TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
BÀNH THỊ BÍCH TRÂM
“THÀNH PHẦN LOÀI ĐỘNG VẬT NỔI (ZOOPLANKTON) Ở MÔ
HÌNH NUÔI TÔM SÚ – LÚA LUÂN CANH Ở TỈNH KIÊN GIANG VÀ
TỈNH CÀ MAU”
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
BÀNH THỊ BÍCH TRÂM
“THÀNH PHẦN LOÀI ĐỘNG VẬT NỔI (ZOOPLANKTON) Ở MÔ
HÌNH NUÔI TÔM SÚ – LÚA LUÂN CANH Ở TỈNH KIÊN GIANG VÀ
TỈNH CÀ MAU”
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
Ths. NGUYỄN THỊ KIM LIÊN
2014
1
THÀNH PHẦN LOÀI ĐỘNG VẬT NỔI (Zooplankton) Ở MÔ HÌNH NUÔI
TÔM SÚ–LÚA LUÂN CANH Ở TỈNH KIÊN GIANG VÀ TỈNH CÀ MAU
Bành Thị Bích Trâm
Bộ môn Thủy sinh học ứng dụng, Khoa thủy sản, trường Đại học Cần Thơ.
ABSTRACT
The objective of this study was to determine the diversity of zooplankton composition
in the rotational rice-shrimp system of Kien Giang and Ca Mau provinces in order to
evaluate natural food of research area. At the every province, zooplankton samples
were collected at three sites such as water inlet and two rice-shrimp systems stocked
at 3 shrimp/m
2
density. The result indicated that a total of 93 zooplankton species
was identified at Kien Giang. Among them, Rotifera was the most abundant group
with 40 species (43.01%). Species number of zooplankton in shrimp crop (74
species) was higher than that in rice crop (51 species). Densities of zooplankton of
the rice and shrimp crops was from 48,167-878,750 ind.m
-3
and 35,292-392,583
ind.m
-3
, respectively. The mean of Shannon-Wiener diversity index (H’) was varying
from 0.49 to 3.19. At Ca Mau province, the total of 102 zooplankton species was
recorded, in which Rotifera had the highest composition with 40 species (39.22%).
The different about species number of rice and shrimp crops was not found. Species
number and density of rice and shrimp crops were 63 species and 8,021-159,200
ind.m
-3
, 65 species and 12,750-1,082,000 ind.m
-3
, respectively. The mean H’ index
was varying from 0.40 to 2.64. In general, the abundance of zooplankton community
in the rice-shrimp system is quite high and usefully natural food for shrimp juvenile.
Keyword: Zooplankton, compositon, density, rice-shrimp system, natural food
TÓM TẮT
Mục tiêu của nghiên cứu là xác định tính đa dạng thành phần loài động vật nổi trong
mô hình tôm sú-lúa luân canh thuộc tỉnh Kiên Giang và Cà Mau để làm cơ sở cho
việc đánh giá nguồn thức ăn tự nhiên trong khu vực nghiên cứu. Tại mỗi tỉnh, các
mẫu động vật nổi được thu tại 3 điểm như: kênh cấp và hai mô hình tôm sú-lúa luân
canh với mật độ thả là 3 con/m
2
. Tổng cộng ở tỉnh Kiên Giang xác định được 93 loài
động vật nổi, trong đó ngành Rotifera có số loài phong phú nhất 40 loài (43,01%). Số
loài động vật nổi trong vụ tôm (74 loài) cao hơn so với vụ lúa (51 loài). Mật độ động
vật nổi ở vụ lúa và vụ tôm tương ứng là 48.167-878.750 ct/m
3
và 35.292-392.583
ct/m
3
. Chỉ số đa dạng Shannon-Weiner (H’) qua 6 đợt khảo sát dao động 0,49-3,19.
Tại tỉnh Cà Mau, số loài động vật nổi tổng cộng ghi nhận được 102 loài, trong đó
ngành Rotifera có thành phần loài cao nhất với 40 loài (39,22%). Thành phần loài ở
vụ lúa và vụ tôm là không khác biệt. Số lượng loài và mật độ của vụ lúa và tôm
tương ứng là 63 loài và 8.021-159.200 ct/m
3
, 65 loài và 12.750-1.082.000 ct/m
3
. Chỉ
số H’ qua 6 đợt thu mẫu dao động 0,40-2,64. Nhìn chung, nguồn thức ăn tự nhiên
2
trong mô hình nuôi tôm sú-lúa luân canh khá phong phú làm thức ăn tốt cho tôm, đặc
biệt giai đoạn nhỏ.
Từ khóa: động vật nổi, thành phần loài, mật độ, mô hình tôm sú-lúa luân canh,
thức ăn tự nhiên.
1.GIỚI THIỆU
Hiện nay, một số vùng thuộc tỉnh Kiên Giang và Cà Mau có đặc tính chất lượng
nước bị nhiễm mặn theo mùa, cụ thể là có nước lợ-mặn vào mùa khô và nước ngọt
vào mùa mưa . Do đó, các tỉnh đã triển khai nhiều giải pháp để tiến hành chuyển dịch
cơ cấu sản xuất, nhằm khai thác một cách hiệu quả cả nguồn nước trong hai mùa
mặn-ngọt sẽ tạo ra năng suất cao hơn trên cùng một diện tích đất sản xuất. Việc trồng
lúa trên đất nuôi tôm là biện pháp tốt nhất để cải tạo môi trường ruộng nuôi, cân
bằng hệ sinh thái trong đầm nuôi do có sự kết hợp hài hòa giữa động vật và thực vật.
