Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Thực trạng hoạt động của bảo hiểm tiền gửi việt nam Chi nhánh khu vực Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.09 KB, 27 trang )

Lời nói đầu
Năm 2005, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) kỷ niệm 5 năm thành
lập, đánh dấu những bước phát triển đầu tiên trong thị trường tài chính Việt
Nam. Trải qua 5 năm xây dựng và trưởng thành, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
đã đóng góp một phần không nhỏ trong lĩnh vực bảo hiểm, lĩnh vực ngân
hàng, đảm bảo ổn định hoạt động của các tổ chức tín dụng, từ đó tạo sự an
tâm cho người gửi tiền, cho tổ chức tín dụng cũng như của toàn xã hội. Trong
giai đoạn thực tập tổng hợp tại Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam em đã
tìm hiểu được một vài nét về Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cũng như của Chi
nhánh.
Bản báo cáo thực tập tổng hợp gồm hai phần:
Phần một: Giới thiệu về Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.
Phần hai: Giới thiệu về Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam Chi nhánh khu
vực Hà Nội.
Phần một
Giới thiệu về BHTGVN

I. Quá trình hình thành và phát triển hoạt động BHTG
1. Sự ra đời hoạt động BHTG ở Việt Nam
Cùng với công cuộc đổi mới của đất nước bắt đầu vào năm 1986, Hệ
thống Ngân hàng Việt Nam đã triển khai kế hoạch đổi mới từ năm 1988.
Trong giai đoạn này, ngân hàng phải đối mặt với thực tế đầy thách thức: lạm
phát “phi mã”, lòng tin của người dân đối với ngân hàng đang bị giảm sút
nghiêm trọng. Một trong những nhiệm vụ đặt ra cho Hệ thống Ngân hàng
trong thời kỳ đầu đổi mới là kiềm chế lạm phát, củng cố niềm tin của dân
chúng đối với Hệ thống Ngân hàng Việt Nam.
Rút kinh nghiệm sau hậu quả hàng loạt hợp tác xã tín dụng nông thôn
và quỹ tín dụng đô thị trên toàn quốc bị đổ vỡ dây chuyền trong những năm
1988-1990, khi triển khai thí điểm mô hình Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND)
theo Quyết định số 390/QĐ-TTg ngày 27/7/1993 của Thủ tướng Chính phủ,
Quy tắc bảo hiểm trách nhiệm của QTDND đối với khoản tiền gửi có kỳ hạn


đã được ban hành (kèm theo Quyết định số 101/TCQĐ-BH ngày 1/2/1994 của
Bộ Tài chính). Theo Quyết định này, Bảo Việt đã triển khai nghiệp vụ BHTG,
đây là sự khởi đầu hoạt động BHTG công khai ở Việt Nam.
Hoạt động BHTG do Bảo Việt thực hiện phát triển chậm và bộc lộ
nhiều hạn chế. Tính đến năm 1995 chỉ có 162 QTDND tham gia BHTG, tiền
gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm chiếm 33,22% tổng số dư tiền gửi tại các
QTDND và chỉ chiếm 0,2% tổng số dư tiền gửi trong cả nước tại thời điểm
đó. Đến cuối năm 1996, có 300 QTDND tham gia BHTG, cuối quý I/1997 có
370 QTDND tham gia với số tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm là 322 tỷ
VND. Có thể nói, hoạt động BHTG do Bảo Việt thực hiện mới chỉ triển khai
được với số lượng rất nhỏ khách hàng là đơn vị có huy động tiền gửi (chỉ có
một số QTDND tham gia, còn các loại có huy động tiền gửi khác không tham
gia BHTG).
Hạn chế của hoạt động BHTG do Bảo Việt thực hiện trong thời gian
này chủ yếu là không đảm bảo các yếu tố quyết định thành công đối với hoạt
động này trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Ví dụ, trong thời gian này,
quy định tham gia BHTG là tự nguyện, hoạt động BHTG là vì mục đích lợi
nhuận, lợi ích duy nhất mà tổ chức tham gia BHTG có được là được chi trả
tiền gửi cho người gửi tiền khi tổ chức đó phá sản và không có khả năng
thanh toán, không có các hoạt động hỗ trợ tổ chức tham gia BHTG từ tổ chức
BHTG…
2. Quá trình thành lập của BHTGVN
Sau quá trình thực hiện đổi mới, hoạt động ngân hàng ở Việt Nam đạt
được trình độ phát triển nhất định: số lượng các đơn vị tham gia kinh doanh
ngân hàng tăng lên nhiều, hoạt động ngân hàng dần thể hiện tính thị trường.
Tính cạnh tranh trong huy động tiền gửi và cho vay là vấn đề bức bách đối
với các đối tác tham gia trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ và tín dụng.
Yếu tố rủi ro trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng ngày càng trở nên
phức tạp và cần có giải pháp phòng ngừa kịp thời. Cuộc khủng hoảng tài
chính, tiền tệ ở khu vực từ đầu năm 1997 phần nào đã có ảnh hưởng tới hoạt

động của Hệ thống Ngân hàng Việt Nam, đặc biệt là các ngân hàng đầu tư
vào các dự án liên doanh hoặc xuất nhập khẩu. Hơn nữa, xu thế hội nhập
trong khu vực và trên thế giới mang lại nhiều cơ hội cho các ngân hàng Việt
Nam đồng thời cũng phát sinh nhiều thách thức và rủi ro ở mức độ cao hơn.
Cũng với tốc độ mở cửa ngày càng tăng, sự tác động đối với thị trường huy
động vốn và tiêu thụ vốn trong nước cũng sẽ chịu tác động trực tiếp của
những thay đổi, biến động của thị trường tài chính và tiền tệ tại các nước
trong khu vực và trên thế giới.
Đồng thời, Luật các tổ chức tín dụng ban hành năm 1997 quy định “Tổ
chức tín dụng có trách nhiệm tham gia tổ chức bảo toàn hoặc bảo hiểm tiền
gửi” để bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Điều đó đặt ra nhu cầu cần thành
lập tổ chức bảo toàn tiền gửi theo đúng nghĩa của nó vào thời điểm này.
Tháng 6/1999: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chính thức thành lập
Ban trù bị thành lập Công ty Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Ban này chịu trách
nhiệm phối hợp với các cơ quan chức năng cùng các Bộ, ngành soạn thảo các
văn bản pháp lý khung cho hoạt động của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi và thực
hiện những công việc liên quan để chuẩn bị thành lập tổ chức BHTG tại Việt
Nam.
Ngày 01/09/1999: Chính phủ Nước CHXHCN Việt Nam ban hành
Nghị định số 89/1999/NĐ-CP về BHTG. Cho đến nay, đây là văn bản pháp lý
cao nhất điều chỉnh hoạt động BHTG. Đồng thời, nó cũng được sửa đổi, bổ
sung một số điều bằng Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/08/2005.
Ngày 09/11/1999: Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
218/1999/QĐ-TTg thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.
Ngày 07/07/2000: BHTGVN chính thức khai trương đi vào hoạt động.
II. Thực trạng hoạt động BHTGVN
1 . Tổ chức BHTGVN
BHTGVN là một tổ chức tài chính Nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu
lợi nhuận, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp
phần duy trì sự ổn định của tổ chức tín dụng, đảm bảo sự phát triển an toàn,

