Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

ảnh hưởng của tuổi và khối lượng trứng lên tỉ lệ ấp nở của gà mái giống ross 308

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.07 MB, 73 trang )










LÊ THỊ KIM ĐỊNH




ẢNH HƯỞNG CỦA TUỔI VÀ KHỐI LƯỢNG
TRỨNG LÊN TỈ LỆ ẤP NỞ
CỦA GÀ MÁI GIỐNG ROSS 308









LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH CHĂN NUÔI - THÚ Y












Cần Thơ, 2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN CHAN NUÔI







LÊ THỊ KIM ĐỊNH




ẢNH HƯỞNG CỦA TUỔI VÀ KHỐI LƯỢNG
TRỨNG LÊN TỈ LỆ ẤP NỞ

CỦA GÀ MÁI GIỐNG ROSS 308









LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH CHĂN NUÔI THÚ Y




CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
PGs. Ts. NGUYỄN NHỰT XUÂN DUNG






Cần Thơ, 2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN CHĂN NUÔI






ẢNH HƯỞNG CỦA TUỔI VÀ KHỐI LƯỢNG
TRỨNG LÊN TỈ LỆ ẤP NỞ
CỦA GÀ MÁI GIỐNG ROSS 308





LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH CHĂN NUÔI THÚ Y



























Cần Thơ, ngày… tháng… năm 2014
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN




PGs. Ts. NGUYỄN NHỰT XUÂN DUNG
Cần Thơ, ngày… tháng… năm 2014
DUYỆT CỦA BỘ MÔN




……………………………………….

Cần Thơ, ngày… tháng… năm 2014
DUYỆT CỦA KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG


……………………………………………………………………………….




i
LỜI CẢM TẠ
Trải qua những năm học ở giảng đường trường Đại Học Cần Thơ, với sự
tận tâm hướng dẫn, truyền dạy những kiến thức và những kinh nghiệm quý
báo của thầy cô cùng với sự học tập và nổ lực của bản thân, hôm nay tôi đã
hoàn thành xong luận văn tốt nghiệp. Trước khi rời khỏi mái trường thân yêu
để chuẩn bị hành trang bước và đời, tôi xin gửi đến mọi người lời cảm ơn chân
thành và sâu sắc nhất.

Trước tiên, con xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cha mẹ kính yêu! người
đã sinh ra con, nuôi nấng, dạy dỗ và hi sinh cả cuộc đời lo cho con ăn học đến
ngày hôm nay.
Xin gửi lời cảm ơn đến các quý thầy cô trường Đại Học Cần Thơ, đặc
biệt là quý thầy cô trong bộ Chăn nuôi – Thú y, Khoa Nông nghiệp và Sinh
Học Ứng Dụng. Thầy cô là người giúp tôi có được mục tiêu và định hướng
nghề nghiệp trong tương lai, ý chí phấn đấu quyết tâm để đạt mục tiêu.
Tôi không bao giờ quên công ơn to lớn của cô Nguyễn Nhựt Xuân Dung,
người đã dẫn dắt tôi từng bước, hết lòng động viên tôi trong suốt khóa luận
văn.
Xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của Cô cố vấn học
tập Nguyễn Thị Thủy đã dành cho tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện
đề tài này.
“Học phải có hành”, luận văn này là sự kết hợp giữa lý thuyết và thực tế.
Nhờ sự quan tâm hướng dẫn nhiệt tình của kỹ sư Nguyễn Thanh Phi Long, kỹ
sư Cao Văn Thương, kỹ sư Trần Thanh Phú Cường và các anh em công nhân
tại nhà máy ấp Phước Tân đã giúp đỡ tôi tận tình và giúp tôi có thêm nhiều
kinh nghiệm thực tiễn quý báo. Tôi xin chân thành cảm ơn các anh em luôn
tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành tốt luận văn.

Xin gửi lời cảm ơn đến Thạc sĩ Ngô thị Minh Sương đã tận tình giúp đỡ
và động viên tôi suốt quá trình làm luận văn.
Cuối cùng xin gửi lời cảm ơn đến các bạn lớp Chăn Nuôi – Thú Y khóa
37A đã động viên, giúp đỡ chia sẽ những kinh nghiệm trong thời gian học tập
ở trường.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn đến bạn Huỳnh Nguyễn Minh Nguyệt đã
giúp đỡ tôi rất nhiều khi thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn Hội đồng đánh giá luận văn đã đóng góp ý kiến để
luận văn thật sự có giá trị khoa học.


ii



LỜI CAM ĐOAN
Kính gửi: Ban lãnh đạo Khoa Nông Nghiệp & Sinh Học Ứng Dụng và
các thầy cô trong bộ môn Chăn Nuôi.
Tôi tên: Lê Thị Kim Định (MSSV: 3112587) là sinh viên lớp Chăn nuôi
Thú Y khóa 37 (2011 – 2015). Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của chính bản thân tôi. Đồng thời tất cả số liệu, kết quả thu được trong thí
nghiệm hoàn toàn có thật và chưa từng công bố trong bất kỳ luận văn, tạp chí
khoa học khác. Nếu có gì sai trái tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước
khoa và Bộ môn.
Cần thơ, ngày… tháng…… năm 2014
Sinh viên thực hiện



Lê Thị Kim Định


iii
TÓM TẮT
Đề tài “Ảnh hưởng của tuổi và khối lượng trứng lên tỉ lệ ấp nở của gà
mái giống Ross 308” được thực hiện để đánh giá ảnh hưởng của tuổi gà mái
đẻ và khối lượng trứng lên tỉ lệ ấp nở của đàn gà Ross 308 dòng nuôi thịt.
Thí nghiệm được thực hiện trên đàn gà Ross 308 có tuần tuổi 60-66 tuần
tương ứng với tuần đẻ 34-40 tuần. Đàn gà thí nghiệm được bố trí hoàn toàn
ngẫu nhiên theo thể thức thừa số 2 nhân tố là tuổi gà mái và khối lượng trứng.
Tuổi gà được chia ra làm 7 loại từ 60-66 tuần tuổi. Trứng được chia làm 3
loại trứng to (71-84 g), trứng vừa (66-70 g), trứng nhỏ (60-65 g). Thí nghiệm
được lập lại 7 lần tương ưng với 7 lần ấp. Các chỉ tiêu theo dõi gồm có khối
lượng trứng ấp, khối lượng trứng 18 ngày, tỉ lệ nước bốc hơi, khối lượng gà 1
ngày tuổi, tỉ lệ trứng có phôi, tỉ lệ trứng không phôi, tỉ lệ trứng chết phôi, tỉ lệ
gà loại 1, tỉ lệ gà loại 2, tỉ lệ trứng nở, tỉ lệ trứng bể, tỉ lệ trứng nổ, tỉ lệ trứng
sát.
Kết quả thí nghiệm cho thấy tuổi gà mái cũng như khối lượng trứng đều
ảnh hưởng lên tỉ lệ nở của gà đàn gà Ross 308 thí nghiệm ở tuần tuổi 60-66
tuần và tuần đẻ 34-40 tuần. Tuổi của đàn bố mẹ có ảnh hưởng đến các chỉ tiêu
ấp nở (P<0,05). Tuổi gà càng cao thì khối lượng trứng càng tăng và tỉ lệ nở
càng giảm. Tuần 60 tuổi có tỉ lệ cao (81,81%) và tỉ lệ nở thấp ở tuần 66 tuổi
(62,37%). Nhóm trứng nhỏ từ 60-65 g có khả năng mất nước nhiều trong quá
trình ấp. Tỉ lệ trứng có phôi đạt cao được tìm thấy ở nhóm trứng 66-70 g
(79,51%). Qua các tuần tuổi gà mái trứng vừa có tỉ lệ nở cao hơn trứng to và
trứng nhỏ. Trứng to (71-84 g) có tỉ lệ nở thấp nhất (60,12%-79,56%), kế đến
trứng nhỏ (60-65 g) có tỉ lệ nở (65,48%-81,94%) và khối lượng trứng vừa (66-
70 g) có tỉ lệ nở cao nhất (61,51%-83,93%). Khối lượng gà con 1 ngày tuổi ở
trứng to 71-84 g cao nhất. Kết quả ấp nở đạt cao nhất ở những trứng có khối
lượng trung bình 66-70 g (74,72%).


