Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

đánh giá hiệu quả của phân hữu cơ vi sinh bón cho cây lúa xuân trên đất phù sa sông hồng tại huyện tiên du, tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.89 MB, 109 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
***


PHẠM THỊ THANH HẰNG


ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA PHÂN HỮU CƠ VI SINH BÓN
CHO CÂY LÚA XUÂN TRÊN ĐẤT PHÙ SA SÔNG HỒNG
TẠI HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH




CHUYÊN NGÀNH: KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG
MÃ SỐ: 60.44.03.01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN XUÂN THÀNH





HÀ NỘI, NĂM 2015
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page i

LỜI CAM ĐOAN


*****
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu kết quả
nghiên cứu được nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kỳ một công trình khoa học nào khác. Các thông tin trích dẫn sử dụng
trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày .01 tháng .03 năm 2015
Tác giả


Phạm Thị Thanh Hằng



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp ngoài sự cố gắng của bản thân tôi
đã nhận được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của thầy cô, bạn bè
và người thân.
Trước tiên, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn
Xuân Thành đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài
và hoàn thành bản luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Môi trường, Học
viện Nông nghiệp Việt Nam, các cô chú, anh chị cán bộ công nhân viên trong
Công ty cổ phần Giống cây trồng Bắc Ninh, đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian thực hiện đề tài.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn sự giúp đỡ của gia đình và bạn bè, những

người luôn bên cạnh động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, thực hiện
bản luận văn này.
Hà Nội, ngày .01 tháng .03 năm 2015
Tác giả


Phạm Thị Thanh Hằng


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii

MỤC LỤC

Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các chữ viết tắt vi
Danh mục bảng biểu vii
Danh mục hình viii
MỞ ĐẦU 1
1 Tính cấp thiết của đề tài 1
2 Mục đích, yêu cầu của đề tài 1
Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1 Vai trò của phân bón đối với độ phì nhiêu đất và dinh dưỡng cây trồng 3
1.1.1 Vai trò của đạm đối với độ phì nhiêu đất và dinh dưỡng cây trồng 3
1.1.2 Vai trò của lân đối với độ phì nhiêu đất và dinh dưỡng cây trồng 4
1.1.3 Vai trò của kali đối với độ phì nhiêu đất và dinh dưỡng cây trồng 5
1.1.4 Cơ sở khoa học của phân bón vi sinh vật cải tạo đất và làm dinh dưỡng
cho cây trồng 7

1.2 Tình hình nghiên cứu ngoài nước 9
1.2.1 Kêt quả nghiên cứu sử dụng phân bón đối với độ phì nhiêu đất và dinh
dưỡng cây trồng 9
1.1.2 Kết quả nghiên cứu sử dụng phân đạm cho lúa 10
1.2.3 Kết quả nghiên cứu sử dụng phân lân cho lúa 10
1.2.4 Kết quả nghiên cứu sử dụng phân kali cho lúa 11
1.2.5 Kết quả nghiên cứu sử dụng phân hữu cơ vi sinh trên thế giới 11
1.3 Tình hình nghiên cứu trong nước 15
1.3.1 Kêt quả nghiên cứu sử dụng phân bón đối với độ phì nhiêu đất và dinh
dưỡng cây trồng 15
1.3.2 Kết quả nghiên cứu sử dụng phân đạm cho lúa 19
1.3.3 Kết quả nghiên cứu sử dụng phân lân cho lúa 20
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv

1.3.4 Kết quả nghiên cứu sử dụng phân kali cho lúa 21
1.3.5 Kết quả nghiên cứu sử dụng phân hữu cơ vi sinh trong nước 22
1.4 Kết quả nghiên cứu về hiệu quả của phân hữu cơ vi sinh vật bón cho cây
trồng trên đất phù sa Sông Hồng 27
1.4.1 Các loại phân bón vi sinh vật làm dinh dưỡng cho cây trồng đang được
sử dụng rộng rãi hiện nay 27
1.4.2 Hiệu quả của phân bón vi sinh vật bón cho cây lúa nước trên đất phù sa
sông Hồng 30
Chương 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 31
2.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 31
2.1.1 Đối tượng nghiên cứu 31
2.1.2 Phạm vi nghiên cứu 31
2.2 Nội dung nghiên cứu 31
2.2.1 Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và tình hình sản xuất lúa
của huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh 31

2.2.2 Đánh giá hiệu quả của phân hữu cơ vi sinh đối với sinh trưởng, phát triển
và năng suất của cây lúa nước vụ xuân năm 2014 31
2.2.3 Ảnh hưởng của phân bón vi sinh vật đến một số tính chất sinh hóa học
đất (phân tích so sánh trước và sau thí nghiệm) 32
2.2.4 Hiệu quả kinh tế và môi trường của phân hữu cơ vi sinh 32
2.2.5 Đề xuất bón phân hợp lý cho cây lúa nước trên đất phù sa sồng Hồng tại
huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh 32
2.3 Phương pháp nghiên cứu 32
2.3.1 Bố trí thí nghiệm 32
2.3.2 Chỉ tiêu sinh trưởng và năng suất lúa 33
2.3.3 Các chỉ tiêu vi sinh vật đất 35
2.3.4 Các chỉ tiêu hóa học đất 35
2.3.5 Xử lý số liệu thí nghiệm 36
2.3.6 Hiệu quả kinh tế 36
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v

Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 37
3.1 Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và tình hình sản xuất lúa
của huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh 37
3.1.1 Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh 37
3.1.2 Tình hình sản xuất lúa của huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh 54
3.2 Ảnh hưởng của phân hữu cơ vi sinh đến sinh trưởng cây lúa 58
3.2.1 Chất lượng của phân hữu cơ vi sinh bón cho cây lúa 58
3.2.2 Ảnh hưởng của phân hữu cơ vi sinh đến chiều cao cây lúa 59
3.2.3 Ảnh hưởng của phân HCVS đến tỷ lệ đẻ nhánh cây lúa 61
3.2.4 Ảnh hưởng của phân hữu cơ vi sinh đến tỷ lệ sâu bệnh 65
3.2.5 Ảnh hưởng của phân bón hữu cơ vi sinh đến các yếu tố cấu thành năng
suất và năng suất lúa 67
3.3 Ảnh hưởng của phân bón hữu cơ vi sinh đến tính chất sinh hóa học đất 70

