ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ THỊ DUNG
CÁC TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM, DANH DỰ
CỦA CON NGƢỜI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN
ĐỊA BÀN TỈNH HƢNG YÊN)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ THỊ DUNG
CÁC TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM, DANH DỰ
CỦA CON NGƢỜI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN
ĐỊA BÀN TỈNH HƢNG YÊN)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số
: 60380104
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuân
Hà Nội – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Vũ Thị Dung
MỤC LỤC
Lời Cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM
NHÂN PHẨM, DANH DỰ CỦA CON NGƢỜI TRONG LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM ....................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định các tội xâm phạm nhân phẩm,
danh dự của con ngƣời trong luật hình sƣ Việt Nam. ................................... 7
1.1.1. Khái niệm nhân phẩm, danh dự của con ngƣời. .............................. 7
1.1.2. Nhân phẩm, danh dự của con ngƣời đƣợc quy định trong Hiến pháp
Việt Nam năm 2013 và pháp luật quốc tế. ................................................. 9
1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự
của con ngƣời trong luật hình sự Việt Nam. ............................................ 11
1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình sự Việt
Nam về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngƣời .................. 12
1.2.1. Giai đoạn từ sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trƣớc
khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985. .................................................. 12
1.2.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trƣớc
khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999. .................................................. 14
1.3. Nghiên cứu so sánh các quy định về các tội xâm phạm nhân phẩm,
danh dự của con ngƣời trong luật hình sự Việt Nam với pháp luật hình sự
của một số nƣớc. .......................................................................................... 15
1.3.1.Bộ luật hình sự Nhật Bản: ............................................................... 15
1.3.2. Bộ luật hình sự Thụy Điển ............................................................. 16
1.3.3. Bộ luật hình sự Liên Bang Nga ...................................................... 18
1.3.4. Bộ luật nƣớc Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào .............................. 19
Chƣơng 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM, DANH DỰ CỦA CON NGƢỜI
VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HƢNG YÊN ............... 21
2.1. Những quy định của pháp luật hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm
nhân phẩm, danh dự của con ngƣời theo quy định của Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999. ............................................................................................ 21
2.1.1. Khái niệm chung. ........................................................................... 21
2.1.2. Các tội phạm cụ thể ........................................................................ 22
2.2. Thực tiễn xét xử các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngƣời
trên địa bàn tỉnh Hƣng Yên. ........................................................................ 43
2.2.1. Tình hình xét xử các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con
ngƣời trong thời gian 2009 đến năm 2013. .............................................. 43
2.2.2. Một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn xét xử các tội xâm phạm
nhân phẩm, danh dự của con ngƣời và những nguyên nhân của những tồn
tại, hạn chế đó. .......................................................................................... 46
Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM NHÂN
PHẨM, DANH DỰ CỦA CON NGƢỜI VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG. ............................................................................................................ 61
3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự
của con ngƣời. .............................................................................................. 61
3.1.1. Sự cần thiết và ý nghĩa của việc hoàn thiện các quy định của Bộ
luật hình sự về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngƣời. .. 61
3.2.2. Những kiến nghị tiếp tục hồn thiện các quy định của Bộ luật hình
sự về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngƣời. ................. 63
3.2. Những kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật
hình sự về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngƣời. ............. 69
3.2.1. Tăng cƣờng cơng tác hƣớng dẫn, giải thích các quy định của Bộ
luật hình sự hiện hành trong tƣơng quan với các văn bản pháp luật khác
về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngƣời ....................... 70
3.2.2.Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân. .......... 70
3.2.3. Phối hợp các cơ quan, tổ chức với các cơ quan với các cơ quan bảo
vệ pháp luật và tòa án để phòng ngừa, ngăn chặn và xét xử nghiêm minh
các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngƣời. ........................... 72
3.2.4. Nâng cao năng lực, trách nhiệm và tăng cƣờng điều kiện cơ sở vật
chất, trang thiết bị, công cụ hỗ trợ cho đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công
tác điều tra, truy tố, xét xử. ...................................................................... 73
3.2.5. Thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử nhằm bảo vệ nhân
phẩm, danh dự của con ngƣời. ................................................................. 75
3.2.6. Tăng cƣờng hợp tác quốc tế về tƣ pháp ......................................... 76
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 81
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con ngƣời đƣợc coi là vốn quý của xã hội, là đối tƣợng hàng đầu đƣợc
pháp luật nói chung, luật hình sự nói riêng bảo vệ. Bảo vệ con ngƣời trƣớc hết
là bảo vệ tính mạng, sức khỏe, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của họ, vì đó là
những vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với con ngƣời. Khoản 1
Điều 20 Hiến pháp nƣớc Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy
định: “Mọi ngƣời có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, đƣợc pháp luật bảo
hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức,
nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe,
xúc phạm danh dự, nhân phẩm”.
Trong những năm qua, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xƣớng và
lãnh đạo đã thu đƣợc những thành tựu rất quan trọng trên các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong lĩnh vực bảo vệ quyền con ngƣời nói
chung, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con ngƣời nói riêng, Đảng và Nhà
nƣớc ta ln xác định con ngƣời vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nhà nƣớc Việt Nam khẳng định con
ngƣời là trung tâm của các chính sách kinh tế - xã hội, thúc đẩy và bảo vệ
quyền con ngƣời là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững, bảo đảm
thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Mọi chủ trƣơng,
đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc đều nhằm phấn đấu cho mục
tiêu “dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, tất cả là vì
con ngƣời và cho con ngƣời. Nhà nƣớc Việt Nam không chỉ khẳng định sự
tôn trọng và bảo vệ quyền con ngƣời nói chung, nhân phẩm, danh dự của con
ngƣời nói riêng, mà cịn làm hết mình để bảo đảm thực hiện trên thực tế.
Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế của đất nƣớc, tình hình kinh
tế ở Hƣng Yên cũng có nhiều thay đổi. Là một tỉnh nằm ở vùng đồng bằng
1
sông Hồng, nhiều làng nghề truyền thống, giao thông thuận lợi, Hƣng Yên thu
hút nhiều nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy nền
kinh tế - xã hội phát triển Tuy nhiên, cùng với q trình phát triển kinh tế nói
trên thì bên cạnh đó cũng xuất hiện các loại tội phạm trong mọi lĩnh vực của
đời sống kinh tế xã hội trong đó có sự gia tăng của các loại tội phạm xâm
phạm nhân phẩm, danh dự của con ngƣời. Đây là vấn đề đƣợc sự quan tâm
của các cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh Hƣng Yên. Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân
dân, Hội đồng nhân dân tỉnh Hƣng Yên đã ra nhiều văn bản yêu cầu các ban
ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội đế ra và áp dụng nhiều biện pháp cụ thể
nhằm đấu tranh với các loại tội phạm xâm phạm nhân phạm nhân phẩm, danh
dự của con ngƣời. Các cơ quan bảo vệ pháp luật nhƣ Công an, Viện kiểm sát,
Tòa án là những cơ quan đƣợc giao nhiệm vụ trực tiếp đấu tranh với các loại
tội phạm trên, đã áp dụng các biện pháp có hiệu quả để phát hiện, diều tra,
truy tố những kẻ phạm tội.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực và thành tựu đã đạt đƣợc,
trong thực tiễn cơng tác đấu tranh phịng, chống các tội xâm phạm nhân
phẩm, danh dự của con ngƣời còn bộc lộ nhiều hạn chế và chƣa mang lại kết
quả cao, nhiều khó khăn, vƣớng mắc về thực tiễn chƣa đƣợc giải quyết. Các
biện pháp đấu tranh phòng chống đối với các loại tội phạm này còn mang tính
tổng qt chƣa đi vào cụ thể. Do đó nghiên cứu đề tài: “Các tội xâm phạm
nhân phẩm, danh dự của con ngƣời trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ
sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Hƣng Yên)” là cần thiết, bảo đảm giữ
gìn an ninh, trật tự và góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
Hƣng Yên nói riêng và cả nƣớc nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngƣời có tính nhạy cảm
cao, phức tạp, đã đƣợc một số nhà luật học trong nƣớc quan tâm nghiên cứu.
2
Sau khi Bộ luật hình sự năm 1999 đƣợc ban hành, các tội xâm phạm nhân
phẩm, danh dự của con ngƣời đƣợc đề cập trong cơng trình: Các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người của TS. Trần
Văn Luyện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
2000; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) của Khoa Luật,
Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2002; Bình
luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (phần các tội phạm) của TS Phùng Thế
Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS.ThS. Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Đức Mai,
ThS. Nguyễn Sĩ Đại, ThS. Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
2001; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, Phần các tội phạm, tập 1 (Bình
luận chuyên sâu) của ThS. Đinh Văn Quế, Nxb thành phố Hồ Chí Minh,
2002…Nhìn chung, các cơng trình nói trên nghiên cứu các tội xâm phạm
nhân phẩm, danh dự của con ngƣời trên khía cạnh quy định của luật hình sự,
hoặc nghiên cứu đối với từng tội phạm cụ thể trong phạm vi tồn quốc, chƣa
có cơng trình nào nghiên cứu về loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hƣng
Yên. Chính vì những lý do đó, việc nghiên cứu đề tài “Các tội xâm phạm
nhân phẩm, danh dự của con người trong Luật hình sự Việt Nam (trên cơ
sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Hưng Yên)” là đòi hỏi khách quan, cấp
thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật đối với
các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngƣời và áp dụng chúng trong
thực tiễn tại tỉnh Hƣng Yên. Từ đó, luận văn đƣa ra các giải pháp nhằm hồn
thiện các quy định của pháp luật về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự
của con ngƣời trong luật hình sự Việt Nam, cũng nhƣ đề xuất những giải
3
pháp nâng cao hiệu quả trong công tác áp dụng, đặc biệt trên địa bàn tỉnh
Hƣng Yên.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Làm sáng tỏ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trƣng của các
tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngƣời.
- Phân tích và đánh giá đúng thực trạng tình hình các tội xâm phạm nhân
phẩm, danh dự của con ngƣời, thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội
phạm này trên địa bàn tỉnh Hƣng Yên.
- Đề xuất hệ thống những định hƣớng và giải pháp hoàn thiện các quy
định đối với các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngƣời nói
chung và trên địa bàn tỉnh Hƣng Yên nói riêng, cũng nhƣ những giải
pháp nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn.
4.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh các tội
xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngƣời trong Luật hình sự Việt Nam,
kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá tình hình áp dụng nó trong thực tiễn xét
xử của Tòa án tỉnh Hƣng Yên và những nguyên nhân, tồn tại, hạn chế để kiến
nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng
hình phạt đối với các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngƣời trong
thực tiễn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ luật học, phạm vi nghiên cứu
của luận văn tập trung vào các dấu hiệu pháp lý đặc trƣng và những vấn đề
liên quan đến việc định tội danh và quyết định hình phạt, thực tiễn xét xử đối
với các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngƣời ở Hƣng Yên trong 5
4
năm (2009 – 2013) với tƣ cách là tội phạm trong chƣơng Các tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con ngƣời.
