Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

đặc điểm hình thái của một số loài ốc nước ngọt thuộc họ lymnaeidae ở một số huyện trong các tỉnh vĩnh long, đồng tháp, cần thơ và gây nhiễm ấu trùng sán lá gan trên ốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 52 trang )

i



TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG











NGUYỄN VĂN DƯƠNG


ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI CỦA MỘT SỐ LOÀI ỐC
NƯỚC NGỌT THUỘC HỌ LYMNAEIDAE Ở MỘT SỐ
HUYỆN TRONG CÁC TỈNH VĨNH LONG, ĐỒNG
THÁP, CẦN THƠ VÀ GÂY NHIỄM ẤU TRÙNG SÁN
LÁ GAN TRÊN ỐC





LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP



NGÀNH: THÚ Y













Cần Thơ, 2014
ii
LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan rằng đề tài này là do chính tôi thực hiện, các số liệu thu thập và
kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất kỳ đề tài
nghiên cứu khoa học nào.









Ngày…….tháng …….năm 2014
Sinh viên thực hiện



Nguyễn Văn Dương

iii
LỜI CẢM ƠN

Kính dâng!
Cha mẹ đã tận tụy nuôi con khôn lớn, cho con ăn học thành tài. Xin cha mẹ nhận
nơi con lòng biết ơn chân thành và thiêng liêng nhất.
Thành kính biết ơn!
Thầy Nguyễn Hữu Hưng đã dành thời gian quý báu tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em
trong suốt thời gian làm luận văn tốt nghiệp.
Thầy Lê Hoàng Sĩ cố vấn học tập và các thầy cô thuộc bộ môn Thú Y, đã truyền đạt
kiến thức và kinh nghiệm quý báu cho em trong suốt những năm ở giảng đường đại
học.
Chân thành cảm ơn!
Anh Hà Huỳnh Hồng Vũ đã giúp đỡ em trong quá trình lấy mẫu để thực hiện luận
văn tốt nghiệp.
Cô Nguyễn Hồ Bảo Trân đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ trong quá trình thực hiện
luận văn tốt nghiệp.
Các bạn trong nhóm ký sinh trùng đã giúp đỡ tôi trong những ngày làm việc trong
phòng thí nghiệm.

NGUYỄN VĂN DƯƠNG
iv

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ii
LỜI CẢM ƠN iii
DANH SÁCH CHỮ VIẾT TẮT vi
DANH SÁCH BẢNG vii
DANH SÁCH HÌNH viii
TÓM LƯỢC ix
CHƯƠNG 1 ĐẶT VẤN ĐỀ 1
CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN 3
2.1 Tình hình nghiên cứu về họ ốc Lymnaeidae 3

2.1.1 Sơ lược nghiên cứu về họ ốc Lymnaeidae ở ngoài nước 3

2.1.2 Tình hình nghiên cứu trong nước 3

2.2 Sơ lược về động vật thân mềm (Ngành Mollusca) 7

2.2.1 Khái quát về lớp chân bụng (Gastropoda) 9

2.2.2 Một số thành phần loài của lớp chân bụng (Gastropoda) 10

2.3 Sơ lược về lớp sán lá 12

2.3.1 Tình hình nghiên cứu bệnh sán lá gan (Fasciolosis) 22

2.3.2 Vòng đời bệnh sán lá gan (Fasciolosis) 26
CHƯƠNG 3: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 30
3.1 Nội dung nghiên cứu 30


3.2 Thời gian và địa điểm thực hiện đề tài 30

3.3 Đối tượng nghiên cứu 30

3.4 Phương tiện và phương pháp nghiên cứu 30

3.4.1 Dụng cụ thí nghiệm và hóa chất 30

3.4.2 Phương pháp nghiên cứu 31

CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 34
4.1 Thành phần loài và sự phân bố ốc nước ngọt thuộc họ Lymnaeidae tại
các địa điểm khảo sát 34

4.2 Kết quả về thành phần loài của ốc nước ngọt thuộc họ Lymnaeidae tại
các địa điểm khảo sát 36
4.3 Kết quả thành phần ấu trùng sán lá trong ốc Lymnaea swinhoei thu thập
trong điều kiện tự nhiên 37
4.4 Kết quả gây nhiễm ấu trùng sán lá gan trong ốc Lymnaea swinhoei 39

CHƯƠNG 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 41
v
5.1 Kết luận 41

5.2 Đề nghị 41

TÀI LIỆU THAM KHẢO 42













vi
DANH SÁCH CHỮ VIẾT TẮT

STT: số thứ tự.
SON: số ốc nhiễm.
TL: tỷ lệ nhiễm.





















vii

DANH SÁCH BẢNG
Bảng 4.1: Kết quả các chỉ số của ốc nước ngọt thuộc họ Lymnaeidae tại các địa
điểm khảo sát …………………………………………………………………… 34

Bảng 4.2 : Thành phần và sự phân bố các loài ốc nước ngọt thuộc họ Lymnaeidae
tại các địa điểm khảo sát………………………………………………………… 34

Bảng 4.3: Thành phần và tỷ lệ các loài ốc nước ngọt thuộc họ Lymnaeidae tại các
địa điểm khảo sát………………………………………………………………… 35

Bảng 4.4: Thành phần và tỷ lệ các loài ốc nước ngọt thuộc họ Lymnaeidae tại từng
địa điểm…………………………………………………………………………….36

Bảng 4.5: Thành phần ấu trùng sán lá ký sinh trên ốc Lymnaea swinhoei thu thập
trên đồng ruộng tại huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp……………………………….36


Bảng 4.6: Kết quả theo dõi ốc Lymnaea swinhoei nuôi theo các mật độ khác nhau
…………………………………………………………………………………… 37

Bảng 4.7: Kết quả gây nhiễm ấu trùng sán lá gan các giai đoạn trong ốc Lymnaea
swinhoei 38
viii