Việc áp dụng mô hình lúa-tôm còn góp phần cách ly, hạn chế sự lây lan mầm bệnh từ
vụ nuôi tôm này sang vụ nuôi tôm khác. Sau khi thu hoạch lúa, gốc rạ để lại trong
ruộng nuôi là nguồn dinh dưỡng tốt, giúp cho hệ sinh vật phát triển, tạo nguồn thức
ăn tự nhiên phong phú cho tôm giống. Theo Vũ Ngọc Út và Dương Thị Hoàng Oanh
(2012) động vật nổi là nguồn thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao có lợi cho ấu trùng
tôm, cua, cá, là mắc xích quan trọng thứ hai trong chuỗi thức ăn của thủy vực. Qua
kết quả nghiên cứu của Trần Thị Mỹ Hạnh (2013) cho thấy mật độ của động vật nổi
có sự khác biệt lớn giữa giai đoạn trước khi thả tôm (659.044 cá thể/m
3
) và sau khi
thả tôm 1 tháng (8.824 cá thể/m
3
), đồng thời với sự xuất hiện mật độ khá cao của
giống Brachionus plicatilis cho thấy đây là nguồn thức ăn phong phú và rất tốt cho
giai đoạn tôm mới thả nuôi, góp phần tăng tỉ lệ sống cho tôm. Ngoài ra, việc nghiên
cứu động vật nổi sẽ làm cơ sở khoa học phân vùng sinh thái, đánh giá tính dạng, tiềm
năng sinh học hay nhóm sinh vật chỉ thị môi trường (Nguyễn Dương Thạo, 2007).
Từ những vai trò quan trọng của động vật nổi đem lại nên đề tài: “Thành phần loài
động vật nổi (Zooplankton) ở mô hình nuôi tôm sú-lúa luân canh ở tỉnh Kiên
Giang và tỉnh Cà Mau” được thực hiện nhằm xác định tính đa dạng thành phần loài
động vật nổi từ đó đánh giá nguồn thức ăn tự nhiên trong thủy vực, đồng thời cung
cấp cơ sở dữ liệu cho những nghiên cứu tiếp theo.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 09/2013 đến 04/2014 trong mô hình nuôi tôm
sú-lúa luân canh với 6 đợt thu mẫu (2 đợt trong vụ lúa và 4 đợt trong vụ tôm). Trong
đó, tổng cộng có 3 điểm thu trên mỗi tỉnh (Kiên Giang và Cà Mau) bao gồm: kênh
cấp thoát nước, ruộng khảo nghiệm (ruộng 1) và ruộng đối chứng (ruộng 2). Phương
pháp thu mẫu động vật nổi được tiến hành theo phương pháp của APHA et al.
(1999). Định danh tên các giống loài động vật nổi theo Shirota (1966); Boltovskoy
(1999) và Nguyễn Văn Khôi (2001). Phương pháp định lượng động vật nổi được sử
dụng theo phương pháp của Boyd và Tucker (1992). Kết quả nghiên cứu được tính
toán và xử lý số liệu bằng phần mềm Excel. Nghiên cứu còn dựa vào công thức tính
3
chỉ số đa dạng Shannon-Weaver (H´) (1963) để đánh giá tính đa dạng về thành phần
loài giữa các đợt thu mẫu:
Trong đó:
P
i
: tỉ lệ cá thể của loài i trên tổng số cá thể của các loài (p
i
= n
i
/N)
n
i
: số lượng cá thể (mật độ) của loài thứ i.
N: tổng số lượng động vật nổi trong mẫu thu.
Ngoài ra, phân mức xếp hạng chất lượng nước dựa theo Nguyễn Dương Thạo (2007).
Bảng 1: Các đợt thu mẫu của vụ lúa và vụ tôm
Đợt thu
Thời điểm thu mẫu
Thời gian thu mẫu
Đợt 1
Trước khi xạ lúa
Ngày 28/09/2013
Vụ lúa
Đợt 2
Trước khi thu hoạch lúa
Ngày 08/12/2013 và
04/01/2014
Đợt 3
Trước khi thả tôm
Ngày 18/01/2014
Vụ tôm
Đợt4
Sau khi thả tôm 1 tháng
Ngày 26/02/2014
Đợt 5
Sau khi thả tôm 2 tháng
Ngày 22/03/2014
Đợt 6
Trước khi thu hoạch
Ngày 25 và 26/04/2014
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang
3.1.1 Thành phần loài động vật nổi qua 6 đợt khảo sát của vụ lúa và vụ tôm
Kết quả phân tích thành phần loài động vật nổi (ĐVN) ở tỉnh Kiên Giang qua 6 đợt
khảo sát đã ghi nhận được tổng cộng 93 loài thuộc các nhóm ngành: động vật nguyên
sinh (Protozoa), ngành luân trùng (Rotifera), bộ giáp xác râu ngành (Cladocera), giáp
xác chân chèo (Copepoda) và nhóm động vật nổi ít gặp thuộc ấu trùng côn trùng
(Insecta), giun tròn (Nematoda), giáp xác (Crustacea), giun nhiều tơ (Polychaeta) và
ấu trùng Veliger…. Trong đó Rotifera có thành phần loài cao nhất là 40 loài
(43,01%) và thấp nhất là bộ Cladocera với 7 loài (7,53%), các nhóm động vật nổi
còn lại có số loài từ 9-24 loài (9,68-25,8%) (Hình 1).
