Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

thực nghiệm nuôi tôm càng xanh (macrobrachium rosenbergii) luân canh trong ruộng lúa tại tỉnh hậu giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.33 KB, 13 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN






VŨ TẤN TÀI







THỰC NGHIỆM NUÔI TÔM CÀNG XANH
(Macrobrachium rosenbergii)
LUÂN CANH TRONG RUỘNG LÚA TẠI TỈNH HẬU
GIANG










LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN







2014


2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN







VŨ TẤN TÀI



THỰC NGHIỆM NUÔI TÔM CÀNG XANH
(Macrobrachium rosenbergii)
LUÂN CANH TRONG RUỘNG LÚA TẠI TỈNH HẬU

GIANG






LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN







CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
TS. Lam Mỹ Lan






2014
3

THỰC NGHIỆM NUÔI TÔM CÀNG XANH (Macrobrachium rosenbergii)
LUÂN CANH TRONG RUỘNG LÚA TẠI TỈNH HẬU GIANG
Vũ Tấn Tài


Khoa Thủy sản, Trường Đại Học Cần Thơ

ABSTRACT
The on farm trial on giant freshwater prawn (Macrobrachium rosenbergii de Man, 1879)
culture in rotational rice – prawn system at Hau Giang province was carried to increase
farmers’ income and develop rotational rice – prawn system. Prawns were nursed and cultures
in 3 ponds and rice fields. In the first stage, postlarvae were nursed in the ponds (4,000 – 5,000
m
2
) at stocking density of 30 PL/m
2
. After 2.5 months, rice fileds (7,000 – 9,000 m
2
) were
prepared and male prawns were selected to stock in the rice fields from the third month for the
second stage. The water quality parameters in the cultured systems such as temperature: 30
0
C ±
0.1, pH : 7.7 ± 0.3, transparency 31.1 cm ± 0.2, Oxy: 4.50 ± 0.13 (ppm), ammonium: 0.53 ±
0.04 (ppm), PO
4
3-
: 0.13 ± 0.01 (ppm), H
2
S: 0.07 ± 0.01 (ppm), COD: 17.2 ± 0.4 were in the
suitable ranges for prawn growth. After 7 months, the final mean weight of prawn were 59.0 –
70.7 g/ind. The survival rates of prawns were 31- 34,5%. The yield of the field I , II and III was
1,465 kg/ha; 986 kg/ha, 1178 kg/ha respectively. The profits were 52.560 – 78.460 millions
VND/ha. The cost benefit ratios were 54 - 72%. Culture prawn in the rice fields in two stages,

farmers got high profits and the economic efficiency was increased.
Key words: Giant freshwater prawn, rotation, survival, growth, productivity.
Title: The on farm trial on giant freshwater prawn (Macrobrachium rosenbergii de Man, 1879)
culture in rotational rice – prawn system at Hau Giang province.
TÓM TẮT
Thực nghiệm nuôi tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii de Man, 1879) luân canh trong
ruộng lúa tỉnh Hậu Giang, nhằm nâng cao thu nhập cho người nuôi và góp phần phát triển mô
hình nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa. Tôm càng xanh được ương và nuôi trong 3 ruộng.
qua hai giai đoạn. Giai đoạn 1 ương tôm trong ao (4.000 – 5.000 m
2
) sau 2,5 tháng thì cải tạo
ruộng và tháng thứ 3 thì tuyển chọn tôm đực nuôi giai đoạn 2 trong ruộng (7.000 – 9.000 m
2
)
với mật độ 3 con/m
2
. Trong quá trình nuôi tôm, các yếu tố thủy lý hoá trong 3 ao và ruộng như
nhiệt độ 30
0
C ± 0,1; pH 7,7 ± 0,3, độ trong 31,1 cm ± 0,2; Oxy 4,5 ± 0,13 ppm, ammonium
0,53 ± 0,04 ppm; PO
4
3-
0,13 ± 0,01 ppm; H
2
S 0,07 ± 0,01 ppm và COD 17,2 ± 0,4 ppm nằm
trong khoảng thích hợp cho tôm tăng trưởng. Sau 7 tháng nuôi, khối lượng trung bình của tôm
ở 3 ruộng dao động từ 59,0 - 70,7 g/con. Tỉ lệ sống của tôm càng xanh đạt 31 – 34,5%. Năng
suất tôm nuôi ruộng 1 đạt: 1.465 kg/ha, ruộng 2 đạt: 986 kg/ha và ruộng 3 đạt 1178 kg/ha. Lợi
nhuận nuôi tôm càng xanh trong ruộng đạt 52.560 – 78.460 triệu đồng/ha. Tỉ suất lợi nhuận là

54 - 72%. Lợi nhuận mang lại từ nuôi tôm càng xanh trong qua hai giai đoạn cao, giúp cho
người nuôi tăng thu hiệu quả tài chính.