iv
MỤC LỤC
LỜI CẢM TẠ i

LỜI CAM ĐOAN ii

TÓM TẮT iii

MỤC LỤC iv

DANH MỤC BẢNG vi

DANH MỤC HÌNH vii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT viii

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU 1

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2

2.1 Giới thiệu sơ lược về gà Ross 308 2
2.1.1 Khả năng sinh trưởng, phát triển của gà Ross 308 bố mẹ 2
2.1.2 Khả năng sinh sản của gà Ross 308 4
2.2. Thành phần cấu tạo của trứng 4
2.2.1 Màng nhầy (màng mỡ) 5
2.2.2 Vỏ cứng 5
2.2.3 Màng vỏ 6
2.2.4 Lòng trắng 6
2.2.5 Lòng đỏ 6
2.3 Quá trình phát triển của phôi 7

2.4 Ấp trứng gia cầm 9
2.4.1 Yêu cầu của trứng đưa vào ấp 9
2.4.2 Bảo quản và vận chuyển trứng ấp 11
2.4.3 Điều kiện môi trường để ấp trứng 12
2.4.4 Qui trình ấp nở và chế độ ấp nở 13
2.4.5 Ra gà và đánh giá chất lượng gà nở 15
2.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi và tỷ lệ ấp nở 15
2.5.1 Ảnh hưởng của nhiệt độ 15
2.5.2 Ảnh hưởng của ẩm độ 18
2.5.3 Ảnh hưởng của độ thông thoáng 19
2.5.4 Ảnh hưởng của việc đảo trứng 19
2.5.5 Ảnh hưởng của việc thu lượm 20
2.5.6 Ảnh hưởng việc bảo quản trứng ấp và thời gian trữ trứng 21
2.5.7 Ảnh hưởng do khối lượng trứng 22
2.5.8 Ảnh hưởng do di truyền 23
2.5.9 Ảnh hưởng của chỉ số hình dáng 24
2.5.10 Ảnh hưởng do yếu tố dinh dưỡng 24
2.5.11 Những yếu tố ảnh hưởng khác 25
2.6 Vệ sinh sát trùng trạm ấp 26
2.6.1 Nội quy vệ sinh sát trùng tại trạm máy ấp 26
2.6.2 Vệ sinh sát trùng khu vực trong trạm ấp 27
2.6.3 Vệ sinh sát trùng khu vực trong phòng ấp 27
2.6.4 Vệ sinh kho và máy móc 28
2.6.5 Vệ sinh khu vực ngoài trạm ấp 28
2.7 Một số bệnh thường gặp ở gà con 1 ngày tuổi bằng phương pháp ấp trứng công
nghiệp 28
2.7.1 Bệnh chân, cánh ngắn (Micromelia) 29
2.7.2 Bệnh gà con bị dính bết khi nở 29
2.7.3 Bệnh khèo chân hay perosis 29


v
2.7.4 Bệnh động kinh (atexia) 29
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 30

3.1 Phương tiện 30
3.1.1 Thời gian nghiên cứu 30
3.1.2 Địa điểm thí nghiệm 30
3.1.3 Giống gà thí nghiệm 30
3.1.4 Trứng gà thí nghiệm 30
3.1.5 Tổng quan nhà máy ấp 30
3.1.6 Nội quy nhà máy ấp 31
3.1.7 Máy ấp thí nghiệm 31
3.1.8 Máy nở thí nghiệm 32
3.1.9 Phòng trữ 33
3.1.10 Công cụ và dụng cụ thí nghiệm 33
3.2 Phương pháp thí nghiệm 36
3.2.1 Bố trí thí nghiệm 36
3.2.2 Quy trình ấp trứng 36
3.2.3 Qui trình giao gà 43
3.2.4 Qui trình sát trùng 43
3.2.5 Qui trình vệ sinh 43
3.3 Các chỉ tiêu theo dõi 44
3.3.1 Tỉ lệ trứng không phôi (TLTKP), % 44
3.3.2 Tỉ lệ trứng có phôi (TLTCP), % 44
3.3.3 Tỉ lệ trứng chết phôi (TLTCHP), % 44
3.3.4 Tỉ lệ nước bốc hơi (TLNBH), % 45
3.3.5 Tỉ lệ trứng bể (TLTB), % 45
3.3.6 Tỉ lệ trứng nổ (TLTN), % 45
3.3.7 Tỉ lệ trứng sát (TLTS), % 45
3.3.8 Tỉ lệ trứng nở (TLTNở), % 45

3.3.9 Tỉ lệ gà loại 1 (TLGL1), % 46
3.3.10 Tỉ lệ gà loại 2 (TLGL2), % 46
3.4 Xử lí số liệu 46
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 47

4.1 Nhận xét tổng quát 47
4.2 Kết quả thí nghiệm 47
4.2.1 Ảnh hưởng của tuổi gà mái lên tỉ lệ ấp nở và hao hụt của đàn gà Ross 308 giai
đoạn 60-66 tuần tuổi 47
4.2.2 Ảnh hưởng của khối lượng trứng lên tỉ lệ ấp nở và tỉ lệ hao hụt của đàn gà Ross
308 giai đoạn 60-66 tuần tuổi 50
4.2.3 Ảnh hưởng tương tác giữa tuổi gà mái và khối lượng trứng lên tỉ lệ ấp nở của
đàn gà Ross 308 giai đoạn 60-66 tuần tuổi 53
4.2.4 Ảnh hưởng tương tác giữa tuổi gà mái và khối lượng trứng lên tỉ lệ hao hụt của
đàn gà Ross 308 giai đoạn 60-66 tuần tuổi 54
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 56

5.1 Kết luận 56
5.2 Đề nghị 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO 57

PHỤ CHƯƠNG

vi
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Nhu cầu dưỡng chất của gà Ross 308 nuôi thịt 3
Bảng 2.2: Tỉ lệ thành phần của trứng gà 5
Bảng 2.3: Thành phần hóa học chung của trứng gà 5
Bảng 2.4: Ảnh hưởng của nhiệt độ cao lên tỉ lệ ấp nở của trứng gà 16
Bảng 2.5: Ảnh hưởng của nhiệt độ thấp lên tỉ lệ ấp nở của trứng gà 17

