, các hóa chất… là rất lớn, cùng với

đó là một lượng chất thải không hề nhỏ được thải vào môi trường. Để có nguyên liệu
làm giấy, ta phải chặt cây lấy gỗ, khi đó, diện tích cây xanh giảm xuống ảnh hưởng
đến quá trình điều hòa không khí, một phần làm tăng diện tích đất trống, thời gian để
phục hồi trở lại là khá lâu mà nhu cầu sử dụng giấy thì ngày một tăng, còn lượng nước
tham gia vào quá trình này cũng không hề nhỏ, hóa chất từ quá trình xử lý hòa tan
trong nước gây ô nhiễm nguồn nước, lại không được xử lý tốt thải vào môi trường gây
ô nhiễm môi trường. Chính vì vậy, việc tái chế giấy có ý nghĩa khá lớn về mặt kinh tế
và môi trường. thứ nhất, khi tái chế giấy, ta giảm được lượng gỗ khai thác, đảm bảo
đủ nguyên liệu sản xuất mới trong tương lai. Thứ hai, khi tái chế ta sẽ tiết kiệm một
lượng hóa chất lớn cho quá trình xử lý các thành phần có trong gỗ tươi để sản xuất
giấy. Thứ ba, việc tái chế giấy sẽ giảm được một lượng rác thải vào môi trường sống,
tiết kiệm một nguồn tài nguyên lớn cho các hoạt động sử dụng đến cellulose. Thứ tư,
giảm lượng chất thải rắn, giảm lượng nước thải và chất lượng nước thải được cải
thiện. Thứ năm, giảm lượng phát thải khí CO
2
. Về mặt kinh tế, chi phí sản xuất giảm
do giảm chi phí mua nguyên liệu, mua hóa chất tẩy.
II. Hiện trạng và sơ lược về cộng nghệ sản xuất giấy
1. Hiện trạng sản xuất giấy ở Việt Nam
Theo thống kê của hiệp hội giấy Việt Nam, nghành giấy đã đạt được sự tăng
trưởng cao về sản lượng trong những năm vừa qua. Từ năm 1990 đến 1999, tốc độ
6
tăng trung bình là 16%/năm, 3 năm sau đó ( 2000, 2001, 2001 ) tăng 20%/năm. Dự
báo 5 năm tiếp theo là 28%/năm.
Với tốc độ tăng trưởng cao như vậy, cùng với gia tăng giấy nhập khẩu đã tạo ra
một lượng giấy đã sử dụng rất cao. Việc sử dụng số lượng giấy này vào một mục đích
khác sao cho có hiệu quả đang đặt một thách thức không hề nhỏ cho những giải pháp
mới. Chúng ta đã và đang theo nước ngoài là đem lượng giấy này đi tái chế. Một điểm
đáng chú ý là việc này ở Việt Nam cũng đã có từ lâu và nó đã trở thành một nghề
kiếm sống của rất nhiều hộ gia đình trên rất nhiều tỉnh thành trên đất nước ta. Chúng

ta đi theo nước ngoài là việc đổi mới công nghệ và trình độ kỹ thuật.
Ở Việt nam, tái chế là một trong các loại hình làng nghề tiểu thủ công nghiệp
được phát triển với quy mô lớn ở một số tỉnh chiếm 6.2% tổng số lượng làng nghề.
Chủ yếu tập chung ở các Tỉnh và Thành phố: Hà Nội, Bắc Ninh, Thanh Hóa, Hưng
Yên, Nam Định. Tuy nhiên làng nghề tái chế giấy Phú Lâm (H.Yên Phong) và Dương
Ổ(H. Tiên Du) ở Bắc Ninh có thể xem là 2 làng nghề điển hình trong loại hình làng
nghề tái chế giấy. Không những về quy mô sản xuất mà còn về trình độ công nghệ,
trang thiết bị và tiềm lực lao động. Sản phẩm chủ yếu là: Giấy dó, giấy vệ sinh, giấy
ăn, giấy vàng mã và bìa cactong.
2. Qui trình sản xuất
Nói chung, một dây chuyền công nghệ sản xuất giấy từ giấy đã qua sử dụng
thường có dạng:
* ** ***
Hình 1. Sơ đồ nguyên tắc sản xuất giấy
7
Chế biến
nguyên
liệu(I)
Gia công
nguyên liệu
sau chế biến
(II)
Gia công
giấy sau tạo
tờ (IV)
Hệ thống
máy tạo tờ
giấy (III)
* _ nguyên liệu giấy vụn và giấy đã qua sử dụng
**_nguyên liệu cho công đoạn tẩy mực. ***_phụ gia cho công đoạn tạo tờ

Sơ đồ công nghệ
8
Nguyên liệu
(Vỏ gió,bìa carton,giấy loại,báo
loại…)
Đánh tơi

Chuẩn bị hóa chất
(NaO,javen…)
Tẩy trắng (khử mực in)
Rửa sàng
Nghiền
Nhuộm
Xeo
Sản phẩm
Hơi nước
Chuẩn bị hóa
chất