3.3.1 Ảnh hưởng của phân HCVS đến tính chất nông hoá đất nghiên cứu 70
3.3.2 Ảnh hưởng của phân hữu cơ vi sinh đến chỉ tiêu sinh học đất 73
3.4 Hiệu quả kinh tế của phân bón hữu cơ vi sinh 75
3.5 Đánh giá chung về bón phân vi sinh vật cho đất trồng lúa nhằm tăng hiệu quả
kinh tế, giảm ô nhiễm môi trường đất tại huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh 78
3.6 Ý kiến đánh giá của người dân về phân hữu cơ vi sinh 79
3.7 Đề xuất giải pháp nhằm tăng hiệu quả sử dụng phân vi sinh, giảm ô
nhiễm môi trường đất tại huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh 80
3.7.1 Giải pháp về cơ chế chính sách 80
3.7.2 Giải pháp về khoa học công nghệ 81
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 82
Kết luận 82
Kiến nghị 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO 84
PHỤ LỤC 87

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ATTP : An toàn thực phẩm
CPTG : Chi phí trung gian
GDĐT : Giáo dục đào tạo
GTGT : Giá trị gia tăng
GTNT : Giao thông nông thôn
GTSX : Giá trị sản xuất
HCVSĐCN : Hữu cơ vi sinh đa chức năng
HTX : Hợp tác xã
HTKT : Hỗ trợ kinh tế

KH : Kế hoạch
NSLT : Năng suất lý thuyết
NSTT : Năng suất thực thu
VK : Vi khuẩn
VKTSHK :Vi khuẩn tổng số hảo khí
VKTSYK : Vi khuẩn tổng số yếm khí
VKCĐN : Vi khuẩn cố định đạm
VSV : Vi sinh vật
VSVCĐN : Vi sinh vất cố định đạm
TCVN : Tiêu chuẩn Việt Nam
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
TNHH : Thu nhập hỗn hợp
XKTS : Xạ khuẩn tổng số


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii

DANH MỤC BẢNG BIỂU

STT Tên bảng Trang

1.1 Tác dụng của phân vi sinh đến khả năng kháng bệnh ở khoai tây 28

1.2 Hiệu quả sử dụng phân vi sinh vật đối với một số cây trồng. 29

1.3 Hiệu quả phân hữu cơ tái chế đến sinh trưởng phát triển của lúa 30

3.1 Đặc điểm khí hậu thời tiết Huyện Tiên Du 39


3.2 Các nhóm đất chính của huyện Tiên Du 42

3.3 Diện tích, năng suất, sản lượng cây trồng năm 2014 huyện Tiên Du 49

3.4 Một số chỉ tiêu chăn nuôi của huyện Tiên Du 50

3.5 Diện tích, năng suất, sản lượng lúa gạo địa bàn huyện Tiên Du năm 2014 55

3.6 Đầu tư phân bón cho các loại cây trồng tại huyện Tiên Du năm 2014 57

3.7 Chất lượng của phân vi sinh vật 58

3.8 Ảnh hưởng của phân hữu cơ vi sinh đến chiều cao của lúa trên đất phù sa
sông Hồng huyện Tiên Du - Bắc Ninh 59

3.9 Ảnh hưởng của phân HCVS đến số dảnh lúa xuân trên đất phù sa sông
Hồng huyện Tiên Du - Bắc Ninh 63

3.10 Ảnh hưởng của phân HCVS đến tỷ lệ sâu bệnh đối với lúa xuân trên đất
phù sa sông Hồng huyện Tiên Du - Bắc Ninh 65

3.11 Ảnh hưởng của phân HCVS đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng
suất lúa xuân trên đất phù sa sông Hồng huyện Tiên Du - Bắc Ninh 67

3.12 Ảnh hưởng của phân HCVS đến tính chất hoá học đất phù sa sông Hồng
huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh 71

3.13 Ảnh hưởng của phân hữu cơ vi sinh đến chỉ tiêu vi sinh vật đất trên đất
phù sa sông Hồng huyện Tiên Du – Bắc Ninh 73


3.14 Hiệu quả kinh tế của phân HCVS đối với lúa xuân trên đất phù sa sông
Hồng huyện Tiên Du - Bắc Ninh 76

3.15 So sánh năng suất thực thu của các công thức thí nghiệm 77

3.16 Đánh giá của người dân về việc sử dụng phân hữu cơ vi sinh bón cho cây
trồng tại huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh 79


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page viii

DANH MỤC HÌNH


STT Tên hình Trang

3.1 Sơ đồ huyện Tiên Du – tỉnh Bắc Ninh 37

3.2 Ảnh hưởng của phân HCVS đến chiều cao lúa xuân trên đất phù sa sông
Hồng huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh 61

3.3 Ảnh hưởng của phân HCVS đến số dảnh lúa xuân trên đất phù sa sông
Hồng huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh 64

3.4 Ảnh hưởng của phân HCVS đến năng suất thực thu lúa xuân trên đất phù
sa sông Hồng huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh 70




Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Lúa là cây lương thực đóng vai trò quan trọng trong nền nông nghiệp nước
ta. Sự gia tăng sản lượng cũng như năng suất cây trồng thường đi đôi với lượng
phân bón sử dụng. Nếu sử dụng không hợp lý lượng phân bón, đặc biệt là phân
hóa học và thuốc bảo vệ thực vật sẽ gây lãng phí và làm cho môi trường thêm ô
nhiễm. Chính vì thế ngày càng có nhiều nghiên cứu và tìm kiếm nguồn phân bón
sinh học để thay thế dần phân hóa học, trong đó có phân hữu cơ vi sinh.
Phân hữu cơ vi sinh là loại phân sinh học có chứa các chủng vi sinh vật
với hoạt tính cao, khi bón chúng vào đất có tác dụng bổ sung vi sinh vật hữu ích
trong đất, làm giàu cho đất những chất dinh dưỡng có giá trị tự làm nguồn thức
ăn cho cây trồng. Phân hữu cơ vi sinh có tác dụng nâng cao năng suất và chất
lượng nông sản, góp phần tạo cân bằng sinh thái, có ý nghĩa quan trọng trong
việc bảo vệ môi trường và xây dựng nền nông nghiệp sạch, bền vững.
Bắc Ninh là tỉnh nằm trong vùng châu thổ Sông Hồng thuộc khu vực đồng
bằng Bắc Bộ. Tiên Du là huyện nằm ở phía Bắc tỉnh Bắc Ninh, cách trung tâm
tỉnh 5km về phía Nam, cách thủ đô Hà Nội 25km về phía Bắc, địa hình bằng
phẳng có khả năng phát triển thâm canh lúa.
Để đánh giá năng suất và hiệu quả kinh tế, cải tạo đất, được sự giúp đỡ
của PGS.TS Nguyễn Xuân Thành, bộ môn Vi sinh vật, khoa Môi trường, Học
viện Nông Nghiệp Việt Nam, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá
hiệu quả của phân hữu cơ vi sinh bón cho cây lúa xuân trên đất phù sa sông
Hồng tại huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh”.
2. Mục đích, yêu cầu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu

- Đánh giá hiệu quả của phân hữu cơ vi sinh đến sinh trưởng phát triển,
năng suất lúa và khả năng thay thế phân hóa học của loại phân này bón cho cây
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2

lúa nước trên đất phù sa sông Hồng huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
- Đề xuất công thức bón phân hợp lý cho cây lúa nước nhằm tăng hiệu
quả kinh tế và giảm thiểu ô nhiễm môi trường tại huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
2.2. Yêu cầu của đề tài
- Triển khai thí nghiệm đồng ruộng với các công thức khác nhau: phân
hoá học, phân hữu cơ vi sinh đa chức năng, phân hữu cơ vi sinh Sông Gianh bón
cho cây lúa nước giống Q5 vụ xuân năm 2014.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế và môi trường của phân hữu cơ vi sinh trên
đất phù sa sông Hồng huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.





Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Vai trò của phân bón đối với độ phì nhiêu đất và dinh dưỡng cây trồng
1.1.1. Vai trò của đạm đối với độ phì nhiêu đất và dinh dưỡng cây trồng
Đạm là chất dinh dưỡng cần thiết và rất quan trọng đối với cây. Đạm là
yếu tố tham gia vào thành phần chính của clorophin, prôtit, các axit amin, các
enzim và nhiều loại vitamin trong cây, làm cho cây ra nhiều nhánh phân cành, ra
lá nhiều, lá cây có kích thước to, màu xanh, lá quang hợp mạnh, do đó làm tăng

năng suất cây. Phân đạm cần cho cây trong suốt quá trình sinh trưởng, đặc biệt
là giai đoạn sinh trưởng mạnh.
Đối với cây lúa thì đạm lại càng quan trọng hơn, nó có tác dụng trong
công việc hình thành bộ rễ, thúc đẩy nhanh quá trình đẻ nhánh và sự phát
triển của lá lúa dẫn đến làm tăng năng suất lúa. Các bộ phận khác nhau, giai
đoạn sinh trưởng khác nhau thì có hàm lượng đạm không giống nhau. Trong
thực tế cây lúa cần nhiều đạm trong thời kỳ đầu. Ở thời kỳ đầu đẻ nhánh
(nhất là khi đẻ nhánh rộ), cây lúa hút nhiều đạm nhất. Thông thường lúa hút
70% lượng đạm cần thiết trong thời gian đẻ nhánh, quyết định tới 74% năng
suất (Bùi Huy Đáp, 1980; Yoshida, 1985; Đào Thế Tuấn,1970). Phân tích các
bộ phận non của cây người ta thấy trong các bộ phận non hàm lượng đạm
nhiều hơn ở các bộ phận già. Hàm lượng đạm trong các mô non từ 5,5-6,5%.
Khi sử dụng đạm để nâng cao diện tích lá cần phải căn cứ vào đặc tính của
từng giống, độ màu mỡ đất và mật độ gieo cấy. Đối với mỗi giống lúa có một
giá trị diện tích lá tốt nhất, đạt được hệ số đó sẽ đảm bảo sản lượng chất khô
và sản lượng kinh tế cao. Lúa cũng cần nhiều đạm trong thời kỳ phân hóa
đòng và phát triển đòng thành bông, tạo các bộ phận sinh sản. Giai đoạn này
lúa hút 10-15% lượng đạm. Phần đạm còn lại được lúa hút tiếp tới lúc chín.
Cung cấp đạm lúc cây trưởng thành là điều kiện cân thiết để làm chậm quá
trình già hóa của lúa, duy trì cường độ quang hợp khi hình thành hạt chắc và
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4

tăng trưởng protein tích lũy vào hạt.
Tiềm năng năng suất các giống lúa chỉ thể hiện khi được bón đủ phân. Bón
thiếu đạm thì cây lúa sẽ thấp, đẻ nhánh kém, phiến lá nhỏ, hàm lượng diệp lục
giảm, lúc đầu lá có màu vàng nhạt ở ngọn lá rồi dần cả phiến lá biến thành màu
vàng do đó làm cho số bông và số hạt ít, lúa trỗ sớm, năng suất bị giảm. Còn nếu
bón thừa đạm cây lúa sẽ hút nhiều đạm làm tăng hô hấp, tăng lượng gluxit tiêu
hao, lá to và dài, phiến lá mỏng, nhánh đẻ vô hiệu nhiều, lúa trỗ muộn, cây cao

vóng dẫn đến hiện tượng đổ non, khả năng chống chịu kém và sẽ làm giảm năng
suất một cách rõ rệt.
1.1.2. Vai trò của lân đối với độ phì nhiêu đất và dinh dưỡng cây trồng
Lân là thành phần chủ yếu của axit nucleic, là thành phần chủ yếu của nhân
tế bào. Cây lúa hút lân mạnh hơn so với các loại cây trồng cạn. Cùng với đạm,
lân xúc tiến sự phát triển của bộ rễ và tăng số nhánh đẻ, đồng thời cũng làm cho
lúa trỗ bông và chín sớm. Thời kỳ đẻ nhánh và làm đòng cây lúa hút lân mạnh
nhất. Lúa thiếu lân, lá có màu xanh đậm, bản lá nhỏ, hẹp, lá dài ra và mềm yếu,
rìa mép lá có màu vàng tía, lúa đẻ ít, thời kỳ trỗ bông và chín đều chậm lại và
kéo dài. Do trỗ bông muộn nên hạt lép nhiều độ dinh dưỡng hạt gạo thấp. Đặc
biệt, lúa thiếu lân ở thời kỳ làm đòng thì giảm năng suất một cách rõ rệt.
Sự thiếu lân xảy ra phổ biến ở đất có pH thấp hay cao: Đất axít latosol, đất
phèn, đất đá vôi, đất kiềm. Đất ando có khả năng cố định cao phân bón, cần
lượng lân nhiều hơn bình thường.
Khi cây lúa được cung cấp lân thỏa đáng sẽ tạo điều kiện cho bộ rễ phát
triển tốt, tăng khả năng chống hạn, tạo điều kiện sinh trưởng và phát triển, thúc
đẩy sự chín của hạt và cuối cùng là tăng năng suất lúa.
Khi nghiên cứu hiệu ứng của photphorit bón cho lúa ở miền Bắc Việt Nam,
Lê Văn Căn (1964) cho rằng: Cây lúa hút lân ở thời kỳ đầu chủ yếu đáp ứng cho
quá trình sinh trưởng sinh dưỡng, đặc biệt là quá trình đẻ nhánh. Tương tự kết
luận của Lê Văn Căn (1964), Suichi Yoskida (1985) cho rằng hiệu suất của lân
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5

