BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
VÕ QUÝ NGỌC
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM BỆNH LÝ CỦA VỊT
MẮC BỆNH VIÊM GAN DO VIRUS DHV VÀ THỬ
NGHIỆM VẮC XIN NHƯỢC ĐỘC DH – EG – 2000
TRONG PHÒNG BỆNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
HÀ NỘI, 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
VÕ QUÝ NGỌC
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM BỆNH LÝ CỦA VỊT
MẮC BỆNH VIÊM GAN DO VIRUS DHV VÀ THỬ
NGHIỆM VẮC XIN NHƯỢC ĐỘC DH – EG – 2000
TRONG PHÒNG BỆNH
CHUYÊN NGÀNH: THÚ Y
MÃ SỐ : 60.64.01.01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN HỮU NAM
HÀ NỘI, 2014
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung
thực và chưa từng được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện đề tài nghiên cứu
và hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn.
Tôi xin cam đoan các thông tin trích dẫn trong luận văn đều chính xác
và được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 22 tháng 12 năm 2014
Tác giả
Võ Quý Ngọc
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii
LỜI CẢM ƠN
Mở đầu của Luận văn cho tôi được chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của
các thầy, cô giáo bộ môn Bệnh lý thú y; các thầy, cô Khoa Thú y, Học viện
nông nghiệp Việt Nam; cùng toàn thể các thầy, cô giáo đã giảng dậy tôi trong
thời gian học Cao học ở nhà trường.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy hướng dẫn khoa
học PGS.TS. Nguyễn Hữu Nam, người thầy đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ
trong quá trình tôi thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn.
Tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến Đảng ủy- Ban lãnh
đạo Chi cục thú y Thái Bình cùng đồng nghiệp trong các phòng, Trạm thú y
huyện, thành phố đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong suốt thời gian
học tập và thực hiện đề tài nghiên cứu.
Tôi xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã động viên, khích lệ,
giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 22 tháng 12 năm 2014
Tác giả
Võ Quý Ngọc
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii
DANH MỤC BẢNG
STT Tên bảng Trang
4.1. Tỷ lệ mắc bệnh viêm gan ở vịt 38
4.2. Tỷ lệ tử vong do bệnh viêm gan ở vịt 39
4.3. Tỷ lệ mắc và tử vong phân theo lứa tuổi 41
4.4. Triệu chứng lâm sàng của vịt mắc DHV 43
4.5. Biến đổi bệnh tích đại thể của vịt mắc Viêm gan vịt do virus 46
4.6. Biến đổi bệnh tích vi thể của vịt mắc Viêm gan vịt do virus 50
4.7. Kết quả khảo sát một số chỉ tiêu hệ hồng cầu của vịt 2 tuần tuổi mắc
Viêm gan vịt do virus 54
4.8. Kết quả khảo sát chỉ tiêu bạch cầu của vịt mắc DHV 57
4.9. Kết quả theo dõi đàn vịt sau tiêm 61
4.10. Tỷ lệ mắc bệnh ở vịt tại các mô hình (thí nghiệm và đối chứng) 62
4.11. Kết quả xét nghiệm virus viêm gan vịt 64
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv
DANH MỤC HÌNH
STT Tên hình Trang
4.1 Vịt ốm và chết ở ổ dịch 45
4.2 Vịt ủ rủ, tụ lại thành đám 45
4.3 Vịt chết ngửa đầu ra sau và chân duỗi thẳng 45
4.4 Vịt ủ rủ, mệt mỏi 45
4.5 Gan sưng to, mặt gan bóng 48
4.6 Gan hoại tử, mặt gan bóng 48
4.7 Gan sưng to, xuất huyết 48
4.8 Gan xuất huyết, thành bọc máu trên bề mặt gan 48
4.9 Gan sưng to, xuất huyết, mặt gan bóng 48
4.10. Gan xuất huyết, nhạt màu 48
4.11 Gan sung huyết và thoái hóa mỡ (H.E 10X) 52
4.12 Thâm nhiễm tế bào viêm ở gan (H.E 40X) 52
4.13 Hoại tử huyết, hoại tử tế bào ở gan (H.E 20X) 52
4.14 Thành ống mật tăng sinh (H.E 40X) 52
4.15 Lách sung huyết (H.E 10X) 52
4.16 Thâm nhiễm tế bào eterophin ở thận (H.E 20X) 52
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
STT Tên biểu đồ Trang
4.1. Công thức bạch cầu của vịt mắc DHV 58
4.2 Công thức bạch cầu của vịt đối chứng 58
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ii
DANH MỤC BẢNG iii
DANH MỤC HÌNH iv
DANH MỤC BIỂU ĐỒ iv
MỤC LỤC v
PHẦN I. MỞ ĐẦU 1
1.1. Tính cấp thiết 1
1.2. Mục tiêu của đề tài 2
PHẦN II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
2.1. Giới thiệu chung về cơ sở khoa học của bệnh viêm gan 4
2.1.1. Tên bệnh 4
2.1.2. Lịch sử và phân bố bệnh. 4
2.1.3. Loài mắc bệnh 6
2.1.4. Phương thức truyền lây và cơ chế sinh bệnh 7
2.1.5. Virus viêm gan vịt (Duck Hepatitis Virus = DHV). 8
2.1.6. Sức đề kháng của virus. 9
2.1.7 Triệu chứng lâm sàng và bệnh tích. 10
2.1.8. Chẩn đoán bệnh viêm gan vịt 13
2.1.9. Phòng và chống bệnh viêm gan vịt. 15
2.1.10. Một số hiểu biết về vắc xin phòng bệnh viêm gan vịt 17
2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 22