Khó thải lò hơi
Tiếng ồn
Bụi
Kim loại,hơi dung môi
Hơi hóa chất
Nước thải
Hơi hóa chất
Nước thải
Khí Cl
Hơi hóa chất
Nước thải

Hơi hóa chất
Tiếng ồn
Hình 2. Sơ đồ công nghệ
2.1/ Nguyên tắc hoạt động
Các loại nguyên liệu sẽ được đem gia công chế biến ở I. Sau đó nguyên liệu
được đem đến khu gia công nguyên liệu ở II. Tại II nguyên liệu sẽ được ngâm trong
một bể lớn, hóa chất sẽ được sử dụng để tách mực và sử dụng thiết bị nghiền thủy lực
để làm mịn giấy. khi bột giấy đã được nghiền mịn, bột giấy sẽ được làm đặc sệt ( có
sử dụng hóa chất). Sau đó bột giấy sẽ được đem đến hệ thống tạo tờ ở III, đây là công
đoạn xeo giấy để tạo tờ, tùy thuộc loại giấy và chất lượng giấy theo yêu cầu mà giấy
sẽ được xeo khác nhau. Giấy sau xeo sẽ được đem đến công đoạn gia công giấy ở IV,
tại đây giấy được cắt xén theo yêu cầu, giấy được đóng gói và được xuất ra thị trường.
Kết thúc một vòng sản xuất giấy tái chế.
2.2/ Chế biến nguyên liệu
Như ta đã biết nguyên liệu cho sản xuất giấy tái chế là giấy đã qua sử dụng.
Nguyên liệu sẽ được thu gom và tập kết, sau đó được đem đến cơ sở chế biến. Tại cơ
sở chế biến, nguyên liệu được đem sàng để loại bỏ bông, vải và cả giấy không thể tái
chế có lẫn trong đó. Mọi công việc này được làm bằng tay, sau đó giấy sẽ được cho
vào bể để ngâm cho bã ra. Tại đây ta cũng loại được đất, cát có lẫn trong giấy. Bông
vải và giấy đã loại ở trên sẽ được đem chôn lấp hoặc đem đốt làm nhiên liệu cho công
đoạn tạo hơi nước phục vụ cho công đoạn tiếp theo.
2.3/ Quá trình sàng rửa
Ban đầu nguyên liệu được đánh tơi,sau đó đưa tới 4 máy lọc chân không.tại đây
nguyên liệu được rửa sạch,dịch hoá chất thu hồi có nồng độ 13%, loại dịch này được
đưa đến hệ thống chưng lọc. Sau đó được đưa qua hệ thống sàng gồm 2 áp lực: 1 sàng
thô và 3 giai đoạn lọc cái. Các phần không cần thiết thì được loại bỏ ra ngoài.
9
Gia keo
Nước thải
Bột rơi vãi

2.4/ Quá trình khử mực in
Phương pháp khử mực in giấy loại ngày nay được sử dụng phổ biến rộng rãi
trên thế giới thông qua phương pháp tuyển nổi với mục đích chính nhằm loại bỏ
các hạt mực cũng như các chất phụ gia khác như chất độc, các hạt mang màu trong
quá trình tráng phủ ra khỏi thành phần sơ xợi. Phương pháp tuyển nổi thích hợp với
các hạt mực và phụ gia có kích thước tư 10×10
-6
đến 250×10
-6
m.
Phương pháp tuyển nổi sử dụng nguyên lý bám dính của các hạt vật chất
vào bong bóng khí để loại bỏ mực in và các chất phụ gia của giấy loại như chất
độc, các hạt mang màu… Có thể chia ra các công đoạn chính trong quá trình tuyển
nổi như sau:
a. Quá trình tách mực ra khỏi sợi
Mực được in vào bề mặt của sơ xợi bằng nhiều phương pháp khác nhau và
trong giai đoạn đầu tiên của phương pháp khử mực, người ta phải tách các hạt mực
in này cùng với các hạt phụ gia ra khỏi bề mặt của sơ xợi. Giai đoạn này trong sản
xuất được thực hiện ở máy nghiền thủy lực với sự hỗ trợ của một số chất khử mực
như NaOH, Na
2
CO
3
, H
2
O
2
, các chất hoạt tính bề mặt…Dưới tác dụng của các hóa
chất khử mực, mối liên kết giữa mực in và sơ xợi bị lỏng đi, trở nên kém bền vững
đồng thời các hạt mực cũng trở nên kỵ nước, bị xé nhỏ và tách ra khỏi sơ xợi dưới

