Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

hiện trạng kỹ thuật và tài chính sản xuất giống cua biển (scylla paramamosain) ở một số tỉnh đồng bằng sông cửu long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.29 KB, 13 trang )


1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN









HIỆN TRẠNG KỸ THUẬT VÀ TÀI CHÍNH SẢN XUẤT
GIỐNG CUA BIỂN (Scylla paramamosain) Ở MỘT SỐ TỈNH
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG




LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN


















Cần Thơ, 12/ 2014

2





TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN





HIỆN TRẠNG KỸ THUẬT VÀ TÀI CHÍNH SẢN XUẤT
GIỐNG CUA BIỂN (Scylla paramamosain) Ở MỘT SỐ TỈNH
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG




LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN


Cán bộ hướng dẫn:
PGs, Ts TRẦN NGỌC HẢI
Ths TRẦN MINH NHỨT











Cần Thơ, 12/ 2014

3
HIỆN TRẠNG KỸ THUẬT VÀ TÀI CHÍNH SẢN XUẤT GIỐNG
CUA BIỂN (Scylla paramamosain) Ở MỘT SỐ TỈNH ĐỔNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG
Liêu Bình Nhưỡng
Khoa Thủy Sản, Trường Đại Học Cần Thơ
ABSTRACT
Through the survey on technical and financial aspects of 25 mud crab hatcheries
in three provinces Bac Lieu, Ca Mau, Kien Giang using prepared forms, the results

showed that, most of mud crab hatcheries are from the shrimp hatcheries are now
completely used for mud crab seed production or alternatively used for mud crab and
shrimp production. All hatcheries apply the open-clear water system. During nursing
period, Artermia and commercial feed are used to feed to larvae without using rotifers.
The average production was 5,55 ± 10,31 million inds/hatchery/year. The average profit
was 1921,96 ± 4009,55 million VND/hatchery/year. This result indicate that mud crab
farming sector is very active and important in supplying seeds for mud crap farming of
Mekong Delta generally and three provinces (Bac Lieu, Ca Mau, Kien Giang)
particularly.
Keywords: Mud crab, mud crab hatchery, technical aspects, financial aspects
Title: Technical and financial aspects of mud crab hatcheries in the Mekong Delta
TÓM TẮT
Qua khảo sát các khía cạnh kỹ thuật và hiệu quả sản xuất của 25 trại sản
xuất giống cua biển ở 3 tỉnh Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau bằng biểu mẫu
soạn sẵn, kết quả cho thấy, phần lớn các trại là trại sản xuất tôm trước đây, nay
chuyển sang sản xuất cua hoàn toàn hoặc sản xuất luân phiên theo mùa vụ. Các
trại đều áp dụng quy trình nước trong hở, chỉ sử dụng Artermia và thức ăn nhân
tạo cho ương nuôi ấu trùng mà không sử dụng luân trùng. Sản lượng trung bình
mỗi trại đạt 5,55 ± 10,31 triệu giống/trại/năm, đạt lợi nhuận 1921,96 ± 4009,55
triệu đồng/trại/năm. Kết quả này cho thấy nghề sản xuất giống cua biển hiện rất
năng động, cung cấp số lượng con giống đáng kể góp phần quan trọng vào phát
triển nghề nuôi cua ở 3 tỉnh Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau nói riêng và ĐBSCL
nói chung.


I. GIỚI THIỆU

4
Cua biển thuộc giống Scylla ở nước ta có 2 loài là S. paramamosain (cua
sen) và S. olivacea (cua lửa) (Keenan, 1999; Macintosh et al., 2002). Đây là