4

1. GIỚI THIỆU
Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii de Man, 1789) là một trong những đối
tượng thủy sản có giá trị kinh tế cao ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL). Bên
cạnh đó tôm càng xanh còn là loài có chất lượng thịt thơm ngon, được người tiêu dùng
ưa thích, mang lại thu nhập cao cho người dân. Hiện nay, năng suất tôm càng xanh được
nuôi đạt được khác nhau tùy thuộc vào hình thức nuôi. Năm 2012, thử nghiệm nuôi tôm
càng xanh luân canh trên ruộng lúa tại Thoại Sơn – An Giang đã được thực hiện. Khối
lượng trung bình của tôm sau 6 tháng nuôi trong các ruộng đạt từ 50,3 – 73,8 g/con, tỷ
lệ sống đạt từ 30 – 36%, năng suất tôm nuôi đạt 1.340 – 1.633 kg/ha/vụ. Trong 6 hộ
tham gia xây dựng mô hình nuôi đều thu được lợi nhuận từ 79,2 – 110,7 triệu
đồng/ha/vụ. Tổng lợi nhuận mang lại từ 1 vụ tôm + 1 vụ lúa đạt dao động từ 102,2 –
135,7 triệu đồng/ha/năm. Tỉ suất lợi nhuận đạt dao động từ 65 - 72 % (Trần Văn Hận,
2012).
Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Hậu Giang năm 2013,
diện tích ao nuôi cá tra và cá rô đồng ở Hậu Giang là hơn 400 ha, trong đó có hơn 200
ha có thể nuôi tôm càng xanh. Do giá cá rô và cá tra bấp bênh, nhiều người nuôi dẫn
đến việc ao nuôi bị bỏ trống gây lãng phí. Vì thế, để tận dụng diện tích ao ương tôm
càng xanh và nuôi tôm trong ruộng lúa, đề tài nghiên cứu “Thực nghiệm nuôi tôm
càng xanh luân canh trong ruộng lúa tại tỉnh Hậu Giang” được thực hiện nhằm
đánh giá sự tăng trưởng, tỉ lệ sống và hiệu quả mô hình nuôi tôm càng xanh luân canh
trong ruộng lúa để phát triển mô hình nuôi thích hợp với điều kiện tại tỉnh Hậu Giang
góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống cho người dân ở địa phương tỉnh Hậu
Giang.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài thực hiện từ tháng 5/2014 đến tháng 12/2014 trên 3 ruộng lúa tại xã Long Bình,

xã Long Phú, xã Vị Đông, tỉnh Hậu Giang.
2.1 Phương pháp bố trí thí nghiệm
Trong quá trình thực nghiệm, ruộng lúa được thiết kế gồm 1 ao ương liền kề ruộng lúa
có diện tích 4.000 – 5.000 m
2
(55,6 – 57,1% diện tích ruộng). Ao ương và ruộng nuôi có
cống cấp và cống thoát nước. Mực nước ao ương duy trì ở mức 1,4 m, mực nước ruộng
nuôi khoảng 1,2 – 1,4 m. Bờ bao quanh được gia cố chắc chắn. Tôm được ương và nuôi
qua 2 giai đoạn.
Giai đoạn 1: Tôm bột (1,2 – 1,5 cm) được ương nuôi trong ao với mật độ 30 con/m
2
.
Trong ao được lắp đặt hệ thống quạt nước. Tôm được cho ăn 4 lần/ngày bằng thức ăn
viên hàm lượng đạm 40 - 42%. Sau tháng nuôi thứ 2 cho ăn thức ăn công nghiệp và
thức ăn tươi sống với tỷ lệ 40% thức ăn công nghiệp và 60% thức ăn tươi sống. Tôm
5

được ương 2,5 tháng thì tiến hành cải tạo ruộng chuẩn bị lựa tôm đực chuyển ra ruộng
nuôi.
Giai đoạn 2: Sau 3 tháng nuôi thì tôm bắt đầu thành thục (tôm đực và tôm cái biểu hiện
rõ qua hình dáng bên ngoài), tiến hành kéo lưới và chọn tôm đực tốt (tôm càng lửa,
đồng cỡ) chuyển ra ruộng nuôi. Mật độ chuyển ra ruộng nuôi là 3 con/m
2
. Số tôm cái và
tôm đực còn nhỏ tiếp tục nuôi trong ao. Sau khi chuyển tôm đực ra ruộng nuôi thì cho
ăn theo tỉ lệ 30% thức ăn công nghiệp và 70% thức ăn tươi sống (ốc và cá tạp). Sau 4
tháng bắt đầu thu tỉa tôm trứng, tôm càng xào. Lượng tôm còn lại tiếp tục nuôi trong ao
và thu hoạch toàn bộ sau 7 tháng.
2.2. Phương pháp thu và xử lý số liệu
Định kỳ thu mẫu các yếu tố môi trường nước như nhiệt độ nước, pH, độ trong, DO,