tác dụng của các dao trong quá trình nghiền thủy lực.
b. Loại bỏ mực ra khỏi xợi trong quá trình tuyển nổi
Sau khi mực và các hạt phụ gia được tách ra khỏi bề mặt sơ xợi, chúng ta sẽ phải loại
bỏ chúng để thu được sơ xợi “sạch” để sản xuất giấy. Như đã trình bày ở trên, phương
pháp tuyển nổi dùng các bọt khí để loại bỏ các hạt mực và các hạt phụ gia. Về lý
thuyết có thể ứng dụng với các hạt chất rắn có kích thước từ 10×10
-6
đến 500×10
-6
m
nhưng hiệu quả nhất với tuyển nổi giấy tái chế là từ 10×10
-6
đến 250×10
-6
m. Do tác
dụng của hóa chất (các chất lựa chọn) và đặc biệt là sự có mặt của các ion canxi mang
điện dương 2+ trong nước, các phân tử của xà phòng kết hợp với các ion Canxi này
tạo ra các hạt vật chất nhỏ điện tích mang điện dương, qua đó dễ dàng đính với các hạt
mực (điện âm). Bởi vì các chất lựa chọn như soap là một chuỗi hydrocacbon gồm cả
phần kỵ nước và háo nước (ví dụ như stearic acid) nên các hạt mực được đính kèm
10
với các hạt vật chất nhỏ mang điện dương (sản phẩm của soap collector và calcium có
trong nước), rồi qua đó tiếp tục đính với các hạt mực khác (cũng đã được đính với các
hạt mang điện dương) và tạo thành các cụm mực nhỏ và các cụm mực nhỏ này tiếp tục
được đính vào các bong bóng khí nhờ tính kỵ nước và háo nước của soap collector.
2.5/ Gia công sau chế biến
Như ta đã biết nguyên liệu sau công đoạn trên đã được ngâm trong bể. Trong
công đoạn này hơi nước được sử dụng, bằng cách sục hơi nước từ đáy bể để đẩy mực
ra khỏi nhờ áp lực của dòng hơi nước sục từ đáy bể. Có thể coi đây là công đoạn làm
sạch bột, vì hơi nước không thể đẩy hết mực trong giấy nên hóa chất cũng sẽ được sử

dụng trong công đoạn này. Hóa chất sử dụng thường là:
1-Dung dịch nước Javen ( NaCl + NaOCl ):
2-Dung dịch nước Clo ( Cl
2
):
3-Dung dịch xút NaOH:
Trong 3 ử dụng nước Javen vì do dung dịch nước Javen đễ sản xuất ( chỉ cần điện
phân dung dịch không màng ngăn muối ăn loại hóa chất trên, đa phần các hộ gia đình
hay nhiều cơ sở sản xuất thường sn Nếu sử NaCl) dụng dung dịch nước Clo thì phải
kết hợp cả dung dịch NaOH để trung hòa lượng Clo dư trước khi nước thải được thải
ra môi trường.
Sau khi đã được tách mực, bột giấy sẽ được đem đi nghiền thủy lực, mục đích là tạo
độ mịn cho bột, sau đó bột sẽ được trộn thêm phụ gia và sau đó được đem đi tách
nước, mục đích là tạo cho bột có độ đặc sệt đáp ứng yêu cầu cho công đoạn tiếp theo.
Nước thải trong công đoạn tách mực sẽ được đem đi xử lý trước khi thải ra môi
trường.
Bột giấy trước khi đem xeo cần bổ xung một vài phụ gia khác nhau tùy thuộc loại
giấy. Phụ gia thường sử dụng là: Cao lanh ( CaO.SiO
2
), thạch cao ( CaSO
4
.Al
2
O
3
)
hoặc bột nhũ ( CaCO
3
). Do sản phẩm giấy tái chế của Việt Nam đa phần là giấy vệ
sinh và giấy vàng mã, giấy ăn nên phụ gia sử dụng chủ yếu là bột nhũ ( CaCO

3
), do
nguồn nhiên liệu rất dễ tạo được ( dung dịch nước vôi trong dược sục khí CO
2
) và
11
lượng tạp chất có trong đó ít. Mục đích cho thêm phụ gia vào thường tạo độ kết
dính cao.
2.6/ Quá trình nghiền gia keo và nhộm
Nghiền: Bột giấy được đưa qua hệ thống nghiền để làm tăng diện tích tiếp
xúc, tăng khả năng liên kết giữa các thớ sợi với nhau, tạo điều kiện cho khả năng
kiên kết giữa các thớ sợi với nhau, tạo điều kiện cho khả năng hình thành tờ giấy
tốt hơn. Làm cho các sợi được hidrat hóa, tăng sự dẻo dai và tăng bề mặt hoạt tính
của các vi sơ. Việc đánh tơi và nghiêng sợi giúp giải phóng gốc hidro oxi. Quá
trình nghiền tiến hành với nồng độ giấy trong dung dịch 2% đến 8%.
Gia keo: Nhằm tạo cho giấy một số tính chất đặc biệt như không thấm nước,
không bị nhòe khi in, viết. Bột được pha trộn với các hóa chất dùng để gia keo:
nhựa thông, phèn chua trong bể chứa. Công đoạn này thường chỉ có ở các nhà máy
giấy quy mô vừa phát triển dùng cho giấy tốt, để in hoặc viết. pH tốt cho quá trình
gia keo 4,5 đến 5.5, thường tỷ lệ nhựa thông/phèn chua: 3/1.
Nhuộm: Gia keo và nhuộm có thể tiến hành chung trong bể nghiền. Công
đoạn nhuộm sử dụng các hóa chất tạo màu nghiền cùng bột giấy.
2.7/ Hệ thống tạo tờ giấy
Bột giấy sau khi được làm trắng và làm đặc sẽ được đem đi xeo. Tùy từng loại giấy
và công nghệ sản xuất mà người ta có phương pháp xeo giấy khác nhau. Có thể xeo
giấy bằng tay ( ví dụ như giấy dó) hoặc xeo bằng máy như giấy vệ sinh, giấy vàng mã
và giấy ăn. Một máy xeo thường có dạng:
Bột giấy hệ thống phên lô sấy ép giấy
Cuốn Sau sấy Hút chân không
12