những đối tượng giáp xác quan trọng trong nuôi trồng thủy sản ở các nước vùng
Ấn Độ - Tây Thái Bình Dương và ở nước ta. Trong sản xuất giống cua biển,
thành công đầu tiên trong ương nuôi và xác định các giai đoạn ấu trùng cua biển
được thực hiện bởi Ong Kah Sin năm 1964 (Ong, 1964). Hiện nay, nhiều quốc
gia cũng đã đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển sản xuất giống cua biển đại trà,
cung cấp cho nghề nuôi.
Ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu trước đây về sản xuất
giống từ những năm 1995 đến nay (Tran Ngoc Hai, 1997; Nguyễn Cơ Thạch,
2004; Truong Trong Nghia, 2007). Hiện nay, nghề sản xuất giống và nuôi cua
thương phẩm phát triển khá nhanh ở nước ta, đặc biệt là ở vùng ĐBSCL. Theo
kết quả điều tra Chi cục nuôi trồng Thủy sản 3 tỉnh Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà
Mau (năm 2014) thì hiện nay có khoảng 296 trại sản xuất giống cua biển. Tuy
nhiên, nghề này vẫn còn phải đòi hỏi nhiều kỹ thuật đối với người sản xuất.
Nhằm làm cơ sở đánh giá và phát triển nghề sản xuất giống cua ở ĐBSCL, thông
qua việc điều tra khảo sát các trại giống, đề tài “hiện trạng kỹ thuật và tài chính
sản xuất giống cua biển (Scylla paramamosain) ở một số tỉnh ĐBSCL” sẽ phân
tích hiện trạng về kỹ thuật và hiệu quả kinh tế của các trại sản xuất giống cua biển
ở ĐBSCL.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện vào tháng 09/2014 đến tháng 12/2014 thông
qua phiếu phỏng vấn khảo sát 25 trại sản xuất giống cua biển ở các tỉnh Kiên
Giang (n=10), Bạc Liêu (n=5), Cà Mau (n=10) theo biểu mẫu. Nội dung chủ yếu
của biểu mẫu phỏng vấn gồm các vấn đề về kỹ thuật như thiết kế trại, phương
pháp nuôi vỗ cua mẹ, phương pháp ương nuôi ấu trùng và cua con; các vấn đề về
hiệu quả kinh tế của sản xuất giống như sản lượng cua sản xuất, thu nhập, chi phí
và lợi nhuận. Ngoài ra, thông tin chung về tình hình sản xuất giống cua cũng
được thu thập từ các Chi cục Thủy sản các tỉnh, liên quan đến số lượng trại sản
xuất cua, sản xuất tôm, tổng sản lượng cua giống. Các số liệu thu thập sẽ được
tính toán giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất, dựa
trên phần mềm Excel để phân tích, so sánh.


5
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
1. Thông tin chung về tình hình sản xuất cua
Nghề sản xuất cua giống đã hình thành từ nhiều năm nay. Hiện nay, qua
kết quả điều tra 3 tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang có gần 300 trại sản xuất
giống cua biển với khoảng 132000 m
3
bể ương (Chi cục Thủy sản Cà Mau, Bạc
Liêu, Kiên Giang, 2014). Số lượng trại tăng hơn so với những năm trước đây
nhằm đáp ứng nhu cầu con giống cho nghề nuôi. Tổng sản lượng cua biển sản
xuất từ 3 tỉnh đạt gần 860000 con/năm.
Bảng 1: Thông tin chung về tình hình sản xuất giống

Tỉnh
Kiên Giang
(n=10)
Bạc Liêu
(n=5)
Cà Mau
(n=10)
Thông tin
Số lượng trại sản xuất cua (trại)
136
40
120
Trại sản xuất tôm + cua (trại)
27
167
105

Số đợt sản xuất trong 1 năm (đợt)
7,4 ± 3,72
7,2 ± 1,30
7,6 ± 4,93
Tổng sản lượng cua giống (triệu con)
59,2
100
700

2. Kết cấu của các trại sản xuất giống cua biển
Nhìn chung, kết cấu trại sản xuất giống cua biển của 3 tỉnh Kiên Giang,
Bạc Liêu, Cà Mau cũng không quá đặc thù. Qua kết quả điều tra, tất cả các trại
sản xuất giống cua biển đều sử dụng bể composite hình tròn để ương zoae và các
bể xi măng hình vuông với thể tích lớn để ương megalopa, cua con. Kích cỡ
trung bình của các bể ương trong khoảng 1 - 8 m
3
. Các trại sử dụng bể nuôi cua
mẹ và nuôi cua mang trứng đơn giản chỉ là xô nhựa khoảng 10 - 60 lít. Đối với bể
ương, các trại sản xuất giống cua biển có quy mô trong khoảng 116,31 - 147,64
m
3
, có trại lên đến 525 m
3
/trại. Theo kết quả điều tra của Trần Ngọc Hải và
Nguyễn Thanh Phương (2009) ở Cà Mau các trại có quy mô trong khoảng 89,77 -
99,26 m
3
, cao nhất 240 m
3
/trại cho thấy quy mô sản xuất của các trại ở ĐBSCL

đã có xu hướng mở rộng rất nhiều.

