Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

thành phần thiên địch của nhóm rầy hại thân lúa vụ mùa năm 2014; đặc điểm sinh học, sinh thái loài bọ xít mù xanh (cyrtorhinus lividipennis reuter) tại nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (30.49 MB, 91 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
***


BÙI THỊ TRANG


THÀNH PHẦN THIÊN ĐỊCH CỦA NHÓM RẦY HẠI THÂN LÚA
VỤ MÙA NĂM 2014; ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, SINH THÁI LOÀI
BỌ XÍT MÙ XANH (Cyrtorhinus lividipennis Reuter) TẠI NAM ĐỊNH


CHUYÊN NGÀNH : BẢO VỆ THỰC VẬT
MÃ SỐ : 60.62.01.12


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS TRẦN ĐÌNH CHIẾN


HÀ NỘI – 2015
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page i

LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan rằng kết quả nghiên cứu này là của riêng tôi, các kết


quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được sử dụng để
bảo vệ một công trình nghiên cứu nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này
đều đã được cảm ơn. Các thông tin trích dẫn sử dụng trong luận văn đều
được ghi rõ các nguồn gốc, xuất xứ.
Nam Định, ngày 10 tháng 6 năm 2015
Tác giả luận văn




Bùi Thị Trang
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii

LỜI CẢM ƠN


Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, trong suốt quá trình thực tập
nghiên cứu, tôi đã nhận được sự hướng dẫn , chỉ bảo nhiệt tình của giáo viên
hướng dẫn, của tập thể, cá nhân, sự động viên của gia đình, bạn bè.
Trước tiên, Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Trần Đình
Chiến - Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt
quá trình thực hiện đề tài, và các quý thầy cô giáo trong Bộ môn Côn trùng -
Khoa Nông học.
Tôi xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo và các đồng nghiệp ở Chi cục
BVTV Nam Định đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện
và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các tập thể, cá nhân, bạn bè và
người thân đã động viên khích lệ tôi trong thời gian học tập tại trường và thực

hiện đề tài tốt nghiệp.

Nam Định, ngày 10 thán 6 năm 2015
Tác giả luận văn


Bùi Thị Trang

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii

MỤC LỤC
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Chữ viết tắt, ký hiệu vii
Danh mục bảng vii
Danh mục hình viii
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài 4
1.2. Những nghiên cứu ngoài nước 5
1.2.1. Nghiên cứu về nhóm rầy hại thân 5
1.2.2. Nghiên cứu về thiên địch của nhóm rầy hại thân 10
1.2.3. Nghiên cứu về bọ xít mù xanh 11
1.3. Những nghiên cứu trong nước 13
1.3.1. Nghiên cứu về nhóm rầy hại thân 13
1.3.2. Nghiên cứu về thiên địch trên nhóm rầy hại thân lúa 18
1.3.3. Nghiên cứu về bọ xít mù xanh 19
Chương 2: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 22

2.1. Đối tượng nghiên cứu 22
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu 22
2.3. Vật liệu và dụng cụ nghiên cứu 22
2.4. Nội dung nghiên cứu 22
2.5. Phương pháp nghiên cứu 22
2.5.1. Điều tra thiên địch của nhóm rầy hại thân lúa 22
2.5.2. Điều tra diễn biến mật độ nhóm rầy hại thân lúa trên đồng
ruộng 23
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv

2.5.3. Một số đặc tính sinh vật học của bọ xít mù xanh trong phòng
thí nghiệm 24
2.5.4. Thời gian phát dục các pha bọ xít mù xanh khi cung cấp mật
độ vật mồi khác nhau (rầy nâu tuổi 2, tuổi 3) 26
2.5.5. Xác định sức sinh sản của trưởng thành cái 26
2.5.6. Xác định sức tiêu thụ vật mồi của các pha phát dục bọ xít mù
xanh 26
2.6. Công thức tính toán. 27
2.7. Phương pháp xử lý số liệu 28
Chương 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 29
3.1. Thành phần nhóm rầy hại thân lúa và thiên địch phổ biến của chúng
vụ mùa 2014 tại xã Nam Toàn huyện Nam Trực tỉnh Nam Định. 29
3.1.1. Thành phần nhóm rầy hại thân lúa 29
3.1.2. Thành phần thiên địch của nhóm rầy hại thân lúa 30
3.2. Vị trí phân loại và đặc điểm hình thái của loài bọ xít mù xanh
Cyrtorhinus lividipennis.
34
3.2.1. Vị trí phân loại. 34
3.2.2. Đặc điểm hình thái bọ xít mù xanh C.lividipennis. 34

3.3. Đặc điểm sinh học của bọ xít mù xanh C.lividipennis. 40
3.3.1. Tập tính sinh sống 40
3.3.2. Thời gian phát dục các pha bọ xít mù xanh C.lividipennis 41
3.3.3. Sức đẻ trứng của trưởng thành cái 42
3.3.4. Nhịp điệu đẻ trứng của Bọ xít mù xanh C.lividipennis 43
3.3.5. Tỷ lệ trứng nở 45
3.3.6. Tỷ lệ sống sót 46
3.3.7. Tỷ lệ đực cái 47
3.3.8. Khả năng tiêu thụ vật mồi của các pha loài bọ xít mù xanh C.
lividipennis 49
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v

3.3.9.Thời gian phát dục các tuổi bọ xít mù xanh C.lividipennis khi
cung cấp mật độ vật mồi khác nhau (rầy nâu non tuổi 2, tuổi 3) 50
3.4. Ảnh hưởng của một số yếu tố sinh thái đến mật độ nhóm rầy hại thân
và bọ xít mù xanh C.lividipennis trong vụ mùa 2014 tại Nam Toàn,
Nam Trực, Nam Định.
51
3.4.1. Ảnh hưởng yếu tố thời vụ 52
3.4.2. Ảnh hưởng yếu tố giống 54
3.5. Tương quan mật độ giữa nhóm rầy hại thân lúa với mật độ bọ xít mù
xanh.
58
3.5.1. Tương quan mật độ giữa nhóm rầy hại thân lúa và bọ xít mù
xanh trên giống Bắc Thơm số 7 58
3.5.2. Tương quan mật độ giữa nhóm rầy hại thân lúa và bọ xít mù
xanh trên giống Bắc Thơm kháng bạc lá 59
3.5.3. Tương quan mật độ giữa nhóm rầy hại thân lúa và bọ xít mù
xanh trên giống BC15 60