lành mạnh hoạt động ngân hàng. Để thực hiện được mục tiêu và nhiệm vụ đó,
BHTGVN có trách nhiệm thực hiện các hoạt động:
- Nắm bắt tình hình kinh tế, chính trị, xã hội liên quan tới hoạt động ngân
hàng.
- Thực hiện thông tin, tuyên truyền hoạt động BHTG đến công chúng.
- Giám sát và kiểm tra việc chấp hành các quy định về BHTG và an toàn
trong hoạt động ngân hàng đối với các tổ chức tham gia BHTG.
- Thực hiện các hoạt động hỗ trợ tổ chức tham gia BHTG.
- Thu phí BHTG từ tổ chức tham gia BHTG.
- Đầu tư vốn tạm thời nhàn rỗi để không ngừng bảo toàn và phát triển vốn.
- Chi trả BHTG và tham gia giám sát quá trình thanh lý tài sản tại các tổ
chức đã được chi trả BHTG.
- Tham gia xây dựng các cơ sở pháp lý có liên quan đến hoạt động BHTG
do các đơn vị ngoài BHTGVN chủ trì.
- Xây dựng các cơ chế quản lý nội bộ để triển khai hoạt động của BHTGVN
ngày càng hiệu quả hơn.
- Tham gia hợp tác quốc tế trong lĩnh vực BHTG.
2. Cơ cấu tổ chức của BHTGVN
Để triển khai được các nhiệm vụ trên đây, BHTGVN có cơ cấu tổ chức
bộ máy gồm hội đồng quản trị, ban điều hành, phòng, ban, bộ phận ở Hội sở
chính và sáu chi nhánh khu vực như trình bày ở sơ đồ.
Cơ quan trung ương của BHTGVN là Hội sở chính, có trụ sở tại Hà
Nội, bao gồm nơi làm việc của Ban Tổng giám đốc, Ban Kiểm soát và các
phòng, ban chức năng. Hoạt động của Hội sở chính là hoạch định các chính
sách và các quy định để triển khai các hoạt động của BHTG VN và giám sát,
kiểm tra việc thực hiện các chính sách và quy định được ban hành.
Các chi nhánh BHTGVN khu vực chịu trách nhiệm triển khai các
nghiệp vụ cụ thể tới các tổ chức tham gia BHTGVN. Hiện nay các chi nhánh
của BHTGVN đang tiến hành các nghiệp vụ đối với khách hàng tham gia
BHTG: nhận phí BHTG, nghiệp vụ kiểm tra, nghiệp vụ giám sát, nghiệp vụ

chi trả tiền bảo hiểm và theo dõi sau chi trả khi phát sinh, nghiệp vụ tuyên
truyền và quảng cáo, nghiệp vụ hỗ trợ khách hàng.
Khách hàng tham gia BHTG ở địa bàn nào sẽ do chi nhánh BHTGVN
ở địa bàn đó phục vụ. Hội sở chính quản lý trực tiếp các khách hàng ở một số
địa bàn chưa có chi nhánh khu vực. Các tổ chức thuộc đối tượng bắt buộc
tham gia BHTG làm thủ tục đăng ký tham gia BHTG tại các chi nhánh
BHTGVN trên địa bàn hoặc tại Hội sở chính theo phân vùng đảm nhận.
Khi được chấp nhận là tổ chức tham gia BHTG, tổ chức này sẽ thực
hiện trách nhiệm của tổ chức tham gia BHTG. Chi nhánh BHTGVN khu vực
sẽ thực hiện các nghiệp vụ của mình như nêu trên đối với các tổ chức tham
gia BHTG trên địa bàn. Hệ thống các ngân hàng thương mại Nhà nước có 4
ngân hàng lớn, đó là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam , Ngân hàng Công
thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Việt Nam, thuộc diện khách hàng trực tiếp tại Hội
sở chính của BHTGVN. Từ tháng 1/2004, 4 ngân hàng này được chuyển giao
cho Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam khu vực Hà Nội quản lý.
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của BHTGVN:
Hội đồng quản trị BHTGVN
Chủ tịch Hội đồng quản trị: ông Đỗ Khắc Hải
Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước-Uỷ viên Hội đồng quản trị: ông
Trần Minh Tuấn
Thứ trưởng Bộ Tài chính-Uỷ viên Hội đồng quản trị: bà Lê Thị Băng
Tâm
Tổng giám đốc-Uỷ viên Hội đồng quản trị: ông Bùi Khắc Sơn
Trưởng ban kiểm soát-Uỷ viên Hội đồng quản trị: ông Mai Minh Đệ
Ban điều hành BHTGVN
Tổng giám đốc : ông Bùi Khắc Sơn
Phó Tổng giám đốc: ông Phạm Xuân Áng
Phó Tổng giám đốc: ông Nguyễn Như Minh
Phó Tổng giám đốc: ông Nguyễn Mạnh Dũng

Phó Tổng giám đốc: ông Nguyễn Đình Lưu
Phó Tổng giám đốc: ông Hà Thế Ổn
Địa bàn hoạt động của các chi nhánh BHTG khu vực
Chi nhánh
khu vực
Địa bàn hoạt động
Hà Nội Hà Nội, Hà Tây, Hoà Bình, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc
Ninh, Bắc Giang
TPHCM TPHCM, Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình Thuận, Bình
Dương, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vũng Tàu, Tây
Ninh, Bình Phước
Đồng bằng sông
Cửu Long
Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Cần Thơ, Hậu
Giang,Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang
Nam Trung Bộ Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Định, Quảng
Ngãi, Quảng Nam, Đà Nẵng, Đắc Lắc, Đắc Nông, Gia
Lai, Kon Tum
Đông Bắc Bộ Quảng Ninh, Hải Dương, Thái Bình, Hải Phòng
Bắc Trung Bộ Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị,
Thừa Thiên Huế
3. Các hoạt động nghiệp vụ chính của BHTGVN
3.1. Nghiệp vụ kiểm tra tổ chức tham gia BHTG
BHTG có quyền kiểm tra tổ chức tham gia BHTG thực hiện các quy định về
BHTG và quy định về đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng. Nội dung
kiểm tra chấp hành các quy định BHTG bao gồm: kiểm tra hồ sơ pháp lý đảm
bảo là thành viên tham gia BHTG, kiểm tra việc niêm yết chứng nhận BHTG,
kiểm tra tính đầy đủ trong nộp phí, chấp hành thời hạn nộp phí và nộp phạt
(nếu có), kiểm tra việc cung cấp thông tin cho tổ chức BHTG. Tính đến