6
Bảng 2: Kết cấu trại sản xuất giống cua biển ở Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau

Đặc điểm các bể
Thấp
nhất
Cao
nhất
Trung bình
(n=25)
Bể nuôi vỗ
cua:
Tổng thể tích (m
3
/trại)
0,18
4,5
1,14 ± 1,11
Thể tích mỗi bể (lít/bể)
12
60
4 ± 1,00
Bể cua ôm
trứng:
Tổng thể tích (m
3
/trại)
0,18

64
4,67 ± 14,09
Thể tích mỗi bể (m
3
/bể)
0,012
2
0,22 ± 0,54
Bể ương
Zoae:
Tổng thể tích bể ương (m
3
/trại)
39
525
147,64 ± 133,64
Thể tích mỗi bể (m
3
/bể)
1
8
3,40 ± 2,21
Bể ương
Megalopa:
Tổng thể tích bể ương (m
3
/trại)
15
500
123,80 ± 112,04

Thể tích mỗi bể (m
3
/bể)
1
8
3,60 ± 2,10
Bể ương
cua con:
Tổng thể tích bể ương (m
3
/trại)
8
500
116,31 ± 116,99
Thể tích mỗi bể (m
3
/bể)
1
8
4,37 ± 1,79

3. Nuôi vỗ cua mẹ
Kết quả khảo sát về kỹ thuật chọn nuôi cua mẹ và cua mang trứng được
trình bày ở bảng 3. Nhìn chung, cua mẹ được chọn nuôi vỗ có kích cỡ khá lớn,
trung bình 500 ± 57,28 gam/con, hầu hết các trại sản xuất giống cua biển của 3
tỉnh đều chọn cua mẹ từ huyện Năm Căn của Cà Mau và vùng ven biển Bạc Liêu
kéo dài đến thị trấn Gành Hào. Kết quả cho thấy các trại sử dụng bể nuôi 10 - 60
lít, để phòng tính lây truyền, nhiễm bệnh các trại đều có xu hướng thả nuôi từng
con cua mẹ trong một bể riêng nhưng kết quả sinh sản ấu trùng vẫn tốt.
Trong quá trình nuôi vỗ, cua được cho ăn chủ yếu là thịt nhuyễn thể như

sò huyết, nghêu, vọp, mực, hào, tôm, ốc mượn hồn với tỷ lệ cho ăn theo nhu cầu.
Thay nước hàng ngày với tỷ lệ 30 - 100% lượng nước trong bể. Nước nuôi có độ
mặn trung bình 26 - 30%o và nhiệt độ 27 – 32,5
0
C. Tất cả các trại (100% số trại)
đều không che tối bể trong quá trình nuôi vỗ. Trung bình 7 - 18 ngày cua cái sẽ
đẻ. Thời gian mang trứng của cua là 10 - 12 ngày, trung bình là 11 ngày sau khi
ấp, trứng sẽ nở. Kết quả phân tích ảnh hưởng của kích cỡ cua mẹ đến thời gian

7
nuôi vỗ cho thấy cua có kích cỡ cua lớn thường chậm đẻ trứng hơn, nhưng sự
khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.
Trong quá trình khảo sát đã có 20% số trại sản xuất giống cua không nuôi
vỗ cua mẹ, các trại này mua cua mẹ đã ôm trứng sẵn tại các nhà phân phối. Nhìn
chung, phương pháp và kết quả nuôi vỗ cua mẹ ở 3 tỉnh Kiên Giang, Bạc Liêu và
Cà Mau là khá ổn định. Các nơi trên thế giới cũng có phương pháp nuôi đa dạng
gồm nuôi riêng lẻ từng con trong bể nhỏ (Tran Ngoc Hai, 1997; Truong Trong
Nghia 2007;) hay nuôi chung nhiều con trong bể lớn; loại bỏ 1 mắt hay 2 mắt
(Tran Ngoc Hai 1997). Theo nghiên cứu gần đây cho thấy cua mẹ có trọng lượng
300 - 500 gam được chọn để tham gia sinh sản nhiều hơn với sản lượng đạt
217,186 ± 67,430 con/cua mẹ, tỷ lệ sống của ấu trùng từ Z1 đến C1 đạt khá cao
6,41 ± 1,72%, (Lâm Tâm Nguyên, 2010).
Bảng 3: Thông tin kỹ thuật nuôi vỗ cua mẹ và cua mang trứng