đối với hạt ở giai đoạn đầu cao hơn giai đoạn cuối, việc bón phân lân đáp ứng
được giai đoạn đầu của lúa.
Nghiên cứu của Hà Thị Thanh Bình và cs (2010) về ảnh hưởng của kỹ
thuật bón lân đến sinh trưởng, năng suất lúa mùa trên nền đất vùi rơm rạ cho kết
luận sau: bón phân lân sớm trước khi cấy 10 ngày, ruộng lúa sinh trưởng tốt hơn
và cho năng suất cao hơn so với trường hợp bón ngay khi cấy. Trên đất phù sa

sông Hồng không được bồi hàng năm nên cày vùi rơm rạ vụ xuân làm phân hữu
cơ bón cho vụ mùa kết hợp với bón lân sớm trước 10 ngày.
Dinh dưỡng lân có liên quan mật thiết với dinh dưỡng đạm. Nếu bón đủ lân
sẽ làm tăng khả năng hút đạm và các chất dinh dưỡng khác. Cây được bón cân đối
N, P sẽ xanh tốt, phát triển mạnh, chín sớm, cho năng suất cao và phẩm chất tốt.
Như vậy muốn cho cây lúa sinh trưởng và phát triển, năng suất cao thì
không những cần cung cấp đầy đủ đạm mà còn cần cung cấp đầy đủ cả lân cho
cây lúa.
1.1.3. Vai trò của kali đối với độ phì nhiêu đất và dinh dưỡng cây trồng
Kali là một trong ba yếu tố dinh dưỡng quan trọng nhất đối với cây lúa, lúa
hút kali nhiều nhất sau đó mới tới đạm. Để thu được 1 tấn thóc cây lúa lấy đi 22-
26kg K
2
O, tương đương 36,74 - 43,42kg KCl (loại phân chứa 60% KCl).
Theo Phạm Văn Cường (2008), Kali giữ vai trò quan trọng trong việc
vận chuyển và tích lũy sản phẩm quang hợp, đặc biệt là Gluxit từ thân, lá về
bông, hạt. Ngoài ra Kali còn có tác dụng kéo dài tuổi thọ lá ở giai đoạn trỗ,
từ đó ảnh hưởng tới quang hợp.
Nhu cầu Kali của cây lúa rõ nhất ở hai thời kỳ đẻ nhánh và làm đòng. Tuy
nhiên lúa hút Kali mạnh nhất ở thời kỳ làm đòng, từ cuối đẻ nhánh đến trỗ.
Ngoài ra Kali còn làm cho sự di động sắt (Fe) trong cây được tốt hơn do đó ảnh
hưởng gián tiếp đến quá trình hô hấp. Kali cũng rất cần cho sự tổng hợp Protit,
quan hệ mật thiết tới sự phân chia tế bào.
Theo Đinh Dĩnh (1970) thì tỷ lệ Kali cây hút trong các thời kỳ sinh trưởng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6

tùy thuộc vào giống và giai đoạn sinh trưởng của cây lúa: Từ giai đoạn cấy- đẻ
nhánh (20-21,9%); phân hóa đòng- trỗ (51,8- 61,9%); vào chắc- chín (16,2-
27,7%) . Yoshida (1985), Đào Thế Tuấn (1970) cho biết rằng chỉ khoảng 20%

số Kali cây hút được vận chuyển về bông, số còn lại nằm trong các bộ phận khác
của cây.
Nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ nước tưới đến diễn biến kali trong
đất, nước và cây, Ngô Thanh Sơn và cs (2010) kết luận: Hàm lượng kali
trong nước giai đoạn đẻ nhánh là cao nhất do sau quá trình bón lót, phân kali
tan hoàn toàn trong nước và trong giai đoạn này, cây còn nhỏ nên chưa sử
dụng nhiều kali cho quá trình sinh trưởng và phát triển. Các giai đoạn tiếp
theo, từ đẻ nhánh đến trỗ, diễn biến kali trong nước có xu hướng giảm dần
theo thời gian, giai đoạn làm đòng, nhu cầu và sự hấp thụ dinh dưỡng của
lúa trong đó có kali là mạnh nhất. Do vậy, nếu bón kali quá nhiều trong giai
đoạn đẻ nhánh sẽ làm giảm hiệu quả của phân kali.
Đinh Thế Lộc và Vũ Văn Liết (2004) thì cho rằng: Kali không phải là chất
tạo thành bất kỳ một chất hữu cơ nào của cây lúa, nhưng nó rất quan trọng cho
hơn 40 Enzym hoạt động. Kali đóng vai trò trong hoạt động sinh lý của cây như
đóng mở khí khổng, tăng khả năng chống chịu với điều kiện ngoại cảnh bất
thuận, tăng khả năng chống chịu bệnh và giúp lúa đẻ nhánh thuận lợi, tăng kính
thước hạt, tăng khối lượng hạt. Thiếu Kali cây lúa sẽ còi cọc, đẻ nhánh kém hơn,
lá ngắn và có màu xanh tối, bông nhỏ và dài .
Sự thiếu Kali xảy ra có giới hạn ở lúa đất thấp. Mặt khác cũng xảy ra trên
đất thoát nước kém, một phần do những chất độc được tạo ra trong đất khử cao
làm chậm sự hấp thụ Kali và và một phần vì Kali trong đất ít được giải phóng ở
điều kiện thoát nước kém.
Đối với chất lượng hạt lúa, nếu thiếu Kali hạt giống sẽ không bình thường,
dị dạng cao, phôi và rìa hạt bị đen, tỷ lệ nảy mầm của hạt kém, sức sống của hạt
giảm nhanh trong quá trình bảo quản.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7