30/09/2003, BHTGVN đã kiểm tra được 85% số tổ chức tham gia BHTG,
trong đó kiểm tra chấp hành quy định về BHTG và an toàn trong hoạt động
chỉ thực hiện đối với Quỹ tín dụng nhân dân và ngân hàng cổ phần nông thôn;
các khách hàng còn lại chỉ kiểm tra chấp hành quy định về BHTG.
3.2. Nghiệp vụ giám sát tổ chức tham gia BHTG
Nghiệp vụ giám sát tổ chức tham gia BHTG được tiến hành trên cơ sở
thông tin thu thập được để nắm bắt tình hình hoạt động của các tổ chức tham
gia BHTG. Các nguồn thông tin chủ yếu mà BHTGVN có được bao gồm: các
loại báo cáo nhận được từ khách hàng, thông tin truy cập từ Ngân hàng Nhà
nước. Kết quả của công tác giám sát phản ánh tình hình nộp phí bảo hiểm,
tình hình tuân thủ một số chỉ tiêu về an toàn trong hoạt động ngân hàng.
3.3. Nghiệp vụ chi trả tiền bảo hiểm và theo dõi sau chi trả
Khi tổ chức tham gia BHTG bị phá sản hoặc bị đình chỉ hoạt động và mất
khả năng thanh toán, tổ chức tham gia BHTG làm thủ tục trình BHTGVN để
được chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm
tại tổ chức đó. Theo đó, BHTGVN (Hội sở chính hoặc chi nhánh khu vực
theo địa bàn phụ trách) thành lập đoàn chi trả tiến hành tổ chức chi trả tiền
bảo hiểm cho người gửi tiền ngay tại địa bàn của tổ chức tham gia BHTG đó
một cách nhanh gọn và thuận lợi. Người được chi trả có thể trực tiếp đến nhận
tiền mặt tại địa bàn chi trả tiền bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG vào thời
gian được công bố hoặc có thể đề nghị chuyển tiền qua ngân hàng hoặc bưu
điện đến một địa điểm khác. Tính đến 30/09/2003, BHTG VN đã tiến hành
chi trả cho 1.365 người gửi tiền, với tổng số tiền chi trả hơn 14 tỷ VND, tại
31 tổ chức tham gia BHTG bị chấm dứt hoạt động và mất khả năng thanh
toán.
Công tác theo dõi thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG sau chi
trả được tiến hành dưới hình thức nắm thông tin về hoạt động của Hội đồng
thanh lý thông qua chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh để đốc thúc việc thu
hồi trong thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG được chi trả, giám sát
việc thực hiện thanh toán cho các chủ nợ để đảm bảo trả nốt phần tiền gửi của

người gửi tiền trên hạn mức chi trả đã được BHTG VN thực hiện và hoàn
BHTGVN tiền đã chi trả. Tính đến ngày 30/09/2003, BHTGVN đã thu hồi
được 1.005 triệu VND.
Chỉ thị số 06/2003/CT-NHNN ngày 21/10/2003 quy định BHTGVN
được quyền tham gia vào Hội đồng thanh lý tổ chức tham gia BHTG được chi
trả tiền bảo hiểm, nhờ đó bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tốt hơn.
3.4. Nghiệp vụ tuyên truyền, quảng cáo
Hoạt động tuyên truyền đã được tiến hành với mục đích phổ cập thông
tin về hoạt động BHTG tới toàn thể công chúng. Các vấn đề về quyền lợi và
trách nhiệm của người gửi tiền, tổ chức tham gia BHTG, tổ chức BHTG, mục
đích vai trò của hoạt động này đã được BHTGVN tuyên truyền tới công
chúng trên các phương tiện thông tin đại chúng, ấn phẩm, hội thảo… Đến
nay, tại tất cả các tỉnh và thành phố, BHTGVN đã tổ chức hội thảo về BHTG
với thành viên tham gia là đại diện các tổ chức tham gia BHTG, các cơ quan
chính quyền địa phương liên quan, các cơ quan thông tấn báo chí và chi
nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh và thành phố. Cùng với BHTGVN, các tổ
chức tham gia BHTG cũng bắt đầu quảng cáo về hoạt động BHTG tới công
chúng. Một trang Web về BHTGVN cũng được thành lập trên mạng internet
để quảng bá về hoạt động này và trao đổi thông tin với cộng đồng được hiệu
quả hơn.
4. Kết quả sau 5 năm hoạt động
Sau 5 năm đi vào hoạt động BHTGVN đã đạt được những kết quả đáng
khích lệ trên nhiều mặt:
- Về tài chính, BHTGVN đã có được một nguồn lực nhất định để có thể xử
lý ngay quỹ tín dụng nhân dân, sau tích luỹ có thể xử lý hàng loạt quỹ tín
dụng và ngân hàng thương mại cổ phần.
- Về công nghệ, đã bước đầu thu thập được thông tin về các cơ quan liên
quan, tổ chức tham gia BHTG để thực hiện giám sát và quản lý tài chính.
- Về cơ cấu đã thành lập được 14 Phòng, Ban tại Trụ sở chính làm công tác
tham mưu cho Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc; thành lập 6 chi nhánh

khu vực giúp Tổng giám đốc triển khai thực hiện chức năng nhiệm vụ của
BHTGVN tại các khu vực; đã xây dựng được bộ máy hoạt động tương đối
hoàn chỉnh, về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu hoạt động hiện tại.
- Về hoạt động nghiệp vụ đã triển khai thực hiện có hiệu quả chính sách của
Nhà nước về BHTG, cấp và thu hồi Giấy chứng nhận BHTG, thu phí BHTG,
kiểm tra và giám sát tổ chức tham gia BHTG, chi trả tiền bảo hiểm, xử lý nợ,
đầu tư tài chính, góp phần thu hút nguồn vốn nhàn rỗi của dân cư góp phần
duy trì sự ổn định, đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh hoạt động ngân
hàng. Tính đến cuối năm 2004, số tiền gửi đạt 128.641 tỷ VND, tổng số chi
phí bảo hiểm thu được đạt 680 tỷ VND với mức thu phí đồng hạng 0,15%.
Công tác kiểm tra được tiến hành trên diện rộng bao gồm 107 cuộc kiểm tra
các ngân hàng và tổ chức tín dụng phi ngân hàng, 1.422 cuộc kiểm tra quỹ tín
dụng nhân dân. Trong giai đoạn củng cố, chấn chỉnh các tổ chức tín dụng,
BHTG đã góp phần xử lý một loạt các quỹ tín dụng yếu kém, không có khả
năng khôi phục, chi trả bảo hiểm 16,337 tỷ đồng tại 33 đơn vị trong các năm
2001-2004. Tính đến thời điểm này đã có 976 tổ chức tham gia BHTG.
- Về hoạt động đối ngoại và công tác đào tạo: Là một mô hình mới được
thành lập tại Việt Nam vì vậy việc học tập kinh nghiệm mô hình BHTG của
các nước tiên tiến là một nhu cầu cấp thiết. Trong những năm qua BHTGVN
đã xây dựng được chương trình đào tạo và hằng năm đã tổ chức các khoá đào
tạo, tập huấn nghiệp vụ, hội thảo, cử nhiều lượt cán bộ đi khảo sát, học tập
kinh nghiệm với nước ngoài. BHTGVN đã chính thức được công nhận và trở
thành thành viên chính thức của Hiệp hội bảo hiểm tiền gửi quốc tế ngày
07/02/2003.
Phần hai
Giới thiệu về BHTGVN Chi nhánh khu vực Hà Nội
I. Giới thiệu chung về BHTGVN Chi nhánh khu vực Hà Nội
1. Sự ra đời của Chi nhánh
Để hoạt động BHTG được triển khai rộng khắp BHTGVN đã thành lập
một mạng lưới hoạt động khá rộng với sáu chi nhánh trải dài từ Bắc chí Nam.