DANH SÁCH HÌNH


Hình 2.1: Loài Lymnaea swinhoei 11

Hình 2.2: Loài Lymnaea viridis 12

Hình 2.3: Fasciola gigantica 22

Hình 2.4: Fasciola hepatica 22

Hình 2.5: Vòng đời bệnh sán lá gan 26

Hình 2.6: Các giai đoạn phát triển của ấu trùng sán lá gan 29

Hình 4.1: Ốc Lymnaea swinhoei 35

Hình 4.2: Ốc Lymnaea viridis 35

Hình 4.3: Nuôi ốc Lymnaea swinhoei trong hộp 37

Hình 4.4: Gây nhiễm miracidium cho ốc Lymnaea swinhoei 37

Hình 4.5: Miracidium 39

Hình 4.6: Sporocyst 39

Hình 4.7: Redia 39

Hình 4.8: Cercaria 39

ix
TÓM LƯỢC

Qua thời gian thực hiện đề tài từ tháng 08 năm 2014 đến tháng 12 năm 2014 tại các
huyện Trà Ôn (Vĩnh Long), Lấp Vò (Đồng Tháp), Bình Thủy, Ninh Kiều (Cần Thơ)
tôi ghi nhận kết quả như sau: Bằng phương pháp thu thập và định danh 549 ốc nước
ngọt thuộc họ Lymnaeidae ở các địa điểm Trà Ôn (Vĩnh Long), Lấp Vò (Đồng
Tháp), Ninh Kiều, Bình Thủy (Cần Thơ) tôi đã xác định 2 loài ốc Lymnaea
swinhoei và Lymnaea viridis có tỷ lệ phân bố tại các địa điểm khảo sát lần lượt là
89,25% và 10,75%. Cả 2 loài Lymnaea swinhoei và Lymnaea viridis đều là ký chủ
trung gian của các loài sán lá gây bệnh trên động vật và người. Mổ khảo sát 50 ốc
loài Lymnaea swinhoei xác định tỷ lệ nhiễm chung các loại ấu trùng sán lá ở ốc
Lymnaea swinhoei tại huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp là 34,00%. Với tỷ lệ nhiễm ấu
trùng sán lá cả 3 giai đoạn sporocyst, redia và cercaria là 6,00 %. Gây nhiễm ấu
trùng sán lá gan giai đoạn miracidum cho 40 ốc Lymnaea swinhoei với 2 nghiệm
thức miracidium vừa mới nở, hoạt động mạnh và miracidium nở sau 24 giờ; kết quả
có 18 ốc nhiễm ấu trùng sán lá gan các giai đoạn sporocyst, redia và cercaria với tỷ
lệ ốc nhiễm ấu trùng sán lá gan ở cả 2 nghiệm thức là 45,00 %.
1
CHƯƠNG 1 ĐẶT VẤN ĐỀ

Việt Nam là một nước nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới, có thảm thực vật
phong phú và đa dạng thích hợp cho nhiều loài ký sinh trùng phát triển, ký sinh và
gây bệnh. Bệnh sán lá gan (Fasciolosis) là một bệnh ký sinh trùng phổ biến ở gia
súc nhai lại như trâu, bò, dê, cừu, và cả ở người. Bệnh gây thiệt hại lớn cho ngành
chăn nuôi đại gia súc và ảnh hưởng đến sức khỏe người bị nhiễm sán.

Bệnh sán lá gan (Fasciolosis) phổ biến ở khắp các châu lục và nhiều nước trên thế
giới. Ở Việt Nam, bệnh được phát hiện ở khắp các tỉnh thành trong cả nước. Phan
Địch Lân (1994) đã điều tra 7359 trâu, bò ở 26 tỉnh miền Bắc Việt Nam kết quả

thấy: trâu, bò ở vùng đồng bằng nhiễm sán lá gan cao nhất, sau đó đến vùng trung
du, vùng ven biển và miền núi.
Theo Phạm Văn Khuê và cs (1996), Kaufmann (1996), ký chủ trung gian của sán lá
Fasciola là các loài ốc nước ngọt họ Lymnaeidae: Lymnaea auricularia, Lymnaea
swinhoei, Lymnaea viridis, Galba truncatula, Radix ovata,…
Đồng bằng sông Cữu Long là vùng đồng bằng với hệ thống sông ngòi, kênh rạch
chằng chịt là điều kiện thuận lợi cho các loài ốc nước ngọt – ký chủ trung gian của
sán lá Fasciola sinh sống và phát triển. Đó là điều kiện cho bệnh sán lá gan trên trâu,
bò phát triển gây thiệt hại cho ngành chăn nuôi đại gia súc của vùng. Để tìm hiểu rõ
hơn về ký chủ trung gian, chu trình sinh học của bệnh sán lá gan trên bò và được sự
hướng dẫn của thầy cô bộ môn Thú Y, khoa Nông Nghiệp và Sinh Học Ứng Dụng,
trường Đại học Cần Thơ chúng tôi tiến hành đề tài: “Đặc điểm hình thái của một
số loài ốc thuộc họ Lymnaeidae ở một số huyện trong các tỉnh Vĩnh Long, Đồng
Tháp và thành phố Cần Thơ và gây nhiễm ấu trùng sán lá gan trên ốc”.
2
Mục tiêu của đề tài:
 Định danh, phân loại một số loài ốc thuộc họ Lymnaeidae tại huyện Trà Ôn
(tỉnh Vĩnh Long), huyện Lấp Vò (tỉnh Đồng Tháp) và quận Ninh Kiều, quận Bình
Thủy (thành phố Cần Thơ).
 Khảo sát tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán lá ở ốc Lymnaea swinhoei trong điều kiện
tự nhiên.
 Theo dõi quá trình phát triển của ấu trùng sán lá gan trong ốc Lymnaea
swinhoei.

3
CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN

2.1 Tình hình nghiên cứu về họ ốc Lymnaeidae
2.1.1 Sơ lược nghiên cứu về họ ốc Lymnaeidae ở ngoài nước
Kendall (1949), ở mỗi khu vực khác nhau thì ký chủ trung gian của loài Fasciola sp

cũng khác nhau và thay đổi theo từng nước. Ở Australia ký chủ trung gian của sán
lá gan là loài Lymnaea tomentoxa, Bắc Mỹ là Lymnaea bulimoides techella.
Goldon et al (1959), sử dụng đồng pentachlophenate để diệt ký chủ trung gian với
liều 11 kg/ha với thể tích 4500 lít/ha sẽ làm bất hoạt ký chủ trung gian Lymnaea
tomentosa.
Taylor (1965), cho biết từng loại ốc ký chủ trung gian được phân bố theo các vùng
khác nhau: Lymnaea natalensis ở Trung Phi, Lymnaea persica ở Pakistan, Lymnaea
lutoole ở Afganistan, Lymnaea limoso ở Nga, Lymnaea swinhoei ở Trung Quốc,
Lymnane viridis ở Indonesia.
Kaufmann (1996), vật chủ trung gian của sán lá Fasciola là các ốc nước ngọt họ
Lymnaeidae: Lymnaea auricularia, Lymnaea swinhoei, Lymnaea viridis, Galba
truncatula, Radix ovata Tác giả cho biết vùng đồng bằng có nhiều hồ, ao, kênh,
rạch, có điều kiện cho ốc – vật chủ trung gian sống và sinh sản. Các kiểu địa hình
khác thì vấn đề này hạn chế hơn so với đồng bằng.
Ravichandra cho rằng ốc là ký chủ trung gian của sán lá ở mỗi nước thì khác nhau
Lymnaea auricularia ở Ấn Độ, Lymnaea rulfesceus ở Pakistan, Lymnaea latalensis
caillaudi ở Malaysia (Đỗ Trọng Minh (1999)).
2.1.2 Tình hình nghiên cứu trong nước
Phan Địch Lân và cs (1972), xác định ốc ký chủ trung gian ở Việt Nam là Lymnaea
swinhoei và Lymnaea viridis. Tỷ lệ ốc mang trùng đến 90%.
Điều tra mật độ ốc Lymnaea viridis ở chân ruộng mạ thấy trung bình 126 con/m
2
,
mật độ ốc Lymnaea swinhoei trôi nổi là 25 con/m
2
.
Nguyễn Quý Tuấn (1976), xác định các loài ốc Lymnaea swinhoei, Polypylis
hemisphaearula, Gyraulus convesiusculus và Gyraulus heudei là vật chủ trung gian
thứ hai của sán lá Hypoderaeum conoideum.
Thái Trần Bái (1977), ở ruộng muống có mức nước nông, ốc thường tập trung ở