Theo Suichi Yoshida (1985) , đất trũng ít Kali, hàm lượng Kali thấp hoặc
thiếu Kali thường đi với ngộ độc sắt. Thường trong đất đỏ, chua phèn, trên đất

kém thoát nước cũng thiếu Kali do trong các chất độc sinh ra có chất độc tính
khử cao đã ngăn cản việc hút Kali và một phần Kali bị giữ trong đất bởi keo đất.
Theo Nguyễn Vy (1995) , với các giống lúa hiện nay, tỷ lệ hạt chắc tăng lên từ
30-57% do bón Kali và trọng lượng hạt cũng tăng từ 12-30%. Sau khi lúa trỗ thì
lúa thuần hút Kali rất ít.
1.1.4. Cơ sở khoa học của phân bón vi sinh vật cải tạo đất và làm dinh
dưỡng cho cây trồng
Theo TCVN năm 1996 (TCVN6169-1996) định nghĩa: Phân vi sinh vật là
sản phẩm chứa các vi sinh vật sống, đã được tuyển chọn có mật độ phù hợp với
tiêu chuẩn ban hành, thông qua các hoạt động sống của chúng tạo nên các chất
dinh dưỡng mà cây trồng có thể sử dụng được (N, P, K, S, Fe ) hay các hoạt
chất sinh học, góp phần nâng cao năng suất và chất lượng nông sản. Phân vi sinh
vật phải đảm bảo không gây ảnh hưởng xấu đến ngư, động thực vật, môi trường
sinh thái và chất lượng nông sản.
Phân bón vi sinh vật là loại phân bón có ít nhất một loại vi sinh vật có ích
(theo Thông tư số 41/2014/TT-BNNPTNT)
Phân vi sinh vật có chứa các chủng vi sinh vật với hoạt tính cao, khi bón
chúng vào đất có tác dụng bổ sung vi sinh vật hữu ích trong đất, làm giàu cho
đất những chất dinh dưỡng có giá trị tự làm nguồn thức ăn cho cây trồng. Ở các
nước có nền nông nghiệp tiên tiến, quan tâm đến việc bảo vệ môi sinh trái đất,
phát triển nền nông nghiệp bền vững thì việc sản xuất và sử dụng các loại phân
bón vi sinh vật được đặc biệt qua tâm.
Trong đất, đặc biệt là vùng rễ cây trồng có nhiều vi sinh vật, hoạt động của
vi sinh vật ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của cây trồng ở cả hai mặt, có lợi và
có hại. Vì vậy từ lâu người ta đã nghĩ đến tác động vào hoạt động của vi sinh vật
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8

trong đất, tăng cường số lượng và hoạt động của vi sinh vật có lợi, hạn chế số
lượng và hoạt động của vi sinh vật có hại cho cây trồng.

Hiệu lực của xử lý vi khuẩn nốt sần thay đổi rất nhiều từ không có hiệu lực
đến có hiệu lực rất cao, làm tăng từ 30-50% năng suất. Rhizobium là một chi vi
khuẩn Gram âm sống trong đất có vai trò cố định đạm. Vi khuẩn này xâm chiếm
tế bào rễ của cây taọ thành các nốt rễ, ở đây chúng biến đổi nito trong khí quyển
thành ammoniac và sau đó cung cấp các hợp chất nito hữu cơ như glutamin hoặc
ureide cho cây.
Trong đất còn có các loại vi sinh vật sống tự do có thể cố định được N
trong đất, có hai nhóm vi sinh vật: vi sinh vật yếm khí Clostridium
Pasteurianum, Clostridium butylicum, Clostridium acrtobutylium; vi sinh hảo
khí: Azotobacter Chroococum, Azotobacter agile, Azotobacter vinelandi.
Vi sinh vật phân giải lân là tập hợp các vi sinh vật có khả năng chuyển hoá
hợp chất photpho khó tiêu thành dễ tiêu đối với cây trồng. Các loài vi sinh vật
phân giải lân có thể kể đến: Pseudomonas, Flavo bacterium, Bacillus, Fusarium,
Penicillium, Aspergilus … thông qua các hoạt động sống của chúng tạo ra các
chất có thể hoà tan photpho.
Sử dụng phân hữu cơ vi sinh đã có những đóng góp nhất định để giải quyết
vấn đề bón phân tổng hợp cân đối cho cây trồng, tiến tới nền nông nghiệp ổn
định và bền vững và chắc chắn rằng sẽ đưa ra nhiều tiến bộ kỹ thuật có hiệu quả
sử dụng trong nhiều năm tới.
Phân hữu cơ vi sinh là sản phẩm sinh học có tác dụng nâng cao năng suất
và chất lượng nông sản, giảm chi phí, tiết kiệm phân bón vô cơ và góp phần tạo
cân bằng sinh thái. Phân bón hữu cơ vi sinh có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo
vệ môi trường và xây dựng nền nông nghiệp sạch, bền vững, do vậy nghiên cứu
sử dụng phân bón hữu cơ vi sinh trong nông nghiệp đã và đang được nhiều nước
trên thế giới quan tâm phát triển.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9

1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước

1.2.1. Kêt quả nghiên cứu sử dụng phân bón đối với độ phì nhiêu đất và
dinh dưỡng cây trồng
Tại hội nghị phân bón quốc tế tháng 5 năm 1957 ở Maxcova, Davidesk
(Rumania) nói: “Căn bản của nông nghiệp là độ phì nhiêu của đất và căn bản
của độ phì nhiêu của đất là phân bón. Kinh nghiệm 26 năm nghiên cứu của Viện
KHNN Rumania đã chứng minh là không còn cách nào hiệu lực hơn để nâng
cao năng suất bằng cách dùng phân bón”.
Nhờ kỹ thuật canh tác cải tiến trong đó chủ yếu là nhờ tăng cường sử
dụng phân bón mà trong hai thập kỷ, tổng sản lượng lương thực của toàn
Châu Âu tăng gấp 3 lần.
Hiệp hội phân bón quốc tế (IFA) đã tiến hành nghiên cứu tại các nước phát
triển trong những năm 1970 và chỉ rõ, nếu không sử dụng phân bón thì sản
lượng lương thực ở các nước này chắc chắn sẽ giảm từ 40–50%. Viện quốc tế
(IRRI) uỷ ban lúa gạo quốc tế (IRC), viện nghiên cứu Nông hoá Mỹ đã khẳng
định: gần 50% năng suất là do tác động của phân bón còn hơn 50% kia là do các
yếu tố khác như thuốc trừ sâu bệnh, bộ giống mới, thuỷ lợi …
Theo Puri (1991) ở khu vực Châu á thái Bình Dương, từ năm 1979–1989
sản lượng ngũ cốc tăng, trong đó 75% là do sử dụng phân bón.
Tại ấn Độ phân bón đã góp phần quan trọng trong việc tăng tổng sản lượng
ngũ cốc của nước này từ 1% năm 1950 lên tới 58% năm 1995. Theo đánh giá
của M.Velayutham, mức đóng góp vào sản lượng lương thực gia tăng của phân
bón là 60%. Như vậy phân bón có vai trò quan trọng đối với độ phì nhiêu đất và
dinh dưỡng cây trồng.
Lúa gạo là một loại ngũ cốc được sử dụng phổ biến trên toàn thế giới. Cây
lúa có nhu cầu phân bón khá cao, song vấn đề sử dụng phân bón phải cân đối, hợp
lý mới đáp ứng sinh trưởng, phát triển của cây và cho năng suất cao, ổn định.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10