Hình 1: Thành phần loài động vật nổi của cả vụ lúa và vụ tôm qua 6 đợt
4
Qua hai vụ khảo sát kết quả cho thấy ngành Rotifera có thành phần loài phong phú
nhất, nhưng chủ yếu là các giống loài xuất hiện trong vụ tôm, cho thấy môi trường
khá giàu dinh dưỡng bởi vì đây là nhóm sinh vật chỉ thị cho môi trường giàu dinh
dưỡng (Herzig, 1987). Ngoài ra, sự hiện diện của các giống loài thuộc ngành
Protozoa và lớp Copepoda trong hai vụ khảo sát trên điều này cho thấy đây là các
giống loài động vật nổi có sự phân bố rộng thích hợp phát triển ở vùng ven biển, cửa
sông, hàm lượng dinh dưỡng cao. Điều này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Trần
Thị Mỹ Hạnh (2013), ngành Rotifera cao nhất với 35 loài (40%), kế đến là ngành
Protozoa (25 loài, 28%), Copepoda (17 loài, 19%), Cladocera (3 loài, 3%) và loài
khác (9 loài, 10%). Sự phong phú của quần thể luân trùng ở khu vực khảo sát là
nguồn thức ăn tự nhiên tốt nhất cho động vật thủy sản, nhất là giai đoạn ấu trùng.
Một số giống loài Rotifera thường gặp trong 2 vụ khảo sát là: Brachionus angulagis,
Brachionus plicatilis, Brachionus caudatus, Brachionus falcatus, Filinia terminalis,
Keratella tropica,
3.1.2 Thành phần loài ĐVN của vụ lúa và vụ tôm qua các đợt khảo sát
3.1.2.1 Vụ lúa
Số loài động vật nổi tại các điểm thu mẫu ở vụ lúa qua 2 đợt khảo sát dao động từ 7-
24 loài (Hình 2). Tại ruộng 2 có thành phần loài cao nhất với 24 loài (đợt 2), thấp
nhất là ở ruộng 1 với 7 loài (đợt 1). Nhìn chung tại các điểm thu mẫu ở vụ lúa thì
thành phần loài động vật nổi có xu hướng tăng cao vào cuối vụ nhưng ngược lại mật
độ ĐVN lại có xu hướng giảm dần vào cuối vụ (Hình 3). Điều này phù hợp với qui
luật ưu thế về sự phân bố của thủy sinh vật, nghĩa là khi một thủy vực có thành phần
loài cao thì mật độ sẽ thấp và ngược lại. Riêng điểm thu ở kênh cấp thành phần loài ở
cuối vụ giảm so với đầu vụ còn mật độ ĐVN cũng giảm vào cuối vụ.
Ở kênh cấp, thành phần loài ĐVN có sự biến động rõ rệt giữa 2 đợt khảo sát với
tổng số loài được xác định là 21 loài và 15 loài lần lượt cho giai đoạn đầu vụ và cuối
vụ. Ngành Rotifera có thành phần loài phong phú nhất giai đoạn đầu vụ (12 loài;
57,14%) do vào thời điểm này môi trường có độ mặn thấp nên thích hợp cho các
giống loài phân bố đặc trưng trưng môi trường nước ngọt phát triển nhưng khi độ
mặn tăng lên vào giai đoạn cuối vụ thì thành phần loài giảm xuống chỉ còn 7 loài
(46,67%).Ngành Protozoa có số loài khá thấp và chỉ phát hiện được ở giai đoạn đầu
vụ là 3 loài (14,29%). Ngược lại, lớp Copepoda có xu hướng tăng lên vào cuối vụ
(tăng từ 2 loài (9,52%lên 5 loài 33,33%)). Điều này là do Copepoda là nhóm sinh vật
phân bố đặc trưng trong môi trường nước lợ-mặn nên khi độ mặn tăng vào cuối vụ
là điều kiện thuận lợi cho Copepoda phát triển. Một số loài Rotifera phân bố đặc
trưng cho môi trường nước ngọt, ví dụ như các loài thuộc giống Brachionus,
Karatella, Polyarthra, Filinia,… Kế đến là lớp Copepoda do độ mặn tăng vào cuối
vụ nên có sự xuất hiện của một số loài phân bố ở môi trường có độ mặn thấp như:
Oithona simplex, Schmackeria dubia, Acartia clausi.
Ở ruộng lúa, thành phần loài ĐVN ở ruộng 1 và ruộng 2 đều có sự biến động lớn
giữa đợt 1 và đợt 2. Trong đó ngành Rotifera có thành phần loài cao nhất ở cả 2
5
ruộng và có xu hướng tăng lên vào cuối vụ. Ở ruộng 1 với 3 loài (42,86%) vào giai
đoạn đầu vụ và có sự gia tăng về thành phần loài vào giai đoạn cuối vụ với 11 loài
(55%). Tương tự, ở ruộng 2 thành phần loài cũng có sự tăng lên vào cuối vụ với 7
loài (đầu vụ) tăng lên 12 loài (cuối vụ). Nhìn chung, chất lượng nước cả hai ruộng
vào giai đoạn cuối vụ có hàm lượng dinh dưỡng cao thông qua việc bón phân trong
quá trình canh tác lúa đã tạo điều kiện thuận lợi cho quần thể ĐVN phát triển vào
cuối vụ.