Bảng 2.6: Kết quả ấp nở theo mức khối lượng trứng khác nhau 23
Bảng 4.1: Ảnh hưởng của tuổi gà mái lên tỉ lệ ấp nở và tỉ lệ hao hụt của đàn gà
Ross 308 giai đoạn 60-66 tuần tuổi 50
Bảng 4.2. Ảnh hưởng của khối lượng trứng lên tỉ lệ ấp nở và tỉ lệ hao hụt của
đàn gà Ross 308 giai đoạn 60-66 tuần tuổi 52
Bảng 4.3: Ảnh hưởng tương tác giữa tuổi gà mái và khối lượng trứng (g) lên tỉ
lệ ấp nở của đàn gà Ross 308 giai đoạn 60-66 tuần tuổi 54
Bảng 4.4: Ảnh hưởng tương tác giữa tuổi gà mái và khối lượng trứng (g) lên tỉ
lệ hao hụt của đàn gà Ross 308 giai đoạn 60-66 tuần tuổi 55


vii
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1: Giống gà Ross 308 2
Hình 2.2: cấu tạo trứng gia cầm 4
Hình 3.1: Tổng quan nhà máy ấp 30
Hình 3.2: Sơ đồ tổng quan nhà máy ấp 31
Hình 3.3: Máy ấp thí nghiệm 32
Hình 3.4: Máy nở thí nghiệm 32
Hình 3.5: Phòng trữ trứng 33
Hình 3.6: Xe ấp và xe nở 34
Hình 3.7: Máy phân loại trứng 34
Hình 3.8: Dụng cụ thí nghiệm 35
Hình 3.9: Nơi nhận trứng và nhận trứng qua ô cửa 36
Hình 3.10: Cân trứng bằng máy và sang trứng vào vĩ 37
Hình 3.11: Đánh dấu trứng thí nghiệm và cân trứng ấp 37
Hình 3.12: Vào trứng ấp và trứng thí nghiệm trong xe ấp 38
Hình 3.13: Đưa trứng xe trứng vào máy ấp 38
Hình 3.14: Khối lượng trứng ấp 18 ngày 39
Hình 3.15: Soi trứng bằng tay 39

Hình 3.16: Sang trứng từ máy ấp qua máy nở 40
Hình 3.17: Chuẩn bị ra gà 41
Hình 3.18: Ra gà con 41
Hình 3.19: Phân loại gà con 42
Hình 3.20: Cân gà con 42
Hình 3.21: Cổng sát trùng và phòng sát trùng 43
Hình 4.1: Biểu đồ thể hiện ảnh hưởng của tuổi gà mái lên tỉ lệ trứng có phôi và
tỉ lệ nở của đàn gà Ross 308 giai đoạn 60-66 tuần tuổi 48
Hình 4.2. Biểu đồ thể hiện ảnh hưởng của khối lượng trứng lên tỉ lệ nở của
đàn gà Ross 308 giai đoạn 60-66 tuần tuổi 52




viii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Chữ viết tắt đầy đủ
KL0 Khối lượng trứng ấp
KL18 Khối lượng trứng ấp 18 ngày
KLG Khối lượng gà con
SEM Sai số chuẩn của số trung bình
TLTKP Tỉ lệ trứng không phôi
TLTNở Tỉ lệ trứng nở
TLTN Tỉ lệ trứng nổ
TLTB Tỉ lệ trứng bể
TLTS Tỉ lệ trứng sát
TLTCHP Tỉ lệ trứng chết phôi
TLTCP Tỉ lệ trứng có phôi
TLNBH Tỉ lệ nước bốc hơi

P Giá trị xác xuất
TT Trứng to
TV Trứng vừa
TN Trứng nhỏ

1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
Chăn nuôi gia cầm ở nước ta đã có từ lâu và trở thành một trong những
ngành phát triển khá nhanh trong lĩnh vực nông nghiệp, sau gần 20 năm đổi
mớicó tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững với giá trị sản xuất lớn. Chăn
nuôi gia cầm chiếm khoảng 18 -19% tổng doanh thu ngành chăn nuôi năm
2007.
Ấp trứng gà là giai đoạn quan trọng trong quá trình sinh sản của gia cầm
là khâu cuối cùng trong chăn nuôi đàn gà giống, ảnh hưởng lớn đến số lượng
và chất lượng gia cầm con trong tương lai. Để đáp ứng mức độ chăn nuôi ngày
càng cao của ngành gia cầm, ngoài việc tăng đàn gia cầm sinh sản và các điều
kiện chăn nuôi thì cần phải cải tiến cả khâu ấp trứng, đặc biệt trứng gia cầm
công nghiệp (máy ấp tự động hóa hoàn toàn từ khâu cấp nhiệt, điều khiển
nhiệt độ, ẩm độ theo yêu cầu phát triển phôi thai qua các giai đoạn và đảo
trứng,…) (Bùi Đức Lũng và Nguyễn Xuân Sơn, 1999).
Tuy nhiên, kết quả ấp nở của trứng gia cầm phụ thuộc vào nhiều yếu tố
khác nhau bao gồm giống, chất lượng đàn bố mẹ, chất lượng trứng, chuẩn bị
trứng ấp, chế độ ấp (Nguyễn Thị Tú et al, 2014; Narushin and Romanov,
2002). Nguyễn Quí Khiêm et al (2003) đã công bố một số yếu tố ảnh hưởng
đến kết quả ấp nở trứng gà Ác Việt Nam. Bạch Thị Thanh Dân et al (2003) đã
xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả ấp nở của trứng Đà Điểu và
Nguyễn Văn Diệu và Đinh Công Tiến (2003) trên trứng vịt. Nắm vững các
yếu tố ảnh hưởng đến kết quả ấp nở sẽ giúp cho việc hoàn thiện qui trình ấp
trứng và qua đó góp phần nâng cao kết quả ấp nở của trứng gia cầm. Bên cạnh
đó khối lượng trứng cũng là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng

đến kết quả ấp nở của gà (Abiola et al, 2008). Ngoài ra trong một nghiên cứu
về một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả của gà, Nguyễn Thị Tú et al (2014)
báo cáo rằng tuổi của đàn bố mẹ (tuần tuổi) có ảnh hưởng đến các chỉ tiêu ấp
nở.
Để góp phần cải thiện quy trình ấp trứng, nâng cao kết quả ấp nở và đảm
bảo chất lượng cho đàn gà giống,… do đó tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Ảnh hưởng của tuổi và khối lượng trứng lên tỉ lệ ấp nở của gà mái giống
Ross 308”.
Mục tiêu của việc nghiên cứu là đánh giá ảnh hưởng của khối lượng
trứng lên tỉ lệ có phôi, tỉ lệ loại thải, tỉ lệ nở của trứng qua các tuần tuổi khác
nhau của gà mái đẻ, để lựa chọn những quả trứng đem ấp có tuần tuổi và khối
lượng phù hợp nhằm mang lại hiệu quả ấp nở cao.

2
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Giới thiệu sơ lược về gà Ross 308
Gà Ross 308 là giống gà chuyên thịt có năng suất cao trên thới giới, thời
gian nuôi ngắn, tăng khối lượng nhanh, tiêu tốn thức ăn trên đơn vị sản phẩm
thấp, phù hợp với điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm của Việt Nam (Tập đoàn
Aviagen, 2007).

Hình 2.1: Giống gà Ross 308
2.1.1 Khả năng sinh trưởng, phát triển của gà Ross 308 bố mẹ
Gà Ross 308 có ngoại hình của gà giống chuyên thịt, thân hình cân đối,
ngực sâu rộng, chân chắc, ức phát triển, có thiết diện vuông. Qua quan sát gà
từ giai đoạn gà 1 ngày tuổi thấy gà Ross 308 mới nở có màu lông trắng, chân
và mỏ có màu vàng nhạt, trong quá trình nuôi có thể phân biệt con trống, con
mái bằng tốc độ mọc lông. Gà trưởng thành có màu lông tuyền, mào cờ, tích
tai phát triển có màu đỏ tươi, da và chân có màu vàng nhạt (Tập đoàn
Aviagen, 2007).

2.1.1.1 Tỉ lệ nuôi sống giai đoạn hậu bị (sơ sinh đến 24 tuần tuổi)
Tỉ lệ nuôi sống của gà Ross 308 giai đoạn hậu bị đạt tỉ lệ nuôi sống cao.
Ở 24 tuần tuổi gà mái đạt tỉ lệ 92,86%, gà trống đạt 93,50% (Tập đoàn
Aviagen, 2007).
Ở giai đoạn 6 tuàn tuổi tỉ lệ nuôi sống của gà Ross 308 đạt 94%-95% là
tương đối cao và tương đương với các giống gà màu địa phương. Đây là thời
điểm rất quan khối để đánh giá khả năng thích nghi của gà vì đây là giai đoạn
chuyển loại thức ăn, đồng thời cơ thể chưa có khả năng thích nghi cao, sức đề
kháng thấp.