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 22
2.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 23
PHẦN III. ĐỐI TƯỢNG – NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 26
3.1. Đối tượng nghiên cứu 26
3.1.1. Quy mô và địa điểm nghiên cứu 26
3.1.2. Nguyên liệu nghiên cứu 26
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi
3.2. Nội dung nghiên cứu 27
3.3. Phương pháp nghiên cứu 27
PHẦN IV. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 35
4.1. Kết quả khảo sát tính hình chăn nuôi và dịch bệnh viêm gan ở
đàn vịt của tỉnh Thái Bình. 35
4.1.1. Khảo sát tập quán chăn nuôi 35
4.1.2. Nguồn gốc và chất lượng con giống 35
4.1.3. Thực hiện nuôi cách ly, khử trùng tiêu độc 36
4.1.4. Sử dụng phòng bệnh 37
4.1.5. Tình hình dịch bệnh 37
4.2. Kết quả xác định triệu chứng lâm sàng chủ yếu của vịt mắc
viêm gan vịt do Virus 42
4.3. Kết quả nghiên cứu biến đổi bệnh tích đại thể của vịt mắc viêm
gan vịt do Virus 45
4.4. Kết quả nghiên cứu bệnh tích vi thể trên một số cơ quan của vịt
mắc bệnh viêm gan vịt do Virus 49
4.5. Kết quả xác định một số chỉ tiêu huyết học của vịt mắc bệnh
viêm gan do Virus 53
4.5.1. Kết quả xác định một số chỉ tiêu hệ hồng cầu của vịt bệnh. 53
4.5.2. Kết quả xác định một số chỉ tiêu bạch cầu ở vịt bệnh. 56
4.6. Kết quả khảo sát hiệu quả trên đàn vịt của tỉnh Thái Bình. 60
4.6.1. Kết quả kiểm tra chỉ tiêu an toàn của 61
4.6.2. Tỷ lệ mắc bệnh ở vịt. 63
4.6.3. Tỷ lệ mắc bệnh viêm gan ở các mô hình thí nghiệm 63
PHẦN V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 66
5.1. Kết luận 66
5.2. Đề nghị 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO 68
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết
Trong những năm gần đây, sản xuất chăn nuôi ngày càng giữ một vị trí
quan trọng, được xác định là lĩnh vực còn nhiều tiềm năng để nâng giá trị sản
xuất trong cơ cấu ngành nông nghiệp. Xuất phát từ những đặc điểm riêng biệt
về địa hình, tập quán canh tác, điều kiện cho việc chăn thả tự nhiên nên vịt là
loài thủy cầm được người nông dân nước ta ưa chuộng vì vịt là một trong
những loài vật có nhiều đặc điểm quý, đặc biệt là khả năng lớn nhanh, đẻ
nhiều trứng, kiếm mồi giỏi. Với đặc tính của vịt là thích nghi với cuộc sống
sông nước, ao hồ, đầm lầy, đồng lúa nên số lượng đàn vịt phân bố chủ yếu
trên các vùng sinh thái có tiềm năng cho vịt tự kiếm mồi, đó là vùng đồng
bằng, các vùng triền sông và vùng Duyên hải trong đó có tỉnh Thái Bình.
Đối với Thái Bình, xuất phát điểm là tỉnh thuần nông, đời sống của đại
bộ phận người dân còn phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp, việc phát triển nông
nghiệp nhất là chăn nuôi gia súc, gia cầm theo hướng hàng hóa, tập trung phát
triển theo chiều sâu, được xác định là một trong ưu tiên hàng đầu trong chiến
lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh; Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đề ra,
Thái Bình cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn thử thách nhất là diễn biến
phức tạp về tình hình dịch bệnh ở động vật.
Trong chăn nuôi vịt, thời gian gần đây, dịch bệnh viêm gan siêu vi
trùng với tỷ lệ chết nhiều ở vịt nhỏ đã gây thiệt hại khá lớn đến chăn nuôi
thuỷ cầm của các hộ chăn nuôi; Đây là bệnh truyền nhiễm cấp tính lây lan
nhanh, mạnh ở vịt con dưới 6 tuần tuổi. Bệnh thường xảy ra ở tuần đầu tiên,
có đặc điểm tỷ lệ ốm rất cao và chết rất nhanh. Nơi nhiễm nặng tỷ lệ chết có
thể lên tới 95% nếu không can thiệp kịp thời.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2
Theo Quyết định 64/2005/QĐ-BNN&PTNT ngày 13 tháng 10 năm
2005 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về Danh mục các bệnh
nguy hiểm ở động vật trong đó có bệnh viêm gan vịt do virus.
Cho tới nay, ở nước ta đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về bệnh
Viêm gan vịt do virus nhưng vẫn còn ít công trình nghiên cứu sâu về các biến
đổi bệnh lý của vịt bị Viêm gan do virus. Hơn nữa cũng còn ít những công
trình nghiên cứu về hiệu quả vắc xin ứng dụng trong phòng và chống dịch
viêm gan vịt do virus ngoài thực tế. Vì vậy, để góp phần phòng chống dịch
bệnh viêm gan vịt có hiệu quả thì việc tiếp tục nghiên cứu sâu về các biến đổi
bệnh lý của vịt mắc bệnh Viêm gan vịt do virus và hiệu quả của việc sử dụng
vắc xin phòng chống dịch bệnh vẫn là những vấn đề cấp thiết hiện nay.
Xuất phát từ thực tiễn trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu một số đặc điểm bệnh lý của vịt mắc bệnh viêm gan do
virus DHV và thử nghiệm vắc xin nhược độc DH – EG – 2000 để phòng
bệnh”.