Hình 3. Sơ đồ một máy xeo giấy
Bột giấy sẽ được phun đều trên phên băng tải, sau đó được đem sấy, vừa sấy vừa ép
cho có độ mỏng theo yêu cầu. Tiếp đó đưa qua hệ thống hút chân không để làm khô
giấy.
Giấy sau sấy sẽ được cuộn thành cuộn lớn. tùy thuộc chất lượng của giấy theo yêu cầu
mà giấy được xeo khác nhau ( một mặt hay cả hai mặt ). Sau khi qua hệ thống hút
chân không lượng nước thải còn lại trong bột sẽ được đem đi xử lý.
2.8/ Bộ phận ép
Ép có nghĩa là tờ giấy được nén bằng cơ học để đạt trên bão hoà. ở phần này nước
cũng tách được càng nhiều ra khỏi tờ giấy càng tốt. Sau công đoạn hình thành, tờ giấy
còn khoảng 80% nước (độ khô = 20 %). ở công đoạn ép độ khô sẽ tăng lên từ 20 ÷ 40
% .
Nhiệm vụ chính của bộ phận ép là tách nước ra khỏi tờ giấy, tăng độ bền và độ nhẵn
của tờ giấy đồng thời bộ phận ép còn có nhiệm vụ dẫn tờ giấy đến bộ phận sấy.
Bộ phận ép có số lượng cặp ép và cấu trúc khác nhau. Một cặp ép bao gồm giá đỡ và 2
hoặc 3 lô. Lô dưới thường được lắp trên một ổ đỡ cố định và lô dẫn động. Sự ép xảy
ra ở khoảng giữa lô trong khe ép và tờ giấy được chăn dẫn qua khe ép.
Tờ giấy ướt được chuyển trực tiếp từ lưới tới trục ép chân không được lọc chặn của tổ
ép 1. Chức năng quan trọng của lưới ép là chống tạo vết trên tờ giấy.Từ tổ ép 1 tờ giấy
được chuyển tới bộ phận ép lưới ở tổ 2.Tổ 2 gồm một lưới nhựa giữa chăn ép và một
trục ép phía dưới nhằm giảm áp suất thuỷ tĩnh trong tuyến ép.Từ chăn 2 tờ giấy được
13
chuyển tới tổ ép nhẵn 3 qua một khoảng cách kéo hở. Tổ ép này không có chăn nên
không có nhiệm vụ tách nước mà chỉ có làm cho tổ giấy nhẵn và phẳng hơn.
2.9/ Bộ phận sấy
Khi tờ giấy ra khỏi bộ phận ép, có độ khô khoảng 40 % và nhiệt độ từ 25÷ 30° C.
Trong bộ phận sấy, lượng nước còn lại sẽ được tách ra bằng cách bốc hơi. Sấy là cách
vận chuyển nhiệt và nước, trong đó nhiệt độ được chuyển qua vùng bay hơi và hơi
nước bốc lên đi qua bề mặt của tờ giấy vào luồng khí thông gió. Các biện pháp sấy
được sử dụng là :