Và tại Hà Nội là BHTGVN Chi nhánh khu vực Hà Nội. Chi nhánh được
thành lập theo Quyết định số 108/2001/QĐ-HĐQT ngày 26/12/2001 của Chủ
tịch Hội đồng quản trị Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và chính thức khai trương
đi vào hoạt động vào ngày 27/05/2002. Chi nhánh thực hiện chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trên địa bàn các tỉnh,
thành phố: Hà Nội, Hà Tây, Hoà Bình, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Ninh và Bắc
Giang.
2. Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh
2.1. Cơ cấu tổ chức
Ngoài Ban giám đốc, Chi nhánh còn có các phòng: phòng Hành chính -
Nhân sự, phòng Tổng hợp, phòng Giám sát từ xa, phòng Kiểm tra và tư vấn
khách hàng 1, phòng Kiểm tra và tư vấn khách hàng 2, phòng Chi trả và theo
dõi thu phí, phòng Kế toán và Bộ phận kiểm soát nội bộ.
2.2. Nhiệm vụ chủ yếu của các phòng, ban
a. Phòng Hành chính-Nhân sự:
Thực hiện công tác văn thư, hành chính; cung cấp văn phòng phẩm, bố
trí phương tiện giao thông và thông tin liên lạc phục vụ nhiệm vụ công tác của
Chi nhánh; thực hiện công tác đối nội, đối ngoại theo quy định và uỷ quyền
của Giám đốc Chi nhánh; phối hợp với phòng Kế toán, Bộ phận kiểm soát nội
bộ tham mưu cho Ban giám đốc trong việc lập kế hoạch tài chính theo quy
định, thanh lý tài sản, công cụ lao động, và phối hợp với các bộ phận, phòng
liên quan khi kiểm kê tài sản; tổ chức các hội nghị sơ kết, tổng kết và các hội
nghị khác, làm thư ký các cuộc họp của Chi nhánh do Giám đốc hoặc Phó
giám đốc chủ trì; quản lý hồ sơ và theo dõi nhân sự đi, đến, làm thủ tục nâng
lương, thực hiện chế độ BHYT, BHXH, theo dõi, tổng hợp ngày, giờ công lao
động, nghỉ phép, làm thêm giờ của cán bộ viên chức trong Chi nhánh.
b. Phòng Tổng hợp:
Theo dõi, nắm bắt tình hình kinh tế - xã hội, tình hình biến động của
thị trường tiền tệ và Tài chính - Ngân hàng; tiếp nhận, tổng hợp kế hoạch
công tác và báo cáo thực hiện kế hoạch công tác của các phòng, bộ phận trong

Chi nhánh; lập các báo cáo định kỳ theo quy định và đột xuất theo yêu cầu
công tác; thực hiện công tác thông tin tuyên truyền và quảng bá về hoạt động
BHTG đến các tổ chức tham gia BHTG và công chúng; làm đầu mối triển
khai các hoạt động nghiên cứu khoa học, hỗ trợ công tác đào tạo phục vụ yêu
cầu hoạt động của Chi nhánh.
c. Phòng Giám sát từ xa:
Hướng dẫn, tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ đăng ký tham gia BHTG của các
tổ chức tham gia BHTG thuộc địa bàn quản lý; đề xuất, kiến nghị với Ban
giám đốc trình Tổng giám đốc BHTG VN cấp, thu hồi giấy Chứng nhận
BHTG đối với các tổ chức tham gia BHTG; quản lý và theo dõi hồ sơ các tổ
chức tham gia BHTG trên địa bàn; theo dõi, đôn đốc việc nộp báo cáo và khai
thác báo cáo, thông tin liên quan tới hoạt động của các tổ chức tham gia
BHTG trên địa bàn.
Giám sát việc chấp hành các quy định về BHTG và an toàn trong hoạt
động ngân hàng của tổ chức tham gia BHTG và kiến nghị đề xuất các biện
pháp chấn chỉnh những vi phạm trong quá trình giám sát phát hiện.
d. Phòng Kiểm tra và tư vấn khách hàng 1:
Xây dựng và thực hiện kế hoạch kiểm tra đối với các tổ chức tham gia
BHTG là các Ngân hàng thương mại, Ngân hàng liên doanh, chi nhánh Ngân
hàng nước ngoài và Công ty Tài chính trong việc chấp hành các quy định của
pháp luật về BHTG và an toàn trong hoạt động ngân hàng; thực hiện nghiệp
vụ cho vay hỗ trợ, bảo lãnh và mua lại nợ đối với các đối tượng nêu trên khi
gặp khó khăn về chi trả tiền gửi cho người gửi tiền theo quy định của BHTG
VN khi được uỷ quyền.
e. Phòng Kiểm tra và tư vấn khách hàng 2:
Đối tượng quản lý của phòng này là các tổ chức tín dụng hợp tác nên
chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của phòng này là kiểm tra việc chấp hành các
quy định của pháp luật về BHTG và an toàn trong lĩnh vực ngân hàng của các
tổ chức này; kiểm tra, theo dõi, kiến nghị, đề xuất giải pháp khắc phục khó
khăn khi chúng bị lâm vào tình trạng kiểm soát đặc biệt hay khi các tổ chức