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 61
Kết luận 61
Kiến nghị 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO 63
2. Phụ lục xử lý thống kê 69



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

STT
Chữ viết tắt, ký hiệu Diễn giải chữ viết tắt, ký hiệu
1
BXMX Bọ xít mù xanh
2
BNN&PTNT Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
3
Bph Biotype (Nòi sinh học)
4
BVTV Bảo vệ thực vật
5
CT Công thức
6
o
C Nhiệt độ (độ C)
7
KHNN Khoa học nông nghiệp

8
N Tổng số cá thể
9
NXB Nhà xuất bản
10
TB Trung bình
11
TL Tỷ lệ
12
TT Trưởng thành
13
STT Số thứ tự
14
VFA Hiệp hội lương thực Việt Nam
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii

DANH MỤC BẢNG
STT Tên bảng Trang
3.1. Thành phần nhóm rầy hại thân lúa vụ mùa 2014 tại xã Nam Toàn
huyện Nam Trực tỉnh Nam Định 29
3.2. Thành phần thiên địch của nhóm rầy hại thân lúa vụ mùa 2014 tại xã
Nam Toàn huyện Nam Trực tỉnh Nam Định. 31
3.3: Kích thước các pha bọ xít mù xanh C.lividipennis 39
3.4. Thời gian phát dục các pha của bọ xít mù xanh C.lividipennis 41
3.5: Sức đẻ trứng của trưởng thành cái bọ xít mù xanh C.lividipennis 42
3.6: Nhịp điệu đẻ trứng của trưởng thành cái bọ xít mù xanh
C.lividipennis 44
3.7: Tỷ lệ trứng nở bọ xít mù xanh C.lividipennis 46
3.8: Tỷ lệ sống sót loài bọ xít mù xanh C.lividipennis 47

3.9: Tỷ lệ đực cái bọ xít mù xanh C.lividipennis 48
3.10. Sức tiêu thụ rầy nâu non (tuổi 2, tuổi 3) của các pha phát dục bọ xít
mù xanh Cyrtorhinus lividipennis 49
3.11. Ảnh hưởng mật độ vật mồi (rầy nâu tuổi 2, tuổi 3) tới thời gian phát
dục các pha của bọ xít mù xanh C.lividipennis. 50
3.12. Diễn biến mật độ nhóm rầy hại thân và bọ xít mù xanh trong trà
sớm và trà trung 2014 tại Nam Trực, Nam Định 52
3.14. Diễn biến mật độ nhóm rầy hại thân và bọ xít mù xanh trên giống
TEJ vàng vụ mùa 2014 tại Nam Trực, Nam Định 56
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page viii

DANH MỤC HÌNH
STT Tên hình Trang
3.1: Một số hình ảnh thiên địch của nhóm rầy hại thân lúa 33
3.2: Trứng mới đẻ 34
3.3: Trứng sắp nở 34
3.4: Ấu trùng bọ xít mù xanh tuổi 1 35
3.5: Ấu trùng bọ xít mù xanh tuổi 2 36
3.6: Ấu trùng bọ xít mù xanh tuổi 3 36
3.7: Ấu trùng bọ xít mù xanh tuổi 4 37
3.8. Trưởng thành cái mặt lưng 38
3.9. Trưởng thành cái mặt bụng 38
3.10: Bộ phận sinh dục ngoài 38
3.11: Bộ phận sinh dục ngoài (con cái) 38
3.13. Diễn biến mật độ nhóm rầy hại thân và bọ xít mù xanh trong trà sớm và
trà trung 2014 tại Nam Trực, Nam Định 53
3.14. Diễn biến nhóm rầy hại thân và bọ xít mù xanh trên giống BC15 vụ mùa
2014 tại Nam Trực - Nam Định 55
3.15. Diễn biến mật độ nhóm rầy hại thân và bọ xít mù xanh trên giống TEJ

vàng vụ mùa 2014 tại Nam Trực, Nam Định 57
3.17. Tương quan mật độ giữa nhóm rầy hại thân lúa và bọ xít mù xanh trên
giống Bắc Thơm kháng bạc lá 59
3.18. Tương quan mật độ giữa nhóm rầy hại thân lúa và bọ xít mù xanh trên
giống BC15 60
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cây lúa Oryza sativa là một trong những cây lương thực chính cung
cấp lương thực cho hai phần ba dân số thế giới. Châu Á là nơi gắn liền với
văn minh lúa nước, sản xuất lúa gạo chiếm phần lớn trên thế giới về diện tích
và sản lượng. Dân số Việt Nam có 87 triệu người, chiếm 70% là nông dân,
sản xuất nông nghiệp trồng lúa là cây lương thực chính. Theo thống kê của
Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), năm 2009, cả nước xuất khẩu hơn
6,052 triệu tấn gạo các loại, với giá trị 2,464 tỉ USD. Những năm gần đây
nước ta luôn đứng vị trí thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo sau Thái Lan.
Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ngày càng diễn ra mạnh mẽ
kéo theo đó là diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp dần. Dân số thế giới gia
tăng nhanh, vì vậy nhu cầu lương thực ngày càng tăng cao.
Sản lượng thất thu do dịch hại gây ra cũng vô cùng to lớn, ước tính
hàng năm bị thất thu khoảng 210 triệu tấn lương thực, trong đó thiệt hại do
sâu hại gây ra chiếm 27%, bệnh hại chiếm 8,9%, cỏ dại chiếm 10,8%
Theo thống kê của tổ chức FAO: tính đến năm 1985 thì có tới 870 vụ
dịch hại của sâu đối với nền nông nghiệp ở các nước Châu Á trong đó có tới
27% báo cáo khoa học nói về dịch rầy nâu, tiếp đến là 20% về dịch sâu cắn gié…
Trong vài năm trở lại đây nhóm rầy hại lúa đã bùng phát trên diện tích
lớn gây hại nghiêm trọng về năng suất không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều
nước trồng lúa ở Châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan…