- Sấy trực tiếp: tờ giấy tiếp xúc với lô sấy máy.
- Sâý đối lưu: nhiệt độ được cung cấp bởi không khí trong một Chụp xung
quanh lò sấy.
- Sấy tự do: sấy trong khoảng không có sức căng hoặc giữa các lô sấy. ở giai đoạn
này, tờ giấy được sấy khô tới 94%. Sau đó, tờ giấy đi qua bộ phận ép gia nhựa(ép
keo). ở đây, nước cùng hoá chất được tờ giấy hấp thụ và lượng nước này được làm
bay hơi ở bộ phận sấy thứ 2 (bộ phận sấy nhựa). Bộ phận sấy bao gồm 34 lô sấy
(24 lô ở bộ phận sấy chính và 10 lô ở bộ phận sấy nhựa). Giấy đã sấy khô được làm
nguội trên 2 lô làm lạnh.Tất cả các lô đều có đường kính là 1500 mm, chiều dài của
giấy có thay đổi trong quá trình sấy. Sau các lô ép tờ giấy được căng ra. Trong suốt
quá trình nó được gia nhiệt ở cả 2 quá trình sấy chính và sấy nhựa (ép keo). Điều
đó thường gây ra sự cố của tờ giấy. Để khắc phục những sự cố và những biến đổi
của tờ giấy, các lô được bố trí thành các nhóm dẫn động khác nhau. Trong đó, tất
cả các lô trong một nhóm có cùng tốc độ. Sự chênh lệch tốc độ giữa các nhóm dẫn
động sẽ được hiệu chỉnh theo độ kéo căng và sự cố cuả tờ giấy.
III. Các nghiên cứu trong tái chế giấy
Việc tái chế giấy đòi hỏi một quá trình xử lý khá phức tạp, các loại giấy dù là giấy in
sách hay giấy văn phòng, giấy in báo hay giấy in tạp chí hoặc là các loại giấy khác
cũng đều chứa rất nhiều các loại mực in khác nhau. Các loại mực in này tuy có xuất
14
xứ rất khác nhau, theo yêu cầu sử dụng mà nhiều màu sắc và cường độ màu khác
nhau được in lên bề mặt giấy, nhưng chủ yếu chúng vẫn là mực in offset lạnh và nóng.
Để tải chế những loại giấy này, lượng hóa chất cần dùng là khá lớn. Việc sử dụng
nhiều hóa chất không chỉ làm tăng chi phí mà còn gây ảnh hưởng đến môi trường.
Chính vì vậy mà trong quá trình tái chế giấy, khâu quan trọng nhất là khử mực in khỏi
sợi giấy. Hiện nay, quá trình khử mực in được chia làm 2 loại :
1. Khử mực bằng phương pháp hóa học
Trong quá trình công nghệ khử mực giấy loại có sử dụng nhiều hoá chất khác
nhau để đáp ứng các yêu cầu công nghệ đặc biệt.
NaOH

Na
2
SiO
3
H
2
O
2
Na
2
S
2
O
4
Hoạt chất hoạt động bề mặt (xà phòng,
axit béo)
CaCl
2
, Ca(OH)
2
Polyme
Bột đá
Bảng hóa chất thường sử dụng trong công nghệ tái chế giấy
Một trong các hoá chất khử mực quan trọng có có thể sử dụng cho tất cả các dạng
nguyên liệu giấy loại kể cả giấy được làm từ bột cơ học mà nó chứa hàm lượng
lignin cao – đó là silicat natri.
Một quá trình khử mực giấy loại hoàn chỉnh thường phải đi qua 3 bước chính:
Bước 1. Tách mực ra khỏi giấy và bề mặt xơ sợi, giai đoạn này được thực hiện tại
các công đoạn nghiền thuỷ lực, đánh tơi. Nhờ tác động của lực cơ học kết hợp với
các hoá chất làm trương nở xơ sợi và các hoá chất khác, các mảnh keo-mực được

tách ra khỏi bề mặt in và bề mặt các xơ sợi và tồn tại ở dạng hỗn hợp với bột giấy.
Bước 2. Tách mực ra khỏi hỗn hợp bột, các hạt mực có các kích thướt khác được
tách ra dần dần khỏi hỗn hợp bột tại các công đoạn sàng chọn, làm sạch, rửa – cô
đặc, tuyển nổi. Để tăng khả năng và hiệu quả tách loại mực, các quá trình này
thường được hỗ trợ thêm bởi hệ thống thiết bị phân tán.
Bước 3.Tẩy trắng bổ sung, hốn hợp bột đã sạch mực từ giai đoạn 2 đã đạt được
độ trắng nhất định, gần với độ trắng của giấy chưa in, sau đó được đưa đi tẩy nhẹ
15
tại các máy tẩy. Qua giai đoạn tẩy trắng, bột khử mực đạt được các chỉ tiêu cho
nguyên liệu và được chứa trong tháp bột để cung cấp cho sản xuất giấy.
VAI TRÒ CỦA SILICAT NATRI
Trong quá trình nghiền và đánh tơi bột
Nhờ các tác động cơ học tại công đoạn nghiền giấy loại trước tiên được nghiền
thành xơ sợi. Tiếp đó, nhờ sự đảo trộn, sự va đập thuỷ lực và các tác động kết hợp
giữa các hoá chất – silicat natri, xà phòng, chất kiềm, chất hoạt động bề mặt và
các hoá chất khử mực khác đã lôi kéo mực và các hoá chất phi xơ sợi ra khỏi bề
mặt xơ sợi.
Trong quá trình này, silicat natri góp phần làm sạch bột nhờ các tính chất chống
bám bẩn trở lại và các tính chất của hệ huyền phù có được do silicat natri hoạt
động giống như chất phân tán và chất đệm. Điều đó cho phép silicat natri giữ các
loại mực và các mảnh tạp chất khác lơ lửng trong dung dịch nhiều hơn phần có
thể tái bám bẩn trở lại xơ sợi bột giấy, nơi mà chỉ cần một lượng rất nhỏ các chất
bẩn cung dễ dàng làm biến màu trong quá trình rửa và tuyển nổi tiếp sau.
Làm tác nhân giặt rửa
Silicat natri cũng giúp để phân tán mực in, các mảnh keo và các tạp chất trong
quá trình nghiền bột, rửa bột và các quá trình khử mực tiếp sau. Cũng giống hầu
hết các loại bột giặt và các chất làm sạch, silicat hoà tan hỗ trợ cho sự dính ướt,
phân tán, sự tạo huyền phù và nhũ tương các chất bẩn. Silicat cũng làm tăng khả
năng tách loại mực trong hệ thống kiềm so với khi sử dụng xút độc lập.
Trong quá trình tuyển nổi