cọng, lá rau đang thối rữa. Ở các ruộng muối đang trong thời kỳ khô hạn, đất đá nứt
nẻ, ốc thường tập trung ở gốc muống, tỷ lệ ốc sống là 90,3%. Trong ruộng rau lấp
4
mật độ ốc thấp hơn. Ở ruộng lúa, ruộng mới cấy, ốc tập trung ở gốc lúa hay treo
mình trên mặt nước.
Theo Trịnh Văn Thịnh, Phạm Văn Khuê (1978) các loài ốc nước ngọt là vật chủ
trung gian của Fasciola phân bố rất rộng. Ở những nơi đất cao 900 – 1000m so với
mực nước biển vẫn có sự hiện diện của ốc. Ốc thích sống ở môi trường có pH kiềm,
ở những nơi xấp nước có dòng chảy nhẹ để ốc hô hấp. Thức ăn của ốc là những
động vật và chất hữu cơ. Khả năng phân bố của ốc dày đặc 135 – 814 ốc/m
2
. Mỗi
năm ốc đẻ từ 7 – 18 ổ, mỗi ổ đẻ từ 8 – 136 trứng, tỷ lệ nở của ốc cao từ 90 – 100%
trong vòng từ 5 đến 12 ngày. Loài Lymnaea viridis phân bố nhiều ở vùng cao, loài
Lymnaea swinhoei phân bố nhiều ở vùng trũng. Ở nước ta đã gặp hai trường hợp
nhiễm sán lá gan, một trường hợp tử vong với 700 sán trong gan.
Đặng Ngọc Thanh và cs (1980), một số loài ốc tai (Lymnaeidae), ốc đĩa
(Planobidae) thường bám vào các cây bèo Nhật Bản, rau muống, rong ở các ao, hồ,
sông, suối. chúng có thể ở nơi ẩm ướt (không ngập nước) trong một thời gian dài.
Thức ăn của ốc nước ngọt là rong rêu, bèo, các chất mùn.
Phan Địch Lân (1985), khi điều tra các loài ốc ký chủ trung gian của sán lá gan trên
15 tỉnh phía Bắc nhận thấy có sự hiện diện của hai loài ốc Lymnaea viridis và
Lymnaea swinhoei. Loài Lymnaea swinhoei (ốc vành tai) có vỏ mỏng, dễ vở không
có nắp miệng, kích thước 20 mm, vòng xoắn cuối cùng rất lớn, chiếm gần hết phần
thân, vỏ loe ra như vành tai. Loài Lymnaea viridis (ốc chanh) cũng có vỏ mỏng,
không có nắp miệng, kích thước 10 mm, vỏ dễ vỡ, có 4 – 5 vòng xoắn, vòng xoắn
cuối cùng lớn. Tác giả còn cho biết mật độ của ốc theo mùa khác nhau: mật độ vụ
đông xuân lớn hơn vụ hè thu.
Vụ đông xuân: Lymnaea viridis 123 ± 54 con/m
2


Lymnaea swinhoei 146 ± 49 con/m
2

Vụ hè thu: Lymnaea viridis 64 ± 17 con/m
2
Lymnaea swinhoei 59 ± 33 con/m
2

Hồ Thị Thuận và cs (1987), công bố cả hai loài ốc Lymnaea swinhoei và Lymnaea
viridis đều là vật chủ trung gian của sán lá gan, nhưng tỷ lệ nhiễm ấu trùng rất thấp
1,1% ở các tỉnh miền Nam.
Hồ Thị Thuận và cs (1987), điều tra tình hình nhiễm sán lá gan trên trâu, bò ở các
tỉnh phía Nam cho biết vùng có nhiều mương rạch, nước ngọt thì tỷ lệ và cường độ
nhiễm Fasciola cao tại những vùng đồi trọc, đất cát mặn thì tỷ lệ và cường độ
nhiễm Fasciola thấp là do sự xuất hiện ốc nước ngọt là ký chủ trung gian của
Fasciola tại vùng này cao hơn. Tác giả còn mổ khám ốc bị nhiễm sán lá gan thấy
gan, tụy của ốc có màu vàng (lá), úa (rất vàng) và sưng to.
5
Vũ Sĩ Nhàn và cs (1989), cũng cho thấy ốc Lymnaea swinhoei ở Đắk Lắk nhiễm ấu
trùng sán lá gan với tỷ lệ 40,0 - 50,0%.
Nguyễn Thị Lê và cs (1990), thông báo hầu hết các loài ốc nước ngọt thuộc họ
Lymnaeidae, Bithyniidae và Viviparidae có vai trò là vật chủ trung gian thứ hai
truyền bệnh sán lá ở gia cầm.
Nguyễn Thị Lê và cs (1995), nghiên cứu 1059 cá thể ốc thuộc hai loài Lymnaea
swinhoei và Lymnaea viridis ở Phú Thọ và Phú Xuyên (Hà Nội) cho biết loài
Lymnaea swinhoei nhiễm ấu trùng cercaria của 6 loài Echinostoma revolutum,
Echinoparyphium recurvatum, Hypoderaeum, Trichobilaharzia anatina, Apatemon
gracilis và Cotylurus cornutus. Loài Lymnaea viridis nhiễm ấu trùng cercaria loài
Echinostoma revolutum.

Nguyễn Trọng Kim (1997), giữa tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán lá gan của ốc-ký chủ
trung gian với tỷ lệ nhiễm sán lá gan của trâu, bò có mối tương quan thuận, nghĩa là,
nếu tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán lá gan ở ốc nước ngọt cao thì tỷ lệ nhiễm sán lá gan
của trâu bò ở khu vực đó cũng cao. Tác giả cho biết tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán lá gan
trung bình ở các tỉnh miền Bắc ở ốc Lymnaea swinhoei là 20,85% và ở ốc Lymnaea
viridis là 19,61%.
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999), cho biết gia súc nhai lại nhiễm sán lá gan
thường tăng lên vào mùa ký chủ trung gian phát triển. Những năm mưa nhiều, tỷ lệ
nhiễm sán lá gan tăng lên so với những năm nắng ráo và khô hạn. Mùa vụ gắn liền
với thay đổi khí hậu. Mùa hè thu gia súc bị nhiễm sán tăng cao hơn các mùa khác
trong năm. Cuối mùa thu và đầu mùa đông bệnh thường phát ra.
Phan Địch Lân (2000), cho biết ở Việt Nam loài Lymnaea viridis thích sống ở cạn
hơn (nơi có nước xâm xấp), còn loài Lymnaea swinhoei thích sống ở nơi có nước
hơn (sống trôi nổi ở cống, rảnh, ao, hồ).
Lê Quang Hùng (2003), ở Bình Định có 2 loài ốc Lymnaea viridis và Lymnaea
swinhoei là vật chủ trung gian của Fasciola gigantica. Tỷ lệ phát triển của trứng
Fasciola gigantica nuôi trong nước cất và nước ao hồ là khá cao từ 80-96%, trong
điều kiện nhiệt độ từ 27-35
0
C thời gian phát triển từ trứng sán đến nang sán là 42-58
ngày. Trong đó thời gian phát triển trong ốc vật chủ trung gian từ 31-40 ngày.
Phan Địch Lân (2004), cho biết: Lymnaea swinhoei phân bố nhiều hơn ở vùng đồng
bằng, trong khi ốc Lymnaea viridis phân bố nhiều hơn ở vùng núi, trung du và ven
biển.
Nawa (2005), công bố 1,2%-2,1% ốc Lymnaea ở Bình Định bị nhiễm ấu trùng sán
lá gan.
6
Phạm Ngọc Doanh và cs (2005), cho thấy chỉ 0,06% ốc Lymnaea swinhoei và 1%
ốc Lymnaea viridis ở Đông Anh và Phú Xuyên, Hà Nội bị nhiễm ấu trùng sán lá gan.
Nguyễn Võ Hinh (2005) cho biết, ốc mút (Melanoides tuberculatus) là vật chủ