Nội dung của đề tài nhằm nghiên cứu triệu chứng lâm sàng và biến đổi
bệnh lý đại thể, vi thể của bệnh viêm gan do virus vịt và ứng dụng vắc xin
nhược độc viêm gan vịt để phòng bệnh viêm gan ở vịt, làm cơ sở cho công tác
phòng chống dịch bệnh, giảm bớt thiệt hại góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế
cho người chăn nuôi
1.2. Mục tiêu của đề tài
- Mục tiêu chung
Nghiên cứu các biến đổi bệnh lý của vịt mắc bệnh viêm gan do DHV và
đánh giá hiệu quả sử dụng vắc xin DH- EG – 2000 trong phòng bệnh viêm
gan vịt do DHV làm cơ sở cho việc chẩn đoán và phòng bệnh trong thực tế.
- Mục tiêu cụ thể
+ Xác định các biến đổi bệnh lý của vịt bị mắc bệnh Viêm gan vịt do virus
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3
+ Đánh giá hiệu quả sử dụng vắc xin trong phòng chống bệnh Viêm
gan vịt do virus
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4
PHẦN II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Giới thiệu chung về cơ sở khoa học của bệnh viêm gan
2.1.1. Tên bệnh
Bệnh viêm gan vịt do virus là một bệnh truyền nhiễm cấp tính xảy ra ở
vịt con 1 - 6 tuần tuồi, mẫn cảm nhất là vịt con dưới 3 tuần tuổi. Bệnh lây lan
rất nhanh do 3 type virus khác nhau gây ra: virus viêm gan vịt Type I, Type II
và Type III, phổ biến hơn cả là virus viêm gan vịt Type I. Bệnh có biểu hiện
đặc trưng: đầu ngoẹo về một bên, 2 chân duỗi thẳng; mổ khám thấy gan sưng,
xuất huyết lốm đốm trên gan.
Bệnh viêm gan vịt do virus là một bệnh nguy hiểm và có tính lây lan
mạnh ở vịt con. Tính chất của bệnh là sự lan rộng một cách nhanh chóng, tỷ lệ
tử vong cao và xuất huyết đặc trưng ở gan. Bệnh này xuất hiện lần đầu tiên ở
đàn vịt con địa phương ở đảo Long, New York vào năm 1945.
2.1.2. Lịch sử và phân bố bệnh.
2.1.2.1. Tình hình bệnh viêm gan vịt trên thế giới
Năm 1945 ở Mỹ, Levine và Hofstad quan sát thấy một bệnh lạ xảy ra
trên đàn vịt con một tuần tuổi: vịt chết nhanh sau khi có biểu hiện triệu chứng,
bệnh tích chủ yếu tập trung ở gan, gan sưng, xuất huyết lốm đốm trên gan.
Năm 1949 ở đảo Long của Mỹ có tổng số vịt nuôi 750.000 con, Levine
và Fabricant [25] quan sát thấy một bệnh tương tự xảy ra trên các đàn vịt con
trắng Bắc Kinh, bệnh xuất hiện đầu tiên ở những vịt 2 - 3 tuần tuổi, bệnh này
lây lan nhanh từ trại vịt này sang trại khác, 70 trại bị thiệt hại nghiêm trọng,
trại bị bệnh nặng tỷ lệ vịt chết lên đến 95%.
Năm 1950, bằng phương pháp nuôi cấy trên phôi gà, Levine và
Fabricant đã phân lập được virus viêm gan vịt type I. Năm 1953, bệnh chỉ xảy
ra trên các đàn vịt ở các vùng khác của nước Mỹ. Năm 1954 bệnh xảy ra ở
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5
Anh do Asplin và Lauchlan phát hiện. Năm 1958 ở Ai Cập do Chehata và
Reuss, sau đó ở Ý, Hà Lan, Nga cũng có những công trình công bố; Theo các
báo cáo gần đây nhất, bệnh viêm gan vịt do virus type I xảy ra khắp nơi trên
thế giới trong đó có cả Trung Quốc và Triều Tiên (OIE, 2000) [28].
Cho đến nay bệnh viêm gan vịt do virus viêm gan vịt type II chỉ thấy xảy ra
ở nước Anh, chưa có báo cáo nào về tình hình bệnh xảy ra ở các nước khác.
Theo Toth (1969) [29] cho biết ở đảo Long của Mỹ, bệnh viêm gan vịt
đã xảy ra trên đàn vịt con đã được dùng vắc xin nhược độc type I. Bệnh xảy ra
nhẹ hơn so với bênh viêm gan vịt của virus type I, tỷ lệ chết của vịt con hiếm
khi vượt quá 30%; Theo Haider và Calnek (1979) [24] đã đặt tên virus này là
virus viêm gan vịt type III, cho đến nay virus viêm gan vịt type III mới chỉ
được công bố ở Mỹ.
2.1.2.2. Tình hình bệnh viêm gan vịt ở Việt Nam
Ở nước ta, năm 1987 Trần Minh Châu và Lê Thu Hồng [3] đã ghi nhận
có bệnh viêm gan vịt, nhưng chưa phân lập được virus;
Năm 1979 - 1983, theo Lê Thanh Hòa và cs, quan sát thấy bệnh xảy ra ở
nhiều địa phương làm chết rất nhiều vịt; Năm 1983, Trần Minh Châu và cs đã
phân lập được một chủng virus viêm gan vịt cường độc tại một trại vịt ở Hà Sơn
Bình; Qua nuôi cấy trên phôi gà, chủng virus này yếu đi, không gây bệnh cho vịt
con mà tạo được đề kháng cho vịt con.