NH
4
+
, PO
4
3-
, H
2
S và COD 15 ngày/lần. Tăng trưởng của tôm nuôi được thu định kỳ
hàng tháng (30 con/ruộng) để tiến hành cân khối lượng của tôm nuôi để xác định tốc độ
tăng trưởng tuyệt đối (DWG). Xác định tỉ lệ sống giai đoạn 1, giai đoạn 2 và toàn vụ
nuôi. Khi thu hoạch, tỷ lệ phân khối sinh trưởng về khối lượng của tôm và năng suất
tôm nuôi được xác định. Hiệu quả tài chính (tổng thu, tổng chi, lợi nhuận, tỷ suất lợi
nhuận) mang lại từ mô hình nuôi được tính toán và phân tích. Tổng chi phí xây dựng
mô hình bao gồm (1) chi phí cố định: khấu hao công trình ao nuôi, máy bơm nước, lưới
kéo tôm, (2) chi phí biến đổi bao gồm chi phí cải tạo ao nuôi, vôi bột, dây thuốc cá,
phân bón, tôm giống, thức ăn, nhiên liệu, công chăm sóc và thu hoạch.
Tất cả số liệu được thu thập, phân tích và xử lý bằng chương trình Excel để so sánh và
đánh giá kết quả của hệ thống nuôi.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Các yếu tố môi trường ruộng nuôi
3.1.1. Các yếu tố thủy lý hóa trong ruộng nuôi
Nhiệt độ trung bình giữa các ruộng nuôi tương đối ổn định (Bảng 1). Theo Nguyễn
Thanh Phương và ctv. (2003) tôm càng xanh là loài thích nghi với điều kiện biên độ
nhiệt dao động rộng (18 - 34
o
C) và tôm nuôi sẽ phát triển tốt trong khoảng nhiệt độ dao
động từ 25 - 31
o
C. Theo Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải (2004), nhiệt độ

thích hợp cho tôm càng xanh từ 26 - 31
o
C nếu nhiệt độ cao sẽ kích thích tôm thành thục
nhanh, kích thước nhỏ. Ngoài ra khi nhiệt độ tăng cao làm hàm lượng NH
3
tăng theo
gây bất lợi cho tôm. Trong giới hạn khoảng dao động nhiệt độ thích hợp, khi nhiệt độ
càng cao, chu kỳ lột xác của tôm nuôi càng ngắn, tôm nuôi sẽ phát triển nhanh (Nguyễn
Thị Thu Thủy, 2000). Nhìn chung, nhiệt độ ở các tháng đều thích hợp cho sự phát triển
của tôm.
Độ trong của các ruộng nuôi dao động từ 30,7 – 31,6 cm, các tháng đầu tiên độ trong
cao do ao mới cải tạo chất lượng nước tốt, về sau độ trong giảm dần do thức ăn dư thừa
6

của tôm, phân tôm tích tụ lại. Theo Nguyễn Việt Thắng (1995) độ trong dao độ trong
khoảng 20 – 70 cm là giá trị thích hợp cho hệ thống nuôi tôm càng xanh. Theo Trương
Quốc Phú (2006) thì độ trong thích hợp cho ao nuôi tôm là 35 – 45 cm. Theo Nguyễn
Thanh Phương và Trần Ngọc Hải (2004) cho rằng độ trong tốt nhất cho tôm càng xanh
phát triển là 25 – 35 cm. Nhìn chung độ trong giữa các ruộng nuôi nằm trong giới hạn
thích hợp cho sự phát triển của tôm càng xanh.
Bảng 1: Một số yếu tố thủy lý hóa trong ruộng tôm tôm càng xanh
Chỉ tiêu
Ruộng 1
Ruộng 2
Ruộng 3
Trung bình
Nhiệt độ (
o
C)
29,9±0,7

30±0,6
30±0,4
30±0,1
Độ trong (cm)
31±1,9
31,6±3,3
30,7±2,4
31,1±0,2
pH
7,9±0,3
7,4±0,3
7,8±0,3
7,7±0,3
Oxy (ppm)
4,67 ± 0,5
4,51 ± 0,4
4,3 ± 0,5
4,5 ± 0,13
NH
4
+
(ppm)
0,58 ± 0,4
0,5 ± 0,3
0,53 ± 0,3
0,53 ± 0,04
PO
4
3-
(ppm)

0,12 ± 0,06
0,13 ± 0,06
0,14 ± 0,06
0,13 ± 0,01
H
2
S (ppm)
0,08± 0,05
0,06 ± 0,04
0,08± 0,06
0,07 ± 0,01
COD (ppm)
17,5 ± 5,8
17,8± 5,3
18,3 ± 5,8
17,2 ± 0,4
pH trong thực nghiệm dao động từ 7,4 – 7,9. Sự biến động pH trong quá trình nuôi
không lớn do ao và ruộng được bón vôi khi pH thấp hoặc trời mưa. Theo Nguyễn Thanh
Phương và Trần Ngọc Hải (2004), tôm nuôi thích hợp trong ngưỡng pH 7 – 8,5, pH
dưới 6,5 hay trên 9,0 tôm sinh trưởng kém. Ruộng nuôi của các hộ có pH thích hợp cho
nuôi tôm càng xanh.
Hàm lượng DO ở 3 ruộng cao nhất là 4,67 ppm và thấp nhất là 4,3 ppm, trung bình là
4,5 ppm. So với kết quả thực nghiệm nuôi tôm càng xanh của Nguyễn Lê Quốc Huy
(2013) có oxy trung bình là 4,4 ppm thì kết quả thu được là thích hợp trong việc nuôi
tôm càng xanh. Hàm lượng DO cao vào những tháng đầu và giảm về cuối vụ do thức ăn
dư thừa, nền đáy dơ làm tăng quá trình phân hủy chất hữu cơ. Theo Nguyễn Thanh
Phương và Trần Ngọc Hải (2004), hàm lượng oxy hòa tan tốt cho tôm dao động từ 3 – 7
ppm.
Hàm lượng NH
4