Nguồn:Giongvatnuoi.net

3
2.1.1.2 Sinh trưởng tuyệt đối
Sinh trưởng tuyệt đối của gà tăng dần theo tuần tuổi, từ tuần tuổi 1-8 và
đạt đỉnh cao nhất là tuần tuổi thứ 5-8, con trống đạt 25,71 g/con/ngày, con mái
đạt 21 g/con/ngày. Đây là giai đoạn phát triển mạnh của gà và cũng là giai
đoạn nhạy cảm với các bệnh. Nên năng lượng thức ăn cung cấp cho gà ở giai
đoạn này tăng nhằm nâng cao sức đề kháng (Tập đoàn Aviagen, 2007).
2.1.1.3 Sinh trưởng tương đối
Sinh trưởng tương đối của gà Ross 308 bố mẹ từ sơ sinh đến 24 tuần tuổi
tuân theo qui luật chung của gia súc gia cầm. Sinh trưởng tương đối đạt cao
nhất ở giai đoạn sơ sinh đến 1 tuần tuổi với con trống là 90,91%, con mái là
100%, sau đó giảm mạnh qua các tuần tuổi. Sinh trưởng tương đối của gà Ross
308 giảm dần cùng với sự tăng lên về tuổi (Tập đoàn Aviagen, 2007).
2.1.1.4 Tiêu thụ thức ăn qua các tuần tuổi
Lượng thức ăn của gà tiêu thụ (g/con/ngày) tăng dần qua các tuần tuổi.
Gà mái ở tuần tuổi đầu tiên tiêu thụ bình quân 26,80 g đến tuần tuổi thứ 6 tiêu
thụ 50 g. Gà trống tuần tuổi đầu tiên tiêu thụ bình quân 37,50 g, tuần tuổi thứ

6 tiêu thụ 70 g. Gà giai đoạn hậu bị tiêu thụ thức ăn thấp hơn, đối với gà trống
tiêu tốn 13,90 g, gà mái tiêu tốn 11,8 g thức ăn (Tập đoàn Aviagen, 2007).
Bảng 2.1: Nhu cầu dưỡng chất của gà Ross 308 nuôi thịt
Dưỡng chất Đơn vị 0-10 ngày tuổi

11-24
ngày tuổi

24 ngày tuổi

đến xuất chuồng

Năng lượng ME Kcal/kg
thức ăn
3025

3150

3200

Protein thô % 22-25

21-23

19-23

Lysine % 1,43

1,24


1,09

Met + Cys % 1,07

0,95

0,86

Methionine % 0,51

0,45

0,41

Threonine % 0,94

0,83

0,74

Valine % 1,09

0,96

0,86

Isoleucine % 0,97

0,85


0,76

Arginine % 1,45

1,27

1,13

Tryptophane % 0,24

0,20

0,18

Ca % 1,05

0,90

0,85

P hữu dụng % 0,50

0,45

0,42

Linoleic acid % 1,25

1,20


1,00

Nguồn: Công ty giống gia cầm Aviagen (2007)
Tập đoàn Aviagen chuyên cung cấp các giống gà công nghiệp chuyên
thịt như Arbor Acres, Lohmann Meat, Ross 308, Ross 708 và Ross PM3. Nhu
cầu về dưỡng chất theo từng giai đoạn ngày tuổi của giống gà Ross 308 (nuôi
theo hình thức không phân biệt trống mái và trọng lượng xuất chuồng từ 2,00-
2,50 kg/con) được khuyến cáo trong Bảng 2.1.

4
2.1.2 Khả năng sinh sản của gà Ross 308
2.1.2.1 Tuổi đẻ quả trứng đầu tiên
Gà Ross 308 có tuổi đẻ quả trứng đầu tiên là 174 ngày. Tỉ lệ đẻ của gà
Ross 308 tăng dần theo tuổi và đạt cao nhất ở tuần tuổi 31-37 với tỉ lệ đẻ đạt
84,24% (Tập đoàn Aviagen, 2007).
Tỉ lệ trứng loại I cũng tăng theo tuổi của gà và đạt tỉ lệ cao trên 90%, cao
nhất ở tuần tuổi 51 đạt 96,9%. Tỉ lệ trứng có phôi của gà thí nghiệm đạt cao
(92%-94%). Tỉ lệ nở trung bình đạt 86%-87%/tổng trứng (Tập đoàn Aviagen,
2007).
Gà chết do mắc bệnh thấp, với gà mái chết 6,07%, gà trống 5%. Gà Ross
308 thích nghi tốt với điều kiện khí hậu nóng ẩm ở Việt Nam. Tỉ lệ loại thải
giai đoạn hậu bị thấp, với gà trống là 5,20% và gà mái là 4,94%, điều này cho
thấy tỉ lệ đồng đều của đàn gà Ross 308 (Tập đoàn Aviagen, 2007).
2.2. Thành phần cấu tạo của trứng
Nguyễn Đức Hưng (2006) cho rằng trứng gà là tế bào sinh dục phức tạp
được biệt hóa rất cao, cấu tạo của nó gồm các phần: lòng đỏ, lòng trắng trứng
được tiết ra bởi bộ máy sinh sản và vỏ bảo vệ bên ngoài cung cấp những chất
khoáng cho phôi phát triển.

Hình 2.2: cấu tạo trứng gia cầm

Trứng gia cầm đi từ ngoài vào trong gồm các phần: vỏ cứng và có một
lớp nhầy (màng mỡ) bao bọc, màng dưới vỏ, lòng trắng, lòng đỏ, mỗi phần
của chúng đều có chức năng riêng biệt. Tỉ lệ tương đối (%) và tuyệt đối (g)
giữa các thành phần tùy thuộc vào loài gia cầm. Tỉ lệ thành phần của trứng
thay đổi tùy thuộc giống, tuổi, mùa vụ, chế độ dinh dưỡng,… (Bạch Thị
Thanh Dân và Nguyễn Quý Khiêm, 2002).

5
Bảng 2.2: Tỉ lệ thành phần của trứng gà
Chỉ tiêu Trứng gà

Lòng trắng (%) 58,62

Lòng đỏ (%) 31,04

Vỏ (%) 10,34

Nguồn: Bạch Thị Thanh Dân và Nguyễn Quý Khiêm (2002)
Bảng 2.3: Thành phần hóa học chung của trứng gà
Chỉ tiêu Trứng gà

Nước (%) 73,6

Protein (%) 12,8

Mỡ (%) 11,8

Khoáng (%) 1,09

Nguồn: Bạch Thị Thanh Dân và Nguyễn Quý Khiêm (2002)