trung gian của sán lá gan, các loài ốc Lymnaea swinhoei, Lymnaea viridis, ốc
Gyraulus sinensis, Polypylis haemisphaerula là vật chủ trung gian của sán lá gan
lớn. Loài ốc mút Melanoides tuberculatus còn là vật chủ trung gian của sán lá phổi.
Ngoài ra ốc nhỏ thuộc giống Tricula operta là vật chủ trung gian của sán lá gan ở
người.
Đỗ Đức Ngái và cs (2006), thông báo 0.45% ốc Lymnaea swinhoei ở Đắk Lắk bị
nhiễm ấu trùng sán lá gan.
Nguyễn Hoàng Việt Luân (2007) định danh phân loại 11 giống ốc thuộc 5 họ
Viviparidae, Thiaridea, Lymnaeidae, Planorbidae, Buccinni tại các khu vực thuộc
quận Cái Răng, Quận Ô Môn và một số khu vực thuộc tỉnh Sóc Trăng, cho biết
Lymnaea swinhoei và Lymnaea viridis là ký chủ trung gian của loài sán lá gan lớn
Fasciola hepatica và Fasciola gigantica, mật độ phân bố của các loài ốc tại điểm
nghiên cứu là: Lymnaea viridis 23,2% và Lymnaea swinhoei 23,35%, thời gian phát
triển của trứng sán lá gan bên ngoài ký chủ và bên trong vật chủ trung gian từ giai
đoạn micracidium đến giai đoạn sporocyst của họ ốc Lymnaeidae là 9 ngày.
Lê Hoàng Nam (2007) nghiên cứu tại tỉnh Hậu Giang cho biết 2 giống Bulinidae và
Lymnaea là ký chủ trung gian truyền bệnh sán lá gan cho gia súc nhai lại và kể cả
con người, tỷ lệ loài ốc Lymnaea tại điểm nghiên cứu là 35,39%.
Nguyễn Đức Tân và cs (2010), xác định ốc Lymnaea viridis nhiễm ấu trùng ở Bình
Định là 1,8%, Khánh Hòa là 0,92%, Phú Yên là 0,5%. Ốc Lymnaea swinhoei nhiễm
ấu trùng sán lá gan lớn ở Bình Định là 1,21%, Khánh Hòa là 0,37%, Phú Yên là
0,68%.
Nguyễn Thị Lê và cs (2010) ở ốc Lymnaea swinhoei tìm thấy 7 nhóm ấu trùng với
tỷ lệ nhiễm chung là 22,5%, gặp cercaria của các họ Echinostomatidae,
Echinochamidae, Ornithobilhaziidae và Fasciolidae. Ốc Polypylis hemisphaerula là
vật chủ trung gian của 6 nhóm ấu trùng cercaria và metacercaria, tỷ lệ nhiễm
chung là 18,4% với các họ Echinostomatidae, Fasciolidae. Ốc Melanoides
tuberculata tìm thấy ấu trùng cercaria và metacercaria với tỷ lệ nhiễm chung là
17.4% gồm các loài Notocotylus intestinalis, Prosthogonimus cuneatus.
Đồng Thị Thanh Dung (2011), nghiên cứu tại huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam

có 5 loài ốc nước ngọt Viviparus aceracus, Pila polita, Pomacea canaliculata,
Melanoides tuberculata, Lymnaea viridis. Trong đó có hai loài Melanoides
tuberculata, Lymnaea viridis là vật chủ trung gian của sán lá gan. Tác giả còn cho
7
biết ốc Melanoides tuberculata được tìm thấy ở nơi nước động, nước chảy chậm và
nước chảy nhanh còn loài Lymnaea viridis tìm thấy ở nơi nước động và nơi nước
chảy chậm.
Phạm Ngọc Doanh và cs (2012), nghiên cứu ấu trùng sán lá gan lớn Fasciola sp ở
ốc Lymnaea sp tại 32 xã thuộc 9 tỉnh đại diện cho 3 miền Bắc, Trung và Nam. Kết
quả 3 loài ốc Lymnaea viridis, Lymnaea swinhoei và Lymnaea sp. Trong đó,
Lymnaea viridis có kích thước nhỏ nhất (2-10 mm theo chiều dài) và chủ yếu sống
ở ruộng lúa sấp nước; Lymnaea swinhoei có kích thước lớn nhất (5-20 mm theo
chiều dài) với vành miệng rộng, sống chủ yếu ở ao, hoặc sông và loài Lymnaea
sp.(5-20mm) có vỏ ốc dài hơn và mảnh hơn thường sông ở sông hoặc mương có
nước tĩnh.
Nguyễn Mạnh Hùng (2012), thu thập 26.976 ốc trong quá trình nghiên cứu mật độ
ốc trong vườn nuôi cá chép xác định các loài ốc nhiễm ấu trùng cercaria
Parapleurolophocercous là các loài ốc họ Bithynidae, Thiaridae. Cercaria
Echinostoma được tìm thấy trong ốc thuộc họ Thiaridae, Bithynidae và Lymnaeidae.
2.2 Sơ lược về động vật thân mềm (Ngành Mollusca)

Ngành Mollusca đã có rất nhiều hệ thống phân loại khác nhau, tùy theo từng giai
đoạn phát triển của phân loại học và tùy theo tác giả. Có các hệ thống phân loại của
Pensenner (1892), Parke (1987), Cooke (1917), trong các hệ thống phân loại này
tiêu biểu là hệ thống phân loại của Pensenner và Thiel.

Hệ thống phân loại của Pensenner và Thiel chia ngành Mollusca thành 5 lớp:
Amphineura, Gastropoda, Scaphopoda, Bivalvia và Cephalopoda. Nguyễn Chính
(1996), dựa vào hệ thần kinh song song mà tác giả xếp 4 nhóm:
Chaetodermomorpha, Neomenimorpha, Monoplacophora và Polyplacophora vào

một lớp đó là Amphineura.