+
ở các ruộng nuôi thực nghiệm dao động từ 0,5 – 0,58 ppm. Hàm
lượng amonium có xu hướng tăng về cuối vụ nuôi do việc thức ăn dư thừa và việc thay
nước khó khăn do quá trình trục lúa của người dân ảnh hưởng đến chất lượng nước.
Theo Nguyễn Thị Thanh Thủy (2005) hàm lượng NH
4
+
cho phép là 0,005 – 1 ppm. Tuy
nhiên theo Nguyễn Văn Thường (2007), hàm lượng NH
4
+
thích hợp là 0,2 – 2 ppm, tuy
NH
4
+
không độc nhưng nếu hàm lượng cao sẽ dẫn đến biến động Oxy và pH.
Hàm lượng PO
4
3-
ppm trong các ruộng nuôi dao động trung bình 0,13 ± 0,01 ppm, so
với kết quả của thực nghiệm nuôi tôm càng xanh của Trương Ngọc Sang (2013) là 0,13
± 0,005 ppm thì kết quả của nghiên cứu thực nghiệm này không khác biệt nhưng lại cao
7

hơn so với kết quả của Nguyễn Lê Quốc Huy (2013) là 0,1 ± 0,05 ppm. Theo Dương
Nhựt Long và Lam Mỹ Lan (2004) thì hàm lượng PO
4
3-
trong ao nuôi dao động từ 0,02
– 0,04 ppm thì hàm lượng dinh dưỡng trong ao nuôi khá phong phú, thuận lợi cho phiêu

sinh vật trong nước phát triển.
Hàm lượng COD trong các ruộng nuôi dao động từ 17,5 – 17,3 ppm và cao hơn so với
kết quả Trương Ngọc Sang (2013) là 17,0 – 17,2 ppm do những tháng cuối chất lượng
tốt không tốt ảnh hưởng đến việc thay nước thường xuyên. Hàm lượng COD trong
ruộng nuôi tôm càng xanh chỉ thị môi trường ở mức độ dinh dưỡng khá theo tiêu chuẩn
đánh giá chất lượng nước trong các loại hình thủy vực giàu hay nghèo dinh dưỡng của
Đặng Ngọc Thanh (1979).
Hàm lượng H
2
S trong các ruộng nuôi dao động từ 0,06 - 0,08 ppm và cao hơn so với
kết quả của Trương Ngọc Sang (2013) (0,05 - 0,07 ppm). Theo Boyd (1990), hàm
lượng H
2
S (ppm) cho phép trong các ao, ruộng nuôi tôm càng xanh phải nhỏ hơn 0,01
ppm. Tuy nhiên hàm lượng H
2
S có thể tăng cao và sự tăng cao hàm lượng này được xảy
ra từ từ, tạo sự thích nghi dần cho tôm nuôi trong hệ thống, nhưng cũng chỉ dừng lại ở
giới hạn ngưỡng chịu đựng hàm lượng H
2
S < 0,09 ppm. Qua đó tôm trong các ruộng
nuôi vẫn nằm trong ngưỡng chịu đựng và phát triển bình thường do có sự thích nghi dần
qua các tháng.
Các yếu tố thủy hóa trong quá trình thực nghiệm đều thích hợp với việc nuôi tôm càng
xanh, hàm lượng H
2
S tuy có cao nhưng vẫn không ảnh hưởng đến sự phát triển của tôm.
3.2. Sự tăng trưởng của tôm càng xanh
Khối lượng tôm nuôi trong 3 tháng đầu giữa các ruộng ít có sự khác biệt (Bảng 2). Bắt
đầu từ tháng thứ 4 tôm tăng trưởng rất nhanh do tôm đã được đưa ra ruộng với mật độ

thưa, chất lượng nước tốt và thay nước thường xuyên, bổ sung thức ăn tươi sống, quản
lý ao tốt giúp tôm ăn mạnh. Ngoài ra, trong ruộng chỉ có tôm đực nên sức tăng trưởng
của tôm nhanh. Lúc thu hoạch, khối lượng tôm ở ruộng 1 có khối lượng trung bình tôm
lớn nhất (70,7 ± 24,8 g/con) do chủ động được nguồn nước, thức ăn tươi sống ổn định,
ao được xử lý và chăm sóc tốt.
Kết quả khối lượng của tôm thu được ở cả 3 ruộng đều cao hơn so với kết quả của
Trương Ngọc Sang (2013), nuôi tôm trong ruộng lúa vào mùa khô đạt khối lượng trung
bình 43,1 – 56 g/con và Nguyễn Lê Quốc Huy (2013), nuôi tôm càng xanh luân canh cải
tiến tại An Giang có khối lượng dao động từ 47,3 – 54,6. Ngoài ra kết quả trên cao hơn
với nghiên cứu của Trần Tấn Huy và ctv. (2004), tôm nuôi trong ruộng lúa mùa lũ đạt
khối lượng trung bình 47,9 – 61 g/con và kết quả của Trần Văn Hận (2010) nuôi tôm
càng xanh luân canh trong ở Tam Nông – Đồng Tháp ở 3 mật độ khác nhau 9; 12; và 15
con/m
2
khối lượng trung bình của tôm sau 6 tháng nuôi dao động từ 56,4 – 67,1 g/con.
8