1.1.2. Kết quả nghiên cứu sử dụng phân đạm cho lúa

Đạm đóng vai trò quan trọng đối với các loại cây trồng, đặc biệt đối với lúa,
đạm có tính chất quyết định tới năng suất của cây. Nhiều nhà khoa học trên thế
giới đã nghiên cứu cho thấy: nhu cầu đạm của cây lúa có tính chất liên tục từ
đầu thời kỳ sinh trưởng cho tới lúc chín.
Theo S.Yoshida (1985), lượng đạm cây hút ở thời kỳ đẻ nhánh quyết định
tới 74% năng suất. Bón nhiều đạm cây lúa đẻ nhánh khoẻ và tập trung, tăng số
bông/m
2
, số hạt/bông, nhưng làm trọng lượng nghìn hạt ít thay đổi.
Theo Coooke (1975), Dillay (1988), năng suất của các giống lúa tăng dần
theo lượng đạm bón. Trên đất có hàm lượng nitơ tổng số và nitơ trung bình, nếu
bón 100-150 kg N/ ha có thể tăng năng suất từ 10,34 lên 38,92 tạ/ ha.
Ngoài nhu cầu về đạm, lân cũng đóng vai trò quan trọng đối với sinh
trưởng và phát triển của cây lúa.
1.2.3. Kết quả nghiên cứu sử dụng phân lân cho lúa
Theo Hog (1985), khi cây lúa được cung cấp lân thoả đáng tạo điều kiện
cho bộ rễ phát triển tốt, tăng khả năng chống chịu điều kiện bất thuận, tạo điều
kiện cho cây sinh trưởng, phát triển, thúc đẩy sự chín của hạt và cuối cùng là
tăng năng suất lúa.
Theo Yoshida và Hayakawa 1970, phân lân rất cần cho cây lúa vào giai
đoạn đầu của sự phát triển. Thiếu lân cây sẽ còi cọc, sự trao đổi đạm kém, đặc
biệt là bộ rễ kém phát triển. Hiệu suất của lân ở giai đoạn đầu cao hơn giai đoạn
cuối và sản lượng lân hút ở giai đoạn đầu chủ yếu đáp ứng cho quá trình phát
triển dinh dưỡng đặc biệt là quá trình đẻ nhánh. Do vậy phải chú ý bón lân sớm
ở giai đoạn đầu cho lúa.
Ở Ấn Độ bón phân lân với mức 60 kg P
2
0
5
/ha có thể tăng năng suất lúa lên

trung bình 0,5-0,75 tấn thóc/ha. Ở Đài Loan theo Lian (1989) với mức khoảng
50-60 kg P
2
0
5
/ha cho hiệu suất cao nhất.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11

1.2.4. Kết quả nghiên cứu sử dụng phân kali cho lúa
Kali cũng có vai trò không kém phần quan trọng đối với sinh trưởng của
cây lúa. Kali ảnh hưởng tới khả năng quang hợp của cây trong thời kỳ làm đòng,
nếu thiếu Kali sẽ làm cho dé bông thoái hoá nhiều, số hạt ít, trọng lượng nghìn
hạt giảm, hạt lép, phẩm chất gạo giảm sút.
Kết quả của trại nghiên cứu Cuban (Liên xô cũ) cho biết để thu được 4 tấn
thóc/ha cần bón 30-45 kg K
2
0 trung bình là 44 kg K
2
0 /ha.
Tuy nhiên việc sử dụng phân hoá học liên tục mất cân đối sẽ dần tới suy
thoái đất, ô nhiễm môi trường, giảm chất lượng nông sản, ảnh hưởng tới sức
khoẻ con người, do đó cùng với việc sử dụng phân khoáng, nhất thiết phải kết
hợp với việc duy trì hàm lượng hưu cơ trong đất.
1.2.5. Kết quả nghiên cứu sử dụng phân hữu cơ vi sinh trên thế giới
Ấn Độ hàng năm sản xuất khoảng 286 triệu tấn phân ủ (compost) từ các
chất thải nông thôn và thành phố, bình quân bón 2 tạ/ha/năm. Ước tính tương
đương 3,5-4,0 triệu tấn NPK.
Trung Quốc sử dụng phân hữu cơ từ các nguồn phân chuồng, rơm rạ, phân
xanh, khô dầu. Ước tính tương đương 9,8 triệu tấn NPK nguyên chất. Phân sinh

học sử dụng cho 1 ha tương đương 65 kg (N + P
2
0
5
+ K
2
0).
Cả hai nước lớn Trung Quốc và ấn Độ có truyền thống sử dụng phân sinh
học, sau nhiều năm gần đây cũng rút ra kết luận: Dinh dưỡng từ phân hữu cơ
không đáp ứng đủ nhu cầu cho cây trồng đạt năng suất cao, mà phải dùng phân
hoá học bổ sung với số lượng lớn.
Kinh nghiệm trên thế giới cũng như ở nước ta trong những năm gần đây
cho thấy nếu chỉ sử dụng các loại phân sinh học (phân chuồng, phân xanh,
phân vi sinh…) thì không thể nâng cao nhanh chóng năng suất và tổng sản
lượng cây trồng. Nhưng nếu chỉ sử dụng phân hoá học thì năng suất cây trồng
tăng đến giới hạn nhất định, nếu sử dụng không đúng lại gây ô nhiễm môi
trường. Vì vậy khái niệm “quản lý tổng hợp dinh dưỡng cây trồng” ra đời để
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12

duy trì và nâng cao độ phì nhiêu đất, nâng cao năng suất một cách ổn định và
an toàn môi trường.
Năm 1929, phân vi khuẩn nốt sần đã được áp dụng ở Liên Xô cũ với diện
tích xử lý đạt 20 vạn ha, năm 1937 tăng lên 78 vạn ha. Năm 1949 hơn 1 triệu ha
và sau đó diện tích ngày càng rộng hơn.
Từ những năm 50 của thế kỷ XX, các chế phẩm vi sinh vật đã được sử dụng
khá rộng rãi trên thế giới và ngày càng phát triển về số lượng và chủng loại.
Theo giáo sư Hamotova (Tiệp Khắc cũ), bón phân vi khuẩn nốt sần cho cây đậu
tương có tác dụng làm tăng năng suất hạt 30-45% so với không bón.
Theo giáo sư Musustin (Liên Xô cũ), bón phân vi sinh vật có tác dụng làm