Đặc điểm kỹ thuật
Thấp
nhất
Cao
nhất
Trung bình

(n=25)
Khối lượng cua mẹ (gam)
375
625
500 ± 57,28
Mật độ nuôi vỗ:
Bể 10L - 60L (con/bể)
1
1
1
Phương pháp loại bỏ cuống mắt



Cột mắt (%)


80
Cắt mắt (%)


15
Đốt mắt (%)


0
Chích (phá hủy mắt) (%)


5

Cho ăn (lần/ngày)
1
3
1,45 ± 0,60
Thay nước (%/ngày)
30
100
89,00 ± 22,92
Độ mặn nước (%o)
26
30
27,15 ± 1,17
Nhiệt độ nước (
o
C)
27
32,5
29,35 ± 1,62
Thời gian đẻ sau khi cắt mắt (ngày)
2
30
12,98 ± 8,33
Thời gian ấp trứng (ngày)
10
12
10,70 ± 0,80
Thời gian trứng nở (giờ)
0,08
4
0,82 ± 1,10


8

3. Ương ấu trùng cua biển giai đoạn Zoae 1 đến Zoae 5
Qua kết quả điều tra cho thấy kỹ thuật ương ấu trùng từ giai đoạn Zoae 1
đến Zoae 5 được thể hiện ở bảng 4. Mật độ ương ấu trùng dao động trong khoảng
50 - 400 con/L, trung bình 157,40 ± 97,80 con/L. Mật độ ương này dao động cao
so với kết quả 50 - 150 con/L. Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương (2009),
cho thấy trình độ kỹ thuật của các trại đang có xu hướng phát triển mạnh. Độ mặn
nước ương tương đối ổn định và thích hợp, trong khoảng 25 - 30%o. Tuy nhiên,
việc quản lý nước như mức nước, thay nước còn dao động khá lớn giữa các trại.
Có 2 trại (8% số trại) đã không thay nước trong quá trình ương mà chỉ sang bể và
cấp nước thêm.
Bảng 4: Đặc điểm kỹ thuật ương ấu trùng Zoae1-Zoae 5

Đặc điểm
Thấp
nhất
Cao
nhất
Trung bình
(n=25)
Mật độ ương Zoae1 (con/lít)
50
400
157,40 ± 97,80
Giai đoạn Zoae bắt đầu thay nước
Zoae 1
Zoae 3
1,08 ± 0,57

Nước
ương:
Độ mặn nước ương (%o)
25
30
27,24 ± 1,28
Mức nước ương (m)
0,8
1,7
1,11 ± 0,21
Số lần thay nước (ngày/lần)
2
6
4,20 ± 1,29
Tỉ lệ thay nước (%/ lần)
0
100
30,28 ± 21,46
Thức ăn
Artemia:
Số lượng
(g/m3/ngày)
Zoae1 - Zoae3
4,5
30
12,95 ± 7,21
Zoae3 - Zoae5
5
69,23
20,45 ± 15,54

Số lần (lần /ngày)
2
6
4,20 ± 1,29
Thức ăn
nhân
tạo:
Số lượng
(g/m3/ngày)
Zoae1 - Zoae3
0
6,15
1,05 ± 1,46
Zoae3 - Zoae5
0
6,15
2,27 ± 2,37
Số lần (lần /ngày)
0
4
1,60 ± 1,12
Thời gian ương từ Z1-Z5 (ngày)
9
20
13,22 ± 2,20
Tỉ lệ sống đến giai đoạn Zoae 5 (%)
20
80
57,00 ± 16,14