0
5
10
15
20
25
30
35
40
Đợt
1
Đợt
2
Đợt
1
Đợt
2
Đợt
1
Đợt
2
Đợt
3
Đợt
4
Đợt
5
Đợt
6
Đợt
3
Đợt
4
Đợt
5
Đợt
6
Đợt
3
Đợt
4
Đợt
5
Đợt
6
Kênh cấp Ruộng 1 Ruộng 2 Kênh cấp Ruộng 1 Ruộng 2
Vụ Lúa Vụ Tôm
Số loài
Protozoa Rotifera Cladocera Copepoda Khác
Hình 2: Biến động thành phần loài ĐVN ở các điểm thu của vụ lúa và vụ tôm
3.1.2.2 Vụ tôm
Theo kết quả nghiên cứu thì số loài ĐVN ở vụ tôm có sự khác biệt tương đối lớn và
dao động từ 9-34 loài, cao nhất với 34 loài giai đoạn trước khi thả tôm (đợt 3) và
thấp nhất với 9 loài vào giai đoạn sau 2 tháng thả tôm (đợt 5) tại điểm thu kênh cấp.
Nguyên nhân chủ yếu là do độ mặn tăng lên làm thay đổi thành phần loài ĐVN cụ
thể như ngành Rotifera ở đợt 3 phát hiện được 19 loài nhưng đến đợt 5 giảm xuống
chỉ còn 1 loài. Ở hầu hết các điểm thu thì đợt 3 có thành phần loài cao hơn các đợt
còn lại (Hình 2).
Thành phần loài ĐVN ở đợt 3 có số loài cao nhất so với các đợt khác, ở kênh cấp với
34 loài, ở ruộng 1 và ruộng 2 đều phát hiện được 26 loài. Trong đó, ngành Rotifera
có thành phần loài phong phú nhất với 21 loài (80,77%) được tìm thấy ở ruộng 1, ở
kênh cấp và ở ruộng 2 đều phát hiện được 19 loài cho thấy giai đoạn trước khi thả
tôm môi trường khá giàu dinh dưỡng. Điều phù hợp với nhận định của Ganno and
Stemberger (1978) và Sladecek (1983), Rotifera là nhóm sinh vật được sử dụng làm
chỉ thị cho môi trường có mức độ dinh dưỡng khác nhau (trích dẫn bởi Đỗ Văn A
Khắc, 2013). Trong số các loài được tìm thấy thì Polyarthra sp. và Filinia terminalis
chỉ thấy xuất hiện ở đợt 3 mà không tìm thấy ở các đợt còn lại do độ mặn ở các đợt
sau tăng lên không thích hợp cho chúng phát triển. Các loài thường xuất hiện như:
Brachionus angularis, Brachionus falcatus, Brachionus plicatilis, Polyarthra sp. và
Filinia terminalis. Đây là những loài động vật nổi thường phân bố trong thủy vực
giàu chất hữu cơ và là nguồn thức ăn tự nhiên rất tốt cho tôm sú giai đoạn ấu trùng.
Nhìn chung, do nguồn nước cấp chung từ kênh dẫn vào nên giữa 2 ruộng 1 và ruộng
2 không có sự khác biệt lớn về thành phần loài ĐVN qua các đợt khảo sát.
6
3.1.3 Mật độ động vật nổi của vụ lúa và vụ tôm qua các đợt khảo sát
3.1.3.1 Vụ lúa
Mật độ động vật nổi của vụ lúa qua 2 đợt thu có sự chênh lệch khá lớn và biến động
từ 48.167-878.750 ct/m
3
. Mật độ ĐVN ở ruộng 1 và ruộng 2 đều có mật độ đạt cao
nhất vào đợt 1 và giảm thấp vào đợt 2 (Hình 3). Vào đầu vụ, mật độ ĐVN đạt cao
nhất so với các điểm còn lại (878.750 ct/m
3
) với sự ưu thế của ấu trùng Nauplius của
Copepoda (707.625 ct/m
3
,80,53%), kế đến là Rotifera (136.438 ct/m
3
,15,53%) cho
thấy môi trường nước giàu vật chất hữu cơ. Trong khi đó, ruộng 2 mật độ ĐVN ở
cuối vụ với 48.167 ct/m
3
giảm thấp nhất so với các điểm thu khác. Nhìn chung, mật
độ động vật nổi trong vụ lúa có xu hướng giảm dần vào cuối vụ điều này cho thấy
vào đầu vụ mật độ động vật nổi cao do môi trường nước vào đầu vụ có hàm lượng
dinh dưỡng cao do ảnh hưởng của quá trình canh tác lúa, các đợt bón phân cung cấp
dinh dưỡng cho cây lúa cũng góp phần tạo nguồn nước có hàm lượng dinh dưỡng tốt
tạo điều kiện thuận lợi cho quần thể ĐVN gia tăng mật độ. Còn vào cuối vụ hàm
lượng dinh dưỡng trong môi trường giảm thấp xuống nên quần thể ĐVN cũng giảm
theo.