này bị xếp loại yếu kém. Đồng thời, thực hiện nghiệp vụ cho vay hỗ trợ, bảo
lãnh và mua lại nợ đối với các tổ chức tín dụng hợp tác gặp khó khăn về chi
trả tiền gửi cho người gửi tiền theo quy định của BHTG VN.
f. Phòng Chi trả và theo dõi thu phí:
Tiếp nhận, kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của hồ sơ đề nghị chi trả tiền
bảo hiểm; lập kế hoạch, phương án chi trả báo cáo Giám đốc làm cơ sở để
trình cấp có thẩm quyền phê duyệt; thực hiện nhiệm vụ chi trả tiền bảo hiểm
cho người gửi tiền tại tổ chức tham gia BHTG VN trên địa bàn quản lý và
không thuộc địa bàn quản lý khi có chỉ định bằng văn bản của BHTG VN; đại
diện cho BHTG VN trước các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và các bên
liên quan trong việc giải quyết các thủ tục thanh lý, phá sản với tư cách là chủ
nợ của tổ chức tham gia BHTG đối với số tiền bảo hiểm đã chi trả cho người
gửi tiền; hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc việc tính và nộp phí bảo hiểm, xử lý
những vướng mắc, kiến nghị liên quan đến việc tính và nộp phí.
g. Phòng Kế toán:
Tiếp nhận, quản lý vốn và tài sản theo quy định của Nhà nước và
BHTG VN; tổ chức mở sổ sách, báo biểu kế toán, thực hiện hạch toán kế
toán, lưu trữ chứng từ, sổ sách theo quy định; lập kế hoạch thu - chi hàng quý,
năm, kế hoạch bổ sung, thực hiện thu – chi theo kế hoạch được duyệt, lập các
báo cáo tài chính theo quy định, đồng thời làm tham mưu cho Giám đốc về
các vấn đề liên quan đến quản lý tài chính, kế toán.
i. Bộ phận kiểm soát nội bộ:
Kiểm tra việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các phòng, bộ phận
thuộc Chi nhánh, lập báo cáo kết quả kiểm tra, kiến nghị các biện pháp nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động; làm đầu mối phối hợp với đoàn thanh tra, kiểm
toán của Nhà nước và đoàn kiểm soát, kiểm toán nội bộ của BHTG VN trong
việc thực hiện nhiệm vụ của các đoàn này tại Chi nhánh khi được yêu cầu.
II. Thực trạng hoạt động của BHTGVN Chi nhánh khu vực Hà Nội
Sau hơn 3 năm hoạt động, Chi nhánh đã đạt được những kết quả đáng
khích lệ:

1. Cấp giấy Chứng nhận tiền gửi
- Cấp mới cho 16 tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
- Thu hồi giấy Chứng nhận BHTG đối với 7 đơn vị
- Tiếp nhận từ Trung ương 04 Ngân hàng thương mại, từ Chi nhánh Thành
phố Hồ Chí Minh 01 Công ty tài chính.
Như vậy, tính đến 31/03/2005 tổng số tổ chức tham gia BHTG trên địa
bàn là 201 đơn vị, tăng so với ngày đầu thành lập là 14 đơn vị, gồm:
+ 04 Ngân hàng thương mại Nhà nước;
+ 05 Ngân hàng thương mại cổ phần đô thị;
+ 09 Chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
+ 01 Ngân hàng liên doanh;
+ 03 Công ty Tài chính;
+ 01 Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương;
+ 178 Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở.
Ngoài việc cấp đổi 272 giấy Chứng nhận theo mẫu mới theo Công văn
số 234/CV-BHTG10 ngày 15/05/2003 của Tổng giám đốc BHTG VN, Chi
nhánh đã cấp đổi giấy Chứng nhận bảo hiểm tiền gửi cho 03 đơn vị có thay
đổi tên giao dịch. Và đến cuối tháng 3/2005 Chi nhánh đã cấp bổ sung cho 21
đơn vị là các chi nhánh và các điểm giao dịch của một số tổ chức tham gia
BHTG trên địa bàn.
2. Hoạt động kiểm tra, giám sát
2.1. Kiểm tra tại chỗ
Tính đến 31/03/2005 Chi nhánh đã tiến hành 253 cuộc kiểm tra tại chỗ
đối với các tổ chức tham gia BHTG trên địa bàn. Trong đó:
+ NHTM Nhà nước: 0 cuộc
+ NHTM cổ phần đô thị: 06 cuộc
+ NH liên doanh: 01 cuộc
+ Chi nhánh NH nước ngoài: 12 cuộc
+ Công ty Tài chính: 04 cuộc
+ Hệ thống QTDND: 230 cuộc (QTDTW và 299 QTN cơ sở)

Đối với khối Ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, Chi nhánh Ngân
hàng nước ngoài, Ngân hàng liên doanh, Công ty Tài chính và QTDND trung
ương Chi nhánh chỉ kiểm tra việc chấp hành các quy định về BHTG. Đối với
các QTDND cơ sở Chi nhánh tiến hành kiểm tra toàn diện cả việc thực hiện
các quy định về BHTG và các quy định về an toàn trong hoạt động Ngân
hàng trừ một số đơn vị khi Chi nhánh tiến hành kiểm tra Thanh tra NHNN
mới kiểm tra thì Chi nhánh chỉ tiến hành kiểm tra việc thực hiện các quy định
về BHTG.
Kết quả kiểm tra:
- Về việc vi phạm các quy định về BHTG: có khoảng 27% cuộc kiểm tra hồ
sơ pháp lý nộp thiếu hoặc nộp không đúng quy định so với hồ sơ đăng ký
tham gia BHTG; khoảng 27% cuộc kiểm tra đơn vị thực hiện chưa đầy đủ
việc chấp hành các quy định về thông tin báo cáo; các đơn vị đã thực hiện
nghiêm túc việc niêm yết Chứng nhận BHTG; về việc tính phí BHTG: qua
các năm số đơn vị vi phạm đã giảm dần, năm 2002 có 70% đơn vị được kiểm
tra vi phạm tính và nộp phí, đến hết Quý I/2005 con số này chỉ là 27%.
Nguyên nhân chủ yếu là do đơn vị lấy nhầm, lấy sót số dư đối tượng tiền gửi
được bảo hiểm tính phí, áp dụng sai công thức tính phí, làm tròn số không
đúng quy định.
- Về việc chấp hành các quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng:
+ Các đơn vị được kiểm tra đều đảm bảo đúng quy định về mức vốn điều lệ
so với vốn pháp định. Vốn điều lệ đều tăng dần so với ban đầu do trích từ lợi
nhuận hàng năm, từ vốn góp thành viên. Quy định về mức vốn góp tối thiểu
của mỗi thành viên: vẫn còn đơn vị có thành viên góp vốn chưa đủ mức vốn
góp tối thiểu, đây là những thành viên gặp khó khăn về kinh tế hoặc đi làm ăn
xa…Tỷ lệ vốn góp cao nhất của các thành viên đến thời điểm kiểm tra các
đơn vị đều chấp hành đúng quy định.
+ Tại thời điểm kiểm tra, có khoảng 50% cuộc kiểm tra đơn vị không duy trì
tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8% trở lên, có 2 đơn vị sử dụng nguồn vốn ngắn
hạn cho vay trung và dài hạn vượt quá tỷ lệ quy định.