9
Theo bảng 4, thức ăn chủ yếu cho ương ấu trùng Zoae là Artemia cho tất
cả các giai đoạn. Giai đoạn Zoae 1 - Zoae 3 cho ăn Artemia bung dù mà không có
luân trùng, giai đoạn Zoae 3 trở đi cho ăn bằng ấu trùng Artemia mới nở và bổ
sung thêm một ít thức ăn nhân tạo. Lượng Artemia ấp cho ăn trung bình trong
khoảng 12,95 – 20,45g/m
3
/ngày, được chia làm nhiều lần trong ngày (2 - 6
lần/ngày) để tăng hiệu quả bắt mồi. Các trại cũng sử dụng thức ăn nhân tạo (thức
ăn dùng trong ương ấu trùng tôm sú) cho ương Zoae, tuy nhiên, lượng cho ăn rất
hạn chế. Phương pháp cho ăn này giúp khâu cho ăn, chăm sóc đơn giản hơn do
không phải nuôi tảo và luân trùng phải yêu cầu phương tiện đầy đủ, kỹ thuật cao,
tốn kém lao động và chi phí. Mặc dù việc cho ấu trùng ăn chỉ hoàn toàn bằng
Artemia bung dù và Artemia mới nở ở giai đoạn Zoae1 - Zoae5 đã được nghiên
cứu thử nghiệm nhiều nơi và cho thấy vẫn đạt kết quả, tuy nhiên, đa số cho rằng,
việc bổ sung luân trùng ở giai đoạn Zoae 1 đến Zoae 3 là rất cần thiết để nâng cao
tỷ lệ sống cho các giai đoạn Zoae.
Bảng 4 cũng cho thấy, Zoae 1 sau thời gian ương từ 9 - 20 ngày, trung
bình 12 - 14 ngày, ấu trùng sẽ đạt giai đoạn Zoae5 và tỷ lệ sống đến giai đoạn
Zoae 5 đạt trong khoảng 20 - 80 %, trung bình 57,00 ± 16,14 %.
4. Ương ấu trùng cua giai đoạn Zoae 5 đến cua con (C1)
Theo bảng 5 cho thấy, với kỹ thuật ương hai giai đoạn và sang thưa, mật
độ ương ấu trùng Zoae 5 được giảm xuống khá thấp, trong khoảng 3 - 100 con/L,
trung bình là 35,32 ± 32,97 con/L. Độ mặn nước ương giai đoạn này cũng được
giảm xuống 21 - 29%o và mức nước ương cũng khá thấp, trung bình 0,77 ± 0,30
m. Tất cả các trại đều thay nước hàng ngày, 5 - 60% lượng nước bể, có 5 trại
(20% số trại) đã không thay nước. Hầu hết các trại (100% số trại) đều có đặt giá
thể lưới cho Megalopa bám. So với giai đoạn ương Zoae1 - Zoae5, lượng thức ăn
Artemia cho giai đoạn này thay đổi khá lớn, lượng thức ăn nhân tạo được tăng

lên, trung bình 5,38 – 8,33 g/m
3
/ngày. Một số trại đã không sử dụng thức ăn nhân
tạo mà chỉ sử dụng Artermia và ngược lại. Bảng 5 cũng cho thấy, tỷ lệ sống của 2
giai đoạn, giai đoạn Zoae 5 chuyển Megalopa đạt khoảng 3 – 65 % , trung bình
34,26 ± 18,32 % và Megalopa chuyển cua đạt khoảng 8 – 100 %, trung bình
80,72 ± 21,72 %. Tỷ lệ sống giữa các trại dao động khá cao.
Nhìn chung, phương pháp ương ấu trùng giai đoạn Z5 đến C1 của các trại
tương đối hợp lí chỉ có mật độ ương dao động quá lớn, khoảng 3 - 100 con/L so
với 15 - 60con/L. (Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2009). phần lớn do

10
các trại đã không định lượng được mật độ trong quá trình ương mà chỉ ước lượng
bằng mắt thường.
Bảng 5: Đặc điểm kỹ thuật ương Zoae5 – Cua 1

Đặc điểm
Thấp
nhất
Cao
nhất
Trung bình
(n=25)
Mật độ Zoae 5 (con/l)
3
100
35,32 ± 32,97
Nước
ương:



Độ mặn (%0)
21
29
26,22 ± 2,08
Mức nước ương (m)
0.4
1.4
0,77 ± 0,30
Tỉ lệ thay nước (%/lần)
0
60
29,40 ± 20,28
Giá thể:

Có (% số trại)


100
Không (% số trại)


0
Thức ăn
Artemia:
Số lượng
(gam/m3/ngày)
Zoae5-Megalopa
0
53,85

16,71 ± 17,20
Megalopa-Cua
0
53,85
12,22 ± 16,45
Số lần cho ăn (lần /ngày)
0
6
3,64 ± 2,18
Thức ăn
nhân
tạo:
Số lượng
(gam/m3/ngày)
Zoae5-Megalopa
0
30
5,38 ± 6,51
Megalopa-Cua
0
40
8,33 ± 10,08
Số lần cho ăn (lần /ngày)
0
8
3,12 ± 2,11
Tỉ lệ sống từ Z5 sang Megalopa (%)
3
65
34,26 ± 18,32

Tỉ lệ sống từ Megalopa sang Cua1 (%)
8
100
80,72 ± 21,72

5. Hiệu quả kinh tế sản xuất giống cua biển
Theo bảng 6, mỗi trại sản xuất trung bình 5,55 ± 10,31 triệu con cua
con/năm, sản lượng dao động trong khoảng 0,7 - 50 triệu con cua /năm. Mỗi con
cua mẹ sau khi sinh sản và ương nuôi, có thể thu được từ 85000 đến 300000 cua
con. Với mức chi phí trung bình 495,24 ± 716,74 triệu đồng/trại/năm và với giá
cua con dao động trong khoảng từ 300 - 600 đồng/con, lợi nhuận thu được mỗi
trại khá cao, đạt trung bình 1921,96 ± 4009,55 triệu đồng/trại/năm. Tuy nhiên,
qua kết quả điều tra thì có 2 trại (8% số trại) bị lỗ vốn. Nhìn chung, với kết quả

11
này là rất khả quan. So với kết quả khảo sát các trại sản xuất cua giống ở Cà Mau
với sản lượng 0,15 - 2 triệu cua/năm đạt lợi nhuận là 182,15 ± 181,95 triệu
đồng/trại/năm, (Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2009), thì nghề sản
xuất giống cua biển đang ngày có số lượng trại và quy mô ngày càng mở rộng.
Với số lượng khoảng 296 trại sản xuất cua biển ở Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau
đã cung cấp một số lượng cua giống đáng kể, góp phần tích cực vào sự phát triển
nghề nuôi cua ở ĐBSCL.
Bảng 6: Đặc điểm kinh tế của các trại

Đặc điểm
Thấp
nhất
Cao
nhất
Trung bình (n=25)

Sức sản xuất (triệu con/Cua mẹ)
0,085
0,3
0,17 ± 0,07
Sản lượng cua con (triêụ con/trại/năm)
0,7
50
5,55 ± 10,31
Sản lượng cung cấp Megalopa (triệu
con/năm)
0
40
2,38 ± 7,99
Giá bán (đồng/con)
350
525
429,40 ± 47,79
Tổng thu (triệu đồng/trại/năm)
315
20000
2417,20 ± 4305,38
Tổng chi ( triệu đồng/trại/năm)
60
3600
495,24 ± 716,74
Lợi nhuận (triệu đồng/trại/năm)
-150
19000
1921,96 ± 4009,55
Tỷ suất lợi nhuận

-0,25
40,67
5,75 ± 8,71

III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết Luận
Sản xuất giống cua biển đã bắt đầu phát triển trong những năm gần đây với
gần 300 trại sản xuất ở 3 tỉnh Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau năm 2014, một số
trại có quy mô lớn.
Các trại đều sử dụng bể composite tròn với thể tích trung bình khoảng 1.6
m
3
để ương ấu trùng zoae và bể xi măng hình chữ nhật để ương ấu trùng
Megalopa.
Qui trình ương ấu trùng theo hai giai đoạn là ương từ Zoae1 đến Zoae5 và
sau đó sang bể ương từ Zoae 5 đến Cua 1. Kỹ thuật ương nuôi ấu trùng cua biển