Khi nuôi tôm càng xanh ở mật độ thấp, khối lượng tôm bình quân ở mật độ 2 con/m
2

cao hơn so với mật độ 4, 6 con/ m
2
(Lam Mỹ Lan, 2006).
Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng của tôm càng xanh nuôi trong ruộng lúa
Thời gian nuôi
Ruộng 1
Ruộng 2
Ruộng 3
Ban đầu
W (g)

0,1
0,1
0,1
30 ngày
W(g)
1,2±0,5
1,3±0,17
1,3±0,6

DWG (g/ngày)
0,04
0,04
0,04
60 ngày
W(g)
5,9±2,4
5,5±2,6
6,1±2,6

DWG (g/ngày)
0,15
0,14
0,16
90 ngày
W(g)
13,7±5,1
15,2±7,3
14,2±5,4

DWG (g/ngày)

0,2
0,32
0,27
120 ngày
W(g)
30,1±8,3
29,2±15,5
30,2±20,5

DWG (g/ngày)
0,55
0,47
0,54
150 ngày
W(g)
51,8±15,8
43,1±11,8
45,5±15,9

DWG (g/ngày)
0,72
0,46
0,51
180 ngày
W(g)
59,7±21,5
49,2±15,3
53,6±12,1

DWG (g/ngày)

0,26
0,2
0,27
210 ngày
W(g)
70,7±24,8
59±18,1
60,3±27,1

DWG (g/ngày)
0,37
0,32
0,22

Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối của tôm ở 3 ruộng nuôi qua các tháng dao động từ 0,04 –
0,72 g/ngày. Kết quả tăng trưởng của tôm ở thực nghiệm tương đương với kết quả của
(Trương Ngọc Sang, 2013) là 0,04 – 0,77 g/ngày và cao hơn so với kết quả của (Nguyễn
Lê Quốc Huy, 2013) là 0,03 – 0,48 g/ngày. Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng của tôm
tăng dần từ tháng thứ 1 đến tháng thứ 5 và chậm lại cho đến khi thu hoạch. Nguyên dân
là do vào các tháng cuối diễn ra quá trình trục lúa làm chất lượng nước xấu không thay
nước được do đó tôm chậm lớn. So với kết quả của Trần Văn Hận (2010), nuôi tôm
càng xanh luân canh trong ở Tam Nông – Đồng Tháp ở 3 mật độ khác nhau 9, 12, và 15
con/m
2
khối lượng trung bình của tôm sau 6 tháng nuôi dao động từ 0,03 – 0,64 g/con
thì kết quả thực nghiệm giữa các ruộng là tốt hơn. Qua đó cho thấy nuôi tôm càng xanh
vào mùa lũ đem lại lợi nhuân cao so với nuôi mùa khô. Nguyên nhân do tôm nuôi vào
mùa lũ có sự trao đổi nước thường xuyên, điều kiện sinh trưởng và phát triển tốt, kích
cỡ tôm lớn hơn so với mùa khô.
3.3. Phân hóa sinh trưởng về khối lượng của tôm càng xanh trong ao nuôi

Tôm càng xanh nuôi có sự phân cỡ khối lượng khác nhau, nhưng tỷ lệ tôm cùng nhóm
kích cỡ ở các ruộng chênh lệch nhau không đáng kể. Khi thu hoạch, tôm càng xanh
được phân 3 nhóm kích cỡ gồm tôm loại 1 ≥ 50 g, loại 2: 20 - 49 g, tôm xô < 20 g/con.
Tôm loại 1 ở cả 3 ruộng đều khá cao so với tôm loại 2 và tôm xô cụ thể ruộng 1 tôm
loại 1 chiếm 84% loại 2 và tôm xô chiếm 12% và 4%, ruộng 2 tôm loại 1 chiếm 79%
9

loại 2 và tôm xô chiếm 12% và 9%, ruộng 3 tôm loại 1 chiếm 80% loại 2 và tôm xô
chiếm 13% và 7%. Ruộng 1 có tỉ lệ tôm 1 cao nhất là 84% so với ruộng 2 là 79% và
ruộng 3 là 80%, nguyên nhân là do hộ nuôi ở ruộng 1 chủ động được nguồn thức ăn tươi
sống là ốc và cá tạp, nguồn nước tốt nhưng không có sự chênh lệch lớn so với ruộng 2
và ruộng 3.
