Tác hại của bệnh viêm gan vịt ở nước ta được mô tả khá kỹ qua một số
ổ dịch ở Phú Khánh (Phạm Thị Thu Lan và Thân Thị Mạnh, 1987), ở Thủ
Đức và Đồng Tháp (Lê Hồng Phương và cộng sự, 1988).
Theo Nguyễn Văn Cảm và cs (2001) [2], gần đây nhiều giống vịt cao
sản nhập vào nước ta chưa thích nghi với điều kiện môi trường nên bệnh viêm
gan vịt càng xảy ra nhiều hơn, đặc biệt ở các địa phương như Hà Tây, Hà
Nam, Thái Bình và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long gây tổn thất lớn.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6
Theo thông báo của Cục thú y (2002) [6], tại Nam Định tháng 5 năm 2001
đã xảy ra một ổ dịch lớn ở xã Hồng Quang, huyện Nam Trực , đàn vịt 10000 con
mới nở đã mắc bệnh viêm gan vịt và đến 5 ngày tuổi chết 700 con, những ngày
sau đó số chết giảm dần nhưng tổng số chết lên đến 80% tổng số đàn.
Bệnh viêm gan vịt là một bệnh truyền nhiễm gây tổn thất lớn cho ngành
chăn nuôi thủy cầm, nhiều công trình nghiên cứu về bệnh viêm gan vịt đã
được thực hiện.
2.1.3. Loài mắc bệnh
Trong tự nhiên, bệnh chủ yếu có ở vịt con 1- 3 tuần tuổi, cũng có
trường hợp thấy xuất hiện ở vịt (5 - 6 tuần tuổi) và vịt con mới nở 12 giờ.
Virus viêm gan vịt không những gây bệnh cho vịt con mà còn gây bệnh cho
một số loại thủy cầm khác như ngan, ngỗng, vịt trời và một số loài chim
nước; Khi di cư, chính các loài chim nước là nguyên nhân gây ra dịch ở các
quốc gia cách xa nhau hàng ngàn cây số, các loài gia cầm như gà, gà tây, đà
điểu và các động vật có vú khác không mẫn cảm với virus viêm gan vịt.
Theo các tác giả Trần Minh Châu và các cs [3] cho biết virus viêm gan
vịt gây bệnh cho tất cả các giống vịt nuôi ở miền Bắc nước ta; Các giống nhập
nội có tỷ lệ mắc cao hơn do chưa phù hợp với khí hậu, sức đề kháng kém nên
dễ nhiễm bệnh hơn, bệnh thường xảy ra ác liệt ở đàn chưa mắc bệnh bao giờ,
tỷ lệ nhiễm bệnh và chết rất cao có khi đến 100%; Nhưng cũng có trường hợp
bệnh ít trầm trọng và kéo dài. Bệnh cũng có khi đi với một số bệnh kế phát
như bệnh phó thương hàn và bệnh dịch tả vịt, nếu nhiễm Salmonella thì tỷ lệ
chết thường rất cao và kéo dài.
Trong phòng thí nghiệm người ta dùng vịt con làm động vật thí nghiệm.
Hỗn dịch bệnh phẩm có chứa virus được sử dụng để gây nhiễm bằng cách
tiêm cho vịt con, trộn vào thức ăn hay nước uống hay phun sương. Thời gian
bệnh tương đối ngắn, trong vòng 24 giờ đã có triệu chứng của bệnh, có khi đã
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7
có con chết, vịt chết tập trung vào các ngày thứ 2, 3, 4, 5 sau khi gây nhiễm;
Người ta còn dùng phôi gà 9 - 10 ngày tuổi hoặc phôi vịt 10 - 12 ngày tuổi để
gây bệnh bằng cách tiêm vào xoang niệu mô. Khi phôi chết mổ khám thấy
những bệnh tích: xuất huyết trên da, phù phôi, phôi còi cọc, gan xuất huyết
lấm tấm, hoại tử.
Khi cấy truyền liên tiếp qua phôi vịt thì độc lực của virus được củng cố
và tăng cường; Khi cấy truyền liên tiếp qua phôi gà thì độc lực gây bệnh của
virus giảm, đây là cơ sở để sản xuất vắc xin nhược độc viêm gan vịt.
2.1.4. Phương thức truyền lây và cơ chế sinh bệnh
- Phương thức truyền lây
Virus được bài xuất ra môi trường từ vịt bị bệnh và vịt mang trùng theo
phân, lẫn vào thức ăn nước uống, dụng cụ chăn nuôi và phân tán vào không
khí. Rồi từ đó theo con đường tiêu hóa, hô hấp xâm nhập vào cơ thể vịt lành
bệnh. Trong điều kiện tự nhiên vịt con mắc bệnh chủ yếu qua đường miệng.
Năm 1959, bằng hàng loạt các thí nghiệm quan sát của mình Reuss đã
chứng minh sự lây truyền bệnh qua không khí của bệnh viêm gan vịt. Theo
ông, đường lây qua không khí của bệnh viêm gan vịt cũng có ý nghĩa như
bệnh dịch tả vịt và viêm phế quản truyền nhiễm ở gà con.
Virus có thể truyền cho đời sau qua bào thai trứng, đây là một trong
những nguyên nhân gây ra dịch bệnh ở vịt con mới nở. Năm 1962, Vinden và
Aycacdi đã phân lập được virus trong lòng đỏ trứng của vịt mang trùng. Hiện
nay đã xác nhận được rằng vịt khỏi bệnh và vịt tiếp xúc với chúng mang virus
trong vòng 8 - 10 tuần. (Nguyễn Thát, 1975) [15].