12
chủ yếu theo quy trình nước trong hở, cho ăn hoàn toàn bằng Artemia kết hợp
thức ăn nhân tạo mà không sử dụng luân trùng, không có tảo và có thay nước.
Với kết quả ương nuôi ấu trùng cua biển tương đối ổn định ( sản lượng
5,55 ± 10,31 triệu con/trại/năm; lợi nhuận 1921,96 ± 4009,55 triệu đồng/năm),
nghề sản xuất giống cua biển ở ĐBSCL hiện nay góp phần quan trọng trong việc
cung cấp cua giống nhân tạo cho nghề nuôi.
2. Đề Xuất
Cần tiếp tục nghiên cứu nâng cao kỹ thuật và chất lượng cua giống. Tiếp
tục nghiên cứu biện pháp kỹ thuật nuôi cua thịt cũng như thị trường tiêu thụ cua
thịt làm cơ sở bền vững cho đầu ra của nghề sản xuất giống cua biển.

LỜI CẢM ƠN

Lời nói đầu tiên tác giả chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, Khoa Thủy
Sản và Bộ Môn Hải Sản, cùng các thầy, cô Trường Đại Học Cần Thơ đã tạo mọi
điều kiện thuận lợi và nhiệt tình giúp đỡ cho em trong suốt thời gian học tập tại
trường.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy Trần Ngọc Hải và thầy
Trần Minh Nhứt cùng các thầy cô trong Khoa Thủy Sản đã tận tình chỉ bảo, giúp
đỡ trong suốt quá trình học tập cũng như thực hiện và hoàn thành tốt luận văn tốt
nghiệp.
Cuối cùng tác giả gửi lời cảm ơn đến các cơ sở sản xuất giống cua biển ở 3
tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang đã nhiệt tình hỗ trợ, giúp đỡ và tạo mọi điều
kiện thuận lợi để thực hiện và hoàn thành tốt đề tài luận văn tốt nghiệp.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo của chi cục Thủy sản 3 tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang.
2. Keenan C.P. and A, Blackshaw, 1999. Mud crab aquaculture and biology.
Proceedings of an international scientific forum, held at Darwin, Australia, 21-24
April 1997. ACIAR Proceedings, No 78. 215p.
3. Lâm Tâm Nguyên, 2010. Ảnh hưởng của kích cỡ cua mẹ (Scylla
paramamosain) lên sinh sản và chất lượng ấu trùng. Luận văn cao học – Đại Học
Cần Thơ.

13
4. Macintosh, D.J., J.L. Overton & H.V.Thu, 2002. Confirmation of two
common mud crab species (genus: Scylla) in the mangrove ecosystem of the
Mekong Delta. Journal of Shellfish Research, 21:259-265.
5. Nguyễn Cơ Thạch, Trương Quốc Thái, Nguyễn Diễu, Nguyễn Thanh
Thùy, Hà Văn Khô, Đỗ Văn Phiên, 2004. Đặc điểm sinh học sinh sản và qui trình
kỹ thuật sản xuất cua giống loài Scylla serrata và paramamosain Estampado,
1949. Tuyển tập các công trình nghiên cứu khoa học công nghệ (1984-2004). Nhà
xuất bản Nông Nghiệp, trang 227-266.

6. Ong K.S., 1964. The early developmental stages of Scylla serrata Forskal,
reared in the laboratory, IPFC, 11th Session, Kuala Lumpur, C64/Tech 37.
7. Trần Ngọc Hải và Trương Trọng Nghĩa. 2004. Ảnh hưởng của mật độ
ương lên sự phát triển và tỷ lệ sống của ấu trùng cua biển theo mô hình nước
xanh. Tạp chí khoa học – Đại Học Cần Thơ. Trang 187 – 192.
8. Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2009. Hiện trạng kỹ thuật và
hiệu quả kinh tế của các trại sản xuất giống cua biển ở ĐBSCL. Tạp chí khoa học
- Đại Học Cần Thơ. Trang 279 – 288.
9. Tran Ngoc Hai, 1997. Studies on some of reproduction of mud Scylla
serrata (Forskal). Master Thesis, University Putra Malaysia.
10. Trần Ngọc Hải, 2007. Bài giảng sản xuất cua giống nước lợ. Tủ sách
Trường Đại học Cần Thơ.



×