Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Cơ sở pháp lý cho việc hội nhập quốc tế của việt nam trong lĩnh vực khoa học và công nghệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 114 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





NGUYỄN NGỌC VINH





CƠ SỞ PHÁP LÝ CHO VIỆC HỘI NHẬP QUỐC TẾ
CỦA VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ











LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC














HÀ NỘI – 2015



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN NGỌC VINH






CƠ SỞ PHÁP LÝ CHO VIỆC HỘI NHẬP QUỐC TẾ
CỦA VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC

KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ




Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. ĐOÀN NĂNG










Hà Nội - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin

cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN


Nguyễn Ngọc Vinh























LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các Quý thầy cô tại Khoa Luật -
Đại học Quốc gia Hà Nội đã giúp tôi trang bị đầy đủ tri thức thông qua quá
trình học tập để có thể hoàn thành tốt Luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới Phó Giáo sư, Tiến sỹ
Đoàn Năng, người đã chỉ dẫn tôi tận tình trong suốt thời gian thực hiện nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn các tổ chức, cá nhân đã hợp tác chia sẻ thông tin,
cung cấp cho tôi nhiều tư liệu quý giá phục vụ cho Luận văn. Sau cùng, tôi xin gửi
lời tri ân sâu sắc đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, những người đã động viên, hỗ
trợ tôi rất nhiều trong quá trình học tập, làm việc và hoàn thành Luận văn.


1

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 4
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 4
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 6
3. Mục tiêu 7
4. Phương pháp nghiên cứu 8
5. Nội dung nghiên cứu 8
6. Kết cấu của luận văn 9
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
TRONG LĨNH VỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VÀ CƠ SỞ PHÁP
LÝ CHO VIỆC HỘI NHẬP QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC KHOA HỌC

VÀ CÔNG NGHỆ 10
1.1. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN 10
1.1.1. Khái niệm, hình thức và nội dung hội nhập quốc tế trong lĩnh vực
KH&CN 10
1.1.2. Vai trò và xu hướng phát triển hội nhập quốc tế trong lĩnh vực
KH&CN 16
1.1.2.1. Vai trò của hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN 16
1.1.2.2. Xu hướng phát triển hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN 20
1.2. Cơ sở pháp lý cho việc hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN 23
1.2.1. Các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế trong lĩnh vực KH&CN 23
1.2.2. Các quy định của pháp luật quốc gia về hội nhập quốc tế trong lĩnh
vực KH&CN 24
1.3. Kinh nghiệm một số nước về xây dựng cơ sở pháp lý điều chỉnh vấn đề hội nhập
quốc tế trong lĩnh vực KH&CN 26
1.3.1. Nhóm các nước phát triển 26

2
1.3.1.1. Tại Mỹ 27
1.3.1.2. Tại Nhật Bản 31
1.3.1.3. Tại Hàn Quốc 32
1.3.1.4. Tại Bỉ 33
1.3.1.5. Tại Liên Bang Nga 35
1.3.2. Nhóm các nước đang phát triển 38
1.3.2.1. Tại Trung Quốc 40
1.3.2.2. Tại Malaysia 42
TIỂU KẾT 45
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ QUAN ĐIỂM GIẢI
PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN CƠ SỞ PHÁP LÝ CHO HỘI NHẬP
QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ 48

2.1. Thực trạng cơ sở pháp lý cho hội nhập quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực
KH&CN 48
2.1.1. Quy định của Hiến pháp 48
2.1.2. Quy định của Luật khoa học và công nghệ 50
2.1.3. Quy định của một số đạo luật chuyên ngành hiện hành trong lĩnh vực
KH&CN 56
2.1.3.1. Quy định về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực công nghệ cao 56
2.1.3.2. Quy định về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử 59
2.1.3.3. Quy định về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ
thuật 60
2.1.3.4. Quy định về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đo lường 61
2.1.3.5. Quy định về vấn đề chuyển giao công nghệ 61
2.1.4. Quy định tại một số đạo luật khác 62
2.1.5. Quy định của các văn bản cấp Chính phủ 64
2.1.5.1. Quy định về vấn đề hợp tác, đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực
KH&CN 64

3
2.1.5.2. Quy định về việc thành lập tổ chức KH&CN có vốn nước ngoài và thành
lập tổ chức KH&CN trực thuộc, văn phòng đại diện, chi nhánh của tổ chức
KH&CN Việt Nam ở nước ngoài 67
2.1.5.3. Quy định về việc sử dụng, trọng dụng cá nhân hoạt động KH&CN 73
2.1.5.4. Quy định về việc thu hút cá nhân hoạt động KH&CN là người Việt Nam ở
nước ngoài và chuyên gia nước ngoài tham gia hoạt động KH&CN tại Việt Nam 75
2.1.6. Quy định của các văn bản cấp Bộ 79
2.1.7. Đánh giá chung thực trạng cơ sở pháp lý quốc gia về hội nhập quốc tế
trong lĩnh vực khoa học và công nghệ 80
2.1.8. Quy định của các điều ước quốc tế và các thỏa thuận quốc tế Việt
Nam là thành viên 82
2.2. Phương hướng và quan điểm giải pháp tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hội

nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN 88
2.2.1. Phương hướng 88
2.2.2. Giải pháp và kiến nghị phương án tiếp tục hoàn thiện các quy định về
hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN 91
2.2.2.1. Giải pháp 91
2.2.2.2. Kiến nghị phương án tiếp tục hoàn thiện các quy định về hội nhập quốc tế
trong lĩnh vực KH&CN 94
TIỂU KẾT 102
KẾT LUẬN 103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 106