2.2.1 Màng nhầy (màng mỡ)
Theo Bạch Thị Thanh Dân và Nguyễn Quý Khiêm (2002), khi vừa đẻ ra
trên bề mặt vỏ trứng có một lớp màng nhầy bảo vệ để tránh các vi khuẩn vào
bên trong phá hoại và gây thối trứng. Màng nhầy này cấu tạo từ protein (sợi
Muxin) có những hạt mỡ nhỏ li ti. Độ dày của màng nhầy trong khoảng từ
0,005-0,01 mm. Ngoài tác dụng hạn chế sự xâm nhập của vi khuẩn từ bên
ngoài vào bên trong vỏ trứng, nó còn có tác dụng giảm ma sát khi đẻ, hạn chế
sự bốc hơi nước từ trứng. Thời gian bảo quản trứng càng lâu thì độ bóng và
tác dụng của màng nhầy càng giảm.
2.2.2 Vỏ cứng
Bạch Thị Thanh Dân và Nguyễn Quý Khiêm (2002) cho rằng trong tử
cung của gia cầm có tuyến vôi tiết ra dịch nhờn trắng, dịch này tạo ra từ
cacbonatcanxi và các bó protein. Chất này nhanh chống cứng lại và tạo thành
lớp vỏ bao quanh trứng, vỏ trứng được tạo thành từ 93,5% muối Canxi
(Cacbonatcanxi); 4,09% Protein; 0,14% chất béo; 1,20% nước; 0,50% oxit
Magie; 0,25% Photpho; 12,0% dioxit Silic; 0,03% Natri; 0,08% Kali và các
chất sắt, nhôm. Chức năng của nó là bảo vệ các thành phần bên trong của
trứng, đồng thời là nguồn cung cấp canxi, photpho cho phôi để tạo xương.
Thời gian tạo vỏ là một quá trình kéo dài từ 9-12 giờ. Để hình thành xương
phôi nhận 75% canxi từ vỏ, còn lại 25% lấy từ lòng trắng.
Trên bề mặt của vỏ có các lỗ khí có kích thước rất nhỏ. Có khoảng 7000-
7600 lỗ khí trên bề mặt vỏ trứng. Độ dày vỏ trứng từng loại gia cầm không
giống nhau. Vỏ trứng gà có độ dày từ 0,2-0,4 mm. Trứng có vỏ dày chịu lực
cao hơn trứng có vỏ mỏng (Nguyễn Đức Hưng, 2006).

6
2.2.3 Màng vỏ
Theo Bạch Thị Thanh Vân và Nguyễn Quý Khiêm (2002), có hai lớp
màng vỏ được cấu tạo từ sợi Keratin đan chéo vào nhau. Một lớp dính sát vào
vỏ còn lớp trong dính sát vào lớp lòng trắng ngoài. Độ dày của hai lớp màng

này khoảng 0,06-0,07 mm cả hai lớp đều có lỗ cho không khí đi vào bên trong
giúp cho phôi hô hấp, phát triển.
Hai lớp dính sát vào nhau chỉ tách ra ở đầu tù của trứng gọi là buồng khí
nơi cung cấp oxi cho phôi. Khi trứng vừa mới đẻ ra chưa có buồng khí, chỉ sau
6-60 phút sau buồng khí mới được hình thành và rộng dần do bay hơi
nước từ trứng.
2.2.4 Lòng trắng
Thành phần hóa học chủ yếu của lòng trắng là albumin hòa tan trong
nước và trong muối trung tính. Lòng trắng chứa 80%-90% là nước,
Protein 11%-12%, Lipit 0,03%-0,08%, đường 0,90%-1,20%, khoáng 0,60%-
0,80%, còn lại là các chất dinh dưỡng như vitamin B
2
, đường cung cấp năng
lượng cho nhu cầu phát triển của phôi. Nếu vitamin B
2
bị thiếu, phôi thai sẽ bị
chết vào tuần thứ hai của giai đoạn ấp. Chức năng của lòng trắng là cung cấp
năng lượng, cung cấp nước, khoáng… cho sự phát triển của phôi (Bạch Thị
Thanh Dân và Nguyễn Quý Khiêm, 2002).
Theo Bạch Thị Thanh Dân và Nguyễn Quý Khiêm (2002), lòng trắng có
4 lớp (tính từ ngoài vào trong):
Lớp lòng trắng loãng ngoài chiếm 23%.
Lớp lòng trắng đặc ngoài chiếm 50-57% có chứa nhiều sợi nhầy, là lớp
đệm của lòng đỏ và là nơi sợi dây chằng bám vào.
Lớp lòng trắng loãng trong chiếm 16,8% và hầu như không chứa sợi
muxin.
Lớp trong cùng sát lòng đỏ là một lớp lòng trắng đặc, bên trong lớp này
có các sợi dây giữ hai đầu lòng đỏ bằng trực ngang gọi là dây chằng, tác dụng
của dây chằng giữ cho lòng đỏ khỏi bị ảnh hưởng do tác động bên ngoài và
giúp lòng đỏ khỏi dính vào vỏ, lớp lòng trắng đặc nỳ chiếm 2,7%.

2.2.5 Lòng đỏ
Theo Bạch Thị Thanh Dân và Nguyễn Quý Khiêm (2002), lòng đỏ là
một tế bào khổng lồ bao bộc bởi một lớp màng có tính đàn hồi lớn, nhờ đó mà
lòng đỏ không lẫn vào lòng trắng mà luông giữ được hình tròn. Trứng để lâu

7
tính đàn hồi mất dần đến lúc nào đó màng bị rách và lòng đỏ, lòng trắng tan
dần vào nhau.
Lòng đỏ có các lớp đậm nhạt khác nhau là nguồn dinh dưỡng dồi dào
cung cấp cho phôi, ngoài ra tế bào trứng còn có một mầm sống, mần này gắn
chặt vào lòng đỏ tạo thành đĩa phôi. Đĩa phôi có tỷ trọng nhỏ hơn cực thực vật
lên luông có xu hương nổi lên phía trên, chính vì thế nếu trứng không được
đảo trong thời gian ấp, phôi sẽ bị dính vào vỏ, không sử dụng các chất dinh
dưỡng rồi chết (Bạch Thị Thanh Dân và Nguyễn Quý Khiêm, 2002).
Theo Nguyễn Đức Hưng (2006), thành phần hóa học của lòng đỏ:
Protein 16%-17%, đường 0,80%-11%, Lipit 30%-36%, khoáng 1,1%-1,8%,
nước 40%-50% và các vitamin khác.
2.3 Quá trình phát triển của phôi
Quá trình phát triển của phôi gồm hai giai đoạn là giai đoạn trong cơ thể
mẹ: trứng chín rụng có kích thước lớn, vì nó chứa lượng noãn hoàn dự trữ đủ
đảm bảo cho phôi phát triển trong thời gian ấp. Sau khi rụng tế bào trứng
ngừng lại ở loa kèn 5-15 phút và được thụ tinh ở đây. Thành phần loa kèn
chứa chất dinh dưỡng để nuôi sống tinh trùng, do đó tinh trùng sống ở đây 1-
30 ngày nhưng hoạt lực mạnh từ 1-7 ngày đầu. Khoảng sau vài giờ khi thụ
tinh mầm phôi chia thành hai tế bào, sự phân chia tiếp tục khi đến thành đĩa
phôi. Quá trình phần bào trong đĩa phôi tạo thành hai lớp phôi bì và sẽ được
ngừng lại khi trứng được đẻ ra. Sau khi đẻ, trứng ngừng phát triển nếu nhiệt
độ xuống thấp hơn thân nhiệt của gia cầm mẹ. Trứng được làm lạnh một cách
vừa phải thì không làm chết phôi. Thậm chí trong điều kiện bình thường sự
phát triển và sự mất khả năng sống cũng diễn ra dần dần và trứng giữ ở nhiệt

độ thấp lại bắt đầu phát triển nếu gặp nhiệt độ thích hợp (Bùi Quang Toàn
1981),
Theo Bùi Quang Toàn (1981) cho biết ở giai đoạn ngoài cơ thể mẹ: trong
quá trình ấp phôi sử dụng chất dinh dưỡng của trứng để tạo ra các thành phần
khác nhau và nuôi phôi phát triển ngày càng lớn. Tuy nhiên trong mấy ngày
đầu trọng lượng lòng đỏ tăng lên sau đó mới giảm đi dần. Khi lòng trắng trứng
được sử dụng hết thì lòng đỏ giảm đi rất nhanh.
Nhìn chung, chất đạm trong lòng đỏ và lòng trắng được sử dụng mạnh
nhất, chất đường trong lòng trắng và lòng đỏ là chất dinh dưỡng chủ yếu của
phôi trong những ngày đầu. Chất mỡ được nuôi phôi sử dụng nhiều ở ngày thứ
13, chất khoáng ở những ngày đầu phôi phát triển nhờ vào chất khoáng ở lòng
đỏ và lòng trắng, từ ngày thứ 19 trở đi, khi phôi phát triển xương mạnh mẽ và