Tuyển nổi là quá trình cơ – hoá mà bản thân quá trình này có thể tách loại các
mảnh mực có lựa chọn từ dung dịch bột loãng. Bột được bơm khí vào trong sự có
mặt của xà phòng để tạo bọt. Các mảnh mực và các chất bẩn bám vào các bong
bóng trong lớp bọt để sau này được cùng nổi lên và được tách ra khỏi hệ thống
bằng các thiết bị chuyên dùng. Bẳng cách này, mực được tách ra một cách tinh vi
hơn và đạt đến hơn nửa lượng so với khi mực được tách ra khỏi bột ở công đoạn
rửa.
Với sự có mặt của xà phòng, axit béo, phụ gia silicat thúc đẩy sự đông tụ các
mảnh mực nhỏ thành các đám mực đủ lớn phù hợp với việc tuyển nổi. Kinh
nghiệm cho thấy rằng, khi sử dụng silicat từ trong quá trình nghiền thuỷ lực thì
lượng mực còn sót lại trong bột sau tuyển nổi sẽ giảm đáng kể. Khi vắng mặt
16
peroxit, silicat có thể làm cho bột sau khử mực tăng tới 6 % đơn vị độ trắng ISO,
còn khi có sử dụng 1,0% peroxit kết quả này có thể đạt tới trên 12%.
Trong giai đoạn tẩy bổ sung
Một vài nhà máy sử dụng giai đoạn tẩy bổ sung để phục hồi lại độ trắng của bột
đã bị thât thoát trong các công đoạn nghiền thuỷ lực và tách loại mực. Tẩy bổ
sung bột sau tuyển nổi có thể sự dụng được cả 2 phương pháp đó là oxi hoá
(peroxit) và khử (hydrosunphat). Trong quá trình tẩy bổ sung, silicat chỉ sử dụng
với peroxit để làm tăng hiệu quả tẩy của nó chứ không sử dụng với hydrosunphit.
Thông thường, để đạt được độ trắng của bột sản phẩm cao, quá trình tẩy bổ sung
có thể sử dụng cả hai giai đoạn – tẩy trắng với peroxit, sau đó tẩy với
hydrosunphit. Cả hai giai đoạn này đều thích ứng với nguyên liệu chứa bột cơ học
có hàm lượng lignin cao. Việc ưu tiên lựa chọn công nghệ tẩy trắng theo hướng
nào là hoàn toàn tuỳ thuộc vào các yếu tố khách quan như kỹ thuật, môi trường và
giá cả.
2. Khử mực bằng phương pháp sinh học
Enzym được sử dụng để cải thiện khả năng tách mực của giấy loại. Enzym hiện
nay được dùng nhằm vào một hay vài cơ chất có trong mực bảo lưu trong bột giấy
sau giai đoạn cuối cùng. Những chất này gồm xenlulo, pectin, hemixenlulo, đặc

biệt là xylan, amylo, amylopectin và các cacbonhydrat khác. Chúng tồn tại hầu
hết trên bề mặt và bên trong cấu trúc giấy loại hay ở giữa giấy và mực bằng các
tinh bột chứa trong chất tráng phủ hay ép gia keo bề mặt. mốt vài chất trong số đó
đã có sẵn trong gồ như xenlulo, pectin, hemixenlulo … các chất khác thường
được thêm vào trogn quá trính sản xuất giấy để tăng độ bền khô và là chất độn
keo dính có giá thành thấp trong quá trình xử lý bề mặt giấy.
Trong khi phương pháp khử mực bằng hóa chất đối với giấy in, giấy viết thường
gặp trở ngại với mực in laser hay các loại giấy in offset do sự bám dính của các
phân tử màu và bề mặt giấy quá mạnh thì phương pháp sinh học có thể giải quyết
điều này. Enzym thường được sử dụng là α – amylaza và BIO-DE (tổng hợp của
xylanaza). Ở pH 6-10, α- amylaxa chủ yếu tác động vào tinh bột. Quá trình gia
keo bằng tinh bột là để giảm độ xốp, nâng cao độ nhẵn, độ bền và ngăn chất mầu
thấm sau vào giấy. Vì vậy khi có tác dụng phá hủy tinh bột của α- amylaza thì quá
trình khử mực bằng tuyển nổi và rửa sẽ được thuận lợi hơn.
17
Enzym BIO-DE 30 là loại enzym được dùng riêng cho khử mực giấy loại có
thành phần phức tạp, dùng để thay thế các hóa chất khử mực truyền thống hay để
tăng hiệu quả của hệ thống khử mực bao gồm các giai đoạn sàng, tuyển nổi, rửa.
Nó phù hợp cho quá trình khử mực với mực in phân tán và không phân tán, đặc
biệt thích hợp với khử mực giấy in laser. Khi sử dụng enzym BIO-DE 30 trong
quá trình tuyển nổi và rửa khử mực giấy loại cho ra bột giấy có hàm lượng cặn
thấp hơn so với phương pháp khử mực thông thường. Enzym có hiệu quả ở pH
6÷9, nhiệt độ từ 25÷600C, thích hợp cho hầu hết các quá trình khử mực đang
được sử dụng các hóa chất truyền thống như NaOH, Na2SiO3, DTPA, H2O2,
chất hoạt động bề mặt .
Enzym này có một số ưu điểm như sau:
- Bột trắng và sáng hơn
- Giảm lượng hoá chất tẩy mà bột vẫn đạt độ trắng cao, giảm thiểu chất thải độc
hại.
- Bột không bị hồi màu do kiềm do tiến hành trong môi trường trung tính.