+ Các đơn vị đều đảm bảo tỷ lệ khả năng chi trả (>1).
+ Có khoảng 24% cuộc kiểm tra QTDND cơ sở trích lập dự phòng rủi ro
chưa đúng quy định.
Qua 253 cuộc kiểm tra trực tiếp tại các tổ chức tham gia BHTG trong
thời gian qua, Chi nhánh đã có những kiến nghị sát thực, giúp các đơn vị có
biện pháp giảm thiểu đáng kể những sai sót, góp phần đảm bảo hoạt động
kinh doanh của đơn vị an toàn và ngày càng phát triển.

2.2. Công tác Giám sát từ xa
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác giám sát đối với các tổ
chức tham gia BHTG, định kỳ hàng quý Chi nhánh đã tiến hành phân tích,
đánh giá các tổ chức tham gia BHTG, tổng hợp kết quả và lập báo cáo giám
sát gửi BHTGVN theo quy định. Căn cứ kết quả giám sát, Chi nhánh đã tiến
hành gửi 710 bản thông báo, cảnh báo đến các tổ chức tham gia BHTG trên
địa bàn vi phạm những quy định của Nhà nước về BHTG, quy định đảm bảo
an toàn trong hoạt động ngân hàng như: tỷ lệ nợ quá hạn cao, chưa gửi và gửi
thiếu báo cáo, trích lập dự phòng rủi ro chưa đúng quy định, sử dụng vượt
giới hạn vốn tự có để đầu tư, chưa đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Đồng
thời kiến nghị và phối hợp chặt chẽ với chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh,
thành phố trên địa bàn trong việc kiểm tra, đôn đốc các tổ chức tham gia
BHTG có biện pháp chấn chỉnh tồn tại, sai sót.
Tình hình chấn chỉnh vi phạm, khắc phục tồn tại và thực hiện nghiêm
túc quy định của Nhà nước về BHTG cũng như an toàn trong hoạt động ngân
hàng đã có chuyển biến đáng kể, số đơn vị vi phạm ngày càng giảm và các vi
phạm được khắc phục dần.
Về tổ chức, hiện tại Chi nhánh có 12 cán bộ làm công tác Giám sát từ
xa, trong đó có 02 Phó trưởng phòng và 10 nhân viên, trình độ đều đã được
qua đào tạo cơ bản về ngành ngân hàng.
3. Tính và nộp phí BHTG
Đến hết tháng 03/2005 trên địa bàn Chi nhánh quản lý 201 tổ chức

tham gia BHTG (có 09 đơn vị nộp phí 2 kỳ/năm và 192 đơn vị nộp phí 4
kỳ/năm). Trong thời gian qua, nhìn chung các đơn vị đều chấp hành tốt quy
định của Nhà nước về tính và nộp phí BHTG.
Tính từ kỳ thu phí quý III/2002 đến kỳ thu phí quý I/2005 tổng số phí
các đơn vị nộp cho Chi nhánh là gần 170.000.000.000 đồng, trong đó số phí
nộp đúng hạn là khoảng 168.500.000.000 đồng (chiếm 99%), số phí nộp
chậm là gần 1.300.000.000 đồng (chiếm 0.01%).
Tổng số lượt đơn vị vi phạm các quy định về tính và nộp phí là 605
lượt, Chi nhánh đã gửi 339 thông báo, cảnh báo về việc vi phạm phí tới các
đơn vị. Tuy nhiên, các đơn vị nộp chậm hoặc nộp thiếu phí với số tiền nhỏ khi
tính ra tiền phạt rất nhỏ nên vì nhiều lý do khách quan nên Chi nhánh chỉ tiến
hành nhắc nhở, cảnh báo. Cho đến Quý I/2005 số đơn vị vi phạm giảm đáng
kể so với thời kỳ đầu khi Chi nhánh mới được thành lập.
4. Về chi trả tiền gửi được bảo hiểm và thu hồi vốn qua thanh lý
4.1. Chi trả tiền bảo hiểm
Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam khu vực Hà Nội từ khi thành
lập đến nay đã thực hiện chi trả bảo hiểm cho người gửi tiền tại 02 QTDND
cơ sở:
- QTDND Đồng Ích, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Thời gian thực hiện
chi trả là 23/11/2002 với tổng số tiền là gần 47.300.000 đồng.
- QTDND Thị trấn Thắng, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang. Thời gian chi
trả tiền bảo hiểm là 10/02/2003, tổng số tiền là lên tới 172.000.000 đồng.
Việc chi trả tiền bảo hiểm một mặt đã đảm bảo trật tự an ninh chính trị
và an toàn xã hội tại địa phương, mặt khác tạo lòng tin của người dân vào cơ
chế chính sách của Đảng, Nhà nước trong việc thực hiện chính sách BHTG
cho người gửi tiền, góp phần đảm bảo hoạt động an toàn của các tổ chức tín
dụng nói chung và hệ thống QTDND nói riêng.
4.2. Tình hình thanh lý QTD bị giải thể đã được chi trả tiền bảo hiểm
Số tiền đã thu hồi được trong thanh lý là gần 707.600.000 đồng (chiếm
33,5% so với tổng số nợ phải thu hồi), số tiền đã chi trong thanh lý là

622.200.000 đồng.
Công tác thu hồi trong thanh lý tại Hội đồng thanh lý QTDND Song
Phượng đạt được kết quả tương đối tốt, tuy nhiên một số Hội đồng thanh lý
kết quả thu hồi rất thấp so với tổng các khoản phải thu (Quỹ Song Phượng đạt
69,8%; Quỹ Lê Lợi đạt 12%; Quỹ Đồng Ích đạt 3,7%; QTD thị trấn Thắng
đạt 3,7%). Theo đánh giá của các Hội đồng thanh lý thì khả năng thu thực tế
đối với các khoản nợ còn lại tỷ lệ đạt thấp (Quỹ Song Phượng 40,5%; Lê Lợi
60%, thị trấn Thắng 10%). Đến thời điểm này, hiệu quả công tác thanh lý
thấp, có dấu hiệu biểu hiện của sự trì trệ tại một số Hội đồng thanh lý
QTDND dẫn đến kết quả thu hồi trong thanh lý chỉ đạt 32% trong tổng các
khoản thu, kết quả thanh toán cho các chủ nợ cũng chỉ đạt 28,4% trong tổng
các khoản phải trả. Thời hạn hoạt động của các Hội đồng thanh lý thì kéo dài,
trên thực tế đã vi phạm quy định về thời hạn thanh lý.
Nguyên nhân chủ yếu do nhận thức, trình độ của một số cán bộ tham
gia thành viên Hội đồng thanh lý, cấp Uỷ, Chính quyền địa phương chưa nhận
thức đúng đắn về vai trò, ý nghĩa của công tác thanh lý. Về cơ chế, chính sách
của công tác thanh lý còn nhiều bất cập, chưa có cơ chế xử lý nợ đối với các
khoản nợ không còn khả năng thu nợ và thanh toán nợ. Công tác tham mưu,
chỉ đạo, giám sát của pháp luật đối với các cán bộ quản trị điều hành còn
nhiều sai phạm.
5. Công tác thông tin tuyên truyền
Ngay từ khi thành lập, Ban lãnh đạo Chi nhánh đã quyết tâm thực thi công
tác thông tin tuyên truyền bằng nhiều hình thức:
- Nghiên cứu, xây dựng nội dung khởi xướng tuyên truyền bằng tờ rơi
quảng bá, bìa kẹp tài liệu…
- Tổ chức các hội nghị khách hàng: tổng số 14 hội nghị
+ năm 2002 tổ chức: 03 hội nghị;
+ năm 2003 tổ chức: 04 hội nghị;
+ năm 2004 tổ chức: 05 hội nghị;
+ quý I/2005 tổ chức: 02 hội nghị với hình thức là lớp tập huấn nghiệp vụ về