4

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Tính đến nay, Việt Nam đã có quan hệ hợp tác khoa học và công nghệ
(KH&CN) với gần 70 nước, tổ chức quốc tế và vùng lãnh thổ; đã ký kết và đang
thực hiện hơn 80 hiệp định hợp tác KH&CN cấp Chính phủ và cấp Bộ. Việt
Nam đang là thành viên chính thức và không chính thức của gần 100 tổ chức
quốc tế và khu vực về KH&CN. Theo thống kê của các Bộ, ngành, từ năm 2000
đến nay đã có hơn 500 thoả thuận, hợp đồng hợp tác quốc tế về KH&CN được
thực hiện tại các cơ sở nghiên cứu - triển khai ở các cấp [2, 35].
Nội dung hợp tác quốc tế về KH&CN đã bắt đầu gắn kết với yêu cầu thực
tiễn của các ngành, địa phương, bước đầu phục vụ có hiệu quả cho các nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hình thức hợp tác quốc tế về
KH&CN ngày càng đa dạng và phong phú hơn (bao gồm hợp tác đào tạo nhân
lực KH&CN, nghiên cứu chung, chuyển giao công nghệ, trao đổi chuyên gia, tổ
chức hội thảo, hội nghị, trình diễn công nghệ, hội chợ, triển lãm công nghệ…).
Các lĩnh vực hợp tác cũng được mở rộng, từ nghiên cứu cơ bản đến nghiên cứu

ứng dụng, chuyển giao công nghệ, nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn,
khoa học tự nhiên, nghiên cứu liên ngành.
Hợp tác quốc tế về KH&CN trong thời gian qua đã góp phần tăng cường
cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ, nâng cao trình độ đội ngũ nhân lực KH&CN, thúc đẩy quá trình đổi mới,
nâng cao trình độ công nghệ trong nước. Một số bộ, ngành, địa phương và
doanh nghiệp đã chủ động tiếp cận, mua bán, áp dụng công nghệ tiên tiến, công
nghệ cao trên thế giới và mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần nâng cao khả
năng cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ của nước ta. Hệ thống sở hữu trí tuệ và
tiêu chuẩn đo lường chất lượng sản phẩm đã từng bước được hoàn thiện đáp
ứng các yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. Cơ chế quản lý hoạt động
KH&CN đã từng bước tiếp cận với thông lệ quốc tế, xã hội hoá hoạt động

5
KH&CN thông qua các hình thức tuyển chọn tự do, công khai để các tổ chức, cá
nhân tham gia vào đề tài, dự án sử dụng ngân sách nhà nước, xây dựng các tiêu
chí, quy trình đánh giá, nghiệm thu đề tài, dự án.
Tuy nhiên, hoạt động hợp tác quốc tế về KH&CN của nước ta chưa
đáp ứng được các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội nói chung và của chính
bản thân KH&CN nói riêng của đất nước. Quá trình hợp tác trong thời gian
qua đã bộc lộ không ít hạn chế, bất cập như nhân lực KH&CN chưa đủ năng
lực để tham gia hiệu quả vào các hoạt động KH&CN quốc tế và khu vực, hàm
lượng KH&CN đóng góp cho các hoạt động KH&CN quốc tế và khu vực còn
thấp; cơ sở vật chất - kỹ thuật nhìn chung còn lạc hậu, thiếu thốn, không đồng
bộ, môi trường làm việc chưa chuyên nghiệp; phần lớn các hoạt động hợp tác
quốc tế về KH&CN trong thời gian qua mới chỉ được thực hiện trong khuôn
khổ các hiệp định/thoả thuận hợp tác song phương hoặc đa phương do các bộ,
ngành, địa phương ký kết. Mối quan hệ hợp tác thường diễn ra “một chiều”,
trong đó các đối tác Việt Nam thường là “bên nhận, bên được hỗ trợ”, các đối
tác nước ngoài là “bên cho, bên hỗ trợ”. Điều này dẫn đến sự phụ thuộc vào đối

tác và không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên.v.v. [2, 40]
Trong bối cảnh đó, Thủ tướng Chính phủ đã chủ động phê duyệt Đề án
hội nhập quốc tế về KH&CN. Quốc hội, Chính phủ chỉ đạo sửa đổi Luật
KH&CN năm 2000. Bộ KH&CN được giao chủ trì thực hiện Đề án hội nhập
quốc tế về KH&CN và sửa đổi, bổ sung Luật KH&CN năm 2000 để trình Quốc
Hội thông qua. Việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm hoàn thiện hệ
thống các quy định hội nhập quốc tế về KH&CN có ý nghĩa vô cùng quan trọng
và cần thiết nhằm luật hoá quy định, các giải pháp đã được đề cập trong Đề án
hội nhập quốc tế về KH&CN, tạo cơ sở pháp lý vững chắc và toàn diện cho hoạt
động hội nhập quốc tế về KH&CN trong giai đoạn mới.
Hợp tác quốc tế về KH&CN là một trong những lĩnh vực hợp tác quốc tế
được phát triển rộng rãi, phổ biến trên thế giới hiện nay. Hợp tác quốc tế về
KH&CN cũng được Việt Nam đặc biệt chú trọng phát triển nhằm tranh thủ tối đa
nguồn lực và các thành tựu KH&CN từ các nước trên thế giới, đặc biệt từ các nước

6
có nền KH&CN tiên tiến để phát triển nền KH&CN Việt Nam phục vụ sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia. Thậm chí Đảng
và Nhà nước ta còn khẳng định chủ trương tiến xa hơn trong hoạt động hợp tác
quốc tế về KH&CN, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế về KH&CN.
Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của toàn cầu hóa, tự do hóa khu vực và
quốc tế về kinh tế, thương mại v.v , hợp tác quốc tế về KH&CN giữa các quốc
gia ngày càng được đẩy mạnh, hình thức và nội dung hợp tác ngày càng đa dạng
và phong phú hơn. Tuy nhiên xu hướng phát triển hợp tác quốc tế về KH&CN
không chỉ dừng ở việc đa dạng hóa hình thức và nội dung hợp tác mà đã, đang
và tiếp tục bứt lên theo kịp, thậm chí cần đi trước một bước để phục vụ cho quá
trình toàn cầu hóa, tự do hóa khu vực và quốc tế về kinh tế, thương mại. Đó
chính là quá trình hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa về KH&CN. Để tham gia tốt
quá trình này, Việt Nam cần có hành lang cơ sở pháp lý đầy đủ, đồng bộ, toàn
diện, phục vụ cho mục tiêu của đất nước hội nhập mạnh mẽ, sâu rộng trong sân

chơi quốc tế về KH&CN. Vì vậy, cần có sự nghiên cứu và đánh giá một cách
tổng quan, khái quát nhất thực trạng nội dung các quy định hiện hành phục vụ
cho quá trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN và đề xuất phương
hướng, giải pháp tiếp tục hoàn thiện.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Tính từ thời điểm năm 2000 (sau khi Luật KH&CN đầu tiên của nước ta
có hiệu lực) đến nay đã có một số đề tài nghiên cứu liên quan đến nội dung này
như sau:
- Đề án “Nghiên cứu so sánh các quy định của Luật KH&CN với yêu cầu
của cơ chế quản lý mới về KH&CN” do Vụ Pháp chế, Bộ KH&CN chủ trì
nghiên cứu năm 2006;
- Đề án “Nghiên cứu luận cứ khoa học cho việc sửa đổi, bổ sung Luật
KH&CN năm 2000” do Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN chủ trì thực
hiện năm 2007;
- Đề án “Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật KH&CN” do Viện Chiến lược