- Cơ chế sinh bệnh
Virus xâm nhập vào cơ thể qua niêm mạc đường tiêu hóa, hô hấp hoặc
vết thương rồi vào máu. Theo máu virus đến các cơ quan phủ tạng đặc biệt là
gan - cơ quan đích của virus.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8
Dưới tác động của virus, quá trình trao đổi chất ở gan bị rối loạn, lượng
glucogen trong gan giảm thấp, lượng lipit tăng cao do quá trình trao đổi
cholesterol bị đình trệ, do đó vịt con thiếu năng lượng, sức đề kháng giảm sút.
Ở giai đoạn sau virus trực tiếp phá hủy tế bào gan, tế bào nội mô huyết quản
gây hoại tử gan và xuất huyết đặc hiệu. Do tổ chức gan bị phá hủy, công năng
gan suy yếu, không còn chức năng giải độc làm chất độc trong quá trình trao
đổi chất tích tụ lại, con vật chết do ngộ độc.
2.1.5. Virus viêm gan vịt (Duck Hepatitis Virus = DHV).
- Hình thái và phân loại virus
Virus gây bệnh viêm gan ở vịt con là một ARN virus rất nhỏ, xuyên
qua màng lọc Besrkefld, Seitz EK. Sau khi lọc bệnh phẩm chứa virus qua
những màng này nó vẫn có tác dụng gây bệnh cho vịt con (Levine và
Fabricant, 1950; Aspline và Lauchlan, 1954; Reuss, 1959).
Dưới kính hiển vi điện tử virus là những hạt tròn có bề mặt xù xì, kích
thước 20 - 40nm (Nguyễn Thát, 1975) [15], không có vỏ bọc ngoài, có 32
capxome.
Trong quá trình nghiên cứu virus viêm gan vịt các nhà khoa học đã xác
định được 3 type gây bệnh khác nhau gây ra bệnh (OIE, 2000) [28].
- DHV type I (Picornavirus)
- DHV type II (Astrovirus)
- DHV type III ( Picornavirus)
Các type II và III được công nhận tồn tại riêng biệt và nó gây bệnh cho
vịt con đã miễn dịch với type I (Nguyễn Đức Lưu, 2002) [11].
* DHV type I (hay còn gọi là type cổ điển)
Type I phổ biến hơn và phân bố rộng rãi khắp thế giới, lần đầu tiên
được Levine và Fabricant phát hiện vào năm 1949 - 1950, phần lớn gây chết
cho vịt con 7 - 21 ngày tuổi, tỷ lệ chết cao 80 - 95%.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9
* DHV type II (type hiện đại)
Được Asplin xác định năm 1965 [17], đây là một Astrovirus, có đường
kính 28 - 30nm khi quan sát bằng kính hiển vị điện tử; Type II thường gây
bệnh cho vịt lớn hơn từ 2 - 3 tuần tuổi và gây tỷ lệ chết không đáng kể. Nó
gây chết cấp tính ở vịt, triệu chứng và bệnh tích giống so với type I.
* DHV type III
Do Toth (Mỹ) phát hiện năm 1969 [29], virus là một Picorna virus, có
tính kháng nguyên không quan hệ với virus viêm gan vịt type I, quan sát dưới
kính hiển vi điện tử trên tế bào thận vịt nhiễm virus cho thấy virus là loại
ARN có đường kính 30nm trong tế bào chất. Tổn thất của nó lên tới 20% với
vịt đã miễn dịch với type I. Type III là nguyên nhân gây nhiễm cấp tính ở vịt
con với dấu hiệu lâm sàng tương tự so với type I, nhưng khả năng gây nhiễm
type III kém hơn so với type I.
Sau đó người ta cũng phát hiện thêm một số type khác như: Ở Hà Lan,
Eipens phát hiện được một type cường độc hoàn toàn kí hiệu là H, Asplin ghi
nhận được một chủng cường độc kí hiệu là TN. Từ 1953 - 1963 ở Anh lại
xuất hiện 2 type khác nhau đó là: Type gây bệnh kí hiệu là MTWDP (DT)
WDP và Type không gây bệnh kí hiệu là MTCRD và M(DT)CRP.
2.1.6. Sức đề kháng của virus.
Virus có sức đề kháng cao với nhiệt độ: ở nhiệt độ 50
o
C, virus chịu
trong vòng 1 giờ; Với nhiệt độ 37
o
C ở trong dịch phôi, virus có thể sống hơn
35 ngày. Trên vỏ trứng, trong lò ấp virus bị khử hoạt lực sau 12 - 15 ngày; Ở
nhiệt độ 4
o
C virus tồn tại được 2 năm, ở nhiệt độ -14
o
C virus có thể sống
được 4 năm, -20
o
C có thể tồn tại được 9 năm.
Trong chuồng trại virus có thể sống đến 70 ngày, còn trong đất ao hồ có thể
sống 100 ngày. Thức ăn với nhiệt độ 12,5
o
C virus có thể sống đến 155 ngày.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10
Các chất sát trùng dễ dàng tiêu diệt virus nhanh chóng: NaOH 5% giết
chết virus trong vòng 6 giờ, phoóc - môn 1% diệt virus ít nhất trong vòng 3
giờ (Nguyễn Vĩnh Phước, 1978) [13]. Virus viêm gan vịt tương đối ổn định ở
nhiệt độ dưới 40 - 45
o
C nhưng bị vô hoạt một cách nhanh chóng ở nhiệt độ
cao hơn. Các dung dịch muối NaCl, Na
2
SO
4
, MgCl
2
, MgSO
4
có thể bảo quản
virus chống lại sự tác động của nhiệt độ ở 50
o
C. Virus cũng có thể sống ở pH
từ 3 - 9 trong vòng 48 giờ. Những thuộc tính này phù hợp với nhóm entero
virus (D. Davis, 1987) [19].