- Cải thiện độ thoát nước các quá trình như cô đặc, rửa.
- Tăng hiệu quả nghiền, có tác dụng cải thiện độ bền và tiết kiệm năng lượng
3. Xử lý nước thải ngành giấy
STT Thông số Đơn vị Giá trị C
A B
Cơ sở chỉ sản
xuất giấy (B1)
Cơ sở có sản
xuất bột giấy
(B2)
1 pH 6 – 9 5,5 – 9 5,5 – 9
2 BOD
5
ở 20
O
C mg/l 30 50 100
3
COD
Cơ sở mới mg/l 50 150 200
Cơ sở đang
hoạt động
mg/l 80 200 300
4 Tổng chất thải rắn lơ lửng
(TSS)
mg/l 50 100 100
5
Độ màu
Cơ sở mới Pt-Co 20 50 100
Cơ sở đang
hoạt động

Pt-Co 50 100 150
6 Halogen hữu cơ dễ bị hấp
thụ (AOX)
mg/l 7,5 15 15
18
QCVN 12:2008 BTNMT về nước thải công nghiệp giấy và bột giấy
Mặc dù nước thải của các nhà máy giấy hầu như đều chứa các hợp chất, các hóa
chất, bột giấy, các chất ô nhiễm hữu cơ và vô cơ.Tuy nhiên, tùy vào từng công nghệ
sản xuất mà mức độ ô nhiễm của nước thải khác nhau. Trong quy trình xử lý nước
thải, việc xác định thành phần ban đầu của nước thải là một trong những yếu tố mang
tính quyết định đến việc lựa chọn phương pháp xử lý. Qua khảo sát một số cơ sở sản
xuất giấy tại Việt Nam, nước thải chính của công nghệ sản xuất giấy và bột giấy bao
gồm :
− Dòng thải rửa nguyên liệu chứa các chất hữu cơ hòa tan, cát, thuốc bảo vệ
thực vật, vỏ cây …
− Dòng thải của quá trình nấu và rửa sau nấu chưa phần lơn các chất hữu cơ
hòa tan, các hóa chất và một phần xơ sợi. Dung dịch đen có nồng độ chất khô
khoảng 25-35%, tỉ lệ giữa chất hữu cơ và vô cơ là 70:30.
− Dòng thải từ công đoạn tẩy của các nhà máy sản xuất bột giấy bằng
phương pháp hóa học và bán hóa học chứa các hợp chất hữu cơ, chất gỗ hòa
tan và một hợp chất tạo thành từ những chất thải với chất tẩy ở dạng độc hại,
có thể gây ra tích tụ sinh học trong cơ thể sống như các hợp chất hữu cơ, làm
tăng AOX trong nước thải. Dòng thải này có độ màu và giá trị BOD, COD
cao.
− Dòng thải từ quá trình nghiền bột và sản xuất giấy chủ yếu chứa sợi xơ
mịn, bột giấy lơ lửng và các chất phụ gia như nhựa thông, phẩm màu, cao lanh

− Nước ngưng tụ như là dòng thải từ quá trình ngưng tụ trong hệ thống xử lý
để thu hồi hóa chất từ dịch đen. Mức độ ô nhiễm của dòng thải này phụ thuộc
vào loại gỗ và công nghệ sản xuất.

− Nước thải từ quy trình sản xuất giấy chủ yếu chứa bột giấy và các chất phụ
gia, được tách ra từ quy trình sản xuất giấy như trong quá trình khử nước và
ép giấy.
Một số quy trình xử lý nước thải :
STT Công
ty
Lượng
nước tiêu
thụ
Lượng nước
thải
Quy trình xử lý nước
thải
Tuân thủ
theo TCVN
Ghi chú
1 A Phục vụ
sản xuất :
1,250m3/ngày Nước thải từ quá trình
sản xuất giấy : DAF,
Dòng thải :
Tuân thủ tiêu
Dịch trắng được tái
chế dung cho máy
19
20-25m3/
tấn giấy
(dựa trên tính
toán)
sedimentation