7
và Chính sách KH&CN thực hiện năm 2008.
Tuy nhiên, cả 03 đề án trên mới chủ yếu tập trung nghiên cứu, đánh giá
các quy định tổ chức thực hiện nhiệm vụ KH&CN, đầu tư, tài chính cho hoạt
động KH&CN, quản lý nhà nước về KH&CN, chứ chưa chú trọng đầy đủ và
toàn diện đến việc nghiên cứu, tổng kết thực tiễn thi hành các quy định về hợp
tác quốc tế trong Luật KH&CN và các giải pháp thích hợp cho hoạt động hợp
tác quốc tế về KH&CN phù hợp với thực tiễn và chuẩn mực quốc tế.
Đề án Hội nhập quốc tế về KH&CN đến năm 2020 (sau đây gọi tắt là Đề
án Hội nhập) được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2011 đã đánh giá vai
trò của hội nhập quốc tế đối với sự phát triển KH&CN của đất nước, xác định
mục tiêu của hoạt động hội nhập quốc tế về KH&CN và đưa ra một số nhiệm vụ
và giải pháp để đẩy mạnh hoạt động hội nhập quốc tế về KH&CN. Tuy nhiên đề
án này chưa đánh giá đầy đủ và sâu sắc các quy định và thực tiến thực thi các

quy định hợp tác quốc tế về KH&CN trong Luật KH&CN năm 2000 và các văn
bản pháp luật có liên quan.
Ngoài ra còn một số công trình nghiên cứu khác có liên quan:
- Đề án “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn thi hành Luật Khoa học và
Công nghệ 2000 và đề xuất phương án hoàn thiện phù hợp với yêu cầu đổi mới”
do Vụ Pháp chế, Bộ Khoa học và Công nghệ thực hiện năm 2012;
- Đề tài nghiên cứu khoa học “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của
việc đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
KH&CN” do Vụ Pháp chế, Bộ Khoa học và Công nghệ thực hiện năm 2013.
Những công trình này góp phần làm rõ thêm một bước thực trạng các quy
định về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN, đồng thời là cơ sở lý luận cho
việc sửa đổi, bổ sung Luật KH&CN năm 2000. Kết quả của những công trình
này đó là việc Quốc hội ban hành Luật KH&CN năm 2013 với một chương
riêng quy định về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN.
3. Mục tiêu
Nghiên cứu làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn hội nhập quốc tế về

8
KH&CN theo tinh thần của pháp luật về KH&CN của Việt Nam, làm cơ sở cho
việc đề xuất giải pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định này, tạo cơ sở pháp lý tốt
hơn cho việc thúc đẩy hoạt động hội nhập quốc tế về KH&CN trong thời gian tới.
Mục tiêu cụ thể như sau:
- Làm rõ ưu điểm, nhược điểm, nguyên nhân của những bất cập về nội
dung và việc thực thi các quy định về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN;
- Làm rõ vai trò và ảnh hưởng của hội nhập quốc tế đối với sự phát triển
của hoạt động KH&CN;
- Đề xuất cụ thể việc tiếp tục hoàn thiện các quy định về hội nhập quốc tế
của Việt Nam trong lĩnh vực KH&CN.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được triển khai thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ

nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, đường lối, quan điểm của
Đảng, Nhà nước ta về phát triển kinh tế - xã hội, phát triển KH&CN và hội nhập
quốc tế đã được khẳng định tại Cương lĩnh và trong Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI thông
qua, tại Nghị quyết mới “Về phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế” của Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương
khóa XI của Đảng.
Luận văn cũng đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể
sau đây:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp;
- Phương pháp tiếp cận hệ thống;
- Phương pháp so sánh;
- Phương pháp chuyên gia.
5. Nội dung nghiên cứu

9
Luận văn đã tổ chức nghiên cứu 04 nhóm vấn đề sau đây:
1. Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực
KH&CN phục vụ việc đề xuất việc tiếp tục hoàn thiện nội dung các quy định về
hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN;
2. Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển KH&CN và hội nhập quốc tế về
KH&CN của một số nước phục vụ việc đề xuất việc tiếp tục hoàn thiện nội
dung các quy định về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN;
3. Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của việc đề xuất việc tiếp tục hoàn thiện nội
dung các quy định pháp luật về KH&CN của Việt Nam, đặc biệt là hệ thống các
văn bản hướng dẫn thi hành về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN;
4. Đề xuất các quy định cụ thể về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực
KH&CN.
6. Kết cấu của luận văn

Luận văn này gồm phần mở đầu, hai chương và phần kết luận.
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực
KH&CN và cơ sở pháp lý cho việc hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN.
Chương 2. Thực trạng, phương hướng và quan điểm giải pháp tiếp tục
hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hội nhập quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực
KH&CN.