5.Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và
chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và
pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về xây dựng Nhà nƣớc pháp
quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tƣ pháp đƣợc thể hiện trong
các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08-NQTW
ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về chiến lƣợc cải
cách tƣ pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình nghiên cứu luận văn đã sử dụng các phƣơng pháp cụ
thể và đặc thù của khoa học luật hình sự nhƣ: phƣơng pháp phân tích và tổng
hợp; phƣơng pháp so sánh, đối chiếu; phƣơng pháp diễn dịch; phƣơng pháp
quy nạp; phƣơng pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức
khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tƣơng ứng đƣợc nghiên cứu
trong luận văn.
4. Những đóng góp mới của luận văn
Về mặt lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về các tội
xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngƣời trong khoa học luật hình sự
Việt Nam; phân tích thơng qua nghiên cứu các số liệu thực tiễn xét xử sơ
thẩm trên địa bàn tỉnh Hƣng Yên từ năm 2009 đến năm 2013 và các bản án
hình sự cụ thể để đánh giá. Qua đó chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập trong các
quy định của pháp luật hiện hành; các sai sót trong quá trình áp dụng các quy
định đó, cũng nhƣ các ngun nhân tìm ra giải pháp khắc phục, đề xuất những
5
giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về các
tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngƣời ở khía cạnh lập pháp hình
sự và việc áp dụng trong thực tiễn.
Về mặt thực tiễn
Luận văn cịn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận, nghiên cứu,
học tập. Những đề xuất, kiến nghị của luận văn góp phần cung cấp những
luận cứ khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp
dụng Bộ luật hình sự Việt Nam liên quan đến các tội xâm phạm nhân phẩm,
danh dự của con ngƣời, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác đấu
tranh phịng chống tội phạm này.
6.Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Một số vấn đề chung về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh
dự của con ngƣời trong luật hình sự Việt Nam.
Chƣơng 2: Những quy định của pháp luật hình sự năm 1999 về các tội
xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngƣời và thực tiễn xét xử trên địa bàn
tỉnh Hƣng Yên.
Chƣơng 3: Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của bộ luật hình
sự năm 1999 về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngƣời và
nâng cao hiệu quả áp dụng.
6
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM,
DANH DỰ CỦA CON NGƢỜI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định các tội xâm phạm nhân
phẩm, danh dự của con ngƣời trong luật hình sƣ Việt Nam.
1.1.1. Khái niệm nhân phẩm, danh dự của con người.
Nhƣ đã đề cập ở phần mở đầu, con ngƣời đƣợc coi là vốn quý của xã
hội, là đối tƣợng hàng đầu đƣợc luật hình sự nói riêng cũng nhƣ pháp luật nói
chung bảo vệ. Bảo vệ con ngƣời trƣớc hết là bảo vệ tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự và tự do của họ, trong đó bảo vệ nhân phẩm, danh dự của
con ngƣời có ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Vì những lẽ đó, Bộ luật hình sự
năm 1999 quy định các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngƣời nằm
trong chƣơng thứ XII. Đây là một trong những chƣơng của Bộ luật hình sự
bao gồm những quy phạm pháp luật trực tiếp bảo vệ con ngƣời với tƣ cách là
chủ thể của các mối quan hệ xã hội. Vậy chúng ta hiểu thế nào là nhân phẩm,
danh dự của con ngƣời?
Theo tác giả, “danh dự là sự đánh giá của xã hội đối với một cá nhân về
các mặt đạo đức, phẩm chất chính trị và năng lực của ngƣời đó”. Sự đánh giá của
xã hội có thể về mặt lao động nhƣ nói ngƣời cần cù, siêng năng hay lƣời nhác, có
thể về mặt tinh thần thái độ đối với công việc đƣợc giao, trong sinh hoạt cá nhân
hay cƣ xử với mọi ngƣơi xung quanh nhƣ ngƣời đó sống nghiêm túc hay bng
thả, trong mối quan hệ với mọi ngƣời thì thân ái đồn kết hay ích kỷ.
Nhƣ vậy, danh dự của một con ngƣời đƣợc hình thành từ những hành
động và cách cƣ xử của ngƣời đó, từ cơng lao và thành tích mà ngƣời đó có
đƣợc qua những năm tháng của cuộc đời và đƣợc xã hội đánh giá theo những
tiêu chuẩn và nguyên tắc đạo dức xã hội chủ nghĩa. Danh dự là một khái niệm
7
rộng gắn liền với một cá nhân hoặc một tổ chức nhất định. Danh dự của một
cá nhân bao gồm các yếu tố sau:
- Lòng tự trọng: tức là sự tự đánh giá mình, tự ý thức về giá trị, vị trí
của mình trong xã hội (chà đạp lên lịng tự trọng của ngƣời khác chính là xúc
phạm đến danh dự của ngƣời đó).
- Uy tín: chính là giá trị về mặt đạo đức và tài năng đƣợc công nhận ở
một cá nhân thông qua hoạt động thực tiễn của mình tới mức mà mọi ngƣời
trong một tổ chức, một dân tộc cảm phục tơn kính và tự nguyện nghe theo.
Trong danh dự có uy tín, phá hoại uy tín cũng chính là phá hoại danh dự.