Nguy hiểm hơn, nhóm rầy hại thân lúa còn là môi giới truyền một số bệnh
virus lùn sọc đen lan truyền với vector là rầy lưng trắng, rầy nâu nhỏ đang là
đối tượng gây hại nguy hiểm với nhiều diện tích lúa (Báo Nông nghiệp Việt
Nam, 2009).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2

Nhưng bên cạnh các loài sâu bệnh hại thì còn có một bộ phận các loài
thiên địch rất phong phú về thành phần và đông đảo về số lượng. Chúng song
song tồn tại và khống chế các loài sâu bệnh hại, bảo vệ mùa màng.
Để có những đánh giá chính xác về thành phần, mức độ gây hại của
sâu hại lúa và những hoạt động hữu ích của thiên địch trên lúa, tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài:
“Thành phần thiên địch của nhóm rầy hại thân lúa vụ mùa năm
2014; đặc điểm sinh học, sinh thái loài Bọ xít mù xanh (Cyrtorhinus
lividipennis Reuter) tại Nam Định”.
2. Mục đích, yêu cầu
2.1. Mục đích
Trên cơ sở điều tra đồng ruộng xác định thành phần nhóm rầy hại thân
lúa và thiên địch của chúng; đồng thời nắm được đặc điểm sinh học, sinh thái
của Bọ xít mù xanh (Cyrtorhinus lividipennis Reuter); từ đó đề xuất biện pháp
bảo vệ và lợi dụng thiên địch phòng chống nhóm rầy hại thân đạt hiệu quả.
2.2. Yêu cầu
- Nuôi sinh học bọ xít mù xanh (C.lividipennis) xác định thời gian phát dục,
các pha, vòng đời, sức sinh sản, khả năng ăn mồi của ấu trùng và trưởng thành.
- Xác định thành phần nhóm rầy hại thân lúa và thiên địch của chúng
trong vụ mùa năm 2014 tại Nam Định
- Theo dõi diễn biến mật độ của nhóm rầy hại thân và bọ xít mù xanh
- Tìm hiểu mối quan hệ giữa bọ xít mù xanh (C.lividipennis) và
nhóm rầy hại thân.

3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
3.1. Ý nghĩa khoa học
-Từ các kết quả thu được, giúp bổ sung thêm các dẫn liệu khoa học về
diễn biến số lượng nhóm rầy hại thân và thành phần cũng như mật độ, phân
bố của thiên địch trên nhóm rầy hại thân.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3

- Bên cạnh đó, bổ sung thêm một số đặc điểm sinh vật học, sinh thái
học của loài bọ xít mù xanh Cyrtorhinus lividipennis trong điều kiện vụ mùa
năm 2014 tại huyện Nam Trực tỉnh Nam Định.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn:
- Nắm bắt được diễn biến quy luật nhóm rầy hại thân và có hiểu biết thêm
về giá trị hữu ích của loài bọ xít mù xanh Cyrtorhinus lividipennis, từ đó xây
dựng một số biện pháp bảo vệ, duy trì và khuyến khích loài kẻ thù tự nhiên này.



















Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4

Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Lúa gạo được coi là 1 trong 3 cây lương thực chính trên thế giới. Trong
đó khoảng 40% dân số coi lúa gạo là nguồn lương thực chính, 25% dân số sử
dụng lúa gạo trên ½ khẩu phần lương thực hàng ngày. Nhu cầu về lương thực
ngày càng tăng cao. Song song với chất lượng đời sống, cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật hiện nay đang tạo ra những thay đổi sâu sắc trong toàn bộ xã hội
cũng như trong đời sống của mỗi người dân. Nhiều vấn đề về kinh tế và xã
hội quan trọng đã được giải quyết, tuy nhiên vấn đề về lương thực vẫn còn là
mối quan tâm thường xuyên của nhiều người. Hàng năm thế giới bị thất thu
lương thực vì sâu bệnh và cỏ dại là rất lớn. Trong đó sâu hại là nguyên nhân
quan trọng nhất trong những nguyên nhân trên. Trong số sâu hại lúa ở Đông
Nam Á, từ đầu những năm 70 của thế kỷ trước trở lại đây, rầy nâu Nilaparvata
lugens Stal đã dần dần chiếm vị trí quan trọng hàng đầu. Không chỉ ở Việt nam,
rầy nâu đã xuất hiện ở tất cả các nước trồng lúa Đông Nam Á, gây nhiều thiệt hại
rất nghiêm trọng trên diện rộng mà điển hình là hiện tượng cháy rầy. Ngoài tác
hại trực tiếp, rầy nâu còn là môi giới truyền hai bệnh virus: bệnh lúa cỏ (grassy
stunt disease) và bệnh lùn xoắn lá (ragged stunt disease). Với phạm vi phân bố
rộng làm cho mức độ gây hại ngày càng lớn. Việc phun trừ rầy nâu, rầy lưng
trắng, rầy nâu nhỏ bằng thuốc hóa học nhiều đã tạo nên tính kháng rầy làm
cho việc phòng trừ rầy ngày càng khó khăn.
Thiên địch của dịch hại nói chung và sâu hại nói riêng là những thành
viên không thể thiếu được trong các sinh quần tự nhiên cũng như hệ sinh thái