BHTG.
- Chi nhánh luôn tổ chức công tác nghiên cứu lý luận và thực tiễn về hoạt
động BHTG để tham gia viết các tin, bài có chất lượng gửi đăng trên Tạp chí
chuyên, báo ngành để tuyên truyền về chính sách BHTG. Tổng số bài viết đã
được đăng tải: 13 bài và một số tin ngắn.
Để phục vụ công tác phổ cập thông tin về BHTG theo một hình thức tuyên
truyền mới, vừa qua cuốn sách “Bảo hiểm tiền gửi nguyên lý, thực tiễn và
định hướng” đã được xuất bản.
- Chi nhánh đã cử nhiều đoàn công tác tham dự Đại hội hết nhiệm kỳ, Đại
hội thường niên, Hội nghị khách hàng, Hội nghị tổng kết, Lễ khai trương hoạt
động… của một số QTDND cơ sở. Thông qua diễn đàn Hội nghị để tuyên
truyền về chính sách BHTG đến công chúng.
Nhìn chung, trong thời gian qua Chi nhánh đã thực hiện tốt công tác thông
tin tuyên truyền tới công chúng với nhiều hình thức phong phú và qua đó giúp
các tổ chức tín dụng nhận thức, hiểu rõ hơn về BHTG, nghiệp vụ BHTG và
vai trò của BHTG. Hoạt động thông tin tuyên truyền của Chi nhánh cũng làm
cho mối quan hệ giữa tổ chức tham gia BHTG và tổ chức BHTG được gắn
bó, hợp tác ngày càng hiệu quả hơn. Tuy nhiên, hoạt động tuyên truyền của
Chi nhánh mới chỉ đối với các tổ chức tín dụng tham gia BHTG, chưa đi sâu
vào đối tượng là người gửi tiền.
6. Các mặt công tác khác
6.1. Công tác tổ chức nhân sự
Đến 31/03/2005 tổng số cán bộ, viên chức của Chi nhánh là 65 người,
tăng so với ngày đầu thành lập là 26 người, trong đó:
- Tiếp nhận từ hệ thống Ngân hàng và Bảo hiểm tiền gửi: 04 cán bộ;
- Tiếp nhận từ đơn vị khác: 10 cán bộ;
- Tuyển dụng mới: 12 cán bộ.
Công tác tiếp nhận và tuyển dụng được thực hiện theo đúng quy định
của BHTG VN.
*Trình độ chuyên môn:

- Học vị tiến sỹ: 01 cán bộ, chiếm 1,54%;
- Học vị thạc sỹ và trên đại học: 05 cán bộ, chiếm 7,69%;
- Đại học: 46 cán bộ, chiếm 70,77%;
- Cao đẳng và trung cấp: 07 cán bộ, chiếm 10,77%;
- Lái xe và phục vụ: 06 cán bộ, chiếm 9,23%.
*Trình độ ngoại ngữ:
- 47 cán bộ có trình độ ngoại ngữ tiếng Anh từ chứng chỉ A trở lên;
- 18 cán bộ chưa có chứng chỉ ngoại ngữ, trong đó có 06 người là lái xe và
nhân viên phục vụ.
Trong số cán bộ có trình độ ngoại ngữ có 02 người biết 03 ngoại ngữ
(Anh, Nga, Nhật/Anh, Pháp, Trung) và có 03 người biết 02 ngoại ngữ (Anh,
Nga/Anh, Pháp).
*Trình độ tin học:
Phần lớn cán bộ, viên chức trong Chi nhánh mới qua lóp đào tạo tin
học cơ bản, chỉ có 02 cán bộ có trình đô đại học.
*Cơ cấu tổ chức:
+ Ban Giám đốc: 03 người;
+ Lãnh đạo cấp phòng: 11 người;
+ Cán bộ, viên chức: 47 người.
Đến nay, Chi nhánh có 07 Phòng và Bộ phận Kiểm soát nội bộ.
*Điểm mạnh, yếu của lãnh đạo và cán bộ, viên chức Chi nhánh
Các cán bộ trong Ban lãnh đạo Chi nhánh đều có trình độ chuyên môn
cao (01 tiến sỹ, 01 người đang làm nghiên cứu sinh, 01 người đang học cao
học), được đào tạo tại các trường đại học thuộc khối kinh tế, có kinh nghiệm
công tác trong lĩnh vực ngân hàng, tuổi đời còn trẻ, nhiệt tình, năng động, tinh
thần đoàn kết và trách nhiệm cao trong công việc.
Cán bộ, viên chức của Chi nhánh phần lớn là trẻ, đa số được đào tạo
qua các trường lớp chuyên ngành kinh tế, tài chính – ngân hàng, nhiệt huyết
trong công việc nhưng chưa nhiều kinh nghiệm trong công tác. Trong thời
gian qua, cán bộ, viên chức Chi nhánh không ngừng vượt khó, nỗ lực vươn