Nhân phẩm là phẩm giá con ngƣời, là giá trị tinh thần của một cá nhân
với tính cách là một con ngƣời. Chà đạp lên nhân phẩm của ngƣời khác cũng
là xúc phạm đến danh dự ngƣời đó.
Mặc dù nhân phẩm cũng là một yếu tố của danh dự, song giữa danh dự
và nhân phẩm cũng có những điểm khác nhau nhất định:
Nếu danh dự đƣợc hình thành qua nhiều năm tháng của cuộc đời và
đƣợc xã hội đánh giá theo những tiêu chuẩn và nguyên tắc đạo đức xã hội chủ
nghĩa thì nhân phẩm lại có từ khi con ngƣời mới sinh ra. Danh dự có thể của
một cá nhân hay tổ chức, nhƣng nhân phẩm chỉ là một khái niệm đƣợc áp
dụng đối với cá nhân. Mặc dù danh dự của một con ngƣời đƣợc hình thành từ
những hành vi và cách cƣ xử, từ cơng lao và thành tích của ngƣời đó có đƣợc
qua nhiều năm tháng của cuộc đời và đƣợc thừa nhận, nhƣng mọi ngƣời dân
đều có quyền đƣợc bảo vệ danh dự và nhân phẩm nhƣ nhau không phân biệt
vào công lao, công tác và những đặc điểm riêng của ngƣời có quyền; những
ngƣời khơng có năng lực hành vi dân sự, những ngƣời mất năng lực hành vi
dân sự cũng có quyền bảo vệ danh dự và nhân phẩm nhƣ mọi công dân khác.
Cũng giống nhƣ những quyền dân sự khác, quyền đƣợc bảo vệ danh dự
và nhân phẩm của cá nhân chấm dứt khi cá nhân đó chết. Tuy nhiên cũng có
8
trƣờng hợp vì lợi ích của xã hội địi hỏi phải phục hồi danh dự và nhân phẩm
cho một cá nhân mặc dù cá nhân đó đã chết.
Xúc phạm đến danh dự và nhân phẩm thƣờng thể hiện bằng cách: Dùng
những lời lẽ hoặc hành động có tính chất thóa mạ khinh bỉ để làm nhục ngƣời
khác hoặc gán một sự kiện xấu xa cho ngƣời khác làm cho xã hội đánh giá sai
hoặc hình dung sai về ngƣời đó. Sự đánh giá sai sự thật không phụ thuộc vào
việc ngƣời đƣa ra những tin tức đó vơ tình hay cố ý. Tiêu chuẩn để đánh giá
những sự việc nêu ra là xấu xa hay không xấu xa là những nguyên tắc đạo đức
xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên tính chất nghiêm trọng của những tin tức đƣa ra
có thể khác nhau tùy theo nhân thân của ngƣời bị hại. Ví dụ: Nếu nói một em
học sinh quay cóp khi thi mà khơng đúng sự thật thì cũng là điều đáng chê
trách và cũng có thể bị dƣ luận lên án, nhƣng khơng nghiêm trọng bằng việc
nói một nhà văn đã ăn cắp văn của ngƣời khác.
1.1.2. Nhân phẩm, danh dự của con người được quy định trong Hiến pháp
Việt Nam năm 2013 và pháp luật quốc tế.
Không chỉ đối với Việt Nam, pháp luật quốc tế cũng ghi nhận quyền
đƣợc bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con ngƣời. Đây là một trong những yếu
tố hình thành quyền cơng dân nói chung và quyền con ngƣời nói riêng, nó là
những quyền tự nhiên của con ngƣời và không bị tƣớc bỏ bởi bất cứ ai và bất
cứ chính thể nào. Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên Hiệp Quốc,
nhân quyền là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá
nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại
đến nhân phẩm, những tự do cơ bản của con ngƣời. Trong bản Tuyên ngôn
Độc lập Hoa Kỳ, Thomas Jefferson đã đƣa ra một nguyên tắc cơ bản làm cơ
sở cho sự thành lập chính phủ dân chủ. Các chính phủ trong thể chế dân chủ
khơng ban phát các quyền tự do cơ bản mà Jefferson đã nêu, mà chính các
chính phủ đó đƣợc lập ra để bảo vệ các quyền tự do đó – các quyền mà mọi cá
nhân hiển nhiên có do sự tồn tại của mình.
9
Trong Hiến pháp của Việt Nam năm 2013, quyền đƣợc bảo vệ nhân
phẩm, danh dự là quyền hiến định, đƣợc quy định trong văn bản pháp luật có
hiệu lực pháp lý cao nhất là Hiến pháp. Theo Hiến Pháp năm 2013, quyền
đƣợc bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con ngƣời là một trong những quyền cơ
bản của công dân, quyền này đƣợc quy định rõ nhất tại Điều 20 Hiến pháp
năm 2013 nhƣ sau: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo
lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân
thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu khơng có
quyết định của Tồ án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm
sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do
luật định”.