Hiện nay, hệ thống phân loại Mollusca được xây dựng dựa trên các cơ sở sau:

- Cấu tạo, hình dáng và số lượng của vỏ.

- Sự phát triển của phần đầu (đầu phát triển hay thoái hóa).

- Hình dạng chân.

- Cấu tạo của hệ thần kinh.

- Vị trí, số lượng và cấu tạo cơ quan hô hấp (mang, phổi).

- Cấu tạo của phiến hàm, lưỡi sừng và răng sừng.

8
- Đơn tính hay lưỡng tính

Gần đây, một số nhà phân loại học dựa vào hình dáng cấu tạo của vỏ đã chia ngành
Mollusca thành 7 hoặc 8 lớp khác nhau. Tiêu biểu có hệ thống phân loại theo
Ruppert và Barnes (1994), Pechenik (2000). Theo hệ thống phân loại của Ruppert
và Barnes (1994) chia lớp Amphineura thành 3 lớp mới đó là Aplacophora (Không
vỏ), Monoplacophora (Một vỏ) và Polyplacophora (Nhiều vỏ) còn các lớp khác thì
vẫn giữ nguyên. Theo Barnes et al (2000) thì lớp Aplacophora được tách thành 2
lớp mới đó là Chaedermomorpha và Neomeniomorpha. Các lớp còn lại tương tự
như phân loại của Pechenik (2000) và Ruppert & Barnes (1994). Như vậy theo
Barnes et al (2000) thì ngành động vật thân mềm được chia thành 8 lớp.
































9

2.2.1 Khái quát về lớp chân bụng (Gastropoda)

Gastropoda theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là chân ở mặt bụng. Gastropoda là lớp lớn
nhất trong ngành Mollusca, bao gồm khoảng 40-75 ngàn loài ốc (snail) và ốc sên
(slug) còn tồn tại trên trái đất. Gastropoda cũng là lớp thích nghi tốt nhất trong
ngành Mollusca, chúng không chỉ có số lượng loài lớn mà còn có sự phân bố rộng ở
nhiều môi trường khác nhau như sông, hồ, biển sâu và sống phù du trong nước.
Ngoài ra, Gastropoda còn phân bố trên cạn như trên mặt đất, trên cây và cả ở sa
mạc. Phương thức sống và tập tính ăn của chúng cũng rất đa dạng, ăn thức ăn lơ
lững, ăn thực vật, ăn động vật, ăn chất lắng tụ ở nên đáy và sống ký sinh.

Ở một cá thể ốc điển hình, cơ thể gồm khối nội tạng (visceral mass) chứa tất cả cơ
quan nội tạng nằm phía trên của chân. Khối nội tạng thường được bảo vệ bởi một
vỏ cuộn (coiled univalve shell), hình dạng vỏ rất đa dạng. Tùy từng cá thể mà kích
thước vỏ ốc khác nhau, có những loài ốc ở giai đoạn trưởng thành vỏ chỉ dài 1 mm
nhưng cũng có những loài vỏ dài đến 60 cm. Cơ thể gắn vào bên trong của vỏ nhờ
cơ trục (columellar muscle) kéo dài từ bên trong chân của ốc đến trục trung tâm của
vỏ. Cơ trục có vai trò quan trọng trong các vận động của cơ thể, thò ra khỏi hay rút
vào bên trong vỏ. Hầu hết Gastropoda đều có vỏ cuộn, một số loài có vỏ kém phát
triển hoặc không có vỏ như lớp phụ mang sau (Opisthobranchia).

Hệ thống phân loại của Gastropoda rất phức tạp, có nhiều đặc điểm thể hiện sự
khác nhau so với nguồn gốc tổ tiên như phần đầu thường rất phát triển, có mắt, xúc
tu và chân có dạng phẳng. Căn cứ vào hình thái, cấu trúc chức năng của cơ quan hô
hấp, Gastropoda có thể được phân thành 3 nhóm cấu trúc:

Nhóm có xoang màng áo nằm phía trước cơ thể nên được gọi là mang trước
(Prosobranchia): Mang ở trước tim, thường có 1 mang, ít khi gặp 2 mang, dây thần
kinh bắt chéo, đơn tính, phần lớn sống ở biển, một số ít sống ở nước ngọt. Nhóm
này có ít nhất 20.000 loài đã được mô tả, bao gồm hơn 140 họ.


Nhóm có xoang màng áo nằm phía sau cơ thể nên được gọi là mang sau
(Opisthobranchia): Cấu tạo cơ thể của chân bụng mang sau thể hiện sự vặn xoắn
không hoàn toàn làm cho dây thần kinh bắt xoắn duỗi trở lại, tim chỉ có một tâm nhĩ,
lưỡng tính. Nhóm này có khoảng 2000 loài trong 120 họ, đa số sống trong nước
mặn.

Nhóm sống trên cạn hô hấp bằng phổi gọi là ốc phổi (Pulmonata): do mang tiêu
giảm nên được thay thế bằng phổi. Phổi là mặt trong của xoang áo, có nhiều mạch
máu, có nhiều lổ thở nhỏ ở bên phải, thần kinh lệch, các hạch thần kinh tập trung ở
phần đầu. Vỏ phát triển hay tiêu giảm, không có nắp vỏ. Lưỡng tính, một số đẻ con.
Sống ở nước ngọt hay trên cạn.



10

2.2.2 Một số thành phần loài của lớp chân bụng (Gastropoda)

Họ Lymnaeidae

Họ Lymnaeidae là ốc nước ngọt, không có nắp đậy, một mảnh vỏ, vỏ có hình vành
tai dễ vỡ, tháp ốc nhọn, lưỡng tính.
Trong quá trình phát triển có sự quay quanh và uốn vặn nên cơ thể không đối xứng
hai bên, chân có đối xứng, mặt chân rất rộng, có hình trái xoan và nằm ở mặt bụng.
Cơ thể xoắn về bên phải nếu nhìn từ đỉnh tháp, thở bằng phổi.
Kích thước 10-70 mm, có 3-7 vòng xoắn.
Vỏ phát triển mỗi tháng 1 vòng xoắn cho tới khi đạt được kích thước trưởng thành.
Các loài ốc họ này thường tìm thấy ở suối, hồ, ao, ruộng lúa ở vùng núi hay đồng
bằng.


Mật độ và sự phân bố của ốc Lymnaea

Theo Phan Địch Lân (1978), phạm vi phân bố của ốc Lymnaea - ký chủ trung gian
rất rộng. Đặc biệt loài L. viridis phân bố rộng hơn. Ở vùng cao 900 -1000 m so với
mực nước biển vẫn thấy có. Mật độ của hai loài ốc phụ thuộc rất lớn vào thời gian
và yếu tố thời tiết. Loài L. swinhoei ở Mỹ Hào (Hải Hưng) tháng 3 có 116 ốc/m
2
,
đến tháng 5 không thấy nữa. Trong khi đó L. viridis ở Mỹ Hào tháng 3 có 189 ốc/m
2
,
đến tháng năm 135,8 ốc/m
2
.