đồng ruộng. Ở từng lúc, từng nơi trong các điều kiên cụ thể, thiên địch tự
nhiên có thể kìm hãm mật độ sâu hại ở dưới ngưỡng gây hại kinh tế. Việc
nghiên cứu phát triển các loài kẻ thù tự nhiên giúp khống chế được sâu hại,
giảm chi phí trong nông nghiệp, giúp bảo vệ môi trường và đảm bảo nền nông
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5

nghiệp sạch, an toàn.
Chính vì vậy hiểu biết về hệ sinh thái nông nghiệp sẽ là cơ sở khoa học
cho việc xây dựng các biện pháp thâm canh, bảo vệ cây lúa tránh những mất
mát do dịch hại gây ra, đảm bảo năng suất, bảo vệ môi trường và góp phần
giữ cân bằng sinh thái. Kết quả điều tra diễn biến, thành phần nhóm rầy hại
thân và thiên địch của chúng là cơ sở cho công tác dự tính dự báo nhóm rầy
hại thân lúa là thiết thực góp phần xây dựng biện pháp phòng trừ tổng hợp sâu
hại lúa, góp phần bảo vệ và khích lệ thiên địch có ích trong bảo vệ mùa màng.
1.2. Những nghiên cứu ngoài nước
1.2.1. Nghiên cứu về nhóm rầy hại thân
Ở Việt Nam, trong vài năm trở lại đây, nhóm rầy hại lúa đã bùng phát
trên diện tích lớn với diện phân bố và mức độ gây hại gia tăng rất nhanh gây
thiệt hại nghiêm trọng về năng suất ở nhiều vùng trong cả nước. Bên cạnh
phương thức gây hại trực tiếp bằng cách chúng chích hút trên lúa làm cho
khóm lúa bị khô héo và chết, nhóm rầy hại thân còn gây hại gián tiếp là môi
giới truyền một số bệnh virus nguy hiểm như: vàng lùn, lùn xoắn lá, lúa cỏ,
lùn sọc đen… trong đó bệnh virus lùn sọc đen lan truyền với vector là rầy
lưng trắng, rầy nâu nhỏ đang là đối tượng gây hại nguy hiểm với nhiều diện
tích lúa. Nhóm rầy hại thân lúa bao gồm các loài rầy chích hút trên thân lúa,
thuộc họ Rầy nâu (Delphacidae) gồm 3 loài chính: rầy nâu, rầy lưng trắng và
rầy nâu nhỏ. Chúng đều thuộc bộ phụ Auchenorrhyncha, bộ cánh đều
Homoptera.
Trong nhóm rầy hại thân lúa, rầy nâu và rầy lưng trắng là hai loài

chiếm ưu thế nhất, thường xuyên có mặt trên đồng ruộng. Thiệt hại do chúng
gây ra là rất lớn. Bên cạnh thiệt hại trực tiếp cho cây trồng bằng cách trưởng
thành và ấu trùng của chúng chích hút dịch cây, chúng còn truyền bệnh lúa cỏ
trên lúa. Rầy nâu có khả năng sinh sản nhanh với số lượng lớn. Năm 2006, đã
có báo cáo về thiệt hại do rầy nâu gây ra tại Telangana của Karnataka.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6

Rầy nâu có phổ phân bố rộng và gây hại trên nhiều quốc gia. Do đó thất
thu trong nền nông nghiệp do rầy nâu gây nên những tổn thất nghiêm trọng cho
nền nông nghiệp một số nước nhiệt đới của Châu Á. Tại Ấn Độ và Indonexia
thiệt hại ước tính khoảng 100 triệu đô la, Philippines khoảng 26 triệu đô la. Rầy
nâu còn là môi giới truyền bệnh lúa cỏ trên lúa.(Dyck and Thomas, 1979).
Theo Mochida and Heinrichs (1979), thiệt hại do rầy nâu gây ra và 2
bệnh virus do rầy nâu là môi giới truyền bệnh đã gây ra thiệt hại về năng suất vô
cùng quan trọng trong sản xuất lúa ở Nam và Đông Nam Á. Ước tính thiệt hại
do đối tượng này gây nên khoảng 300 triệu USD. Tại viện nghiên cứu lúa IRRI
đã lai tạo ra nhiều giống kháng rầy, tuy nhiên chỉ sau 2 năm đã trở nên mẫm cảm
với rầy nâu ở quần đảo Solomon, Philippines và Indonesia. Như vậy giống
kháng rầy đang bị đe dọa bởi các nòi Biotypes mới của rầy nâu.
Ký chủ rầy nâu chủ yếu là cây trồng và cây dại thuộc họ hoà thảo.
Trong đó lúa nước là ký chủ chính của rầy nâu do đó thời gian không trồng lúa
hoặc để ruộng nghỉ không có lúa chét có thể làm giảm số lượng rầy. Thí
nghiệm ở Viện nghiên cứu Lúa Quốc tế cho thấy, cỏ dại ở ruộng lúa có thể góp
phần làm tăng số lượng rầy khi lúa gần chín, có thể do đã tạo được môi trường
có thảm cây rậm rạp. Tuy nhiên, có một số tác giả khác cho rằng, các ký chủ
không phải là lúa chỉ là nơi trú ngụ tạm thời của rầy nâu (Hinekly, 1963).
Theo Dale (1994), rầy nâu có thể hại ở tất cả những giai đoạn sinh
trưởng của cây lúa. Ở giai đoạn lúa làm đòng, rầy trưởng thành và rầy non
dùng miệng chích vào thân cây lúa để hút dịch cây. Bị hại nhẹ các lá phía

dưới có thể bị héo, hạt lúa bị lửng lép. Bị hại nặng gây nên hiện tượng “cháy
rầy”, cả ruộng lúa bị khô héo. Nếu gặp mưa lúa bị hại có thể bị thối nhũn.
Năng suất có thể bị giảm tới 50% hoặc mất trắng.
Theo Kuno (1979), số lượng rầy nâu ở các vùng ôn đới được đặc trưng
về số lượng theo mùa với mật độ ban đầu thấp, có sự biến động về số lượng,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7