10
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
TRONG LĨNH VỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ CHO VIỆC HỘI NHẬP QUỐC TẾ
TRONG LĨNH VỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Hội nhập quốc tế về KH&CN là một trong những lĩnh vực hội nhập quốc
tế được phát triển rộng rãi, phổ biến trên thế giới hiện nay. Hội nhập quốc tế về
KH&CN cũng được Việt Nam đặc biệt chú trọng phát triển nhằm tranh thủ tối
đa nguồn lực và các thành tựu KH&CN từ các nước trên thế giới, đặc biệt từ các
nước có nền KH&CN tiên tiến để phát triển nền KH&CN Việt Nam phục vụ sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia.
Tại chương này, người viết sẽ phân tích, làm rõ hình thức, nội dung, vai
trò và xu hướng phát triển của hội nhập quốc tế về KH&CN của Việt Nam.
1.1. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN
1.1.1. Khái niệm, hình thức và nội dung hội nhập quốc tế trong lĩnh
vực KH&CN
Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của toàn cầu hóa, tự do hóa khu vực và
quốc tế về kinh tế, thương mại v.v , hợp tác quốc tế về KH&CN giữa các quốc
gia ngày càng được đẩy mạnh, hình thức và nội dung hợp tác ngày càng đa dạng
và phong phú hơn. Tuy nhiên xu hướng phát triển hợp tác quốc tế về KH&CN
không chỉ dừng ở việc đa dạng hóa hình thức và nội dung hợp tác mà đã, đang

và tiếp tục bứt lên theo kịp, thậm chí cần đi trước một bước để phục vụ cho quá
trình toàn cầu hóa, tự do hóa khu vực và quốc tế về kinh tế, thương mại. Đó
chính là quá trình hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa về KH&CN.
KH&CN từ lâu đã trở thành nền tảng phát triển của nhiều ngành, lĩnh
vực, của toàn bộ nền kinh tế của tất cả các nước phát triển cũng như các nước
đang phát triển trên toàn thế giới hiện nay, đặc biệt là đối với các ngành công
nghiệp công nghệ cao. Hội nhập quốc tế về KH&CN cũng đã và đang trở thành
xu thế tất yếu giống như hội nhập quốc tế về kinh tế, thương mại và về các lĩnh

11
vực khác. Có thể nói, với kết quả phát triển ngày càng mạnh mẽ của hội nhập
quốc tế về KH&CN của đông đảo các quốc gia trên thế giới, quá trình quốc tế
hóa hay toàn cầu hoá lĩnh vực KH&CN cũng đang diễn ra như toàn cầu hóa
kinh tế và cũng trở thành xu hướng không thể đảo ngược. Tất cả các cường
quốc cũng như các quốc gia chưa phải là cường quốc về KH&CN đều không thể
đứng ngoài quá trình này.
Vậy hội nhập quốc tế về KH&CN là gì, quốc tế hóa hay toàn cầu hóa
KH&CN là gì ?
Theo các nhà nghiên cứu, “Toàn cầu hoá KH&CN” là một quá trình phát
triển KH&CN, bao gồm 3 nội dung chủ yếu: phối hợp mang tính toàn cầu đối
với công tác nghiên cứu khai thác KH&CN theo nguyên tắc phát huy ưu thế
từng nước và hợp lý nhất để đưa đến hiệu quả cao nhất; quản lý KH&CN toàn
cầu, nghĩa là phương thức tổ chức nghiên cứu KH&CN theo nguyên tắc mở cửa
toàn cầu, khiến các nước phải tuân theo khuôn khổ, chế độ và chuẩn mực quốc
tế chung, tiến hành trao đổi, hợp tác KH&CN theo quy hoạch chung của thế
giới, đảm bảo bản quyền đối với các phát minh và đối tượng sở hữu công
nghiệp; các nước cùng nhau hưởng lợi trên phạm vi toàn cầu đối với thành quả
nghiên cứu, khai thác KH&CN theo nguyên tắc và điều kiện chung.
1


Ba mặt này liên kết với nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau làm thành một thể
thống nhất, tạo thành làn sóng chính của toàn cầu hoá KH&CN. Do toàn cầu
hoá có động lực chủ yếu là thúc đẩy toàn cầu hoá kinh tế, trong đó các công ty
công nghiệp xuyên quốc gia, đặc biệt các công ty công nghiệp xuyên quốc gia
của Hoa Kỳ, của châu Âu và của các nước phát triển khác là lực lượng xung
kích thúc đẩy vì toàn cầu hoá phục vụ trực tiếp cho chiến lược sản xuất và kinh
doanh mang tính toàn cầu của các công ty này, và chính vì vậy hiện nay toàn
cầu hoá KH&CN chủ yếu do các nước phát triển khởi xướng và làm chủ.
Toàn cầu hoá KH&CN có tác động làm thay đổi kết cấu KH&CN quốc


1
Vụ Pháp chế, Bộ Khoa học và Công nghệ (2013), Báo cáo tổng hợp đề tài nghiên cứu khoa
học “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định về
hợp tác quốc tế trong lĩnh vực KH&CN” (Tr 15), Hà Nội.

12
tế, trong đó các nước phát triển giữ vai trò chủ thể chủ yếu và thu lợi nhiều nhất.
Tuy nhiên các nước đang phát triển cũng có thể hưởng lợi ích nhất định do quá
trình này mang lại để phát triển nền KH&CN của mình, nếu biết triệt để khai
thác cơ hội thì có cơ may đi tắt - đón đầu, tránh lãng phí tiền bạc, khai thác các
thành tựu KH&CN của thế giới, tranh thủ nguồn lực xây dựng cơ sở vật chất –
kỹ thuật cho KH&CN, đào tạo nguồn nhân lực KH&CN của mình, nhưng nếu
xử lý không tốt sẽ phải hứng chịu nhiều thách thức và có thể còn bị lệ thuộc về
kỹ thuật, dẫn đến lệ thuộc về kinh tế và cuối cùng là bị nô dịch về chính trị-xã
hội.
Nhờ quốc tế hóa, toàn cầu hoá mà KH&CN phát triển nhanh hơn, và
ngược lại KH&CN phát triển nhanh lại đẩy mạnh quốc tế hóa, toàn cầu hoá, khu
vực hoá, nhất là các lĩnh vực công nghệ thông tin, truyền thông, công nghệ
truyền dẫn năng lượng và vận tải.