Môi trường sống của ốc

Ốc thích sống môi trường có pH kiềm, chúng thích dòng nước luôn có sự thay đổi
để hô hấp. trong hai loài thì ốc L.swinhoei thích trôi nổi trên mặt nước, còn loài
L.viridis thích sống ở môi trường có xâm xấp nước ẩm. Từ đặc tính đó, dẫn đến sinh
cảnh phát hiện hai loài trên.
L.swinhoei thường thấy ở chân ruộng nhiều nước, ao rau muống rau cần, cống rảnh
có nước.
L.viridis ở chân ruộng mạ xâm xấp nước ẩm, rảnh mương cạn, ven chuồng chăn
nuôi gia súc, hố chăn nuôi gia súc trên đồng cỏ.

Theo Phan Địch Lân (2004), thức ăn của ốc là những chất mùn, chất hữu cơ mục
nát, các loại rêu, rau mềm, chính vì thế ở các điểm khảo sát thấy ốc sống thành quần
thể bám ở chổ tảng đá lâu ngày mọc rêu, nước rỉ từ các chân núi ra (ở Bát Xát – Lào

Cai) hoặc ngược theo dòng nước róc rách chảy từ chân ruộng bậc thang (ở Sa Pa)
hoặc trôi nổi bám vào bèo rau (ở Bình Lục - Văn Điển), hoặc sống dàn đều ven bờ
giếng, bể nước, nơi ống dẫn nước ở miền núi (ở Bắc Hà - Lào Cai) hoặc ở những hố
chăn gia súc (ở Ba Vì).



11

Giống Lymnaea
Lymnaea swinhoei (H. Adams , 1886)
Đồng tên: L.annamitica, Radix swinhoei.

Loài Lymnaea swinhoei có chiều dài ốc trưởng thành bằng hoặc lớn hơn 15 mm. Vỏ
ốc hình con quay. Đỉnh vỏ nhọn. Vỏ ốc cuộn xoắn phải, có 3-4 vòng xoắn, các vòng
xoắn đầu thót nhỏ, trông như cái núm trên vòng xoắn cuối. Vòng xoăn cuối phình
rộng, góc trên trái lồi nên vỏ có dạng vuông góc. Vỏ mỏng, nhẵn bóng màu đất, mặt
vỏ có khía mờ. Ốc không có nắp miệng, lỗ miệng vỏ loe rộng, hình vành tai, tỷ lệ
giữa chiều dài lỗ miệng vỏ và chiều cao tháp ốc là 2- 3 lần, vành miệng ngoài sắc,
gần thẳng. Bờ trụ ốc tạo thành nếp uốn ở khoảng giữa. Phía dưới vành miệng tròn.
Lỗ rốn hẹp, dài.

















Hình 2.1 Loài Lymnaea swinhoei, Linaneus, 1856

Giống Austropeplea
Loài Lymnaea viridis Q.et G:

Loài Lymnaea viridis có chiều dài ốc trưởng thành nhỏ hơn 15 mm. Đỉnh vỏ nhọn,
vỏ ốc hình con quay. Vỏ ốc cuộn xoắn phải, có 4 – 5 vòng xoắn, các vòng xoắn đầu
nhỏ vừa so với vòng xoắn cuối, vòng xoắn cuối phình rộng nhưng gốc bên trái vát
nên có dáng tròn. Tháp ốc cân đối hình nón, không lõm tại đường biên. Ốc không
có nắp miệng. Vỏ mỏng nhẵn, màu nâu đất, có khía mờ. Lỗ miệng vỏ hình bầu dục
đều, tỷ lệ giữa chiều dài lỗ miệng và chiều cao tháp ốc là 1,5 lần, vành miệng ngoài
sắc, cong đều. Bờ trụ ốc tạo thành nếp uốn ở khoảng giữa. Phía dưới vành miệng
tròn. Lỗ rốn rất hẹp.
12










Hình 2.2: Loài Lymnaea viridis
(Nguồn: wikipedia.com)
2.3 Sơ lược về lớp sán lá

Lớp sán lá thuộc ngành Giun dẹp – Plathelminthes (Schneider,1873), trong liên
ngành giun không phân đốt Scolecida. Hiện nay trên thế giới đã phát hiện khoảng
3000 loài sán lá thuộc hàng trăm giống và hơn 100 họ.

Đặc điểm: Sán lá có đời sống ký sinh, cơ thể dẹp theo hướng lưng bụng. Bề mặt cơ
thể có lớp biểu bì (cutin). Cơ quan bám đặc trưng là giác bám và gai bám, thường
nằm ở phần trước hoặc phần sau mặt bụng. Miệng ở mút trước hoặc gần mút trước
cơ thể. Ruột gồm một nhánh hình túi, hoặc hai nhánh hoặc nhiều nhánh nhỏ.

Hệ thần kinh gồm hạch thần kinh trung ương nằm cạnh hầu và 3 đôi dây thần kinh
chạy dọc cơ thể, nối với nhau bởi các cầu nối ngang.

Hệ sinh dục thường lưỡng tính, một số loài phân tính, có một buồng trứng và 2 hoặc
nhiều tinh hoàn, ít khi một.

Sán lá phát triển với sự tham gia của vật chủ trung gian hoặc không. Trong cơ thể
vật chủ trung gian có hiện tượng ấu trùng sinh (đơn tính sinh). Vật chủ trung gian
thứ nhất là nhuyễn thể, vật chủ trung gian thứ hai thường là cá, chân khớp nhuyễn
thể và các động vật khác.

a) Tình hình nghiên cứu sán lá ký sinh trên thế giới:

Khoa học phân loại sán lá so với các lớp giun sán khác thì phát triển yếu hơn. Giữa
thế kỷ 19, Van Beneden (1858) chia lớp sán lá – Trematoda thành 2 nhóm: nhóm
sán lá đơn chủ - Monogenes và sán lá song chủ - Digeneses (nhóm này chỉ có 200
13

giống gồm hàng trăm loài với đặc điểm chẩn loại chính là 2 giác bám). Carus
(1863) gọi 2 nhóm trên là hai phân lớp: Monogenea và Digenea.

F. S. Monticelli (1888) là người đầu tiên chia 22 giống của phân lớp Digenea thành
4 họ: Amphistomatidae, Monostomatidae, Diplostomatidae và Distomidae. Hệ
thống phân loại này hoàn toàn thiếu nội dung khoa học, bởi không cho biết mỗi họ
gồm bao nhiêu giống, bao nhiêu loài và liên hệ ra sao trong cây chủng loại phát sinh.

M. Brau (1893) chia Digenea thành 25 giống thuộc 7 họ.

Cuộc cách mạng trong hệ thống phân loại sán lá là công trình của A. Looss (1899),
tác giả đã nghiên cứu đặc điểm giải phẩu của các nội quan và chia 500 loài thuộc
giống Distomum thành 54 giống, 12 phân họ.
Đầu thế kỷ 20, các nghiên cứu chú trọng đến nghiên cứu các khu hệ sinh thái ở các
nhóm động vật khác nhau, ở các địa điểm khác nhau trên trái đất và mô tả nhiều loài
mới, giống mới. Tuy nhiên, phần lớn các công trình miêu tả là sao chép thiên nhiên,
thiếu cơ sở lý thuyết và kinh nghiệm về mặt phân loại.