2.1.7 Triệu chứng lâm sàng và bệnh tích.
2.1.7.1 Triệu chứng lâm sàng
Thời kỳ nung bệnh từ 2 - 4 ngày nhưng nói chung biến động từ 1 - 5
ngày. Thời gian kéo dài của nó phụ thuộc vào độc lực của virus, vào liều
lượng tiêm và phương pháp gây bệnh cũng như tình trạng cơ thể.
Đối với bệnh do virus viêm gan vịt type I gây ra, bệnh xảy ra đột ngột,
thời gian nung bệnh ngắn chỉ trong vòng 24 giờ, bệnh lây lan nhanh, vịt chết
tập trung vào ngày thứ 2, 3, 4 sau khi mắc bệnh, tỷ lệ chết rất cao có khi lên
tới 100%.
Vịt bệnh không theo kịp bầy đàn, thường bị rớt lại ở đằng sau, ít vận
động, mệt mỏi, mắt nhắm, ngã vật ra, hai chân co giật rồi chết, vịt chết nằm ở
tư thế ngoẹo đầu ra đằng sau; Vịt chết nhanh chóng trong vòng 1 giờ sau khi
xuất hiện triệu chứng, trong thời gian dịch bệnh, vịt chết nhanh với số lượng
nhiều làm cho người chăn nuôi thấy ngỡ ngàng. Hình thái ngoẹo đầu ra đằng
sau, chân duỗi thẳng lúc chết thường được coi là một dấu hiệu đặc biệt của
bệnh viêm gan vịt do virus. Farmer gọi bệnh viêm gan vịt là hội chứng thoái
hóa mỡ và hoại tử tuyến tụy.
Triệu chứng ở đàn vịt bệnh do virus type II gây ra, quan sát thấy: Vịt
chết ở thể trạng còn tốt, chết trong vòng 1 - 2 giờ sau khi có biểu hiện triệu
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11
chứng, vịt khát nước, chảy nước mắt, tăng tiết urat, vịt chết do co giật cấp
tính. Vịt bị nhiễm bệnh thường chết, tỷ lệ chết từ 10 - 50% . Vịt trưởng thành
không mắc bệnh.
Bệnh do virus viêm gan vịt type III gây ra chỉ xảy ra ở vịt con, triệu
chứng giống như ở type I. Tỷ lệ mắc và tỷ lệ nhiễm hiếm khi vượt quá 30% .
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12
2.1.7.2. Bệnh tích
Bệnh tích đại thể
Bệnh do virus viêm gan vịt type I gây ra thường thấy ở gan, gan vịt
bệnh sưng to, nhũn, dễ bị nát khi ấn nhẹ. Trong một số trường hợp gan bị
nhũn có hình thái như gelatin. Bề mặt loang lổ do có nhiều xuất huyết, kích
thước và hình dạng khác nhau. Xuất huyết lan rộng không có ranh giới. Sự
xuất huyết gan không phải có ở tất cả vịt chết do bệnh Viêm gan virus. Sự
xuất huyết ở gan rõ rệt nhất khi nhỏ bệnh phẩm vào niêm mạc mũi. Khi tiêm
vào xoang phúc mạc, các cơ quan khác ít bị tổn thương và càng ít hơn khi gây
ra bệnh qua đường miệng. Trong gan có thể gặp các ổ hoại tử do bệnh Viêm
gan bị biến chứng sang bệnh Phó thương hàn. Lách có thể sưng, thận tụ máu.
Nguyễn Văn Cảm và cộng sự đã mổ khám 751 cá thể vịt chết trong các
ổ dịch tự nhiên thấy bệnh tích của gan biểu hiện ở 691 con (92,01%), ở thận
vịt 141 con (18,77%), ở lách 97 con (12,91%) (Nguyễn Đức Lưu, 2002)
Bệnh tích vi thể
Những biến đổi bệnh lý trong viêm gan virut ở vịt chủ yếu thấy ở gan.
Trong gan có những đám tế bào bị hoại tử, tăng sinh ống mật và xung quanh
mạch, lúc đầu là những bạch cầu hạt sau đó là tế bào lympho và các tương
bào. Các tác giả Fabricant, J., C.G. Rikard và P.P. Levine (1957) cho biết:
Các biến đổi vi thể rất phức tạp, những biến đổi nguyên thủy trong thể cấp
tính bao gồm thay đổi đầu tiên là hoại tử tế bào gan, tăng sinh ống mật cùng
với tăng sinh các tế bào viêm và xuất huyết ở các mức độ khác nhau. Ở vịt
con không chết có sự tái sinh của các tế bào nhu mô gan (Fabricant, 1957).
Phôi vịt 10 – 14 ngày tuổi được tiêm virus viêm gan vịt type I vào
xoang niệu mô, phôi chết trong khoảng 24 – 72 giờ sau khi tiêm và có biểu
hiện xuất huyết dưới da, gan xuất huyết có nhiều điểm hoại tử.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13
Nguyễn Văn Cảm và cộng sự (2001) khi nghiên cứu bệnh tích vi thể
của 180 cá thể phát hiện thấy tất cả gan của vịt có bệnh đều bị viêm, xuất
huyết hoại tử (100%) ở các mức độ khác nhau. Gan thoái hóa mỡ 84 con
(46,66%), tăng sinh các tế bào biểu mô ống mật. Gặp nhiều bạch cầu đơn
nhân ở quanh ống mật hoặc tập trung từng đám trong nhu mô gan, hồng cầu
thoát ra ngoài mạch quản lan tràn, tỷ lệ đến 100%.