0
100000
200000
300000
400000
500000
600000
700000
800000
900000
1000000
Đợt
1
Đợt
2
Đợt
1
Đợt
2
Đợt
1
Đợt
2
Đợt
3
Đợt
4
Đợt
5
Đợt
6
Đợt
3
Đợt
4
Đợt
5
Đợt
6
Đợt
3
Đợt
4
Đợt
5
Đợt
6
Kênh cấp Ruộng 1 Ruộng 2 Kênh cấp Ruộng 1 Ruộng 2
Vụ Lúa Vụ Tôm
cá thể/m3
Protozo a Rotifera Cladocera Copepoda Nauplius Khác
Hình 3: Biến động mật độ động vật nổi tại các điểm thu của vụ lúa và vụ tôm
3.1.3.2 Vụ tôm
Mật độ ĐVN trong vụ tôm có xu hướng tăng cao ở giai đoạn trước khi thả tôm (đợt
3), giảm thấp vào giai đoạn sau khi thả tôm 1 tháng (đợt 4) và tăng lên vào cuối vụ
(đợt 6). Mật độ ĐVN có sự biến động tương đối lớn qua các đợt khảo sát và dao
động từ 35.292-392.583 ct/m
3
(Hình 3). Kết quả này là do sau khi thả tôm 1 tháng,
đây là thời điểm tôm sử dụng phần lớn nguồn thức ăn tự nhiên sẵn có trong thủy vực
mà chủ yếu là động vật nổi nên mật độ của chúng giảm thấp vào giai đoạn này. Vào
cuối vụ nuôi hàm lượng chất dinh dưỡng tăng lên do sự tích lũy dinh dưỡng trong
quá trình nuôi tôm đã tạo điều kiện thích hợp cho ấu trùng Nauplius thuộc lớp
Copepoda phát triển và chiếm ưu thế với mật độ 312.667 ct/m
3
(79,64%) bởi vì đây
là nhóm sinh vật thích nghi tốt với môi trường giàu dinh dưỡng (Gannon and
Stremberger, 1978). Ở kênh cấp, mật độ ĐVN dao động từ 68.028-308.000 ct/m
3
,
cao nhất là ở đợt 5 (308.000 ct/m
3
) và thấp nhất là ở đợt 3 (68.028 ct/m
3
). Có sự
7
chênh lệch như vậy là do có sự tăng lên về mật độ (Đợt 5) của lớp Copepoda
(178.063 ct/m
3
; 57,81%) và ấu trùng Nauplius (118.708 ct/m
3
; 38,54%) so với đợt 3
lớp Copepoda chỉ có 9.472 ct/m
3
(13,52%) và ấu trùng Nauplius cũng chỉ có 12.917
ct/m
3
(18,99%). Do kênh cấp là thủy vực tự nhiên, chịu ảnh hưởng của thủy triều nên
độ mặn cũng tăng. Điều này phù hợp với nhận định của Dương Trí Dũng (2000) cho
thấy các giống loài thuộc lớp Copepoda thích hợp phát triển vùng cửa sông và có
hàm lượng dinh dưỡng cao.
Riêng ở ruộng 1 và ruộng 2 thì có sự thay đổi về mật độ của 2 nhóm ngành Rotifera
và ấu trùng Nauplius. Trong đó, mật độ của nhóm ngành Rotifera ở đợt 3 là cao nhất
với 259.194 ct/m
3
(ruộng 1) và 65.104 ct/m
3
(ruộng 2) nhưng lại giảm xuống vào đợt
6 với 13.139 ct/m
3
(ruộng 1) và 15.167 ct/m
3
(ruộng 2). Ngược lại, ấu trùng Nauplius
ở đợt 3 chỉ có 12.056 ct/m
3
(ruộng 1) và 12.500 ct/m
3
(ruộng 2) thì lại tăng lên ở đợt
6 với 226.944 ct/m
3
(ruộng 1) và 312.667 ct/m
3
(ruộng 2). Kết quả này tương đối
thấp hơn so với nghiên cứu biến động của phiêu sinh vật trong ao nuôi tôm sú thâm
canh thông qua ảnh hưởng của cải tạo môi trường nuôi với mật độ từ 169.321-
518.587 ct/m
3
(Nguyễn Hữu Lộc, 2003).
3.1.4 Chỉ số đa dạng sinh học
Chỉ số đa dạng sinh học (H´) của các điểm thu mẫu ở 2 vụ lúa và tôm qua các đợt
khảo sát dao động từ 0,49-3,19 (Hình 4), ở hầu như các đợt thu mẫu thì chỉ số H’ của
kênh cấp cao hơn so với ruộng 1 và ruộng 2, Trong đó, chỉ số H’ ở kênh cấp trong
đợt 3 (3,19) được đánh giá là môi trường ô nhiễm nhẹ do đây là thủy vực tự nhiên ít
bị tác động của con người cho thấy tính đa dạng thành phần loài ĐVN ở kênh cấp
cao hơn so với ruộng 1 và ruộng 2. Riêng ở đợt 5 là có khác biệt ruộng 1 có chỉ số H’
cao hơn so với kênh cấp và ruộng 2. Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu về sự
phân bố của động vật nổi trên Rạch Cái Khế, thành phố Cần Thơ vào mùa khô với
chỉ số đa dạng rất thấp biến động từ 0,41 – 2,74 (Dương Trí Dũng và Nguyễn Hoàng
Oanh, 2012). Theo phân mức xếp hạng chất lượng nước của Nguyễn Dương Thạo
(2007) thì nhìn chung chỉ số H’ trung bình ở vụ lúa ghi nhận được là 1,26±0,40 thuộc
mức ô nhiễm nặng (α) và vụ tôm 1,69±0,69 thuộc mức ô nhiễm vừa (β). Chỉ số này
có sự khác biệt giữa các điểm khảo sát và các đợt thu mẫu do sự thay thế nhau phát
triển của một số loài theo từng thời điểm mặc dù tổng số loài phát hiện được khá cao.
0.0
0.5
1.0
1.5
2.0
2.5
3.0
3.5
Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Đợt 4 Đợt 5 Đợt 6
Vụ lúa Vụ tôm
H'
Kênh Ruộng 1 Ruộng 2
Hình 4: Chỉ số H’ ở 2 vụ khảo sát qua các đợt thu mẫu
8
3.2 Huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau
3.2.1 Thành phần loài động vật nổi qua 6 đợt khảo sát của vụ lúa và vụ tôm
Kết quả phân tích TPL ĐVN ở tỉnh Cà Mau qua 6 đợt khảo sát đã ghi nhận được
tổng cộng 102 loài. Trong đó Rotifera có thành phần loài cao nhất là 40 loài
(39,22%), Cladocera có số loài thấp nhất với 2 loài (1,96%) và các nhóm động vật
nổi còn lại có số loài từ 7-39 loài (6,86-38,24%) (Hình 5).