2

Đối với các nước phát triển và có nền KH&CN hùng mạnh, việc hội nhập
quốc tế về KH&CN, thậm chí tham gia sâu vào quá trình quốc tế hóa, toàn cầu
hóa KH&CN sẽ mang lại cho họ nhiều lợi ích to lớn không ai có thể phủ nhận
được.
Nếu trước đây hợp tác quốc tế về KH&CN của các nước kém phát triển và
đang phát triển chỉ dừng ở vị trí nhận viện trợ, nhận giúp đỡ thụ động và do đó kết
quả hợp tác rất kém hiệu quả, thì ngày nay họ đã, đang cố gắng từng bước chuyển
sang thế chủ động hơn, thậm chí nhiều nước đang phát triển, đặc biệt các cường
quốc kinh tế mới nổi đã có những bước đi mạnh mẽ theo hướng hội nhập quốc tế
về KH&CN với ý nghĩa hợp tác quốc tế về KH&CN được chuyển biến về chất,
được nâng lên tầm cao hơn, chủ động từ cả hai hay nhiều bên hợp tác, đi vào chiều
sâu, bình đẳng, cùng có lợi, theo luật chơi chung [6, 32].
Vậy hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập quốc tế về KH&CN nói
riêng nên được hiểu như thế nào, bản chất, nội dung, xu hướng phát triển của nó


2
Vụ Pháp chế, Bộ Khoa học và Công nghệ (2013), Báo cáo tổng hợp đề tài nghiên cứu khoa
học “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định về
hợp tác quốc tế trong lĩnh vực KH&CN” (Tr 15), Hà Nội.

13
ra sao. Đây là vấn đề còn có nhiều ý kiến khác nhau. Công trình nghiên cứu của
TS. Phạm Quốc Trụ đã giới thiệu và phân tích các quan điểm khác nhau này: Ý
kiến thứ nhất cho rằng, hội nhập quốc tế (intergration) là một sản phẩm hơn là
một quá trình. Sản phẩm đó là một nhà nước liên bang như Hoa kỳ hay Thụy Sỹ
[Carl J. Friedrich (1968), Trends of Federalism in Theory and Practice,
Praeger, New York] [Theodore A. Couloumbis & James H. Wolfe (1986),

Introduction International relations: Power & Justice, Prentice-Hall,
Englewood Cliffs, New Jersey]. Ý kiến thứ hai cho rằng hội nhập vừa là một
quá trình vừa là một sản phẩm cuối cùng, chính là sự liên kết các quốc gia thông
qua phát triển các luồng giao lưu như thương mại, đầu tư, thông tin, du lịch, văn
hóa từ đó dần dần hình thành cộng đồng an ninh (security community) kiểu
như Hoa Kỳ hay Tây Âu [Karl W. Deutsch and all, Political Community and the
North Atlantic Area, Princeton University Press, Princeton, N.J.].Ý kiến thứ ba
cho rằng hội nhập là việc các nước mở rộng và làm sâu sắc quan hệ hợp tác mới
trên cơ sở phân công lao động quốc tế có chủ đích, dựa vào lợi thế của mỗi
nước. TS. Phạm Quốc Trụ cho rằng cả ba cách hiểu nêu trên đều có khiếm
khuyết và không chấp nhận được, đồng thời đề nghị coi “Hội nhập quốc tế là
quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng cường sự gắn kết họ với nhau
dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực (thẩm
quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ
các định chế hoặc tổ chức quốc tế”. Đây là cách hiểu có cơ sở khoa học, toàn
diện, đúng đắn, thể hiện đúng bản chất của hiện tượng.
3

Hiện nay khái niệm hội nhập quốc tế được các nước sử dụng rộng rãi
trong tất cả các lĩnh vực, kể cả lĩnh vực KH&CN. Khái niệm hội nhập quốc tế
cũng được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam trong các văn kiện của Đảng và Nhà
nước với nội hàm như TS. Phạm Quốc Trụ đề nghị. Khái niệm này được sử
dụng trên mọi lĩnh vực, mọi diễn đàn, mọi phương tiện thông tin đại chúng đến
mức trở thành thuật ngữ thân quen, câu nói cửa miệng của cán bộ, công chức và
nhân dân. Thậm chí Đảng và Nhà nước ta còn khẳng định chủ trương nhất quán


3
Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, Học viện Ngoại giao, số 2/2011, (tr. 77-99).


14
là tích cực và chủ động hội nhập quốc tế.
4

Một cách khái quát nhất, hội nhập quốc tế về KH&CN là sự phát triển sâu
rộng hơn các mối quan hệ hợp tác quốc tế trong tiến hành hoạt động KH&CN,
trong đó mỗi quốc gia tự gắn bó với cộng đồng KH&CN quốc tế như là một bộ
phận không thể tách rời, cùng hợp tác, phân công và phối hợp hành động trong
quá trình nghiên cứu và phát triển KH&CN, nhằm mục đích chung là làm phong
phú và sâu sắc kho kiến thức của nhân loại, đồng thời những quyền lợi quốc gia
về phát triển KH&CN, kinh tế - xã hội cũng được giải quyết một cách hiệu quả
hơn nhiều so với những cố gắng của từng quốc gia riêng lẻ [8].
Nói cách khác, hội nhập quốc tế chính là hợp tác quốc tế ở trình độ
cao, sâu sắc, gắn kết chặt chẽ, cùng chia sẻ lợi ích, hoạt động bình đẳng theo
luật chơi chung và là xu thế chung của thế giới nhằm lĩnh hội kho tàng kiến
thức của nhân loại và đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của các
quốc gia.
Từ ngày thành lập đến nay, đặc biệt từ khi triển khai thực hiện đường lối
đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng, Nhà nước ta luôn luôn có
chủ trương mở rộng giao lưu và hội nhập quốc tế về KH&CN; tạo điều kiện để
các tổ chức, cá nhân Việt Nam hợp tác về KH&CN với các tổ chức, cá nhân
nước ngoài, các tổ chức quốc tế; tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức
quốc tế theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, bình đẳng và
cùng có lợi.
Nhà nước cũng có các cơ chế, chính sách thu hút trí thức là người Việt
Nam định cư ở nước ngoài, các chuyên gia giỏi của thế giới tham gia phát triển
KH&CN Việt Nam.
Các tổ chức KH&CN, cá nhân hoạt động KH&CN của Việt Nam được
nhận tài trợ, tham gia tổ chức KH&CN, hội KH&CN, tham gia hoạt động
nghiên cứu, đào tạo, tư vấn, hội nghị KH&CN của tổ chức quốc tế, tổ chức, cá



4
Vụ Pháp chế, Bộ Khoa học và Công nghệ (2013), Báo cáo tổng hợp đề tài nghiên cứu khoa
học “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định về
hợp tác quốc tế trong lĩnh vực KH&CN” (Tr 16), Hà Nội.