Bệnh tích siêu vi thể
Gây nhiễm virus viêm gan vịt type I cho vịt 6 ngày tuổi bằng cách nhỏ
mũi hay tiêm bắp. Kết quả là sau 1 giờ có hiện tượng vỡ glycogen trong tế
bào gan và quan sát thấy những hạt hình cầu đường kính 100 – 300 nm, các tế
bào hoại tử sau 12 giờ nhiễm. Các hạt virus được tìm thấy sau 1 giờ và 18 đến
24 giờ gây bệnh (Adamiker,1969).
Sau khi gây nhiễm virus, quan sát thấy: Lách bị biến đổi sau 6 giờ, bị
hoại tử sau 24 giờ, thoái hóa nhân, tương bào, không tìm thấy tiểu thể virus,
có những biến đổi nhẹ trong cơ (Woolcock và Fabricant, 1997).
Không tìm thấy thể bao hàm trong tế bào gan bị bệnh, đây là điểm khác
đối với bệnh Dịch tả vịt.
Vịt bị nhiễm virus viêm gan vịt type II bệnh tích vi thể đặc trưng ở gan:
Các tế bào gan bị hoại tử lan tràn, tế bào ống dẫn mật tăng sinh trên một phạm
vi rộng.
2.1.8. Chẩn đoán bệnh viêm gan vịt
2.1.8.1. Dựa vào triệu chứng bệnh tích điển hình:
Chẩn đoán bệnh viêm gan vịt do virus ở vịt con có một số khó khăn vì
bệnh xuất hiện đột ngột và chết rất nhanh nên bệnh thường bị giải thích sai
lầm là do thức ăn và do chuồng trại kém. Khi chẩn đoán bệnh viêm gan vịt do
virus cần lưu ý những điểm sau:
- Bệnh xuất hiện đột ngột và diễn ra cấp tính.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14
- Chỉ gây tổn thương cho vịt trước 2 tháng tuổi, đặc biệt ở vịt
con 1 - 6 tuần tuổi.
- Gan có nhiều điểm xuất huyết.
2.1.8.2. Phân lập virus
Phương pháp chẩn đoán bệnh bằng kỹ thuật phân lập virus, cho kết quả
hữu hiệu và có thể biết được type của virus gây bệnh; Bệnh phẩm dùng chẩn
đoán là gan của vịt mắc bệnh, nghiền bệnh phẩm với dung dịch PBS
(Phosphate Buffer Saline) tỷ lệ 1/5 xử lý chloroform trong thời gian 10 - 15
phút ở nhiệt độ phòng để diệt tạp khuẩn.
2.1.8.3. Chẩn đoán phân biệt
Trong chẩn đoán bệnh viêm gan vịt do virus cần phân biệt với một số
bệnh khác:
- Chẩn đoán phân biệt với bệnh dịch tả vịt (Duck plague): Bệnh dịch tả
vịt xảy ra ở mọi lứa tuổi. Vịt có triệu chứng sưng đầu, đau mắt, liệt cánh, liệt
chân, tiêu chảy phân xanh, tốc độ vịt chết chậm hơn, vịt có bệnh tích viêm kết
mạc mắt, xuất huyết dưới da, loét đường tiêu hóa như: Niêm mạc dạ dày, ruột.
Virus dịch tả vịt rất mẫn cảm với chloroform và có thể tìm thấy thể bao hàm
trong chẩn đoán tổ chức học.
- Chẩn đoán phân biệt với bệnh Salmonellosis ở vịt: Bệnh xảy ra ở cả
vịt con, vịt giống. Vịt con ỉa chảy, phân trắng, gan có điểm hoại tử. Vịt giống
bị viêm buồng trứng, trứng non teo, dị hình, vịt giảm đẻ, vỏ trứng mỏng, dễ
vỡ; Vịt con chưa tiêu hết lòng đỏ; gan, lách, thận sưng, xung huyết bệnh có
thể chữa khỏi bằng kháng sinh (Nguyễn Vĩnh Phước, 1978) [13]. Trong
phòng thí nghiệm, vi khuẩn dễ dàng phân lập được bằng một số môi trường
thông thường: Môi trường thạch máu, thạch thường.
- Chẩn đoán phân biệt với bệnh nhiễm độc Aflatoxin (Aflatoxicosis):
Bệnh có triệu chứng gần giống bệnh viêm gan vịt, biểu hiện bệnh tích là gan
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15
sưng, có màu nhợt nhạt; thận và lách xuất huyết, bao tim và xoang bụng tích
nước. Vịt chết nhanh ở mọi lứa tuổi, gan sưng, rắn, nhu mô gan và thận bị phá
hủy nghiêm trọng nhưng không có tế bào viêm. Không có sự lây lan bệnh
sang các đàn vịt khác khi không dùng cùng một loại thức ăn.
2.1.8.4. Chẩn đoán huyết thanh học
Ngay từ khi virus được phát hiện, người ta đã dùng phản ứng trung hòa
virus với mục đích: định type virus, đánh giá phản ứng miễn dịch của cơ thể
đối với vắc xin và dùng trong điều tra dịch tễ.
- Phản ứng trung hòa được sử dụng để định type viêm gan vịt type I,
(Woolcock, 1998): dùng vịt con 1 - 7 ngày tuổi, mỗi con tiêm 1 - 2ml huyết
thanh miễn dịch hoặc kháng thể đặc hiệu chế từ lòng đỏ vào dưới da, sau 24
giờ tiến nhành tiêm virus cường độc với liều 10
3
LD
50
; Kết quả 80 - 100 % vịt
đối chứng chết, 80 - 100% vịt thí nghiệm sống sót.
- Dùng phản ứng bảo hộ chéo để phân biệt virus viêm gan vịt type I,
type II, type III: tiêm huyết thanh miễn dịch viêm gan vịt type I, type II cho
vịt 2 - 4 ngày tuổi; Sau 3 ngày tiến hành công cường độc virus phân lập được
(Gough, 1985) [23].