tăng năng suất cây trồng từ 20-25%, làm giảm tỷ lệ sâu bệnh từ 45-46% xuống
14-15% so với bón phân hoá học.
Năm 1949–1953, I.Ixamolovit sử dụng phân vi khuẩn phân giải lân, làm
160 thí nghiệm trên đất potzon đồng cỏ và đất sacmozem đối với ngô, lúa mì,
kê, đại mạch… kết quả bình quân tăng năng suất có thể gần 10%.
Nivicover A.T đã làm 130 thí nghiệm với phân vi khuẩn phân giải lân từ
1952–1961 cho kết quả bình quân tăng năng suất khi có nhiều vi khuẩn là lúa mì
đông tăng 10%, lúa mì xuân 13%, ngô 9% và khoai tây 9,5%. Mixutin đã tiến
hành 50 thí nghiệm vi khuẩn phân giải lân hữu cơ đối với cây họ hoà thảo: Các
loại lúa mì tăng 5,8%, các loại rau tăng 11,9%.
Ở các nước có nền nông nghiệp tiên tiến, quan tâm đến việc bảo vệ môi
sinh trái đất, phát triển nền nông nghiệp bền vững thì việc sản xuất và sử dụng
các loại phân bón vi sinh vật được đặc biệt qua tâm.
Các kết quả nghiên cứu từ các nước Mỹ, Canada, ấn Độ, Nga, Thái Lan,
Trung Quốc, Nhật Bản… cho thấy sử dụng phân bón hữu cơ vi sinh vật có thể
cung cấp cho đất và cây trồng từ 30-60 kg N/ha/năm hoặc thay thế 1/2 đến 1/3
lượng lân vô cơ bằng quặng phốt phát. Ngoài ra thông qua các hoạt động sống
của vi sinh vật, cây trồng được nâng cao khả năng trao đổi chất, khả năng chống
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13

chịu sâu bệnh và qua đó góp phần nâng cao năng suất và chất lượng nông sản.
Trong đất, đặc biệt là vùng rễ cây trồng có nhiều vi sinh vật, hoạt động của
vi sinh vật ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của cây trồng ở cả hai mặt, có lợi và
có hại. Vì vậy từ lâu người ta đã nghĩ đến tác động vào hoạt động của vi sinh vật
trong đất, tăng cường số lượng và hoạt động của vi sinh vật có lợi, hạn chế số
lượng và hoạt động của vi sinh vật có hại cho cây trồng.
Hiệu lực của xử lý vi khuẩn nốt sần thay đổi rất nhiều từ không có hiệu lực
đến có hiệu lực rất cao, làm tăng từ 30-50% năng suất. Trong đất còn có các loại
vi sinh vật sống tự do có thể cố định được N trong đất, có hai nhóm vi sinh vật:

vi sinh vật yếm khí Clostridium Pasteurianum, Clostridium butylicum,
Clostridium acrtobutylium; vi sinh hảo khí: Azotobacter Chroococum,
Azotobacter agile, Azotobacter vinelandi.
Ngoài ra người ta còn thấy vi khuẩn lam sống trong ruộng lúa cũng có khả
năng cố định đạm. Có tất cả 1400 loài vi khuẩn lam, trong đó có rất nhiều loài có
khả năng cố định đạm. Năm 1938, Frith tìm hiểu nguyên nhân tại sao trong vùng
đất chuyên trồng lúa nhiều năm không bón phân ở ấn Độ mà cây lúa vẫn phát triển
cho thu hoạch tốt. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong đất ruộng ở đây đã tích luỹ
được một lượng đạm đáng kể do các vi tảo tổng hợp. Trong những số vi khuẩn lam
phân lập được có hai chủng thuộc chi Anabaena có khả năng cố định nitơ tốt.
Trong những thập kỷ gần đây, nghiên cứu về sự cố định nitơ của vi khuẩn
lam được tăng lên nhanh chóng và mở rộng trên nhiều địa bàn khác nhau. Việc
sử dụng vi khuẩn lam cố định nitơ làm nguồn phân bón cho ruộng lúa cũng như
các hoạt động trong việc cố định nitơ trong các địa phương, lãnh thổ khác nhau
đã giành được sự chú ý của các nhà khoa học, đặc biệt ở các nước trồng lúa
Châu á như Nhật Bản, ấn Độ, Trung Quốc và nhiều nước khác trên thế giới.
Nhật Bản đã sớm điều tra phân lập các loài vi khuẩn lam để nhiễm trở lại
ruộng lúa. Kết quả cho thấy đã tăng năng suất ở các điểm nghiên cứu từ 2,7-28%
sau 4 năm. Theo tính toán này thì lây nhiễm vi khuẩn lam cố định đạm có thể
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14

thay thế cho 60 kg đạm sunphat/1ha.
Ở Ai Cập lây nhiễm vi khuẩn lam cố định đạm tự do làm tăng năng suất lúa
từ 20-30%, ởTrung Quốc tăng 10-20% trên diện rộng.
Bằng việc lây nhiễm vi khuẩn lam cố định đạm tự do vào ruộng lúa tại viện
nghiên cứu lúa quốc tế IRRI cho thấy vi khuẩn lam đã cố định nitơ tự do khoảng
40-48 kg N/1ha.
Ngoài việc nâng cao hàm lượng nitơ trong đất trồng lúa có lây nhiễm vi
khuẩn lam, người ta còn thấy vi khuẩn lam cố định đạm tự do còn sản sinh ra

những hoạt tính sinh học trong quá trình sống của chúng. Tại viện lúa Tatsken
tiến hành gieo những hạt lúa đã qua xử lý bằng dịch nuôi vi khuẩn lam cố định
đạm cho thấy năng suất lúa hơn đối chứng 13,8 kg và thấy cây lúa đã xử lý hạt
trước khi gieo đẻ nhánh nhiều hơn, chín sớm 5-6 ngày và hạt lép ít.
Ở Băngkok năm 1983, một nhà khoa học đã công bố kết quả phân lập được
một loài Anabaena sp có khả năng cố định nitơ và đưa vi khuẩn này vào ruộng
lúa đã đẩy năng suất lúa tăng lên 48-80% so với ruộng đối chứng, ngoài ra hàm
lượng lizin trong hạt lúa cũng tăng cao hơn ở ruộng đối chứng.
Ito và cộng sự (1980), nhiễm tảo lam vào ruộng lúa làm tăng lượng nitơ
trong đất 10-35%. Bisoyi (1982) cho rằng vi sinh vật có khả năng cải tạo đất vụ
sau tốt hơn vụ trước.
Lân là một trong những yếu tố quan trọng đối với cây trồng. Lân dễ tiêu
trong đất thường không đáp ứng được nhu cầu của cây, nhất là đối với cây trồng
có năng suất cao. Bón phân lân và tăng cường độ hoà tan các dạng lân khó tiêu
là biện pháp quan trọng trong sản xuất nông nghiệp.
Vi sinh vật phân giải lân là tập hợp các vi sinh vật có khả năng chuyển hoá
hợp chất photpho khó tiêu thành dễ tiêu đối với cây trồng. Các loài vi sinh vật
phân giải lân có thể kể đến: Pseudomonas, Flavo bacterium, Bacillus, Fusarium,
Penicillium, Aspergilus … thông qua các hoạt động sống của chúng tạo ra các
chất có thể hoà tan photpho.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15