lên trong công tác, trau dồi kiến thức để hoàn thành tốt các nhiệm vụ được
giao.
*Vấn đề đào tạo và phát triển nguồn nhân lực:
Trong thời gian qua, Chi nhánh luôn quan tâm đặc biệt đến vấn đề đào
tạo và đào tạo lại cán bô, viên chức. Ngoài các lớp tập huấn nghiệp vụ do Bảo
hiểm tiền gửi Việt Nam cũng như Chi nhánh tổ chức, Chi nhánh còn chủ động
liên hệ với các tổ chức đào tạo nước ngoài (học viện IMF) để cử cán bộ tham
gia các khoá đào tạo ngắn hạn do nước ngoài tài trợ toàn bộ kinh phí tại các
nước trong khu vực Đông Nam Á cử cán bộ tham gia các khoá đào tạo ngắn
và dài ngày tại các trường Đại học và Trung tâm đào tạo.
6.2 Công tác Kiểm soát nội bộ, Kế toán
Các nghiệp vụ kinh tế phát sinh được Chi nhánh tổ chức hạch toán đầy
đủ, kịp thời, chính xác. Cán bộ Kế toán của Chi nhánh luôn được cập nhật,
nghiên cứu các văn bản chế độ chi tiêu để công tác Kế toán – Tài chính tại
Chi nhánh được thực hiện theo đúng quy định của Nhà nước và của Bảo hiểm
tiền gửi Việt Nam. Ngoài ra, cán bộ thực hiện công tác kế toán của Chi nhánh
luôn hỗ trợ các phòng nghiệp vụ hoàn thành kế hoạch công tác trong các năm
như tuyên truyền, kiểm tra, giám sát…
Bộ phận Kiểm soát nội bộ của Chi nhánh thường xuyên theo sát hoạt
động nghiệp vụ của các phòng, góp phần giảm thiểu sai sót và khắc phục kịp
thời những mặt còn tồn tại. Từ khi được thành lập đến nay, Bộ phận Kiểm
soát nội bộ của Chi nhánh đã thực hiện 26 lượt kiểm tra việc thực hiện chức
năng nhiệm vụ của các phòng nghiệp vụ, giúp các phòng nhận thức được
những thiếu sót trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ, qua đó có biện
pháp chỉnh sửa, khắc phục các thiếu sót.
Có thể nói, công tác Kế toán và Kiểm soát nội bộ Chi nhánh ngay từ
ngày đầu thành lập đã tích cực tham mưu giúp Ban giám đốc, góp phần không
nhỏ trong việc thực hiện có kết quả các mặt hoạt động của Chi nhánh.
III/ Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị trong việc triển khai các
hoạt động nghiệp vụ

1- Để công tác thu phí bảo hiểm tiền gửi được khoa học và chính xác, đề nghị
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam sớm ban hành quy trình theo dõi thu phí thống
nhất trong toàn bộ hệ thống;
2- Hiện nay công tác giám sát từ xa chủ yếu là áp dụng các ứng dụng tin học
văn phòng và được thực hiện hoàn toàn thủ công do vậy độ chính xác của số
liệu không cao, việc lưu trữ số liệu, thông tin không đảm bảo an toàn. Đề nghị
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam nghiên cứu sớm triển khai áp dụng chương trình
phần mềm giám sát từ xa;
3- Việc cấp bổ xung giấy Chứng nhận bảo hiểm tiền gửi đến từng Chi nhánh,
điểm giao dịch huy động tiền gửi của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi là
một chủ trương đúng đắn và được các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
đánh giá cao. Tuy nhiên, do Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trước đây chỉ yêu
cầu tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi liệt kê số chi nhánh, số điểm giao dịch
nên hiện tại Chi nhánh Khu vực không nắm bắt được Bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam có chỉ đạo cụ thể thống nhất trong toàn bộ hệ thống để có thông tin tổng
hợp phục vụ cho triển khai các mặt hoạt động nghiệp vụ;
4- Để việc triển khai hoạt động thông tin tuyên truyền đạt hiệu quả cao hơn,
đề nghị Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam nghiên cứu ban hành đề cương nội dung
tuyên truyền phù hợp, thống nhất trong toàn hệ thống;
5- Hiện nay mới có hướng dẫn của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam về nghiệp vụ
kiểm soát công tác kiểm tra tại các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi (tại
Công văn số 513/CV-BHTG9 ngày 23/9/2004). Còn đối với các nghiệp vụ
khác hiện nay như Giám sát từ xa, Kế toán – Tài chính, xây dựng cơ bản chưa
có đề cương hướng dẫn chi tiết, do vậy có những khó khăn nhất định đối với
công tác kiểm soát việc thực hiện các nghiệp vụ này;
6- Để bắt kịp tốc độ phát triển của ngành ngân hàng nói riêng và nền kinh tế
nói chung, đề nghị Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có các khoá đào tạo nghiệp
vụ mới trong và ngoài nước mà hiện nay các ngân hàng đang áp dụng;
7- Trang thiết bị phục vụ cho công tác tại Chi nhánh hiện nay mới chỉ có 4
máy tính xách tay, 2 điện thoại di động nên khi có nhiều đoàn đi kiểm tra, Chi

nhánh không đủ máy tính xách tay và điện thoại di động để bố trí cho các
đoàn. Vì vậy, Chi nhánh kính đề nghị Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trang bị
thêm cho Chi nhánh các thiết bị trên để đáp ứng nhu cầu sử dụng của các
đoàn kiểm tra của Chi nhánh.
Phần ba
Định hướng hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
trong thời gian tới
I. Định hướng hoạt động của BHTGVN
1. Xây dựng chiến lược phát triển BHTG từ nay đến năm 2010 với mục tiêu
phát triển bền vững, rộng khắp, hiện đại, hội nhập quốc tế.
2. Chuẩn bị các điều kiện trình Chính phủ và Quốc hội xây dựng Pháp lệnh về
BHTG.
3. Thông qua thực tiễn hoạt động, đề xuất với Nhà nước sửa đổi, bổ sung cơ
chế chính sách về BHTG phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội Việt
Nam trong từng giai đoạn và phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế.
4. Hoàn thiện cơ chế quản lý, nâng cao năng lực quản trị điều hành hoạt động
của BHTGVN.
5. Tăng cường năng lực tài chính đủ sức thực hiện chức năng nhiệm vụ của
mình với sự hỗ trợ của Nhà nước, thực hiện quản lý tài sản an toàn và mang
lại hiệu quả kinh tế cao.
6. Nâng cao và hoàn chỉnh hoạt động nghiệp vụ kiểm tra, giám sát đối với tổ
chức tham gia BHTG.
7. Tiếp tục triển khai hoạt động nghiệp vụ hỗ trợ tài chính đối với tổ chức
tham gia BHTG.
8. Tăng cường hoạt động truyền thông để nâng cao nhận thức và sự ủng hộ
của cộng đồng và các tổ chức tham gia BHTG đối với vai trò và vị trí của
hoạt động BHTGVN.
9. Chủ động tăng cường mở rộng cung cấp thông tin với các nước thành viên
có mô hình tốt trong Hiệp hội bảo hiểm tiền gửi quốc tế, để trao đổi kinh
nghiệm quản trị điều hành và các nghiệp vụ hoạt động để xây dựng tổ chức

BHTG ngày càng phát triển vững mạnh.
II. Định hướng hoạt động của BHTGVN Chi nhánh khu vực Hà Nội
Trước kế hoạch của BHTGVN, Chi nhánh đã đề ra kế hoạch công tác như
sau:
1. Theo dõi, nắm bắt tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn, tình hình biến
động của thị trường tiền tệ có liên quan đến hoạt động ngân hàng, hoạt động
của BHTG.

×