2.1.9. Phòng và chống bệnh viêm gan vịt.
2.1.9.1. Phòng bệnh
Trong phòng bệnh thì biện pháp hiệu quả nhất đó là phòng bệnh bằng
vệ sinh thú y kết hợp với sử dụng vắc xin:
+ Phòng bệnh bằng vệ sinh thú y trước hết phải áp dụng biện pháp vệ
sinh thú y với các cơ sở chăn nuôi vịt. Cách ly nghiêm ngặt đối với vịt con,
nhất là trong 4 - 5 tuần đầu.
+ Tiêu độc chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi trước khi thả vịt bằng nước
vôi 20%.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 16
+ Thức ăn và nước uống phải đảm bảo tốt. Thức ăn đầy đủ vitamin tăng
cường sức đề kháng cho vật nuôi, không bị nấm mốc, nước uống vệ sinh và
thường xuyên thay nước.
+ Tiêu diệt chuột: chuột cũng là vật mang trùng, chuột ăn vào thức ăn
và đào thải mầm bệnh ra môi trường xung quanh.
+ Thường xuyên tẩy ký sinh trùng cho vịt
- Phòng bệnh bằng vắc xin
Sử dụng vắc xin viêm gan vịt để phòng bệnh nhằm mục đích tạo cho vịt
con ở lứa tuổi cảm thụ với bệnh có miễn dịch và đề kháng được với bệnh.
Phương pháp tạo miễn dịch cho bệnh có nhiều cách:
+ Với vịt giống: vắc xin virus viêm gan vịt nhược độc type I được tiêm
3 lần vào các thời điểm 12, 8 và 4 tuần trước khi đẻ; Sau đó nên tái chủng vắc
xin 3 tháng/lần nhằm duy trì khả năng bảo vệ thích hợp đối với vịt con. Khi
đó miễn dịch đối với vịt con thường kéo dài từ 2 - 3 tuần tuổi.
+ Với vịt con mà vịt mẹ chưa được tiêm phòng thì nên tiêm vắc xin lúc
1 - 2 ngày tuổi.
Để tạo miễn dịch cho đàn vịt con với bệnh viêm gan vịt, ngoài việc sử
dụng vắc xin, còn có thể dùng kháng thể viêm gan vịt chế từ lòng đỏ trứng;
Vịt con mẫn cảm với virus viêm gan vịt type I có thể được phòng bệnh bằng
cách tiêm kháng thể viêm gan vịt type I chế từ lòng đỏ trứng gà; Tuy nhiên
miễn dịch này cho thời gian miễn dịch với bệnh ngắn. (OIE, 2000) [28].
Theo Gough và Spackman (1981) [22] có thể tạo được miễn dịch cao
cho đàn vịt con nếu sử dụng 3 lần vắc xin vô hoạt nhũ dầu cho vịt mẹ;
Các tác giả còn cho biết: dùng vắc xin nhược độc type I tiêm cho vịt
con lúc 2 - 3 ngày tuổi, đến 22 tuần tuổi sau tiêm nhắc lại bằng vắc xin vô
hoạt sẽ tạo được lượng kháng thể trung hòa cao hơn khi sử dụng 3 lần vắc xin
vô hoạt.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 17
2.1.9.2. Chống bệnh
Đối với bệnh viêm gan vịt do virus thì ta có thể tiến hành một số biện
pháp sau nhằm giảm thiểu thiệt hại cho người chăn nuôi:
+ Phát hiện bệnh sớm, can thiệp bằng cách tiêm huyết thanh miễn dịch
hay kháng thể viêm gan vịt chế từ lòng đỏ cho vịt. Bệnh do virus viêm gan vịt
type I gây ra, dùng huyết thanh miễn dịch của vịt khỏi bệnh type I tiêm cho
vịt con liều 0,5ml cho 1 con, hay dùng kháng thể viêm gan vịt type I chế từ
lòng đỏ. Tháng 8-2001, công ty HANVET chế tạo thành công kháng thể viêm
gan vịt, liều phòng 0,5ml/con, liều điều trị: 1ml/con đối với vịt con dưới 2
tuần tuổi và 1,5 - 2ml/ con đối với vịt 2 tuần tuổi, tiêm dưới da hoặc cho uống
(Nguyễn Hữu Vũ và cộng sự, 2001) [16]
+ Tiêm thẳng vắc xin vào ổ dịch;
+ Ngăn không cho mầm bệnh lây lan: không bán chạy vịt, không mua
vịt ở nơi có dịch, xử lý xác chết, dụng cụ chăn nuôi
2.1.10. Một số hiểu biết về vắc xin phòng bệnh viêm gan vịt
2.1.10.1. Vắc xin nhược độc
Virus cường độc dưới tác động của các yếu tố sinh học, tiêm truyền nhiều
lần qua động vật ít cảm thụ hoặc qua phôi, độc lực của virus giảm đi, virus
vẫn có khả năng nhân lên trong cơ thể vật chủ nhưng không gây bệnh. Virus
này được dùng làm vắc xin.
Nghiên cứu virus viêm gan vịt; Asplin (1958) [17], Reuss (1959) [34]
cho biết: virus viêm gan vịt cường độc sau khi truyền đời qua phôi gà, khả
năng gây bệnh cho vịt con giảm.
Theo Hwang (1956) [25] các chủng virus viêm gan vịt cường độc sau khi
đ2 cấy truyền qua phôi gà không còn khả năng gây bệnh cho vịt con nhưng
virus vẫn nhân lên trong tế bào các mô, so với chủng virus viêm gan vịt
cường độc thì mức độ nhân lên của virus này là thấp hơn.