15
nhân nước ngoài; hợp tác thực hiện nhiệm vụ KH&CN của Việt Nam ở nước
ngoài.
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân
nước ngoài được lập Quỹ phát triển KH&CN tại Việt Nam theo quy định của
Chính phủ; được đóng góp xây dựng các quỹ phát triển KH&CN của Việt Nam
quy định của pháp luật Việt Nam.
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân
nước ngoài hợp tác phát triển KH&CN tại Việt Nam được Nhà nước khuyến
khích, bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp.
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân
nước ngoài thành lập hoặc hợp tác với tổ chức, cá nhân Việt Nam thành lập tổ
chức KH&CN tại Việt Nam được hưởng các ưu đãi về thuế, sử dụng đất và các
ưu đãi khác theo quy định của pháp luật. Nhà nước đã ban hành chính sách, biện
pháp để sử dụng có hiệu quả vốn vay và viện trợ của nước ngoài đầu tư phát
triển KH&CN.
5

Như vậy có thể nói hình thức và nội dung hội nhập quốc tế của Việt Nam
về KH&CN rất phong phú, đa dạng. Có thể cụ thể hóa các hình thức và nội
dung hội nhập này trong thực tiễn như sau:
- Phía nước ngoài tài trợ vốn, máy móc, thiết bị, phương tiện nghiên cứu
cho Nhà nước Việt Nam, cho các tổ chức, cá nhân Việt Nam để nghiên cứu giải

quyết các vấn đề KH&CN của Việt Nam.
- Các tổ chức, cá nhân Việt Nam tham gia tổ chức KH&CN, hội KH&CN
của nước ngoài. Các tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia tổ chức KH&CN,
hội KH&CN của Việt Nam.
- Cả hai phía cùng tham gia thực hiện các nhiệm vụ KH&CN ở trong và
ngoài Việt Nam.


5
Vụ Pháp chế, Bộ Khoa học và Công nghệ (2013), Báo cáo tổng hợp đề tài nghiên cứu khoa
học “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định về
hợp tác quốc tế trong lĩnh vực KH&CN” (Tr 8), Hà Nội.

16
- Phía nước ngoài hỗ trợ đào tạo, nâng cao trình độ cho đội ngũ nhân lực
KH&CN, tư vấn về KH&CN cho phía Việt Nam.
- Tổ chức, cá nhân Việt Nam tham gia các hội nghị, hội thảo KH&CN của tổ
chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài; tổ chức các hội nghị, hội thảo KH&CN
quốc tế tại Việt Nam với sự tham gia của các tổ chức, cá nhân nước ngoài.
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, chuyên gia nước ngoài tham gia
hoạt động KH&CN tại Việt Nam.
- Thành lập các tổ chức KH&CN có vốn nước ngoài, văn phòng đại diện,
chi nhánh của tổ chức nước ngoài tại Việt Nam.
- Các hình thức trực tiếp trao đổi học thuật ngoài hội nghị, hội thảo giữa
các nhà khoa học Việt Nam và các nhà khoa học nước ngoài v.v…
1.1.2. Vai trò và xu hƣớng phát triển hội nhập quốc tế trong lĩnh vực
KH&CN
1.1.2.1. Vai trò của hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN
Hội nhập quốc tế về KH&CN là một trong những lĩnh vực hội nhập quốc
tế được phát triển khá nhanh, rộng rãi, phổ biến trên thế giới hiện nay. Hội nhập

quốc tế về KH&CN cũng được Việt Nam đặc biệt chú trọng thúc đẩy phát triển
mạnh. Sở dĩ như vậy là vì hội nhập quốc tế về KH&CN có vai trò to lớn đối với
sự phát triển KH&CN của mỗi quốc gia, đặc biệt đối với những quốc gia kém
hoặc đang phát triển.
Trong thời đại xây dựng nền kinh tế tri thức, toàn cầu hóa, tự do hoá
thương mại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và không thể đảo ngược,
các quốc gia phát triển đã, đang và sẽ tiếp tục dựa vào KH&CN, lấy KH&CN
làm công cụ bảo đảm sức mạnh kinh tế, quân sự và sức cạnh tranh của mình. Họ
coi tài sản trí tuệ tạo ra từ hoạt động KH&CN mới là tài sản lớn nhất, quan
trọng nhất để bảo đảm vị thế và sức cạnh tranh của mình. Hội nhập quốc tế về
KH&CN đối với các nước phát triển, các nước được gọi là cường quốc về
KH&CN cũng rất quan trọng. Chính hội nhập quốc tế về KH&CN giúp các
nước này phối hợp giải quyết nhanh hơn các vấn đề KH&CN cùng được quan

17
tâm hoặc có tính toàn cầu, rút ngắn thời gian, tiết kiệm sức lực.
Các quốc gia kém phát triển cũng như đang phát triển đều cần phải dựa
vào KH&CN để bứt phá, để thực hiện sứ mệnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước thì mới đứng vững và tồn tại. Hội nhập quốc tế về KH&CN đã tạo cơ
hội cho các nước này phát triển KH&CN phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm quốc phòng, an ninh quốc gia của mình [5, 18].
Hội nhập quốc tế về KH&CN mang lại cho các nước đang phát triển,
trong đó có Việt Nam các cơ hội thuận lợi cụ thể sau đây:
- Giúp huy động các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực, tin lực từ bên ngoài
để phát triển KH&CN trong nước;
- Tạo ra cơ hội tranh thủ tri thức KH&CN tiên tiến/kinh nghiệm hoạt động
và tổ chức quản lý hoạt động KH&CN của đối tác nước ngoài để giúp giải quyết
những vấn đề thách thức của trong nước về KH&CN;
- Tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi nước tiếp cận, tìm kiếm, làm chủ, khai
thác và thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến, công nghệ cao của các đối tác

nước ngoài vào nước mình;
- Giúp nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực đội ngũ nhân
lực KH&CN ngang tầm với trình độ và năng lực của đội ngũ nhân lực KH&CN
của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới [5, 19].
Nhận thức rõ vai trò của hợp tác, hội nhập quốc tế về KH&CN, Nhà nước
ta đã có nhiều biện pháp để thúc đẩy lĩnh vực hoạt động này. Thành công chủ
yếu của hoạt động hợp tác, hội nhập quốc tế về KH&CN của Việt Nam trong
những năm qua là đã đưa nước ta từ một quốc gia nhận viện trợ và hợp tác bị
động trở thành đối tác bình đẳng trong hợp tác và từng bước chủ động hội nhập
quốc tế về kinh tế và về KH&CN. Như ở trên đã trình bày, đến nay Việt Nam đã
có quan hệ hợp tác về KH&CN với gần 70 nước, tổ chức quốc tế và vùng lãnh
thổ. Hơn 80 hiệp định hợp tác KH&CN và hàng loạt thỏa thuận quốc tế đã được
ký kết và đang triển khai thực hiện. Việt Nam đã là thành viên của gần 100 tổ
chức quốc tế và khu vực về KH&CN.