Hình 1: Phân hóa sinh trưởng về khối lượng của tôm càng xanh nuôi trong ruộng


Kết quả thực nghiệm trên cho thấy trong quá trình nuôi người dân tuyển chọn tôm đực
nuôi tiếp, tôm cái và tôm đực kích cỡ nhỏ được thu hoạch và bán trước, nên khi thu
hoạch tôm đực loại 1 đạt tỉ lệ cao. So với kết quả của (Nguyễn Lê Quốc Huy, 2013)
nuôi tôm càng xanh luân cảnh cải tiến tại An Giang tôm loại 1 chiếm tỷ lệ từ 62 - 69%
thì tôm nuôi tại tỉnh Hậu Giang chiếm tỉ lệ cao hơn. Từ đó cho thấy tôm nuôi vào mùa
mưa có điều kiện sống tốt, chất lượng nước cao, nguồn thức ăn tươi sống ổn định. Do
đó khối lượng tôm lớn và đồng cỡ hơn so với nuôi tôm càng xanh vào mùa nghịch.
3.4. Tỷ lệ sống và năng suất
Tỷ lệ sống của tôm sau 7 tháng nuôi ở 3 ruộng dao động từ 31 – 34,5. Tỷ lệ sống của
tôm ở ruộng 1 cao nhất do quá trình chăm sóc tốt kết hợp với nguồn thức ăn tươi sống
và thay nước thường xuyên, bón vôi định kì giúp tôm phát triển mau và tránh ăn nhau.
Ruộng 2 có tỷ lệ sống thấp nhất nhưng không chênh lệch lớn nguyên nhân một phần do
nền đáy ao dơ có nhiều bùn đen, tôm kém ăn.
Bảng 3.3. Tỷ lệ sống của tôm nuôi trong các ruộng
Ruộng
Sau 3 tháng nuôi (%)
Từ 3 – 7 tháng nuôi (%)
Từ 1 - 7 tháng nuôi (%)
Ruộng 1
44,1
54,3
34,5
Ruộng 2
41,1
53,3
31
Ruộng 3
43,4
58,7
33,7

Trung bình
42,9 ± 1,6
55,4 ± 2,9
33,1 ± 1,8
10

Tỷ lệ sống của tôm sau 3 tháng nuôi (giai đoạn 1) dao động từ 41,1 – 44,1% và thấp hơn
so với tỷ lệ sống của tôm đực nuôi trong ruộng thả từ tháng thứ 3 đến tháng thứ 7 (giai
đoạn 2) từ 53,3 – 58,7% do giai đoạn này tôm đã lớn và nuôi với mật độ thấp.
Nguyễn Thanh Phương và ctv. (2002) cho rằng nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa sau
7 tháng nuôi tỷ lệ sống trung bình là 23,9% (dao động từ: 6,5 – 60%). Theo Nguyễn
Văn Hảo và ctv. (2002) thì mô hình nuôi tôm càng xanh trong ao đất mật độ 19 và 27
PL/m
2
sau 7 tháng nuôi, tỉ lệ sống cao nhất chỉ đạt 23%. Tôm nuôi ở mật độ 1 – 3
con/m
2
tỷ lệ sống trung bình từ 21 – 24,2% (Hồ Thanh Thái, 2011). Qua đó cho thấy tỉ
lệ sống tôm nuôi của ba ruộng không khác biệt so với những nghiên cứu trước.
Bảng 3.4. Năng suất của tôm nuôi trong các ruộng
Ruộng
Năng suất tôm thu lúc 3
tháng (kg/ha)
Năng suất tôm thu lúc 7
tháng (kg/ha)
Năng suất tôm
(Kg/ha/vụ)
Ruộng 1
236
1.229

1.465
Ruộng 2
168
818
986
Ruộng 3
179
999
1.178
Trung bình
194 ± 37
1.015 ± 206
1.210 ± 241
Năng suất tôm càng xanh thu lúc 3 tháng sau khi thả giống (giai đoạn 1) chủ yếu là tôm
cái và tôm đực kích cỡ nhỏ được bán khi tuyển chọn tôm đực phát triển tốt thả nuôi tiếp
trong ruộng. Năng suất tôm đực nuôi trong ruộng đạt cao (1.015 ± 206 kg/ha) do tôm đực
tăng trưởng nhanh, kích cỡ lúc thu hoạch lớn. Theo nghiên cứu của Dương Nhựt Long
và ctv. (2005), nuôi tôm càng xanh luân canh trong ruộng lúa ở tỉnh Long An với mật
độ tôm nuôi 10 con/m
2
, năng suất tôm đạt dao động từ 525 – 818 kg/ha. Năng suất tôm
nuôi thu được tại huyện Ô Môn năm 2004 đạt cao nhất 815 kg/ha và bình quân từ 3
ruộng thực nghiệm đạt 672 kg/ha (Trần Thanh Hải, 2004). Năng suất tôm càng xanh
nuôi luân canh trong ruộng tại Hậu Giang cao hơn so với các mô hình nuôi tôm càng
xanh khác do áp dụng đúng kỹ thuật và có sự cải tiến mới so với cách nuôi truyền thống
là ương và nuôi tôm trong hai giai đoạn và có tuyển chọn tôm đực để nuôi tiếp, tôm cái
thu tỉa, do đó năng suất của mô hình nuôi tôm tăng lên, tôm phát triển nhanh và đồng
cỡ.
3.5. Phân tích hiệu quả lợi nhuận từ mô hình
Tổng chi trung bình của các hộ 138,810 ± 25,486 triệu đồng/ha. Trong đó chi phí con