8
lấy thêm canxi ở vỏ và chính sự thấm rút canxi như vậy đã làm cho vỏ trứng
giòn, mỏng đi (Bùi Quang Toàn, 1981)
Theo Bùi Đức Lũng (2009), sự phát triển phôi của trứng gà trong khi ấp
như sau:
Ngày đầu: Sáu giờ sau khi ấp phôi gà dài được 5 mm, hình thành nếp
thần kinh trên dây sống nguyên thủy. Sau 24 giờ nếp thần kinh tạo thành ống
thần kinh và hình thành 5-6 đốt thân.
Ngày thứ 2: Phôi tiếp tục phát triển tạo thành hệ thống mạch máu bên
ngoài bào thai. Bắt đầu xuất hiện mầm tim. Mạch máu bao quanh lòng đỏ
(noãn hoàng). Chất dinh dưỡng của noãn hoàng cung cấp cho phôi.
Ngày thứ 3: Bắt đầu hình thành đầu, cổ và ngực của phôi. Nếp đôi và nếp
cánh lớn lên hợp với nếp thân sau của phôi. Từ đó màng ối, màng nhung phân
thành 2 màng túi, màng ngoài là màng nhung, màng trong là màng ối hai
màng này dính liền nhau. Qua 3 ngày bắt đầu hình thành gan và phổi.
Ngày thứ 4: Phôi có dạng như bào thai của động vật bật cao. độ dày phôi
8mm.

Ngày thứ 5: Phôi phát triển tăng dần có chiều dài 12 mm. Nhìn bề ngoài,
bên ngoài có có hình dáng của loài chim.
Ngày thứ 6: Kích thước phôi đạt 16 mm. Mạch máu phủ nhiều trên phôi
trông như mạng nhện, ngày này tiến hành kiểm tra sinh học lần thứ nhất để
loại bỏ trứng chết phôi và trứng không phôi.
Ngày thứ 7: Vòng rốn biểu mô màng ối biến thành da phôi. Trong màng
ối biến thành huyết quan. Thành màng ối xuất hiện cơ trơn để có thể co bóp
được. Phôi phát dục trong môi trường nước của màng ối. Nước ối vừa chứa
chất dinh dưỡng vừa chưa ammoniac và axit uric do phôi thai thải ra. Đã hình
thành ống dẫn mật và dạ dày, chất dinh dưỡng đã qua đó.
Ngày thứ 8: Cánh và chân đã rõ nết, phần phân đã phủ xuống ức, lông đã
nhú ở lưng, phôi dài 18 mm.
Ngày thứ 9: Lông mọc nhiều ở vùng lưng, phía ngoài đùi và cánh. Lông
trắng thu nhỏ lại ở phía đầu nhọn của trứng.
Ngày thứ 10: Chất dinh dưỡng bắt đầu hấp thu vào ống ruột.
Ngày thứ 11: Phôi dài 25 mm, đã hình thành chân.

9
Ngày thứ 12: Huyết quan của tuyến não hoàng phát triển mạnh, chuyên
vận chuyển chất dinh dưỡng đến phôi. Thời kỳ này là quá độ của hô hấp túi
niệu. Tế bào cơ, gân phân bố khắp thành niệu nang.
Ngày thứ 13: Trên đầu phôi gà xuất hiện lông tơ, chân và mỏ hình thành
vây.
Ngày thứ 14: Phôi lớn chiếm gần hết xoang trứng, phôi đã cử động được,
lông phủ kín toàn thân.
Ngày thứ 15 và 16: Kích thước của niệu nang tăng lên ứng với kích
thước của phôi. Protein được phôi tiêu thụ gần hết. Sự hô hấp vẫn nhờ mạch
máu tuần hoàn niệu nang.
Ngày thứ 17, 18 và 19: Phôi chiếm toàn bộ khối lượng trứng, trừ buồng
khí.

Ngày thứ 20: Mỏ của phôi gà mổ thủng buồng khí. Lúc này gà con lấy
oxy từ không khí qua hệ thống lỗ khí trên bề mặt vỏ trứng qua đường hô hấp,
phổi và mạch máu. Gà con mổ thủng vỏ trứng.
Ngày thứ 21: Vào đầu của ngày này gà bắt đầu chui ra khỏi vỏ. Kết thức
thời kì ấp trứng.
2.4 Ấp trứng gia cầm
Võ Bá Thọ (1996) cho rằng ấp trứng đóng vai trò quan khối, quyết định
sự thành bại của quá trình sản xuất tiếp theo đó. Nếu ấp tốt, tỉ lệ nở cao gà con
khỏe mạnh, không nhiễm bệnh tật, sẽ mau lớn cho hiệu quả kinh tế cao.
Ngược lại nếu sơ xuất dù nhỏ cũng có thể làm hư hỏng hàng loạt trứng
ấp, gà con không đạt phẩm chất dễ bị bệnh…, sẽ khó nuôi không đạt hiệu quả
như mong muốn. Mặt khác trạm ấp là đầu mối quan hệ của các cở sở nuôi gà,
nếu không thực hiện tốt qui trình vệ sinh sẽ tạo điều kiện cho dịch bện lay lan
khắp nơi.
2.4.1 Yêu cầu của trứng đưa vào ấp
Theo Võ Bá Thọ (1996), khi trứng về tới trạm ấp, phải nhanh chống
chuyển sang vĩ riêng của trạm, kết hợp loại bỏ những trứng còn dơ, dập bể,
trứng không đạt tiêu chuẩn ấp (trứng nhỏ, trứng đôi, trứng dị hình, mỏng
vỏ,…).
Theo Bùi Đức Lũng và Nguyễn Xuân Sơn (1999), nên chọn những trứng
ấp từ những đàn gà đã trưởng thành, khỏe mạnh, không bị nhiễm bệnh. Những
con gia cầm này đã đẻ được 40%-50% trở lên, vì lúc đó trở đi mới có nhiều
trứng đạt khối lượng để ấp.

10
Bùi Đức Lũng và Nguyễn Xuân Sơn (1999) cũng cho rằng trứng gà có
hình bầu dục, một đầu to và một đầu nhỏ. Thực tế sản xuất ta còn bắt gặp
những trứng có hình dạng bất thường còn gọi là trứng dị hình. Những trứng
này sẽ không được chọn để ấp vì tỉ lệ ấp nở rất thấp. Sau đây là một số trường
hợp trứng dị hình:

Trứng vỏ mềm: Do thức ăn thiếu khoáng, canxi, photpho hoặc do cơ thể
bị chấn thương quá mạnh, chưa kịp tạo vỏ để đẻ hoặc do tử cung bị viêm làm
mất khả năng tạo vỏ vỏ trứng. Trứng đẻ ra chỉ có màng long trắng dai và mềm.
Trứng hai lòng: Trứng này xuất hiện khi hai lòng đỏ cùng rụng cùng một
lúc hoặc rụng cách nhau không quá 20 phút. Trứng này xuất hiện ở chu kỳ đẻ
trứng đầu tiên khi cơ thể trao đổi chất quá mạnh, trứng rất to. Nó giảm dần và
mất hẳn ở các chu kỳ tiếp sau.
Trứng giả (hay trứng trứng không có lòng đỏ): Do vật lạ rơi vào loa kèn
hoặc ống dẫn trứng làm kích thích phần tiết lòng trắng để bao bọc, tạo vỏ
trứng rồi đẻ,… trứng giả rất bé.
Trứng méo, trứng ngắn, dài và nhọn: do phần ống dẫn tiết lòng trắng bị
viêm, tử cung viêm hoặc do kích thích thần kinh,…
Trứng trong trứng: Trường hợp này ít xảy ra, do một trứng đã được tạo
thành hoàn chỉnh nhưng do kích thích bên ngoài ống dẫn trứng co lại đẩy lên
phía trên gặp tế bào trứng rụng hoặc không gặp nhau nhưng vẫn bị tế bào lòng
trắng bao bọc, trứng vẫn đẻ ra, trứng này rất to.
Bùi Hữu Đoàn (2008) nhận định rằng tiêu chuẩn khối lượng trứng đem
ấp thay đổi theo giống dòng, mục đích sử dụng cũng như tuổi của đàn gà. Tuy
nhiên sẽ nằm trong khoảng sau:
Ấp thay thế gà giống thương phẩm: 50-68 g
Ấp gà thịt thương phẩm : 50-70 g
Ấp thay thế gà bố mẹ: trứng 52-68 g, thịt: 52-70 g
Ấp thay thế gà ông bà: trứng 55-68 g, thịt: 55-70 g
Cần loại bỏ những trứng quá to hay quá nhỏ so với tiêu chuẩn nhằm đem
lại hiệu quả ấp nở cao.
Xông trứng để sát trùng trong 20 phút bằng thuốc tím 17,50 g và Formol
35 mL cho mỗi mét khối buồng xông. Trứng sau khi xông sẽ được chuyển vào
kho lạnh để bảo quản và xếp vào khay ấp đúng quy trình.

11

2.4.2 Bảo quản và vận chuyển trứng ấp
Theo Bùi Đức Lũng và Nguyễn Xuân Sơn (1999), trứng gà được thu
nhặt ngay sau khi gà đẻ thường vào buổi sáng, số ít vào buổi chiều. Phải thu
trứng ngay sau khi đẻ, vì tránh gà mái nằm ủ lâu làm nóng trứng, trứng bị
nhiễm bệnh. Nhặt trứng và đặt trứng lên nhẹ nhàng, khi xếp trứng để đầu to
lên trên.
Giữ nhiệt độ trong phòng vào mùa hè không quá 28
o
C và mùa đông
không quá 20
o
C. Để đạt được nhiệt độ này phòng bảo quản trứng phải có trần,
trên mái phải có cây làm bóng mát. Nếu trời nóng, khô nên phun nước trên
nền và quanh bên ngoài phòng trứng. Không đặt vật liệu khác trong phòng trữ
trứng. Có thể bảo quản trứng không quá 3-4 ngày vào mùa hè và 6-7 ngày vào
mùa đông. Nếu trứng đẻ ra ấp ngay thì càng tốt (Bùi Đức Lũng và Nguyễn
Xuân Sơn, 1999)
Mùa hè nên chuyển trứng vào buổi sáng hoặc buổi tối 16-17 giờ, để tránh
nắng nóng. Khi trứng đến phòng ấp, phải dỡ ngay và đặt trong phòng 12-24
giờ mới đưa vào ấp (mục đích để lòng trắng trứng ổn định vị trí) (Bùi Đức
Lũng và Nguyễn Xuân Sơn, 2003).
Bùi Đức Lũng và Nguyễn Xuân Sơn (2003) cho rằng ẩm độ trong phòng
cũng ảnh hưởng lớn đến chất lượng trứng giống thích hợp nhất là trong phòng
có ẩm độ 70%-80%. Ẩm độ trên 80% làm vỏ trứng ẩm ướt, tạo điều kiện cho
nấm và vi sinh vật trên vỏ trứng phát triển, sau đó xâm nhập vào trứng, trứng
bị mang mầm bệnh. Nếu độ ẩm quá thấp dưới 60% nước trong trứng bốc hơi
qua các lỗ khí làm trứng giảm khối lượng và thiếu nước cung cấp cho phôi
phát triển trong quá trình ấp sau này, gia cầm con nở ra bị sát vỏ, lông xù.
Phòng trứng phải ngăn lưới ở các ô cửa để chuột và các loài gặm nhấm,
côn trùng khác không vào được. Đặc biệt đề phòng chuột ăn và tha trứng, gây

ô nhiễm (truyền bệnh) trong phòng bảo quản trứng.
Theo Bùi Hữu Đoàn (2009), phòng lạnh dùng để bảo quản trứng cần đảm
bảo các điều sau:
Có máy điều hòa hoặc máy lạnh hoạt động tốt từ 15
o
C-18
o
C.
Có bộ phận tạo ẩm để tạo độ ẩm tương đối từ 75%-80%.
Có nhiệt kế bất khô và bất ẩm để theo dõi.
Vệ sinh sạch sẽ hàng ngày, lau sát trùng bằng Crezin 3% và Formol 2%.
Trần tường trong phòng lạnh nên làm bằng vật liệu cách nhiệt tốt hoặc
xây hai lớp có cách nhiệt ở giữa. Nhưng dù các điều kiện bảo quản có tốt đến

12
đâu đi chăng nữa cũng không nên bảo quản trứng ấp quá một tuần (trừ điều
kiện bắt buộc) vì từ mười ngày trở đi thì tỉ lệ ấp nở sẽ giảm đi nhiều sau mỗi
ngày bảo quản.
Trứng được xếp thẳng đứng, đầu lớn hướng lên. Những quả trứng xếp
ngược, phôi không phát triển thuận lợi sẽ dễ chết trong quá trình ấp.
Cần kiểm tra cẩn thận, tránh để sót những trứng bị gạn nứt hoặc mỏng có
thể gây bể và gây ô nhiễm máy ấp.
Cuối cùng, ở mỗi khay ấp nên có kí hiệu riêng để thuận tiện cho việc
theo dõi tránh nhầm lẫn các lô trứng với nhau.
2.4.3 Điều kiện môi trường để ấp trứng
Theo Bùi Đức Lũng và Nguyễn Xuân Sơn (1999), điều kiện ấp trứng tự
nhiên (gà mẹ tự ấp) phụ thuộc hoàn toàn vào môi trường tự nhiên và sự khéo
léo điều khiển nhiệt độ trong khi ấp của con mái. Tuy nhiên để nở được, nhiệt
độ của gà để cung cấp cho trứng ấp phải đạt yêu cầu cho sự phát triển sinh lý
của phôi biến động 37

o
C-39
o
C, đôi khi nhiệt độ này không đảm bảo được, do
nhiệt độ môi trường quá cao hoặc quá thấp. Cho nên tỉ lệ ấp nở phụ thuộc
hoàn toàn vào nhiệt độ và ẩm độ của môi trường, thường tỉ lệ ấp nở rất thấp,
chỉ đạt 60%-70%, ở mùa hè hoặc mùa đông. Vì vậy ở các nước tiên tiến có
nền chăn nuôi gia cầm công nghiệp đã chế tạo ra máy ấp trứng nhân tạo. Điều
kiện môi trường trong quá trình ấp trứng là:
Nhiệt độ môi trường để ấp trứng là yếu tố quan trọng nhất, có ý nghĩa
quyết định đến khả năng nở, phát triển sức sống của phôi. Nhiệt độ ấp trong
máy tối ưu phụ thuộc vào giai đoạn phát triển của phôi, tùy vào loại gia cầm
và môi trường trong phòng ấp. Nhưng bình thường phải đạt 37
o
C. Đến nay
nhiều tác giả nghiên cứu đã đưa vào qui trình ấp nhiệt độ thích hợp là
37,50
o
C-39
o
C.
Độ ẩm không khí cần thiết để điều chỉnh sự thải nhiệt của trứng qua thời
gian ấp, nó tạo ra môi trường cân bằng cho quá trình sinh lý, sinh hóa xảy ra
của phôi. Nếu độ ẩm không đạt (cao hoặc thấp hơn tiêu chuẩn) làm trứng tích
trữ hoặc mất nhiều nước, làm cho phôi phát triển yếu, gà nở muộn, gà nhỏ
hoặc nặng bụng, tỉ lệ nở kém do trứng sát và chết phôi nhiều.
Qua nghiên cứu, các nhà kỹ thuật đã đưa thành qui trình về độ ẩm trong
máy ấp là 55%-60% (ngày đầu) đến 70%-75%, còn qua nửa cuối chu kỳ đặc
biệt ở vài ngày cuối ẩm độ phải bảo đảm 70%-75%.