Menkina (1952) đã phân lập từ đất hai chủng vi khuẩn có khả năng vô cơ
hoá hợp chất lân hữu cơ là Bacillus megatherium var photphatticum. Năm 1963
Fao chứng minh rằng Bacillus megatherium var photphatticum cũng có thể làm
cho hợp chất lân vô cơ khó tan trở thành hợp chất lân vô cơ cây sử dụng được.
Một kết quả nghiên cứu thu nhận được cho thấy Bacillus megatherium var
Photphatticum không những cung cấp thêm lân dễ tiêu mà còn có khả năng
nitrat hoá các hợp chất có đạm.

Sử dụng vi sinh vật phân giải lân làm tăng hiệu quả sử dụng phân vô cơ
lên 15-30%. Tuy nhiên tuỳ theo từng loại đất mà phản ứng của cây trồng đối
với vi sinh vật phân giải lân có khác nhau. Năng suất cây trồng tăng hơn đối
chứng ở vùng đất chua khoảng 9-27%. Một số thử nghiệm khi bón quặng
photphat cho thấy sử dụng vi sinh vật phân giải lân có thể tiết kiệm khoảng
50 kg P
2
O
5
/ha/vụ. Các tác giả khi nghiên cứu về vi sinh vật phân giải lân
cũng đã khẳng định khi sử dụng có thể thay thế 1/2 lượng lân vô cơ bón
quặng photphat mà năng suất cây trồng vẫn không giảm.
1.3. Tình hình nghiên cứu trong nước
1.3.1. Kêt quả nghiên cứu sử dụng phân bón đối với độ phì nhiêu đất và
dinh dưỡng cây trồng
Thập niên 70 công tác nghiên cứu đã tập trung một số việc: nghiên cứu tính
chất vật lý của một số loại đất, nghiên cứu sự cân đối giữa lân, đạm, kali trong
đất lúa đối với một số giống khác nhau, nghiên cứu về hoá học đất, vi sinh vật.
Nghiên cứu sử dụng các loại phân bón: than bùn, phân xanh, các loại phân lân,
tiếp tục nghiên cứu cải tạo đất bạc màu, đất chua mặn, đất mặn…nghiên cứu độ
phì nhiêu và phân hạng đất lúa.
Công tác nghiên cứu từ sau năm 1975: Chương trình 02-11: Xây dựng và
áp dụng các biện pháp nâng cao độ màu mỡ của đất, sử dụng có hiệu quả đất và
phân bón theo các vùng trong toàn quốc. Kết quả đã cải tạo và nâng cao độ phì
nhiêu của 1 triệu ha đất xám bạc màu và nhiều diện tích đất lầy úng.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 16

Độ phì nhiêu đất và dinh dưỡng cây trồng được nhiều nhà khoa học quan
tâm nghiên cứu từ lâu. Từ chương trình cấp nhà nước 02-11 (1981-1985) đến đề

tài cấp nhà nước 02A-06-01 (1986-1990): “Vấn đề độ phì nhiêu thực tế của một
số loại đất” được đặt ra xem xét về nhiều mặt, với nhiều đối tượng đất và cây
trồng ở nhiều vùng sinh thái khác nhau – Nguyễn Vy, Vũ Cao Thái (1991); Bùi
Đình Dinh (1991-1995).
Theo Trần Khải (1997), chất hữu cơ và độ ẩm đất giữ vai trò điều tiết độ phì
nhiêu thực tế của đất. Mùn trong đất là một nguồn dinh dưỡng có tương quan rất
chặt chẽ với độ phì nhiêu của đất, nhất là trong điều kiện nhiệt đới nóng ẩm của
nước ta. Ngô Văn Phụ (1970-1979), Nguyễn Tử Siêm (1974-1979) đều cho rằng
mùn ở đất Việt Nam rất quan trọng trong việc tạo thành độ phì nhiêu đất.
Vũ Thành nghiên cứu đất đỏ vàng Acrisols nông trường Hữu Lũng – Lạng
Sơn cho thấy mùn ban đầu 2,75% để hoá 5 năm giảm còn 2,32%, bón 35 tấn
phân chuồng/ha sau 5 năm tích luỹ 2 tấn mùn. Bón phân chuồng và thân lá cây
phân xanh vào giữa hai hàng dứa là biện pháp tốt nhất tăng hàm lượng mùn
trong đất.
Tại hội nghị 10 năm nghiên cứu đất phân (1958-1967), tháng 8/1968 ở Thái
Bình, báo cáo của Bùi Huy Đáp cho hay đất phù sa bãi sông Hồng có 1-2% mùn,
0,1-0,17% N; đất bãi sông Thái Bình nghèo hơn, hàm lượng đạm tổng số là 0,07-
0,1%; đất mặn có 1,4-1,7% mùn, 0,19% N; đất bạc màu là loại đất mùn ít 1%, hàm
lượng N chỉ 0,07%; đất chiêm trũng đọng nước lâu có hàm lượng mùn cao 2,3-3,2%.
Tại hội thảo “Quan điểm quản lý dinh dưỡng tổng hợp cho cây trồng ở
miền Bắc Việt Nam, Hà Nội ngày 26-27/5/1998”, theo Nguyễn Khang, hàm
lượng chất hữu cơ được phân theo nhóm đất: đất cát biển 0,5-0,9%; đất mặn 2,1-
4,0%; đất phèn 3,0-5,0%; đất bạc màu dưới 1%; đất phù sa 1,8-2,5%; đất đỏ
vàng 3,0-4,0%; đất mùn trên núi 4,0-7,5%. Theo ông, trừ đất mùn trên núi cao,
đất đỏ vàng, đất phèn là đất giàu hữu cơ, còn lại thì các loại đất khác đều nghèo
chất hữu cơ.

×