Có ý kiến cho rằng chỉ xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản mới gây
hậu quả nghiêm trọng cho cá nhân, tổ chức và cần phải bảo vệ. Ý kiến này
hồn tồn khơng chính xác. Mặc dù nhân phẩm, danh dự là những giá trị nhân
thân không trị giá đƣợc bằng tiền, tuy nhiên, xâm phạm đến giá trị này có thể
ảnh hƣởng đến sự tồn tại và phát triển của chủ thể bị xâm phạm. Thiệt hại mà
chủ thể bị xâm phạm nhân phẩm, danh dự phải gánh chịu bao gồm cả thiệt hại
về vật và tổn thất về tinh thần. Tổ chức bị xâm phạm danh dự có thể bị giảm
thu nhập, thậm chí bị tuyên bố phá sản. Cá nhân bị xâm phạm nhân phẩm,
danh dự cũng có thể bị giảm thu nhập, ảnh hƣởng đến hoạt động nghề nghiệp,
đến các mối quan hệ xã hội, thậm chí đến sức khỏe, tính mạng. Rõ ràng hậu
quả mà chủ thể bị xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngƣời phải gánh
chịu cũng rất nghiêm trọng. Đây cũng chính là cơ sở để bảo vệ nhân phẩm,
danh dự của con ngƣời.
Trên cơ sở đƣợc quy định trong Hiến pháp, quyền đƣợc bảo vệ nhân
phẩm, danh dự đƣợc quy định cụ thể hơn trong các văn bản pháp luật của
10
nhiều ngành luật khác nhau tạo thành một hệ thống các quy định về quyền
đƣợc bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con ngƣời, trong đó pháp luật hình sự
đóng vai trò quan trọng.
1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự
của con người trong luật hình sự Việt Nam.
Việc quy định các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngƣời
trong luật hình sự Việt Nam có ý nghĩa dƣới các góc độ chính sau đây:
Thứ nhất, dƣới góc độ chính trị xã hội, đã góp phần cụ thể hóa các quy
định của Hiến Pháp về bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân. Khoản 1
Điều 20 của Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi ngƣời có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, đƣợc pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm;
không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào
khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm [27]. Nhƣ
vậy, việc bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân đã đƣợc Hiến Pháp xác
lập, ghi nhận và đƣợc pháp luật Hình sự bảo vệ. Những quy định trong
chƣơng XII – “Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự
của con ngƣời” của Bộ luật Hình sự nói chung, từ Điều 111 đến Điều 122 về
các tội xâm phạm “nhân phẩm, danh dự của con ngƣời” nói riêng đã thể hiện
thái độ kiên quyết đấu tranh chống các tội phạm về nhân phẩm, danh dự của
con ngƣời của Đảng và Nhà nƣớc ta để bảo vệ sự nghiệp cách mạng, sự lãnh
đạo của Đảng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, cũng nhƣ bảo đảm
hiệu lực quản lý của Nhà nƣớc đối với xã hội, tiến tới mục tiêu xây dựng nhà
nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh.
Thứ hai, về mặt lý luận, là cơ sở pháp lý hình sự đầy đủ và thống nhất
để các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng có căn cứ để tiến
hành điều tra, truy tố, xét xử các hành vi xâm phạm đến nhân phẩm, danh dự
11
của con ngƣời sao cho đúng ngƣời, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm, không xử
oan ngƣời vô tội.
Thứ ba, việc quy định các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con
ngƣời trong luật hình sự Việt Nam khơng chỉ trừng trị và giáo dục chính bản
thân ngƣời phạm tội khơng phạm tội mới mà cịn có mục đích răn đe, giáo
dục đối với các thành viên khác trong xã hội nhất là đối với các nhân viên
khác trong xã hội không vững vàng, dễ bị lôi kéo; qua đó bồi dƣỡng cho mọi
cơng dân có tinh thần, ý thức tuân thủ pháp luật, chủ động tham gia phòng
ngừa và chống tội phạm xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngƣời.
Ngày nay, khi xã hội ngày càng phát triển, tính chất và mức độ của
hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngƣời ngày càng diễn biến
phức tạp. Bởi vậy, việc quy định các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của
con ngƣời trong luật hình sự Việt Nam có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong
q trình đấu tranh phịng chống các loại tội phạm này.
1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình sự Việt
Nam về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngƣời
1.2.1. Giai đoạn từ sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi
ban hành Bộ luật hình sự năm 1985.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ
cộng hịa – Nhà nƣớc cơng nơng đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời đã ban hành
một loạt các văn bản quy phạm pháp luật hình sự nhằm bảo vệ chính quyền
nhân dân, chống thực dân Pháp, trừng trị bọn việt gian phản động.
Do tình hình kháng chiến diễn ra rất khẩn trƣơng, không thể ban hành
kịp các văn bản quy phạm pháp luật nói chung, văn bản quy phạm pháp luật
hình sự nói riêng, ngày 10-10-1945 Nhà nƣớc ta đã ban hành Sắc lệnh số 47SL cho tạm thời giữ các luật lệ cũ trong đó có Bộ “Luật hình An Nam”, Bộ
“Hồng Việt hình luật” và Bộ “Hình luật pháp tu chính” với điều kiện “khơng
12
trái với nguyên tắc độc lập của nƣớc Việt Nam và chính thể dân chủ cộng
hịa”. Trong bối cảnh này, việc đấu tranh chống các tội xâm phạm nhân phẩm,
danh dự của con ngƣời chƣa đƣợc đặt ra.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ đƣợc ký kết, miền
Bắc hồn tồn đƣợc giải phóng, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay
sai thống trị. Ở miền Bắc, Đảng ta chủ trƣơng tiến hành cách mạng xã hội chủ
nghĩa, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nƣớc; ở
miền Nam tiến hành cách mạng dân tộc, dân chủ nhằm giải phóng miền Nam
khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai thực hiện thống nhất nƣớc nhà.