18
Như đã trình bày ở các mục trên, kết quả cụ thể của hội nhập quốc tế về
KH&CN đã góp phần nâng cao năng lực của đất nước trong ứng dụng năng
lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình, phục vụ chương trình điện hạt nhân của
Việt Nam; thành lập được các phòng thí nghiệm hỗn hợp và các trung tâm khoa
học tại Việt Nam hoặc các nước; hợp tác nghiên cứu chung trong khuôn khổ các
nghị định thư (thực hiện từ năm 2003) với nhiều kết quả được ứng dụng trong
thực tiễn, góp phần nâng cao năng lực KH&CN quốc gia. Hoạt động giao lưu,
trao đổi học thuật về KH&CN trong phạm vi khu vực và quốc tế đã được đẩy
mạnh hơn trước. Việt Nam đã chủ động đăng cai, tổ chức thành công nhiều hội
nghị, hội thảo quốc tế về KH&CN thu hút sự tham gia của nhiều nhà khoa học,
học giả có uy tín trên thế giới. Đã hình thành mạng lưới đại diện KH&CN Việt
Nam tại một số địa bàn trọng điểm, bước đầu đã khai thông nhiều kênh hợp tác
về KH&CN với nước ngoài, hỗ trợ hoạt động tìm kiếm, chuyển giao công nghệ
từ nước ngoài về Việt Nam.

Các hoạt động hợp tác, hội nhập quốc tế về KH&CN đã và đang được
triển khai rộng khắp ở quy mô quốc gia và ở từng bộ, ngành, từng tổ chức
KH&CN.
Trong giai đoạn 2001-2008, có 27 bộ, ngành và địa phương đã được giao
thực hiện 336 nhiệm vụ hợp tác quốc tế theo các nghị định thư ký với các nước
và phía Việt nam đã phân bổ tổng mức kinh phí đối ứng là 296 tỷ đồng. Kết quả
thu được từ việc thực hiện các nhiệm vụ hợp tác theo nghị định thư [12, 12]:
- Huy động được nguồn kinh phí từ đối tác nước ngoài: Thông qua các
nhiệm vụ Nghị định thư số kinh phí phía đối tác bỏ ra để cùng thực hiện với ta đạt
128 triệu đô la Mỹ, so với số kinh phí đối ứng cấp từ ngân sách sự nghiệp khoa học
là gần 365 tỷ VNĐ (khoảng 19,2 triệu USD). Theo tỷ lệ này, 1 đồng kinh phí ta bỏ
ra, huy động được 6,6 đồng của đối tác; kinh phí Việt Nam chiếm khoảng 13%,
đối tác nước ngoài chiếm 87% tổng số kinh phí được đầu tư để thực hiện các
nhiệm vụ. Số kinh phí này chưa bao gồm các khoản “phi tiền tệ” khác Việt Nam
được thụ hưởng: đào tạo tiến sĩ và thạc sĩ Việt Nam ở nước ngoài (ước tính khoảng
7 triệu USD) và các trang thiết bị nghiên cứu, đo đạc được để lại cho các đơn vị

19
Việt Nam khi kết thúc dự án (ước khoảng 7,5 triệu USD).
- Nâng cao năng lực cán bộ KH&CN Việt Nam: Thông qua các chương
trình/dự án trong giai đoạn này đã đào tạo được 105 tiến sĩ (trong đó có 62 tiến
sĩ được đào tạo ở nước ngoài, 43 đào tạo trong nước thông qua các dự án nghiên
cứu); 121 thạc sĩ (trong đó có 47 thạc sĩ đào tạo ở nước ngoài, 74 đào tạo trong
nước). Bên cạnh đó, có 409 lượt cán bộ được sang các nước thực tập/trao đổi
dài hạn (tính từ 1 tháng trở lên: chủ yếu là nghiên cứu chuyên sâu, phân tích
mẫu tại các phòng thí nghiệm, cơ sở nghiên cứu của đối tác); và 775 lượt cán bộ
đi trao đổi ngắn hạn ở nước ngoài (dưới 1 tháng). Tổ chức được 752 hội
nghị/hội thảo, trong đó có 334 hội nghị/hội thảo quốc tế (có sự tham gia của các
nhà khoa học quốc tế và in ấn các kỷ yếu bằng tiếng Anh và tiếng Việt). Theo
thống kê chưa đầy đủ giai đoạn này có 147 bài báo Quốc tế và 301 bài báo trong

nước.
- Sản phẩm KH&CN: Có 158 mẫu, sản phẩm được tạo ra, thử nghiệm,
trình diễn và phát triển. Đây là những sản phẩm có giá trị thương mại có thể đưa
ra thị trường; có những sản phẩm đang được tiêu thụ trên thị trường. Có 302 vật
liệu, thiết bị, máy móc, mô hình trình diễn, giống cây trồng và vật nuôi được tạo
ra. Có 216 phần mềm, quy trình công nghệ, tiêu chuẩn kỹ thuật mới được thiết
lập và phát triển. Có 08 patent được cấp phép và bảo hộ trong nước.
- Trang thiết bị Việt Nam thụ hưởng: Thông qua triển khai các nhiệm vụ
Nghị định thư, phía đối tác nước ngoài đã tặng cơ quan thực hiện phía Việt Nam
một số trang thiết bị nghiên cứu, phần mềm có giá trị, ước tính khoảng 7,5 triệu
USD, trong đó có một số trang thiết bị quan trọng như: Thiết bị đo lưu động
bằng laser để kiếm soát chất lượng nước về mặt sinh học; 1 bộ thiết bị, máy
móc đo địa vật lý thuộc lĩnh vực KH&CN hiện đại, có độ chính xác cao bao
gồm: 1 máy đo địa điện độ chính xác cao -4P LHp 031; 2 hộp gồm 100 chip
điều khiển đo tự động trong công nghệ địa điện đa cực; phần mềm điều khiển tự
động; hệ cảm biến (sensore) ghi tự động biến đổi nhiệt độ và áp lực không khí
trong đất (Tensiometer) trong thân đê, 1 bộ thiết bị ghi tự động biến động mực
nước ngầm trong lỗ khoan thủy văn tại trạm đo giám sát đê; hệ thiết bị 1 trạm