phân bố co cụm từ năm này sang năm khác. Rầy nâu có khả năng thích ứng
cao với tất cả các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của cây lúa.
Sự phát sinh gây hại của rầy nâu nặng hay nhẹ còn phụ thuộc vào cơ
cấu giống trong vụ. Quan niệm chung đến nay đều cho rằng việc gieo cấy các
giống lúa mới đã làm tác hại của rầy nâu tăng lên. Những giống lúa mới thấp
cây, lá thẳng đứng và đẻ nhiều tạo ra một thảm lá dày là điều kiện tốt cho rầy
nâu phát triển (Heinrichs, 1994).
Dyck et al.(1979), đã chỉ ra rằng sự thay đổi cơ cấu giống đã gây ra sự
bùng phát số lượng rầy nâu trong những năm gần đây. Việc thâm canh tăng
vụ, bón nhiều đạm, sử dụng thuốc trừ sâu và ảnh hưởng của khí hậu đã làm
phong phú dịch hại trên đồng ruộng. Trưởng thành rầy nâu có khả năng phát
tán cao, chúng chủ yếu phát tán vào những giờ đầu của buổi tối. Trong một
năm, trong một khu vực thường có 2 đỉnh cao mật số rầy nâu, chúng xảy ra
vào gần cuối mỗi vụ lúa.
Theo Nagarajan (1994), quần thể rầy nâu có nhiều Biotype và hiện
nay đã xuất hiện 4 Biotype (Bph1, Bph2, Bph3, and Bph4), chúng được sinh ra
bởi các gen kháng. Các Biotype được sinh ra để giúp rầy nâu duy trì nòi giống
trước những tác động của môi trường. Sự xuất hiện rộng rãi của các Biotype này
được xác định chủ yếu do việc sử dụng bừa bãi các loại thuốc trừ sâu.
Trong các yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới quá trình sinh trưởng phát
triển của rầy nâu thì thức ăn cũng là nhân tố chi phối quá trình phát dục và
biến động mật độ quần thể rầy. Vì vậy trong cơ cấu mùa vụ khác nhau,

phương thức canh tác khác nhau thì sự xuất hiện, phát triển và mức độ tác hại
của rầy cũng khác nhau. Rầy nâu trưởng thành cánh dài xuất hiện và gây hại
trên ruộng lúa từ 20-30 ngày sau cấy. Sau đó lứa rầy nâu bắt đầu xuất hiện
phát triển thành 2 dạng rầy cánh ngắn và cánh dài. (Kisimoto, 1977).
Loài rầy hại thân thứ hai là rầy lưng trắng có tên khoa học Sogatella
furcifera Horvath. Rầy lưng trắng cũng là loài chích hút thuộc họ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8

Delphacidae. Rầy lưng trắng có diện phân bố rất rộng, chúng phân bố khắp
các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Á, châu Đại Dương và một số nước
châu Mỹ.
Tại châu Á, rầy lưng trắng có phạm vi phân bố rộng gồm hầu hết các
nước trồng lúa bao gồm Châu Á, Châu Úc và các đảo Thái Bình Dương. Ở
Châu Á nó được tìm thấy ở Bangladesh, Campuchia, Trung Quốc, Hồng
Kông, Ấn Độ, Việt Nam, Lào, Malaysia…. (Catindig et al., 2009).
Tại Trung Quốc, đã ghi nhận rầy lưng trắng phát sinh và gây hại nặng
từ những năm giữa thế kỷ 20, trong đó từ những năm 1970 trở lại đây cùng
với sự mở rộng và phát triển của các giống lúa lai thì rầy lưng trắng đã trở
thành đại dịch. Trong đó, vào năm 1978-1979, 1982-1983, 1987-1988, thiệt
hại do rầy lưng trắng lên tới 1 triệu tấn lúa/năm, đặc biệt năm 1991diện tích bị
hại do rầy nâu và rầy lưng trắng lên tới 25 triệu ha (Jiaan Cheng, 2009).
Khi mật độ rầy cao hiện tượng cháy rầy xảy ra. Khóm lúa bị vàng đỏ và
cây lúa thụt đi khi mật độ rầy cao và có thể lan nhanh, điển hình tại các vùng
Assam Ấn Độ, tháng 5 - 6 năm 1985 có hơn 8.000 ha lúa IR8 đã bị cháy rầy
lưng trắng. ( Reissig et al.,1986).
Rầy lưng trắng gây hại trên hầu hết các bộ phận của cây lúa như thân, lá
và bông. Trong quá trình sinh trưởng phát triển của cây lúa, giai đoạn mạ và lúa
đẻ nhánh là 2 thời điểm rầy gây hại nặng. Ở giai đoạn mạ nếu bị hại nặng cây
sinh trưởng kém, dảnh mạ bị héo và chết. Trong thời kỳ trỗ bông nếu cây bị hại

vỏ trấu có màu nâu, một số hạt bị lép hoặc lửng, nếu bị hại vào thờì kỳ lúa chín
thì hạt sẽ mất khả năng nảy mầm và thời kỳ chín bị kéo dài ra
Rầy cái mang trứng còn gây thiệt hại bằng cách chọc thủng mô bẹ lá lúa
để đẻ trứng. Dịch ngọt do rầy thải ra còn giúp cho sự phát triển của nấm. Đây
là nguyên nhân gián tiếp chính của bệnh muội đen trên lúa. (Dale, 1994).
Rầy lưng trắng là môi giới truyền bệnh lùn sọc đen trên lúa gây ra
những tổn thất nghiêm trọng. Sử dụng thuốc trừ sâu để phòng trừ vector này,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9