Hình 5: Thành phần loài động vật nổi của cả vụ lúa và vụ tôm qua 6 đợt
Qua hai vụ khảo sát kết quả ghi nhận số loài thuộc ngành Rotifera chiếm ưu thế cao
nhất nhưng chủ yếu là các giống loài ở vụ lúa do trong vụ lúa có các hoạt động canh
tác lúa, bón phân cung cấp dinh dưỡng cho cây lúa cũng góp phần tạo nguồn nước có
hàm lượng dinh dưỡng tốt, đồng thời vào vụ lúa môi trường nước có độ mặn thấp
thích hợp cho các loài luân trùng Rotifera phát triển điều này phù hợp với nhận định
của Dương Trí Dũng (2000) cho thấy ngành Rotifera có sự phân bố môi trường nước
lợ mặn thấp chủ yếu sống môi trường nước ngọt. Điều này phù hợp với kết quả khảo
sát ở An Minh, tỉnh Kiên Giang với ngành Rotifera cao nhất với 40 loài (43,01%),
thấp nhất là bộ Cladocera với 7 loài (7,53%) và các nhóm động vật nổi còn lại có số
loài từ 9-24 loài (9,68-25,8%). Đồng thời kết quả này cũng cao hơn so với nghiên
cứu ở ao nuôi tôm thẻ chân trắng ở huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng (Trần Minh
Hậu, 2012) đã tìm thấy tổng cộng 33 loài ĐVN, trong đó ngành Protozoa có 22 loài,
Copepoda có 5 loài, Rotifera có 4 loài, thấp nhất bộ Cladocera có 2 loài và các giống
loài ĐVN ít gặp khác với 5 loài.
3.2.2 Thành phần loài và mật độ động vật nổi của vụ lúa và vụ tôm qua các đợt
khảo sát
3.2.2.1 Vụ lúa
Theo kết quả ghi nhận thành phần loài ĐVN ở các điểm thu dao động từ 10-30 loài
và cho thấy không có sự biến động lớn giữa 2 đợt cụ thể như: ở kênh cấp tìm được
30 loài ở đầu vụ và giảm còn 26 loài vào cuối vụ, tương tự, ở ruộng 2 tìm được 16
loài ở đầu vụ và giảm còn 13 loài vào cuối vụ. Riêng ruộng 1 thì ngược lại vào đầu
vụ chỉ phát hiện được 10 loài nhưng vào cuối vụ lại tăng lên tìm được 17 loài (Hình
6).
Điều khác biệt ở đây là chỉ tìm thấy được bộ Cladocera (Diaphanosoma brachyurum,
Moina brachiata) ở kênh cấp mà không phát hiện được loài nào thuộc bộ Cladocera
9
ở ruộng 1 và ruộng 2. Do kênh cấp là thủy vực tự nhiên, ít bị tác động của con người,
ngoài ra kết quả này cho thấy Cladocera phân bố chủ yếu ở môi trường nước ngọt và
chỉ thị môi trường không có nồng độ thuốc bảo vệ thực vật (Vũ Ngọc Út và Dương
Thị Hoàng Oanh, 2012).
0
5
10
15
20
25
30
35
Đợt
1
Đợt
2
Đợt
1
Đợt
2
Đợt
1
Đợt
2
Đợt
3
Đợt
4
Đợt
5
Đợt
6
Đợt
3
Đợt
4
Đợt
5
Đợt
6
Đợt
3
Đợt
4
Đợt
5
Đợt
6
Kênh cấp Ruộng 1 Ruộng 2 Kênh cấp Ruộng 1 Ruộng 2
Vụ Lúa Vụ Tôm
Số loài
Protozoa Rotifera Cladocera Copepoda Khác
Hình 6: Biến động TPL động vật nổi ở các điểm thu của vụ lúa và vụ tôm
3.2.2.2 Vụ tôm
Ở vụ tôm thành phần loài ĐVN có xu hướng cao vào giai đoạn trước khi thả tôm và
giảm thấp vào giai đoạn cuối vụ nuôi. Thành phần loài ĐVN ở vụ nuôi tôm có sự
biến động khá cao từ 6-22 loài, ở kênh cấp với 18 loài (đợt 3) và giảm xuống còn 11
loài (đợt 5) nhưng đến đợt 6 lại tăng lên 13 loài. Còn ở ruộng 1 với 12 loài (đợt 3) và
tăng lên đáng kể với 22 loài (đợt 4) nhưng lại giảm dần ở các đợt còn lại với 9 loài
(đợt 6). Riêng ruộng 2 vào đầu vụ nuôi phát hiện được 18 loài nhưng lại giảm dần ở
các đợt sau chỉ còn 6 loài (Đợt 6). Nhìn chung là do sự thay đổi thành phần loài của
nhóm ngành Protozoa, ở ruộng 2 về cuối vụ đã có sự mất đi hoàn toàn của nhóm
ngành này. Điều này là do có sự tăng lên về độ mặn ở cuối vụ làm cho thành phần
loài Protozoa thay đổi.