Trong thời kỳ này, đối với việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của con ngƣời, pháp luật chủ yếu đề cập các tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe nhƣ giết ngƣời, gây thƣơng tích, làm chết ngƣời trong
thơng tƣ số 442-TTg ngày 19-11-1955 của Thủ tƣớng Chính Phủ mà chƣa có
văn bản pháp luật hình sự nào quy định về các tội xâm phạm nhân phẩm,
danh dự của con ngƣời.
Sau khi miền Nam đƣợc giải phóng, trong khi chờ đợi thống nhất nƣớc
nhà về mặt Nhà nƣớc, trên thực tế tồn tại hai Nhà nƣớc: Nhà nƣớc Việt Nam
dân chủ cộng hòa và Nhà nƣớc Cộng hòa Miền Nam Việt Nam; mỗi Nhà
nƣớc có một hệ thống pháp luật riêng. Nhà nƣớc Cộng hòa Miền Nam Việt
Nam đã ban hành ngay một số chính sách, văn bản quy phạm pháp luật hình
sự nhằm phục vụ thực hiện một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách là
trấn áp bọn phản cách mạng và tội phạm khác, bảo vệ vững chắc an ninh
chính trị và trật tự an tồn xã hội ở nửa đất nƣớc mới đƣợc giải phóng.
Cùng với việc ban hành Sắc luật về Tổ chức của Tòa án nhân dân và
Viện kiểm sát nhân dân, sắc luật quy định việc bắt, giam, khám ngƣời, khám
nhà ở, đồ vật của ngƣời phạm tội, Nhà nƣớc Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
đã ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15-3-1976 quy định các tội phạm và
13
hình phạt. Sắc luật này đƣợc áp dụng trong phạm vi tồn quốc trƣớc khi Bộ
luật hình sự đƣợc ban hành.
Sắc luật số 03-SL/76 có quy định về các tội xâm phạm đến thân thể và
nhân phẩm của công dân một cách đầy đủ hơn so với Thông tƣ 442-TTg ngày
19-11-1955 của Thủ tƣớng Chính phủ Điểm d Điều 5 Sắc luật quy định:
“Phạm các tội khác xâm phạm đến thân thể và nhân phẩm của cơng dân thì bị
phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm những kẻ lập công chuộc tội” [29, 236]. Trên cơ
sở quy định này, Toà án đã vận dụng xử lý một số trƣờng hợp phạm tội xâm
phạm đến nhân phẩm, danh dự của con ngƣời.
1.2.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước
khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999.
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IV, V của Đảng, nhân dân ta đã giành đƣợc một số thành tựu nhất định
trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế xã hội tạo ra cho những cơ sở đầu tiên cho
sự phát triển mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, chúng ta đã gặp phải nhiều
khó khăn và khuyết điểm do duy trì khá lâu cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp
nên không thực hiện đƣợc mục tiêu đã đề ra là ổn định một cách cơ bản tình
hình kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân. Về mặt lập pháp hình sự, các văn
bản quy phạm pháp luật hình sự đơn hành khơng thể hiện đƣợc tồn diện, đầy
đủ chính sách hình sự của Đảng và Nhà nƣớc ta. Trong bối cảnh đó việc ban
hành Bộ luật hình sự là vấn đề mang tính tất yếu khách quan và cấp thiết, có ý
nghĩa góp phần phục vụ thực hiện hai nhiệm vụ chiến lƣợc là xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ngày 27 – 6 –
1985, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nƣớc Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa VII đã thơng qua Bộ luật hình sự, có hiệu lực ngày 1-1-1986 (sau đây
gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1985).
14
Bộ luật hình sự năm 1985 đã kế thừa và phát triển những thành tựu lập
pháp hình sự Việt Nam, tổng kết kinh nghiệm đấu tranh phòng, chống tội phạm
trong thời gian trƣớc năm 1985 và dự báo đƣợc tình hình trong thời gian tới.
Trong Bộ luật hình sự năm 1985, tiếp theo việc quy định các tội xâm
phạm an ninh quốc gia chƣơng 1, nhà làm luật đã quy định các tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự ở chƣơng 2. Đây là những quy
phạm pháp luật trực tiếp bảo vệ con ngƣời với tính chất là chủ thể của các
quan hệ xã hội. Theo đó Bộ luật hình sự năm 1985 quy định 7 Điều về các tội
xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngƣời (từ Điều 112 đến Điều 118).
Việc ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đã đánh dấu trƣởng thành về mặt kỹ
thuật lập pháp hình sự của nƣớc ta trong lĩnh vực bảo vệ nhân phẩm, danh dự
của con ngƣời.
1.3. Nghiên cứu so sánh các quy định về các tội xâm phạm nhân phẩm,
danh dự của con ngƣời trong luật hình sự Việt Nam với pháp luật hình
sự của một số nƣớc.
Nghiên cứu những quy định về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự
của con ngƣời trong pháp luật hình sự của Nhật Bản, Vƣơng quốc Thụy Điển,
Liên Bang Nga, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào cho thấy các nƣớc quy định
rất khác nhau về tội phạm này.
1.3.1.Bộ luật hình sự Nhật Bản:
Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam và Nhật Bản ngày càng có những
mối quan hệ mật thiết, khơng chỉ có mối quan hệ kinh tế mà cịn về mọi mặt
nhƣ văn hóa, xã hội, xây dựng tƣơng trợ pháp luật…Do vậy, việc nghiên cứu
quy định pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng là cần thiết.