Năm 1910, nhà khoa học người Thụy Điển T. Odhner đã cho ra đời công trình đầu
tiên về mối quan hệ chủng loại phát sinh của tất cả các loài "Zum naturlichen
system der digenen Trematoden”, nhưng mới hoàn thành chương đầu tiên thì ông
đột ngột qua đời.
Năm 1925, xuất hiện chuyên khảo lớn của Y. Poche về hệ thống phân loại sán lá.
Tác giả đã đưa ra nhiều lý thuyết xây dựng các giống sán lá trên cơ sở các quan hệ
của chúng. Trong công trình này, Digenea được chia làm 2 phân bộ:
Gasterostomata và Prosotomata bao gồm 10 trên họ và 63 họ. Tác giả đã xây dựng
nhiều giống mới họ mới nhưng đáng tiếc là mỗi họ không có đặc điểm chẩn loại và
không có danh sách giống.

Năm 1928, O. Furrmann giới thiệu chung về hệ thống phân loại sán lá, trong đó tác

giả sắp xếp các giống và nêu lên đặc điểm các họ. Đây là công trình có giá trị nhưng
chỉ có thể xác định đến họ.

Năm 1929, E. C. Faust đã xây dựng hệ thống phân loại sán lá trên lý thuyết mới là
cấu tạo của cercaria trong chuyên khảo về giun sán ký sinh ở người. Ông đã thành
lập trên họ (Echinostomatoidea, Dicrocoelioidea, Opisthorchoidea…), tuy nhiên đó
mới chỉ là các nhóm sán lá ký sinh ở người.

Sau này nhiều công trình nghiên cứu về hệ thông phân loại sán lá đã được tiến hành
rộng hơn ở nhiều địa điểm trên toàn cầu. Hàng năm nhiều công trình được xuất bản,
mô tả nhiều loài mới giống mới và cả họ mới thuộc nhiều nước: Mỹ, Anh, Ấn Độ,
Thụy Sĩ, Brazin, Nhật Bản, Trung Quốc, Liên Xô (trước đây)…Đến năm 1937 đã
có 75 họ sán lá thuộc bộ Prosostomata.

Năm 1937, K. I. Skrjabin và Sschulz R. C. chia lớp sán lá – Trematoda thành 2
phân lớp: Monogenea Carus, 1863 và Digenea Carus 1863; chia phân lớp Digenea
14
thành 2 dưới phân lớp: Gasterostomatoinei (có 1 bộ duy nhất Gasterostomata
Odner 1905) và Prosostomatoinei gồm 2 trên bộ là Aspidogastriformes Skrjabin et
Schulz, 1937 (có 1 bộ duy nhất Aspidodastrata) và Fascioliformes Skrjabin el
Schulz, 1937 (gồm 10 bộ: Heronimata, Faustulata, Alcicornata, Sanguinicolata,
Strigeata, Notocotylata, Paramphistomata, Fasciolata, Schinostomatata,
Didymozoata). Các tác giả cũng cho rằng hệ thống phân loại này chưa hoàn chỉnh,
đặc biệt là bộ Fasciolata có số họ quá lớn và có nhiều đặc điểm cấu tạo khác nhau.

Năm 1947, K. I. Skrjabin đã xuất bản tập đầu tiên của bộ “Sán lá ở người và động
vật”. Đây là bộ sách quan trọng có giá trị lớn về khoa học phân loại sán lá một cách
có hệ thống. Tác giả đã sắp xếp lại toàn bộ phân loài, loài vào phân giống, giống,
phân họ, họ, phân bộ, bộ, phân lớp; có khóa định loại và đặc điểm chẩn loại cho
từng taxon từng loài đến phân lớp. Bộ sách chuyên khảo này bắt đầu xuất bản từ

năm 1947 và sau này tác giả cùng với học trò đã hoàn thành tập cuối cùng vào năm
1978, gồm 26 tập.

Năm 1956, B. Dawes đã ủng hộ quan điểm cũ của Furmann và Poche chia lớp sán
lá – Trematoda thành 3 bộ: Monogenea, Aspidogenea, Digenea.

Năm 1958, S. Yamaguti trong cuốn “Systema Helminthum” đã ủng hộ quan điểm
trên và cho rằng bộ Digenea gồm 2 phân bộ: Gasterostomata (có 1 họ Bucephalata)
và Prosostomata gồm hơn 100 họ.

Nhà giun sán học người Mỹ La Rue (1957) chia phân lớp Digenea trên quan điểm
về cấu tạo hệ bài tiết của cercaria làm 2 trên bộ: Epitheliocystidia (có 2 bộ) và
Anepitheliocystidia (có 3 bộ).

P. C. Schulz và Grozdev E. V, 1970 cho rằng hệ thống phân loại của La Rue có một
số bộ và phân bộ rất xa nhau trong cây chủng loại phát sinh. Ví dụ: phân bộ
Strigeata có 2 họ xa nhau là Strigeidae và Schistosomatidae.

Skrjabin và Guschanskaja (1962) đã phê phán hệ thống phân loại của La Rue là
hoàn toàn không quan tâm đến đặc điểm hình thái của sán lá trưởng thành cũng như
sinh thái và tính chuyên hóa hẹp đối với vật chủ. Năm 1962 – 1963, Skrjabin và
Guschanskaja đã thành lập phân lớp mới Bucephalididea (Syn. Trên bộ
Gasterostomatiformes Skrjabin và Schulz, 1937) và chia lớp Trematoda thành 3
phân lớp: Prosostomatidea Skrjabin et Guschanskaja, 1962 (bộ điển hình là
Fasciolida Skrjabin et Guschanskaja, 1962); Bucephalididea Skrjabin et
Guschanskaja, 1962 (1 bộ duy nhất Bucephalidida Odner, 1960) và
Aspidogastredidea Faust et Tang, 1936 (1 bộ duy nhất Aspidogastredida Skrjabin et
Guachanskaja, 1962).

Sau đó, ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu về phân loài sán lá đáng kể nhất

là các công trình của Sudarikov V. E (1959), Odening K. (1962), Schulz P. C. và
Gvozdev E. V.(1970), Panin V. A. (1984), Sey Otto (1983).

15
b) Tình hình nghiên cứu sán lá ký sinh ở Việt Nam

Những sán lá đầu tiên được tìm thấy ở động vật nhà do Bourger (1886) và Cattoin
(1888) tìm ra. Cả hai tác giả đều ngẫu nhiên tìm thấy hai loài sán lá: Fasciola
gigantica và Gastrothylax crumennifer ở gia súc Bắc Bộ. Sau đó Evans và Rennie
(1908) tìm thấy Fasciola hepatica ở Trung Bộ.