WW confluent
Hợp dòng thải trầm tích:
lọc, đông tụ và sa lắng,
khối nước công.
Bùn : Ép
chuẩn TCVN
7732-2007
sản xuất giấy
2 B Phục vụ
sản xuất:
7,200
m3/ngày
(7200÷300
tấn/ngày,
trung bình
24 m3/tấn)
Tổng lượng
nước thải xấp xỉ
7,200 m3/ngày
Nước thải và vụn gỗ, bể
tự hoại
Bột hóa nhiệt cơ, DIP &
sản xuất giấy, bể trầm
tích, lagun
Dòng thải :
Cao hơn tiêu
chuẩn TCVN
7731-2007
(COD,
BOD

5
, SS)
3 C Lượng
nước cần
sử dụng:
15-17
m3/tấn
2,500-3,000
m3/ngày
Hợp dòng nước thải
( chủ yếu nước thải từ
quá trình DIP),
Bước 1: Đông tụ + kết
tủa, bùn hoạt tính
Bước 2: Đông tụ+ kết
tủa, lọc cát, Hon river
Dòng thải :
Tuân theo
TCVN 7732-
2007
4 D - 100 m3/ngày Nhà máy tái sử dụng
nước thải (Hệ thống
khép kín)
Nước thải, tích trữ,
tuyển nổi áp
lực(DAF) Tái sử dụng
Chu trình
khép kín
Nguồn: Báo cáo của JICA, 2008
20

Hình 4. Sơ đồ xử lý nước thải nhà máy giấy A
21
Hình 5. Sơ đồ xử lý nước thải nhà máy giấy B
22
Hình 6. Sơ đồ xử lý nước thải nhà máy giấy C
23
Hình 7. Sơ đồ xử lý nước thải nhà máy giấy D
PHẦN II: TÁI CHẾ NHỰA, THỦY TINH VÀ KIM LOẠI
I.Tái chế nhựa
Các sản phẩm nhựa ngày càng chiếm lĩnh thị trường vì chúng có khả năng thay thế các
sản phẩm chế tạo từ kim loại, thủy tinh và giấy. Do đặc tính nhẹ nên chi phí vận chuyển
các sản phẩm nhựa bao giờ cũng rẻ tiền hơn so với kim loại và thủy tinh. Sản phẩm
nhựa đa dạng về hình dạng, thích hợp với các loại thực phẩm ướt cũng như sử dụng
trong các lò vi ba. Cùng với sự phát triển các mặt hàng tiêu dùng bằng nhựa, nhựa phế
thải, đặc biệt là nilon ngày càng chiếm tỷ trọng đáng kể trong thành phần CTRSH. Kết
quả phân tích thành phần CTRSH tại các hộ gia đình ở TP. HCM cho thấy nhựa và
24
nilon chiếm tỷ trọng thứ 2 sau rác thực phẩm (nhựa chiếm 1,2-4,2% và túi nilon chiếm
3,5-13,4%). Như vậy, nếu thu hồi và tái chế lượng phế liệu này sẽ giảm đáng kể lượng
thể tích chôn lấp cần thiết.
I.1.Phân loại
Nhựa được chia thành 7 loại.
• Polyethylene terephathalate (PETE)
• High – density polythylene (HDPE)
• Plyvinyl chloride (PVC)
• Low - density polythylene (LDPE)
• Prolypropylene (PP)
• Polystyrene (PS)
• Vá các loại khác
I.1.1. Polyethylene Terephthalate (PETE).

PETE được tái chế đầu tiên để sản xuất các loại sợipolyester dùng trong sản xuất túi
ngủ, gối, chăn và quần áo mùa đông. Sau này, PETE còn được sử dụng để chế tạo
thảm, các sản phẩm đúc, băng chuyền, bao bì thực phẩm và các sản phẩm khác, nhựa
kỹ thuật còn dùng trong công nghiệp sản xuất ô tô.
I.1.2 High density Polyethylene (HDPE).
Đặc tính của HDPE thay đổi rất nhiều tùy thuộc vào sản phẩm cần chế tạo. Các bình
sữa thường được sản xuất từ loại nhựa có độ nóng chảy thấp. Trong khi đó, HDPE
cứng có độ nóng chảy cao nên cho phép nhựa chảy dễ dàng vào các khuôn đúc. Tính
chất của HDPE dạng hạt phụ thuộc rất nhiều vào nguyên liệu ban đầu. Do đó, để kiểm
soát chất lượng của nhựa hạt tái chế, các nhà sản xuất không trộn lẫn những loại nhựa
khác nhau hoặc không trộn cùng loại nhựa nhưng khác độ nóng chảy với nhau. HDPE
tái chế thường dùng để sản xuất can chứa bột giặt và thùng chứa dầu nhớt. Các loại
thùng chứa này thường có ba lớp, trong đó lớp giữa được chế tạo bằng nguyên liệu tái
chế. HDPE tái chế còn được dùng để chế tạo các loại khăn phủ, túi chứa hàng hóa,
ống dẫn, thùng chứa nước và đồ chơi trẻ em.
25

×