Bộ luật hình sự của Nhật Bản đƣợc cơng bố ngày 24/4/1907 và có hiệu
lực ngày 01/10/1908. Đây là một trong những bộ pháp điển cơ bản đƣợc cấu
thành từ 06 văn bản luật. Bộ luật hình sự Nhật Bản đƣợc sửa đổi và bổ sung
gần đây nhất là vào ngày 24/06/2011.
15
Bộ luật hình sự của Nhật Bản gồm có 40 chƣơng và 264 điều khoản cụ
thể, trong đó các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngƣời đƣợc quy
định trong chƣơng XXXIV gồm nhiều tội khác nhau:
- Tội nói xấu ngƣời và xỉ nhục ngƣời khác: Điều 231 Bộ luật quy định:
“Ngƣời nào công khai sỉ nhục ngƣời khác thì bị phạt giam hình sự hoặc bị phạt
tiền về tội hình sự nhỏ, thậm chí nếu ngƣời đó thực hiện hành vi sỉ nhục mà
không đƣa ra sự kiện [43, trang 64]. Điều 232 Bộ luật này còn quy định: “1.
Các tội phạm quy định tại chƣơng này chỉ bị khởi tố căn cứ vào đơn yêu cầu.
2. Khi ngƣời làm đơn yêu cầu là Hoàng đế, Nữ hồng, Hồng hậu góa,
Hồng thái hậu góa hoặc ngƣời thừa kế ngơi hồng đế và Thủ tƣớng Chính Phủ
thì những ngƣời đó đều nhân danh cá nhân hoặc khi ngƣời làm đơn yêu cầu là
Vua hoặc Tổng thống của một nƣớc ngoài, là ngƣời đại diện của nƣớc ngoài
hữu quan thì những ngƣời đó cũng đều nhân danh cá nhân”. [43, trang 64].
- Điều 177 Bộ Luật hình sự Nhật Bản quy định: “Ngƣời nào dùng vũ
lực hoặc đe dọa mà giao cấu với ngƣời nữ giới từ 13 tuổi trở lên thì phạm tội
hiếp dâm và bị phạt tù có lao động bắt buộc từ hai năm trở lên. Tƣơng tự nhƣ
vậy áp dụng với giao cấu với nữ giới dƣới 13 tuổi”.
1.3.2. Bộ luật hình sự Thụy Điển
Thụy Điển là một trong những nƣớc có kinh tế phát triển, chế độ chính
trị ổn định, trình độ pháp điển hóa pháp luật phát triển ở mức cao, an sinh xã
hội đƣợc quan tâm. Tình trạng tội phạm so với các nƣớc phát triển khác là khá
thấp, có nhiều loại tội phạm hầu nhƣ ít xảy ra ở nƣớc này
Bộ luật hình sự của Vƣơng quốc Thủy Điển quy định các tội xâm phạm
nhân phẩm, danh dự của con ngƣời nằm trong chƣơng V, chƣơng VI
- Điều 2 chƣơng V: “Ngƣời nào xỉ vả ngƣời khác bằng lời lẽ lăng mạ
hoặc có những hành động khác mang tính sỉ nhục đối với ngƣời đó, thì bị kết
án về tội làm nhục ngƣời khác và bị phạt tiền nếu hành vi này không bị xử
phạt theo Điều 1 hoặc Điều 2.
16
Phạm tội trong trƣờng hợp nghiêm trọng thì bị phạt tiền hoặc bị phạt tù
đến 6 tháng” [44, trang 13].
Điều 5 của Bộ luật cịn quy định: Các điều nói từ Điều 1 đến Điều 3 có
thể khơng bị truy tố trừ trƣờng hợp có đơn yêu cầu của ngƣời bị hại. Tuy
nhiên nếu ngƣời bị hại khơng có đơn u cầu truy tố nhƣng vì lợi ích cơng
cộng thì cơng tố viên có thể truy tố các tội:
1. Vu khống và vu khống ngƣời khác trong trƣờng hợp nghiêm trọng;
2. Làm nhục nhà chức trách hoặc lăng mạ nhà chức trách khi thi hành
công vụ;
3. Làm nhục ngƣời khác vì lý do sắc tộc, màu da, nguồn gốc dân tộc
hoặc tơn giáo của ngƣời đó;
4. Làm nhục ngƣời khác vì lý do bệnh đồng tính luyến ái của ngƣời đó.
Hành vi xúc phạm nhân phẩm, danh dự của ngƣời đã chết có thể bị truy
tố theo yêu cầu của ngƣời vợ hoặc chồng còn sống, những ngƣời thừa kế trực
tiếp, cha, mẹ hoặc anh chị em ruột của ngƣời chết. Cơng tố viên phải truy tố
hành vi nói trên; việc truy tố là vì lợi ích cơng cộng do những lý do đặc biệt.
- Điều 1 Chƣơng VI BLHS Thụy Điển quy định: “ngƣời đàn ông hoặc
đàn bà nào dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc gây nguy
hiểm cho ngƣời khác nhằm buộc ngƣời đó giao cấu hoặc có hành động tình
dục khác thì bị phạt tù từ 2 đến 6 năm về tội hiếp dâm. Hiện nay đã sửa đổi
thành “ngƣời nào” nhƣng cách hiểu vẫn theo nhƣ bộ luật cũ, tức là cả nam
giới và nữ giới.