3.2.3 Mật độ động vật nổi của vụ lúa và vụ tôm qua các đợt khảo sát
3.2.3.1 Vụ lúa
Qua kết quả khảo sát cho thấy mật độ ĐVN qua 2 đợt dao động từ 8.021-159.200
ct/m
3
và có xu hướng giảm dần vào cuối vụ. Có sự thay đổi như vậy là do sự giảm
dần của 2 nhóm ngành Rotifera và ấu trùng Nauplius cụ thể là ở Kênh cấp vào đầu
vụ có mật độ Rotifera 78.400 ct/m
3
(49,25%) và ấu trùng Nauplius là 67.200 ct/m
3
(42.21%) nhưng vào cuối vụ thì giảm mạnh chỉ còn 2.750 ct/m
3
(Rotifera) và 3.352
ct/m
3
(Nauplius). Tương tự, ở ruộng 2 mật độ của Rotifera và ấu trùng Nauplius lần
lượt là 73.889 ct/m
3
và 23.333 ct/m
3
ở đầu vụ nhưng vào cuối vụ cũng giảm còn
19.833 ct/m
3
(Rotifera) và 1.167 ct/m
3
(Nauplius). Riêng ruộng 1 chỉ có nhóm ngành
Rotifera là giảm vào cuối vụ, còn ấu trùng Nauplius thì ngược lại mật độ lại tăng vào
cuối vụ. Điều này cho thấy vào đầu vụ hàm lượng dinh dưỡng trong nước cao là điều
kiện thuận lợi cho Naupius (Copepoda) và Rotifera phát triển về mật độ
làm nguồn
thức ăn tự nhiên rất tốt cho tôm.
10
-
200,000
400,000
600,000
800,000
1,000,000
1,200,000
Đợt
1
Đợt
2
Đợt
1
Đợt
2
Đợt
1
Đợt
2
Đợt
3
Đợt
4
Đợt
5
Đợt
6
Đợt
3
Đợt
4
Đợt
5
Đợt
6
Đợt
3
Đợt
4
Đợt
5
Đợt
6
Kênh cấp Ruộng 1 Ruộng 2 Kênh cấp Ruộng 1 Ruộng 2
Vụ Lúa Vụ Tôm
Cá thể/m3
Protozoa Rotifera Cladocera Copepoda Nauplius Khác
Hình 7: Biến động mật độ ĐVN tại các điểm thu của vụ lúa và vụ tôm
3.2.3.2 Vụ tôm
Mật độ ĐVN ở vụ tôm dao động từ 12.750-1.082.000 ct/m
3
cho thấy có sự biến động
lớn giữa các đợt thu mẫu và các điểm thu. Ở kênh cấp và ruộng 2 mật độ ĐVN có xu
hướng tăng lên vào cuối vụ, riêng ở ruộng 1 là ở đợt 3 có mật độ rất cao 1.082.000
ct/m
3
nhưng lại giảm mạnh vào đợt 4 và 5 chỉ còn 37.847 và 25.278 ct/m
3
và lại tăng
trở lại vào đợt 6 với mật độ cá thể 448.889 ct/m
3
. Qua kết quả khảo sát cho thấy ở
đợt 3 của ruộng 1 có mật độ ấu trùng Nauplius chiếm ưu thế với 849.333 ct/m
3
(78,50%) điều này cho thấy hàm lượng dinh dưỡng trong môi trường nước rất cao
thích hợp cho sự sinh sản của lớp Copepoda, góp phần là nguồn thức ăn cho ấu trùng
tôm lúc bắt đầu vụ nuôi. Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu sự biến động của
phytoplankton và zooplankton trong các mô hình Tôm-Rừng ở Cà Mau với mật độ
dao động từ 143.926 – 193.987 ct/m
3
(Trần Thị Thanh Lý, 2004).
3.2.4 Chỉ số đa dạng sinh học
Chỉ số đa dạng sinh học (H´) của các điểm thu mẫu ở 2 vụ lúa và tôm qua các đợt
khảo sát dao động từ 0,40-2,64 (hình 10). Nhìn chung chỉ số H’ trung bình ở vụ lúa
và vụ tôm ghi nhận được là 1,18±0,33 và 1,43±0,50 thuộc mức ô nhiễm nặng (α)
(Ngyễn Dương Thạo, 2007). Ở kênh cấp có chỉ số đa dạng cao nhất với 2,64 do đây
là thủy vực tự nhiên có sự trao đổi nước thường xuyên nên thành phần loài phong
phú hơn. Chỉ số đa dạng thấp nhất ở ruộng 2 của vụ lúa là 0,40 cho thấy thành phần
loài thấp và bị ảnh hưởng từ các hoạt động canh tác lúa của con người làm cho môi
trường xấu đi do vậy một số loài có khả năng thích nghi cao sẽ tồn tại và những loài
không thích nghi sẽ biến mất. Kết quả này thấp hơn so với kết quả khảo sát ở Kiên
Giang (0,49-3,19).
11
0.0
0.5
1.0
1.5
2.0
2.5
3.0
Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Đợt 4 Đợt 5 Đợt 6
Vụ lúa Vụ tôm
H'
Kênh Ruộng 1 Ruộng 2
Hình 8: Chỉ số H’ ở 2 vụ khảo sát qua các đợt thu mẫu
4. KẾT LUẬN
4.1 Huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang
- Đã ghi nhận được tổng cộng 93 loài ĐVN, trong đó ngành Rotifera có thành phần
loài phong phú nhất với 40 loài cao hơn so với các nhóm khác.