giống của 3 ruộng 1, ruộng 2, ruộng 3 là 22,3%, 24,7%, 23,6% trên tổng chi. Chi phí
thức ăn của 3 ruộng như sau 46,6% ở ruộng 1, 37,6% ở ruộng 2 và 38% ở ruộng 3. Do
chi phí thức ăn ở ruộng 1 cao hơn so với 2 ruộng còn lại dẫn đến tổng chi cũng cao nhất.
Tổng thu nhập trung bình của 3 ruộng 227,950 ± 46,135 triệu đồng/ha. Tổng thu nhập ở
ruộng 1 cao nhất do tôm loại 1 đạt cao nhất so với 3 ruộng. Trong khi đó tổng thu ở
11

ruộng 2 là 186,9 triệu đồng/ha và thấp nhất trong số 3 ruộng, nguyên nhân là do nền đáy
có nhiều bùn dẫn đến tôm kém ăn, tỉ lệ tôm loại 1 thấp và tôm xô cao.
Bảng 3.5 Bảng phân tích lợi nhuận từ 2 ruộng
Ruộng
Tổng chi
(triệu đồng/ha)
Tổng thu
(triệu đồng/ha)
Lợi nhuận (triệu
đồng/ha)
Tỷ suất lợi
nhuận (%)
Ruộng 1
168,035
277,880
78,460
65
Ruộng 2
121,200
186,900
52,560
54
Ruộng 3

127,195
219,070
71,514
72
Trung bình
138,810±25,486
227,950±46,135
67,440±16,609
64±9
Lợi nhuận bình quân của các hộ nuôi tôm càng xanh xã Phú Thuận đạt 46 triệu đồng/ha
(Trần Văn Hận, 2012). Lợi nhuận của 3 hộ nuôi tôm càng xanh tại Hậu Giang cao do
người nuôi nắm vững qui trình và kỹ thuật nuôi, ương và nuôi qua hai giai đoạn và có
tuyển chọn tôm đực ra ruộng nuôi, thu tỉa tôm cái, tận dụng nguồn thức ăn tươi sống dồi
dào.
Tỷ suất lợi nhuận giữa 3 ruộng dao động từ 45 – 72% do quá trình cải tạo, chăm sóc
quản lý dẫn đến năng suất tôm và lợi nhuận giữa các mô hình có sự khác nhau. So với
kết quả của Nguyễn Lê Quốc Huy (2013) tỷ suất lợi nhuận đạt 63 – 81% thì các ruộng ở
Hậu Giang thấp hơn, nguyên nhân là do chi phí cao về thức ăn, con giống và công trình
thiết bị, và cao hơn so với kết quả nuôi tôm vào mùa khô của Trương Ngọc Sang (2013)
19,8 – 52,6%.
4. KẾT LUẬN
Sau 7 tháng nuôi, khối lượng tôm lúc thu hoạch ở các ruộng đạt 59,0 - 70,7 g/con.
Tỷ lệ sống của tôm càng xanh nuôi ở 3 ruộng là 31 – 34,5%. Năng suất trung bình 1.210
± 241 kg/ha. Lợi nhuận dao động từ 52.560 – 78.460 triệu đồng/ha. Tỷ suất lợi nhuận
của dao động từ 54 – 72%. Nuôi tôm càng xanh luân canh trong ruộng lúa mang lại hiệu
quả cao cho người dân.
5. ĐỀ XUẤT
Cần nghiên cứu cải thiện tỷ lệ sống của tôm càng xanh nuôi trong ruộng lúa để nâng cao
hiệu quả mô hình nuôi.


LỜI CẢM TẠ

Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Khoa Thủy Sản đã nhiệt tình, ân cần giúp em có
được những kiến thức cần thiết cho công việc tương lai. Đặc biệt là thầy, cô Bộ Môn
Nuôi Thủy Sản Nước Ngọt đã tạo điều kiện thuận lời cho em trong suốt quá trình làm
luận văn. Xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến cô Lam Mỹ Lan và thầy
Trần Văn Hận đã trực tiếp hướng dẫn, dìu dắt và chỉ bảo những kiến thức quí báu và
giúp đỡ em để hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp. Xin gởi lời cảm ơn đến các cô, các
12

chú là hộ nuôi tại tỉnh Hậu Giang đã nhiệt tình giúp đỡ, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện để
em hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp này. Cuối cùng xin chân thành cảm ơn đến thầy
Cố Vấn, tập thể lớp Nuôi Trồng Thủy Sản Khóa 37, gia đình đã giúp em vượt qua
những khó khăn trong suốt quá trình học tập. Xin chân thành cảm ơn!