Năm 1892, A. Giard và A. Billet đã xuất bản công trình “Về một vài loài sán lá ký
sinh ở Bắc Bộ”. Các tác giả đã tìm thấy ở bò và trâu ở tỉnh Cao Bằng, các loài sán
Fasciola hepatica và hai loài mới Homalogaster poiireri (sau này được xếp là syn.
của loài H. Paloniae Poirier, 1882) và Distoma coelomaticum, sau này được xếp vào
giống Eurytrema. Cũng tác giả này (1897) tìm thấy loài Dicrocoelium pancreaticum
(= E. Pancreaticum) ở tuyến tụy của gia súc. Loài này phân bố rộng ở Bắc Bộ, Nam
Bộ, Lào và Campuchia.

Trong các công trình của A.Railliet và Gomy (1897), A. Railliet và G. Marotel
(1898) thông báo về các loài sán lá F. Hepatica và E. Pancreaticum tìm thấy ở gia
súc Nam Bộ và Bắc Bộ.

Năm 1905, L. Gaide tìm thấy hai loài sán lá Opisthorchis felineus và Clonorchis
sinensis ở người. Barrois và Noc (1908) tìm thấy loài sán lá Fasciolopsis buski ở
người Nam Bộ. Ở Bắc Bộ, loài này rất nguy hiểm đối với lợn hơn là với người.
Năm 1911, Mathis và Leger đã gặp loài F. Buski ở 6% lợn mổ ở Hà Nội. Các tác giả
này cũng tìm thấy loài Clonorchis sinensis ở chó mèo.

Năm 1911, A. Railliet và Henry xuất bản công trình về kết quả nghiên cứu giun sán

ở lợn trong hai năm do bác sỹ thú y Bauche tiến hành ở lò mổ của thành phố Huế.
Trong số 12 loài giun sán được tìm thấy ở lợn, chỉ có một loài sán lá F. buski. Theo
Brau và Bryant (1911, 1913) loài này tìm thấy ở 99 con lợn trong số 100 con lợn ở
lò mổ ngoại thành Sài Gòn. Ngoài ra các tác giả còn gặp loài Gastrodiscoides
hominis ở 5% lợn và cả người ở Nam Bộ.

Năm 1920, A. Railliet công bố công trình “Giun sán ở động vật và người ở Đông
Dương”. Tác giả thông báo về 40 loài sán lá, trong đó có 3 loài mới đối với khoa
học là Eurytrema rebelled tìm thấy ở chó Bắc Bộ, Prosthogominus furcifer,
Harmostomum annamensis ở gà nhà. Đa số là các loài gặp ở Bắc Bộ. Cùng năm, N.
Bernard, J. Badlet và R. Pons thông báo về 3 loài: C. sinensis, F. buski và
Gastrodiscoides hominis ở Nam Bộ.

Năm 1925, E. Houdemer xuất bản công trình “Kết quả nghiên cứu khu hệ giun sán
trong 3 năm ở động vật nhà và động vật hoang Bắc Bộ”. Tác giả đã tìm thấy 32 loài
giun sán, trong đó có 11 loài sán lá.

Năm 1928, C. Joyeus và E. Houdemer thông báo về số liệu 15 loài sán lá ở chim và
thú ở các nước Đông Nam Á, chủ yếu là ở Bắc Việt Nam.
16
Trong những năm 1930, xuất hiện một số công trình về sán lá ở người và động vật
Bắc Bộ, chủ yếu về loài sán lá gan nhỏ C. sinensis như công trình của J. Sautet
(1930) và E. Hodemer (1934), H. Galliard (1936), H. Galliard, Phan Huy Quát và
Đặng Văn Ngữ (1936), H. Galliard (1938).

Năm 1939, Lê Đức công bố 8 loài sán lá ở con voi chết ở Hà Nội (1910) và Huế
(1913). Trong những năm 1940, H. Galliard và Đặng Văn Ngữ đã công bố 4 loài
sán lá ở người và động vật Việt Nam và mô tả loài mới Eurytrema tokinensis ở
tuyến tụy của gia súc.


Sau khi giải phóng khỏi ách thực dân pháp, Việt Nam mới bắt đầu một giai đoạn
phát triển mới trong mọi lĩnh vưc: kinh tế, xã hội, khoa học. Đây là thời kỳ đào tạo
đội ngủ cán bộ ở mọi lĩnh vực, trong đó có khoa học về ký sinh trùng, giun sán học
phát triển nhằm nghiên cứu tìm biện pháp đấu tranh phòng chống các bệnh giun sán
ký sinh nguy hiểm ở người và động vật.

Cùng với sự hợp tác và giúp đở của các chuyên gia Liên Xô (cũ), Tiệp Khắc (cũ),
Ba Lan, cộng hòa dân chủ Đức (cũ), Hungari, cuối năm 1960 – 1961, đoàn điều tra
của viện Sinh học thổ nhưỡng – phân viện Viễn Đông Liên Xô đã tiến hành điều tra
trên 6000 cá thể động vật có xương sống ở Hải Phòng. Các tác giả đã công bố về
khu hệ sán lá ở chim và thú. Năm 1964, P. G. Oschmarin công bố 5 loài mới đối với
khoa học; P. G. Oschmarin, V. M. Alxeev và Z. B. Smetana, 1969 mô tả 2 loài mới.
Đáng chú ý nhất là các công trình về hệ thống phân loại các loài sán lá ở chim và
thú Việt Nam của P. G. Oschmarin và N. L.Demchin, 1972 đã công bố 115 loài sán
lá, trong đó có 25 loài mới đối với khoa học.

Cuối năm 1961 – 1962, đoàn điều tra hợp tác Việt – Xô do giáo sư A. A. Spasski, V.
E. Sudarikov, Đặng Văn Ngữ, Đào Văn Tiến và nhiều cán bộ khoa học từ nhiều cơ
quan tham gia điều tra ký sinh trùng ở 3 vùng: Trung du, đồng bằng và ven biển, đã
mổ khám 623 cá thể động vật. Các tác giả V. E. Sudarikov, A. V. Pavlov
(1966,1969) công bố về sán lá ký sinh ở chim và thú, trong đó có 2 loài mới đối với
khoa học; V. E. Sudarikov, A. V. Pavlov và Nguyễn Thị Lê (1971) công bố về các
loài sán lá họ Echinostomatidae ở chim miền Bắc Việt Nam, trong đó có mô tả một
loài mới Hypoderaeum halcyonae. Năm 1936, Trịnh Văn Thịnh xuất bản các tập
sách về ký sinh trùng thú y. Tác giả đã thống kê tổng kết quả nghiên cứu của thời kỳ
trước đó và đã bổ sung một số loài khác vào danh mục các loài sán lá ở động vật
Việt Nam.

Năm 1966, Bùi Lập đã công bố 32 loài giun sán ký sinh ở lợn nhà, trong đó có 8
loài sán lá. Năm 1962, đoàn điều tra động vật ký sinh trùng đã tiến hành điều tra ở

tất cả các tỉnh phía Bắc. Từ kết quả đó, Nguyễn Thị Lê, 1968 đã công bố 144 loài
sán lá ở chim và thú Viêt Nam, trong đó có 11 loài mới và 2 loài phụ đối với khoa
học. Tác giả đã xác định một số đặc điểm về khu hệ sán lá ở chim và thú Việt Nam.

×