- Theo quy định tại Điều 1a Chƣơng IV: “Ngƣời nào ngoài những quy
định tại Điều 1, ép buộc hoặc lừa dối trái pháp luật với mục đích khai thác
ngƣời khác vào tình trạng nguy hiểm hoặc với bất kỳ tình trạng tƣơng tự nào
nhƣ tuyển chọn, vận chuyển, cung cấp, nhận hoặc có bất kỳ một cách nào
khác và bằng cách đó để điều khiển họ cho những mục đích sau đây…sẽ bị
17
kết án cho tội bn bán ngƣời với hình phạt từ 2 năm đến 10 năm”. Ngoài ra,
trong Điều 1a Chƣơng IV cịn có quy định: “Ngƣời nào có động cơ giống
Điều 1 với ngƣời dƣới 18 tuổi sẽ bị kết tội bn bán ngƣời thậm chí khơng
cần dùng bất kỳ hình thức nào đƣợc nói ở Khoản 1. Nhƣ vậy, đối với trẻ em
Luật Hình Sự Thụy Điển quy định chỉ cần có hành vi tuyển mộ, vận chuyển,
chuyển giao, chứa chấp hoặc nhận trẻ em cho mục đích bóc lột mà khơng cần
quan tâm tới thủ đoạn đƣợc dùng để thực hiện một trong các hành vi trên đều
bị kết tội là buôn bán trẻ em.
1.3.3. Bộ luật hình sự Liên Bang Nga
Trong Bộ luật hình sự của Liên Bang Nga quy định nhiều tội xâm phạm
nhân phẩm, danh dự của con ngƣời. Cụ thể: tại Điều 131: “1. Làm nhục nghĩa
là hạ thấp danh dự và nhân phẩm của ngƣời khác, bằng hình thức thơ tục.
- Thì bị phạt tiền đến 100 lần mức thu nhập tối thiểu hay mức lƣơng hay thu
nhập khác của ngƣời bi kết án trong thời gian đến 1 tháng, hoặc bị phạt lao
động bắt buộc đến 120 giờ, hoặc lao động cải tạo đến 6 tháng.
2. Làm nhục trên diến đàn công cộng, trong tác phẩm đƣợc công bố công
khai hay trên các phƣơng tiện thơng tin đại chúng.
- Thì bị phạt tiền đến 200 lần mức thu nhập tối thiểu hay mức lƣơng hay thu
nhập khác của ngƣời bị kết án trong thời gian đến 2 tháng, hoặc bị phạt lao động
bắt buộc đến 180 giờ, hoặc lao động cải tạo đến 01 năm [45, trang 84 – 85].
Điều 328 Bộ luật này còn quy định tội xúc phạm quân nhân: “1. Quân
nhân nào xúc phạm đồng đội trong khi thực hiện các nghĩa vụ trong quân đội
hoặc liên quan đến việc thực hiện các nghĩa vụ đó thì phạt hạn chế phục vụ quân
đội đến 6 tháng hoặc bị phạt giữ ở đơn vị kỷ luật của quân đội đến 6 tháng.
2. Cấp dƣới xúc phạm ngƣời chỉ huy hoặc ngƣời chỉ huy xúc phạm cấp
dƣới trong khi thực hiện các nghĩa vụ trong quân đội hoặc liên quan đến việc
18
thực hiện các nghĩa vụ đó, thì bị phạt hạn chế phục vụ quân đội đến 1 năm
hoặc bị phạt giữ ở đơn vị kỷ luật của quân đội đến 1 năm [45, trang 136].
1.3.4. Bộ luật nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
Bộ luật hình sự nƣớc Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào quy định tội xúc
phạm danh dự ngƣời khác tại Điều 87, tội chửi rủa lăng nhục ngƣời khác tại
Điều 88, tội xúc phạm mồ mả và thanh danh của ngƣời đã chết tại Điều 89.
Điều 87 Bộ luật hình sự quy định: “Ngƣời nào xúc phạm danh dự của
ngƣời khác bằng lời nói, viết hoặc những hình thức khác thì bị phạt tƣớc
quyền tự do từ 3 tháng đến 1 năm hoặc cải tạo không tƣớc quyền tự do hoặc
phạt tiền 5.000 đến 10.000 kíp.
Ngƣời nào đặt ra những điều khơng có thực bằng lời nói, viết hoặc
bằng các hình thức khác xúc phạm nghiêm trọng đến danh dự của ngƣời khác
thì bị phạt tƣớc quyền tự do từ 3 tháng đến 1 năm hoặc bị phạt tuênf từ 5.000
kíp đến 10.000 kíp” [46, trang 46].
Nhƣ vậy, theo pháp luật nƣớc Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, hành vi
xúc phạm danh dự của ngƣời khác và hành vi vu khống ngƣời khác đƣợc quy định
chung trong một điều luật quy định về tội xúc phạm danh dự của ngƣời khác.
Điều 88 Bộ luật còn quy định về tội chửi rủa lăng nhục ngƣời khác:
“Ngƣời nào dùng lời nói, viết hoặc thực hiện hành vi xấu xa, trụy lạc xúc
phạm nghiêm trọng danh dự của ngƣời khác thì bị phạt tƣớc quyền tự do từ 3
tháng đến 1 năm hoặc cải tạo không tƣớc quyền tự do hoặc phạt tiền từ 5.000
kíp đến 10.000 kíp”.
Ngồi ra, Điều 89 Bộ luật này cịn quy định về tội xúc phạm mồ mả và
thanh danh của ngƣời đã chết: “Ngƣời nào có hành động hoặc dùng lời nói
xấu xa đối với hài cốt, thanh danh của ngƣời đã chết, ảnh hƣởng xấu tới sự
tôn trọng của quần chúng nhân dân với những ngƣời đã chết thì bị phạt tƣớc
19