tuy nhiên đã nhận thấy loài này có sự kháng thuốc ở Trung Quốc (Jianya Su.
et al., 2013).
Theo Masaru et al.,2009, toàn bộ rầy lưng trắng di cư từ đại lục Trung
Quốc sang Nhật Bản trong mùa mưa từ đầu tháng 6 đến đầu tháng 7. Trên lúa,
rầy lưng trắng tăng nhanh vào các thế hệ tiếp theo và đạt đỉnh cao về mật độ
vào nửa cuối tháng 7 hoặc nửa đầu tháng 8.
Sự di chuyển của rầy lưng trắng liên quan đến cường độ ánh sáng và
nhiệt độ. Hoạt động di chuyển của rầy lưng trắng có liên quan đến tuần trăng.
Theo Kisimoto (1971), có 5 đợt rầy di cư ở Trung Quốc từ giữa tháng 4 đến
đầu tháng 5 nhờ gió nam và tây nam, có 3 đợt di cư hướng tây nam vào giữa
và cuối tháng 8, cuối tháng 10. Ở bán đảo Triều Tiên việc du nhập qua biển
đông của rầy nâu và rầy lưng trắng vào cuối tháng 6, đầu tháng 7 và các đảo
miền trung của Nam Triều Tiên là cuối tháng 7.
Rầy lưng trắng còn có sự di cư giữa các vụ lúa với khoảng cách từ 6-
30 km sau khi cất cánh vào buổi tối trong mùa khô ở các vùng nhiệt đới
(Shingh et al., 1986).
Loài rầy hại thân thứ ba là rầy nâu nhỏ (rầy xám) có tên khoa học là
Laodelphax striatellus Fallén thuộc giống Laodelphax, họ Delphacidae.
Phạm vi phân bố của rầy nâu nhỏ khá rộng. Chúng là loài có mật số cao
nhất ở vùng bán nhiệt đới. Rầy nâu nhỏ là tác nhân truyền bệnh lùn sọc đen.

Trưởng thành của chúng có hai dạng cánh dài và cánh ngắn (Mueller, 1983).
Rầy nâu nhỏ mức độ phổ biến không nhiều trên đồng ruộng và phạm vi
gây hại không lớn so với rầy nâu và rầy lưng trắng. Do đó mật độ rầy nâu nhỏ
không nhiều để có thể gây nên cháy rầy. Rầy nâu nhỏ có mật độ cao nhất ở khu
vực nhiệt đới.
Trứng rầy nâu nhỏ mới đẻ có màu trắng trong, khi gần nở có chấm đỏ ở
đầu trứng. Mỗi con cái đẻ khoảng 50-200 quả trứng. Rầy non có kích thước nhỏ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10

hơn rầy nâu và rầy lưng trắng. Rầy non cũng có 5 tuổi, cơ thể có màu nâu nhạt đến
nâu đậm.
Trưởng thành rầy nâu nhỏ có hai dạng cánh ngắn và cánh dài, trưởng
thành đầu tiên bay đến ruộng lúa vào mùa xuân từ cỏ dại, lúa mỳ hoặc lúa
mạch, thường 5 % trưởng thành đầu tiên mang virus lùn sọc đen, con trưởng
thành bị bẫy đèn và bẫy màu vàng thu hút mạnh. (Hill S. Dennish, 1983).
Theo Ling K.C (1972), Tại Nhật Bản đã phát hiện ra bệnh lùn sọc đen tại 6
huyện từ năm 1941 và đã xác nhận bệnh do rầy nâu nhỏ gây ra. Virus tồn tại trong
các vector trong thời gian dài. Thời gian ủ virus trong vector rầy nâu nhỏ dài đến
35 ngày nhưng chủ yếu từ 7-21 ngày.
Theo Nagata and Masuda (1980), những loại thuốc trừ rầy nâu và rầy
lưng trắng đều có tác dụng trừ rầy nâu nhỏ. Tuy nhiên, số lượng và mật độ
quần thể rầy nâu nhỏ không quyết định đến mức độ gây hại mà tỷ lệ rầy nâu
nhỏ mang nguồn bệnh virus. Ở Nhật Bản, trong 10 năm từ 1961 - 1971 có 3
nhóm thuốc Clo hữu cơ, lân hữu cơ, Carbamat đã được thay đổi luân phiên để
sử dụng phòng trừ rầy lưng trắng và rầy nâu nhỏ.
1.2.2. Nghiên cứu về thiên địch của nhóm rầy hại thân
Theo nghiên cứu của Reissig et al., 1986, kẻ thù tự nhiên của rầy nâu
rất đa dạng và phong phú. Với số lượng lớn trên đồng ruộng, các loài nhện bắt
mồi có vai trò quan trọng trong việc kìm hãm mật độ rầy nâu. Theo thống kê

đến năm 1979 trên thế giới có 83 loài thiên địch của rầy nâu đã được phát
hiện, trong đó có 43 loài có vai trò quan trọng đối với biến động số lượng rầy
nâu (bao gồm 35 loài côn trùng ký sinh và ăn thịt, 1 loài giun tròn và 7 loài vi
sinh vật gây bệnh). Ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới rầy lưng trắng có
khoảng 18 loài thiên địch trong đó có 8 loài ký sinh (4 loài ký sinh trứng và 4
loài ký sinh sâu non), 9 loài bắt mồi và 1 tác nhân gây bệnh. Rầy nâu nhỏ
có thể bị các thiên địch tấn công ở các giai đoạn, trứng rầy nâu nhỏ bị ong
Trichogrammatidae ký sinh và là thức ăn của bọ xít mù xanh Cyrtorhinus
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11

livipennis. Rầy non và rầy trưởng thành bị các loài ong Drynidae, bọ cánh
cuốn Elenchidae ký sinh. Ngoài ra, rầy non và trưởng thành của rầy nâu nhỏ
thường bị bọ cánh cứng thuỷ sinh sống trong nước và ấu trùng chuồn
chuồn ăn thịt. (Reissig et al.,1986).
Thiên địch của rầy nâu rất phong phú và đa dạng. Ở Đài Loan tuỳ điều
kiện từng vụ lúa trứng rầy nâu bị một số loài ong ký sinh từ 3,3-38,1%. Ở
Thái Lan, trung bình có 61% trứng rầy nâu bị ký sinh. Ở Sri Lanka, trứng rầy
nâu có thể bị ký sinh tới 80%, nhưng tỷ lệ này không ổn định. Do đó ký sinh
trứng không có ảnh hưởng lớn tới quần thể rầy nâu (Chiu, 1979).
Các loài bắt mồi ăn thịt có vai trò đáng kể trong việc hạn chế số lượng
rầy lưng trắng. Theo Lin. (1976) trong các loài bắt mồi thì các loài bọ xít và
nhện là những thiên địch quan trọng. Tytthus và Cyrtorhinus đặc biệt thích
ứng với trứng và rầy non tuổi nhỏ của rầy họ Delphacidae.
1.2.3. Nghiên cứu về bọ xít mù xanh
Theo Reyes and Gabriel,1975, loài bọ xít mù xanh Cyrtorhinus
lividipennis Reuter trải qua các pha phát triển trong những khoảng thời gian
khác nhau. Thời gian pha trứng 6 - 9 ngày, thường là 6 ngày. Thời gian phát
triển tuổi 1 từ 2 - 4 ngày (trung bình 2,93 ± 0,58 ngày); tuổi 2 từ 2 - 4 ngày
(trung bình 3,06 ± 0,57 ngày); tuổi 3 từ 3 - 5 ngày (trung bình 3,96 ± 0,57