20
quan trắc khí tượng, gồm những máy ghi số liệu quan trắc về nhiệt độ đất và độ
ẩm đất, những thiết bị phân tích nước tại chỗ, những thiết bị quan trắc bụi, 1
thiết bị quét laser 3D (trắc địa), 1 thiết bị đo tốc độ dòng chảy trong nước, 1
thiết bị GPS, 1 cân chính xác; 4 tấn thiết bị cho 17 trạm giám sát mực nước và
phù sa được lắp đặt trong khu vực nghiên cứu điển hình Đồng Tháp Mười và 3
trạm phao vận hành nhờ có trang bị đầu thu GPS dùng để giám sát mực nước và
chất lượng nước. Ngoài ra phía Việt Nam còn thụ hưởng các phần mềm phục vụ
nghiên cứu và giảng dạy như MIKE 11, SWAT [12, 12],
Như vậy, tất cả các quốc gia dù là phát triển đến trình độ cao hay kém
phát triển, đang phát triển cũng đều nhận thức rõ vai trò của hội nhập quốc tế về

KH&CN, đều chú trọng đẩy mạnh phát triển hội nhập quốc tế về KH&CN để
tranh thủ cơ hội và các nguồn lực từ bên ngoài nhằm thúc đẩy phát triển
KH&CN của quốc gia mình, phục vụ việc giành lợi thế trong cuộc cạnh tranh
về sức mạnh kinh tế, thương mại, quân sự v.v trên toàn cầu.
1.1.2.2. Xu hướng phát triển hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN
Hiện nay quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra trên nhiều lĩnh vực của
đời sống xã hội, bao gồm cả lĩnh vực KH&CN. Quá trình hội nhập quốc tế diễn
ra không giống nhau trong các lĩnh vực và ở các nước khác nhau. Mức độ, phạm
vi, hình thức hội nhập ở từng lĩnh vực và ở từng nước phụ thuộc vào nhiều yếu
tố, trong đó có yếu tố khả năng phát huy lợi thế của quốc gia hội nhập, mức độ
sẵn sàng và lợi ích do hội nhập mang lại đến đâu và cả khả năng, biện pháp hạn
chế tác động tiêu cực phát sinh trong quá trình hội nhập v.v [6, 20]
Hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày
một gia tăng. Đây là quá trình tìm kiếm lợi ích trong khuôn khổ hợp tác và cạnh
tranh. Trong quá trình đó, bên cạnh những lợi thế có được do mở rộng quan hệ,
tiếp thu kinh nghiệm, tìm kiếm đối tác, tranh thủ sự hỗ trợ của các nước tiên tiến
và các tổ chức quốc tế, các nước đang phát triển cũng gặp không ít khó khăn,
thách thức về thị trường, vốn, trình độ quản lý, trình độ KH&CN, buộc phải
nhanh chóng đổi mới một cách toàn diện cả về phương thức lãnh đạo, quản lý,
xây dựng định hướng, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội để rút ngắn khoảng

21
cách phát triển. Nhận thức được tính tất yếu hội nhập kinh tế quốc tế đối với
công cuộc phát triển đất nước, hầu hết các quốc gia đều tích cực mở rộng quan
hệ hợp tác quốc tế dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau.
Trong bối cảnh đó, hội nhập quốc tế về KH&CN đã trở thành một yếu tố
không thể thiếu trong chính sách đối ngoại và chính sách phát triển KH&CN
của mỗi nước và là một thành tố quan trọng trong hội nhập kinh tế quốc tế, một
trào lưu phát triển, một hình thức quan hệ giữa các đối tác trên thế giới.
Ngày nay, quan hệ quốc tế về KH&CN vừa mang tính hợp tác vừa mang

tính cạnh tranh, nên về thực chất hợp tác quốc tế chính là một biểu hiện của hội
nhập quốc tế, nhằm vào những mục tiêu như sau:
- Phát triển KH&CN: Điều này đòi hỏi các quốc gia, các tổ chức, cá nhân
hợp tác, liên kết để tiến hành các nghiên cứu chung nhằm huy động thêm nguồn
lực, rút ngắn thời gian, giảm chi phí;
- Tăng cường vai trò, ảnh hưởng: Các tổ chức quốc tế và khu vực thực
hiện chính sách hợp tác KH&CN không chỉ để giúp các nước đang phát triển
mà còn thông qua đó để tăng cường vai trò, ảnh hưởng của mình;
- Mở rộng sản xuất, mở rộng thị trường và tăng lợi nhuận: Các nước phát
triển, các công ty xuyên quốc gia mở rộng hợp tác để duy trì, nâng cao vị trí độc
quyền của mình, để mở rộng sản xuất, mở rộng thị trường và tăng lợi nhuận;
- Nâng cao khả năng cạnh tranh: Các nhà đầu tư nước ngoài phải đào tạo
đội ngũ cán bộ KH&CN, công nhân lành nghề và chuyển giao công nghệ cho
nước sở tại. Các nước đang phát triển phải chuẩn bị nguồn lực, tăng cường cơ
sở vật chất, kỹ thuật cho nghiên cứu và đào tạo, hoàn thiện cơ sở hạ tầng thông
tin - viễn thông, điều chỉnh các quy định pháp lý để theo đuổi mục tiêu này.
Xu hướng thiết lập các hình thức liên kết hợp tác quốc tế về KH&CN
đang trở nên phổ biến với sự tham gia của nhiều công ty, nhiều nước trong các
lĩnh vực như thiết bị điện, tin học và viễn thông, hoá chất, thiết bị giao thông
vận tải, nghiên cứu vũ trụ, hải dương, môi trường và các lĩnh vực công nghệ cao
khác. Sự hợp tác nói trên thường được đánh giá qua các chỉ số chủ yếu như:

×