- Thành phần loài động vật nổi ở vụ lúa (51 loài) thấp hơn vụ tôm là (74 loài), trong
đó ngành Rotifera luôn có số lượng loài cao nhất trong cả 2 vụ khảo sát với 23 loài
(43,10%) ở vụ lúa và 31 loài (41,89%) ở vụ tôm.
- Mật độ động vật nổi ở vụ lúa (48.167-878.750 ct/m
3
) cao hơn so với vụ tôm
(35.292-392.583 ct/m
3
).
- Chỉ số đa dạng sinh học (H´) của các điểm thu mẫu ở 2 vụ lúa và tôm qua các đợt
khảo sát dao động từ 0,49-3,19.
4.2 Huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau
- Đã ghi nhận tổng cộng là 102 loài ĐVN, trong đó ngành Rotifera có thành phần
loài cao nhất là 40 loài (39,22%), các nhóm ĐVN còn lại có số loài dao động từ 2-39
loài.
- Kết quả ghi nhận thành phần loài ĐVN ở 2 vụ khảo sát không có sự khác biệt lớn
với 63 loài ở vụ lúa và 65 loài ở vụ tôm. Trong đó, ngành Rotifera và Protozoa luôn
có thành loài phong phú hơn so với bộ Cladocera và lớp Copepoda ở cả 2 vụ khảo
sát.
- Mật độ trung bình ở vụ lúa (8.021-159.200 ct/m
3
) thấp hơn so với vụ tôm (12.750-
1.082.000 ct/m
3
)
- Chỉ số đa dạng sinh học (H´) của các điểm thu mẫu ở 2 vụ lúa và tôm qua các đợt
khảo sát dao động từ 0,40-2,64.
Nhìn chung, nguồn thức ăn tự nhiên trong mô hình nuôi tôm sú-lúa luân canh khá
phong phú làm thức ăn tốt cho tôm, đặc biệt giai đoạn nhỏ.
5. ĐỀ XUẤT
Tiếp tục nghiên cứu khảo sát thành phần loài động vật nổi vào các vụ tiếp theo để có
thể nắm rõ về quy luật biến động thành phần loài, mật độ động vật nổi và tính dạng
của chúng theo thời gian và chính xác hơn. Từ đó để đánh giá chính xác nguồn thức
ăn tự nhiên trong mô hình nuôi và góp phần cung cấp cơ sở dữ liệu cho các nghiên
cứu tiếp theo.
12
TÀI LIỀU THAM KHẢO
1. APHA, AWWA, WEF. 1999. Standard moethods for the examination of the
examination of water and wastewater, 19
th
edition. American Public Health
Association 1015 Fifteenth Street, NW Washington, DC 20005.
2. Boltovskoy D., 1999. South Atlantic Zooplankton Backhuys Pulishers, Leiden,
The Netherlands. Volume 1.2-3.2.
3. Boyd C. E and Craig S. Tucker, 1992. Water Quality and Pond Soil Analyses for
Aquaculture. Auburn University, Alabama 36849, p:139-148.
4. Dương Trí Dũng, 2000. Giáo trình đa dạng động vật. Trường Đại học Cần Thơ.
5. Dương Trí Dũng và Nguyễn Hoàng Oanh, 2012. Sự phân bố của động vật nổi trên
rạch Cái Khế, thành phố Cần Thơ vào mùa khô. Tạp trí khoa học 2012: 21b 38 – 46.
Trường Đại Học Cần Thơ.
6. Đỗ Văn A Khắc, 2013. Khảo sát thành phần loài động vật nổi(Zooplankton) trên
tuyến sông Hậu thuộc tỉnh An Giang và Cần Thơ (Luận văn tốt nghiệp, trường Đại
Học Cần Thơ).
7. Nguyễn Dương Thạo, 2007. Động vật phù du và nguồn lợi cá nổi vùng khơi biển
Tây Nam Bộ Việt Nam. Tạp chí thủy sản 6/2007:32-34.
8. Nguyễn Hữu Lộc, 2003. Nghiên cứu sự biến động của phiêu sinh vật trong ao nuôi
tôm sú thâm canh thông qua ảnh hưởng của cải tạo môi trường nuôi (Luận văn tốt
nghiệp, trường Đại Học Cần Thơ).
9. Nguyễn Văn Khôi, 2001. Phân lớp chân mái chèo- Copepoda, biển. Động vật chí
Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật. Hà Nội.
10. Shirota A.,1966. The Plankton of south Viet Nam, Fresh water and Marine
plankton. Oversea. Technical cooperation agency, Japan. 446pp.
11. Trần Minh Hậu, 2012. Khảo sát thành phần động vật nổi (zooplankton) trong mô
hình nuôi tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannnamei) ở Mỹ Xuyên tỉnh Sóc Trăng
(Luận văn tốt nghiệp, trường Đại Học Cần Thơ).
12. Trần Thị Thanh Lý, 2004. Nghiên cứu sự biến động của Phytoplankton và
zooplankton trong mô hình nuôi tôm - rừng ở Cà Mau (Luận văn tốt nghiệp, trường
Đại Học Cần Thơ).
13. Trần Thị Mỹ Hạnh, 2013. Khảo sát quần thể động vật nổi (zooplankton) và động
vật đáy (zoobenthos) trong mô hình nuôi tôm sú (Penaeus monodon) – lúa luân canh
ở huyện Thới Bình - tỉnh Cà Mau (Luận văn tốt nghiệp, trường Đại Học Cần Thơ).
14. Vũ Ngọc Út và Dương Thị Hoàng Oanh, 2012. Giáo trình thực vật và động vật
thủy sinh. Trường Đại Học Cần Thơ.