ngày); tuổi 4 từ 3 - 4 ngày (trung bình 3,60 ± 0,51 ngày); thời gian sống của
trưởng thành đực từ 7 - 25 ngày và trưởng thành cái từ 5 - 21 ngày.
Bọ xít mù xanh là loài bắt mồi rất hiệu quả trong việc hạn chế số
lượng rầy hại lúa. Liquido et al., đã tiến hành nuôi bọ xít mù xanh bằng trứng
rầy xanh đuôi đen Nephotettix virescens và kết quả đã chỉ ra rằng thời gian
hoàn thành vòng đời của chúng kéo dài từ 20 - 31 ngày, trung bình 26,12
ngày. Tuổi thọ trung bình của trưởng thành cái lớn hơn tuổi thọ trung bình
của trưởng thành đực (Liquido and Nishida, 1985).
Để đánh giá tính lựa chọn thức ăn của bọ xít mù xanh, thí nghiệm được
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12

tiến hành với các loại vật mồi khác nhau là 3 loài rầy: rầy nâu, rầy lưng trắng
và rầy xanh đuôi đen được lấy nuôi trên cây lúa và ở các giai đoạn khác nhau
của cây lúa (15, 40, 75 ngày sau cấy). Kết quả cho thấy nguồn thức ăn ưa
thích của bọ xít mù xanh là rầy nâu trên cây lúa 75 ngày sau cấy hơn hai
nguồn thức ăn còn lại (Jhansi et al., 2006)
Theo nghiên cứu của Jhansi and Pasalu (2007), để đánh giá về sự hấp
dẫn của thức ăn nhân tạo từ mật ong và đường sucrose đối với bọ xít mù xanh
C. Lividipennis Reuter trong điều kiện phòng thí nghiệm và nhà kính. Thí
nghiệm được thực hiện với thức ăn là mật ong và đường sucrose ở các nồng
độ khác nhau (10%, 25%, 50% và 100%). Kết quả đã chỉ ra rằng mật ong hấp
dẫn bọ xít mù xanh hơn đường sucrose và thức ăn nhân tạo ở các nồng độ
khác nhau không có sự sai khác trong việc thu hút C.lividipennis. Nguồn thức
ăn nhân tạo này giúp kéo dài thời gian sống của bọ xít mù xanh (7 - 9 ngày)
so với nuôi chúng trên thân cây lúa không được bổ sung thức ăn, chúng chỉ
sống được 5 ngày.
Theo những nghiên cứu của Dissertation vào năm 1973, loài bọ xít mù
xanh trải qua 3 pha phát triển bao gồm pha trứng, pha ấu trùng, pha trưởng
thành. Trong đó, thời gian phát triển pha trứng kéo dài 7,6 ± 2,59 ngày; pha

ấu trùng trải qua 5 tuổi với tổng thời gian phát triển là 20,2 ± 2,81 ngày;
Trong số các loài kẻ thù tự nhiên của nhóm rầy hại lúa, bọ xít mù xanh
là loài kẻ thù tự nhiên có vai trò lớn trong việc khống chế sự bùng phát của
rầy hại lúa vào thời điểm rầy phát sinh rộ. Đây là loài thiên địch có khả năng
săn mồi và tiêu thụ vật mồi lớn, cả pha ấu trùng và trưởng thành bọ xít mù
xanh đều có khả năng săn mồi. Vật mồi của chúng bao gồm trứng, ấu trùng và
cả trưởng thành của nhiều loài rầy hại thân và hại lá như: rầy nâu, rầy lưng
trắng, rầy nâu nhỏ, rầy xanh đuôi đen, rầy mềm hại ngô… Trong điều kiện
nhà kính trong vòng 1 ngày, một trưởng thành cái và trưởng thành đực của
loài bọ xít mù xanh có thể ăn 20 và 10 trứng rầy nâu (Chiu, 1979).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13

1.3. Những nghiên cứu trong nước
1.3.1. Nghiên cứu về nhóm rầy hại thân
Nhóm rầy hại thân bao gồm rầy nâu (Nilaparvata lugen Stal), rầy lưng
trắng (Sogatella furcifera Horvath), rầy nâu nhỏ (rầy xám) (Laodelphax
striatellus Fallén), (Homoptera, Delphacidae) là nhóm gây hại nghiêm trọng trên
cây lúa nước ở nước ta. Sự gây hại của nhóm dịch hại này ngoài tác động trực
tiếp lên cây lúa qua trích hút, làm cho cây lúa bị úa vàng, dẫn đến khô héo,
chúng còn là tác nhân truyền bệnh virus cho lúa (bệnh virus lùn xoăn lá), làm
ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng lúa gạo.
Cho đến thời điểm cuối tháng 4/2012, việc thay đổi cơ cấu giống lúa
trồng đã diễn ra trên diện rộng. Ở Miền Bắc có trên 90% diện tích lúa được
trồng các giống mới có nguồn gốc Trung Quốc, chủ yếu là nhóm giống lúa lai
và lúa thuần chất lượng cao, thích ứng rộng. Hầu hết các giống lúa này đều
nhiễm các dịch hại quan trọng như rầy nâu, cuốn lá nhỏ, đạo ôn trong những
năm trở lại đây, diện tích và mức độ nhiễm dịch hại trên lúa có xu thế tăng
cao đặc biệt là rầy nâu, rầy lưng trắng. Một số dịch hại mới phát sinh, có nguy
cơ gây hại nặng như rầy nâu nhỏ xuất hiện từ vụ Đông Xuân năm 2009 ở