13
Nhiệt độ ấp tối ưu của trứng gia cầm hoang dã nằm trong một loạt các
giá trị, thay đổi từ 33ºC đến 39ºC, trong khi một phạm vi hẹp (37ºC đến 38ºC)
được coi là nhiệt độ tối ưu cho gia cầm trong nước (Visschedijk, 1991).
Trong quá trình ấp ở nhiệt độ 37,8
o
C, đặc biệt trong 10 ngày ấp đầu tiên
có khả năng ấp nở tốt nhất (Joseph et al, 2006).
Lourens et a.l (2007), trong một nghiên cứu cũng cho rằng nhiệt độ ấp
liên tục từ 37,80
o
C là nhiệt độ trong phôi gà và cho sự phát triển phôi thai tốt
nhất và tỉ lệ nở.
2.4.4 Qui trình ấp nở và chế độ ấp nở
2.4.4.1 Đưa trứng vào máy ấp
Hiện nay trên thế giới lưu hành nhiều loại máy khác nhau, có những
công suất khác nhau. Sau đây là các loại máy ấp được lưu hành thông dụng:
GX10.000 của Hungaria có công suất 10.000 trứng, Victoria của Cuba có
công suất 54.000 trứng và PT100 của Thái lan có công suất 90.720 trứng.
Tất cả các máy có cấu tạo như sau: bộ phận điều chỉnh nhiệt độ, nguồn
nhiệt, lỗ thông khí, bộ phận đảo trứng, quạt đảo khí và điều hòa nhiệt độ, trục
chứa vỉ ấp, vỉ ấp, kệ chứa vỉ nở, vỉ nở, khay đựng nước, nhiệt độ và ẩm độ kế.
Theo Bùi Đức Lũng và Nguyễn Xuân Sơn (1999), trước khi đưa trứng
vào máy ấp, máy ấp phải được kiểm tra cẩn thận từng bộ phận. Nếu máy đã
lâu không chạy thì phải cọ rửa vệ sinh trước 1 tuần, sau đó xông sát trùng máy
cách 2 ngày một lần với hỗn hợp 17,50 g thuốc tím + 35 mL Formol/m
3
buồng
máy. Khi xông đóng kín toàn bộ các cửa, các lỗ thoát khí càng lâu càng tốt.
Nếu máy dùng thường xuyên, thì sau khi vệ sinh sát trùng để máy khô kiệt,

tiến hành cho máy chạy, tới khi đủ nhiệt độ và ẩm độ ấp, sau đó mới phun
thuốc sát trùng như trên. Xông xong cho máy chạy khoảng trên dưới 6 giờ đến
khi trong máy đạt nhiệt độ, ẩm độ ấp và kiểm tra lần cuối các bộ phận máy,
sau đó mới cho trứng vào.
Trứng trước khi đưa vào ấp, phải để ngoài kho lạnh 8 giờ để trứng được
nóng dần lên bằng nhiệt độ môi trường, và trứng khô. Sau đó mới xếp vào
khay ấp. Trường hợp khi trứng bảo quản trong kho đã được xếp sẵn vào khay
ấp và làm đầy đủ thủ tục ghi thẻ kho (Bùi Đức Lũng và Nguyễn Xuân Sơn,
2003).

14
2.4.4.2 Đảo trứng và thông thoáng
Bùi Đức Lũng và Nguyễn Xuân Sơn (2003) cho rằng đảo trứng rất quan
trọng để mọi mặt của vỏ trứng được tiếp xúc đều với môi trường không khí
trong buồng ấp, mặt khác kích thích phôi hoạt động (chống “phôi ngủ”) và
làm thăng bằng vị trí của phôi.
Các máy ấp có bộ phận tự động đảo trứng, cứ 1 (hoặc 2) giờ mô tơ đảo 1
lần để có độ nghiêng 45
o
cho các giàn khay trứng ấp. Trường hợp có tiếng lạ
khi đang đảo trứng phải cho dừng ngay, có thể do khay bị kẹt. Kiểm tra mô tơ
đảo, đồng hồ đảo, khởi động từ khi trục trặc để sửa chữa kịp thời (Lê Hồng
Mận, 2003).
Theo Nguyễn Đức Hưng (2006) cũng cho rằng đảo trứng nhằm mục đích
để các phôi trong trứng phát triển bình thường và không bị sát vào vỏ. Ở máy
ấp công nghiệp đảo trứng được thực hiện bằng hai cách đó là dùng mô tơ hoặc
dùng khí nén. Hệ thống đảo mô tơ hoạt động sẽ làm quay bánh răng hoặc cần
đảo, rồi làm quay trục đảo hoặc kéo các quang treo về một phía làm giá đỡ
khay nghiêng đi. Khi gốc đảo đạt yêu cầu 45
o

, công tắc giới hạn sẽ làm ngừng
mô tơ đảo, để kỳ sau đảo ngược lại.
Bùi Đức Lũng (2009) nhận định rằng ngoài việc đảo trứng để thuận lợi
cho phôi phát triển, không khí trong máy ấp cũng cần được lưu thông nhằm
đẩy không khí bẩn, không khí nóng trong máy ra ngoài và hút không khí sạch
ở ngoài vào. Đảm bảo lượng oxy cần thiết cho phôi hô hấp và phát triển, đồng
thời loại khí độc ra ngoài, đảm bảo CO
2
không quá 0,2% trong máy ấp.
Lê Hồng Mận và Bùi Đức Lũng (2004) cũng cho biết rằng độ thông
thoáng trong máy ấp rất cần thiết nhằm đảm bảo cho các vùng trong máy với
21% oxy và 0,2% (tối đa là 0,3%) khí cacbonic (CO
2
). Độ thông thoáng chủ
yếu phụ thuộc vào đường kính và tốc độ quay vòng của quạt gió có sẵn trong
máy. Khi muốn tăng quạt giảm nhiệt độ, ẩm độ cần điều chỉnh lỗ thông gió.
2.4.4.3 Chuyển trứng từ máy ấp qua máy nở
Theo Bùi Đức Lũng và Nguyễn Xuân Sơn (2003), trước khi chuyển
trứng từ máy ấp sang máy nở thì máy nở phải được cọ rửa vệ sinh, xông sát
trùng như máy ấp bằng hỗn hợp 17,50 g thuốc tím + 35 mL Formol/m
3
buồng
máy. Sau đó cho máy chạy đồng thời điều chỉnh nhiệt độ và độ ẩm cao cho đạt
chế độ nở. Tiếp đó đồng thời tắt bộ phận tạo ẩm của máy ấp, bật công tắc cho
bộ phận đảo hoạt động để các khay về vị trí ngang, kiểm tra sinh học và
chuyển trứng từ khay ấp sang khay nở của máy nở.

×