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Boyd, 1990. Water quality in pond for aquaculture. Agriculture Experiment Station,
Auburn University.
2. Đặng Ngọc Thanh, 1979. Thủy sinh học đại cương. Nhà xuất bản Đại học và Trung học
chuyên nghiệp.
3. Dương Nhựt Long và Lam Mỹ Lan, 2004. Giáo trình hệ thống nuôi kết hợp – Khoa
Thủy Sản – Đại Học Cần Thơ, 87 trang
4. Dương Nhựt Long, Đặng Hữu Tâm, Trần Văn Hận, 2005. Nuôi tôm càng xanh luân
canh trên ruộng lúa ở huyện Mộc Hoá, Vĩnh Hưng và Tân Hưng, tỉnh Long An. Báo
cáo dự án. 77 trang.
5. Hồ Thanh Thái, 2011. Khảo sát hiện trạng và thực nghiệm nuôi tôm càng xanh
(Macrobrachium rosenbergii) trong ruộng lúa kết hợp tại huyện Hồng Dân tỉnh Bạc
Liêu. Luận văn Thạc sĩ, Khoa Thủy Sản – Trường Đại Học Cần Thơ.
6. Lam Mỹ Lan, 2006. Freshwater prawn – rice culture: the development of a sustainable
system in the Mekong delta, Vietnam. PhD thesis, 159p.

7. Nguyễn Lê Quốc Huy, 2013. Thực nghiệm nuôi tôm càng xanh luân canh cải tiến trên
ruộng lúa tại xã Phú Thuận, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Luận văn tốt nghiệp đại
học. Khoa Thủy Sản – Trường Đại Học Cần Thơ.
8. Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải. 2004. Giáo trình kỹ thuật sản xuất giống và
nuôi giáp xác – Khoa Thủy Sản – Trường Đại Học Cần Thơ.
9. Nguyễn Thanh Phương, Trần Ngọc Hải, Trần Thị Thanh Hiền và Marcy N. Wilder,
2003. Nguyên lý kỹ thuật sản xuất giống tôm càng xanh, 126 trang.
10. Nguyễn Thanh Phương, Trương Quốc Phú, Nguyễn Văn Thường, Trần Thị Thanh Hiền,
Trần Ngọc Hải, Trần Hồng Nguyên, Phạm Minh Truyền, Phạm Minh Đức, Võ Thành
Toàn và Vũ Nam Sơn, 2002. Nghiên cứu phát triển mô hình nuôi tôm ruộng lúa tỉnh Trà
Vinh. Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học. Khoa thủy sản – Đại học Cần Thơ,
31 trang.
11. Nguyễn Thị Thanh Thủy, 2005. Kỹ thuật sản xuất giống tôm càng xanh Sở Thủy Sản
Bến Tre, Trung tâm Khuyến ngư.
12. Nguyễn Thị Thu Thuỷ, 2000. Kỹ thuật sản xuất giống tôm càng xanh, Nhà xuất bản
Nông nghiệp, Thành phố Hồ Chí Minh.
13. Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Quang Minh và Lâm Quyền, 2002. Một số kết quả bước đầu
mô hình nuôi tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) thâm canh quy mô hộ gia
đình ở Đồng bằng Sông Cửu Long. Tuyển tập Nghề Cá Sông Cửu Long. Viện nghiên
cứu nuôi trồng thủy sản II, 172 – 186.
14. Nguyễn Văn Thường, 2007. Giáo trình Ngư loại II, Khoa Thủy Sản - Trường Đại Học
Cần Thơ.
13

15. Nguyễn Việt Thắng, 1995. Kỹ thuật nuôi tôm càng xanh. NXB Nông nghiệp Thành
phố Hồ Chí Minh.
16. Trần Tấn Huy, Tạ Văn Phương và Dương Thị Hoàng Oanh, 2004. Thực nghiệm nuôi
tôm càng xanh theo mô hình tôm lúa ở Thoại Sơn, An Gian, Tạp chí khoa học Đại học
Cần Thơ chuyên ngành thủy sản, nhà xuất bản Nông Nghiệp, 230 – 239.
17. Trần Thanh Hải, 2004. Xây dựng mô hình nuôi tôm luân canh trong ruộng lúa tại huyện

Ô - Môn, Tp Cần Thơ. Báo cáo đề tài Sở Khoa học Cần Thơ, 54 trang.
18. Trần Văn Hận, 2010. Khảo sát tăng trưởng, tỉ lệ sống và năng suất tôm càng xanh nuôi
mật độ khác nhau trong mô hình tôm – lúa luân canh tại huyển Tam Nông – tỉnh Đồng
Tháp. Luận văn cao học ngành Nuôi Trồng Thủy Sản, Khoa Thủy Sản – Trường Đại
Học Cần Thơ.
19. Trần Văn Hận, 2012. Xây dựng mô hình sản xuất thử nghiệm tôm càng xanh trong
ruộng lúa nâng cao năng suất và lợi nhuận ở huyện Thoại Sơn tỉnh An Giang. Báo cáo
Dự án 111 trang.
20. Trương Ngọc Sang, 2013. Thực nghiệm nuôi tôm càng xanh vào mùa khô trên ruộng
lúa tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Luận văn tốt nghiệp đại học, Khoa Thủy Sản –
Trường Đại Học Cần Thơ.
21. Trương Quốc Phú, 2006. Giáo trình Quản lý chất lượng nước. Khoa Thủy Sản – Trường
Đại Học Cần Thơ.

×