nhiều tỉnh. Rầy có xu hướng tăng mạnh và có 2 đỉnh cao về diện tích nhiễm
rầy: Năm 2008 có tổng diện tích nhiễm rầy là 567,281 ha; nặng là 109,859 ha
và năm 2010 diện tích nhiễm là 708,131 ha, nặng là 95,893 ha. Rầy lưng
trắng ngoài trực tiếp gây hại cho lúa, nó còn là môi giới truyền bệnh lùn sọc
đen. Rầy lưng trắng có xu thế tăng nhanh trong những năm gần đây, đặc biệt
là trên giống lúa lai Trung Quốc. Rầy lưng trắng phát sinh sớm từ giai đoạn
mạ đến trước giai đoạn lúa ngậm sữa. Vụ Hè Thu, Mùa 2009, rầy lưng trắng
tăng cao kéo theo bệnh Lùn sọc đen bùng phát tại các tỉnh phía Bắc (Cục Bảo
vệ thực vật, 2012).
Theo Cục Bảo vệ thực vật (2010), diện tích nhiễm rầy nâu năm 2006
đến năm 2007 tăng từ 448.305 đến 572.419 ha; từ năm 2008 đến 2010 giảm
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14

lần lượt qua các năm. Riêng năm 2008 diện tích nhiễm rầy tăng khá cao so
với các năm còn lại. Dịch bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá có diện tích nhễm bệnh
cũng như tỷ lệ thiệt hại đều giảm qua các vụ từ năm 2006 đến năm 2010. Đến
thời điểm 02/10/2010, vụ lúa thu đông 2010 chỉ còn lại 18 ha lúa bị nhiễm
vàng lùn, lùn sọc đen ở Lâm Đồng.
Rầy nâu là tác nhân làm lan truyền bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá lúa.
Tính đến ngày 25/10/2006, diện tích lúa vụ thu đông, vụ mùa 2006 và vụ
đông xuân 2006-2007 bị nhiễm rầy nâu của các tỉnh vùng Đồng bằng Sông
Cửu Long và Đông Nam bộ là 33.323 ha, và diện tích nhiễm bệnh vàng lùn,
lùn xoắn lá lúa là 51.768 ha, trong đó có 26.283 ha nhiễm bệnh nặng cần phải
tiêu hủy. (Cục Bảo vệ thực vật, 2006).
Cũng theo Viện Bảo vệ thực vật (2006), rầy nâu là môi giới truyền
virus gây bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá theo cơ chế bền vững, vòng đời của
rầy nâu tại Long An từ 23,2 - 31,7 ngày và trung bình cứ một tháng có một
đợt rầy phá hại và truyền bệnh. Rầy non và rầy trưởng thành đều truyền được
bệnh, trên ruộng lúa bị bệnh nặng có 51,1% cá thể rầy nâu truyền được bệnh.

Đỉnh cao của dịch trong vụ đông xuân 2006 - 2007, tỷ lệ rầy nâu vào đèn
truyền được bệnh tại Long An là 26,6% và tại Tiền Giang là 35,7%. Một cá
thể rầy nâu trưởng thành đã nhiễm virus có thể truyền được trung bình cho 7
cây lúa và cao nhất 18 cây lúa.
Theo Vũ Quang Minh và Phạm Văn Quỳnh, 2009, sự hiện diện và
mật độ rầy nâu xuất hiện trên ruộng lúa có sự liên quan mật thiết với các yếu
tố điều kiện khí hậu, kỹ thuật canh tác. Tuy nhiên tùy vào từng giai đoạn sinh
trưởng và phát triển của cây lúa cũng như thời vụ canh tác mà các yếu tố này
có ảnh hưởng khác nhau tới sự hiện diện của rầy nâu trên đồng ruộng.
Theo Nguyễn Đức Khiêm (1995a), thời gian phát dục của rầy nâu
trong vụ mùa nhiệt độ từ 25 - 29
o
C thì thời gian trứng khoảng 6,5 - 7,5 ngày,
rầy non khoảng 13,5 - 16 ngày, trưởng thành 6-9 ngày, thời gian trước đẻ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15

trứng của trưởng thành là 2,5 - 3 ngày, vòng đời 26 - 30 ngày. Tỷ lệ rầy cánh
ngắn và cánh dài phụ thuộc vào nguồn thức ăn và mật độ trong ruộng lúa. Ở
giai đoạn lúa đẻ nhánh và chín chủ yếu rầy cánh dài xâm nhập vào ruộng lúa
và sau đó giảm dần. Ở giai đoạn đòng - trỗ đỏ đuôi rầy tăng nhanh về số
lượng, tỷ lệ rầy cánh ngắn chiếm chủ yếu. Rầy trưởng thành có xu thế bay vào
đèn mạnh. Đây là một đặc tính dùng trong việc dự tính dự báo rầy nâu.
Sự xuất hiện và gây hại của nhóm rầy hại thân lúa còn phụ thuộc vào
giống lúa và giai đoạn phát triển để thiết lập mật số. Theo Đặng Thị Dung và
cs (2010) cho biết trong điều kiện thời tiết 2007 ở Gia Lâm - Hà Nội, rầy nâu
xuất hiện trên hầu hết các giống ngay từ giai đoạn lúa đẻ nhánh (trừ giống
Khang Dân). Mật độ rầy tăng dần theo sự sinh trưởng của cây lúa. Trên 10
giống lúa điều tra, rầy nâu phát triển trên giống DT 21 và nếp 451 nhanh hơn
so với trên các giống khác. Đỉnh cao mật độ rầy nâu tương ứng với giai đoạn

lúa ngậm sữa. Các giống còn lại có mật độ rầy nâu thấp hơn. Còn rầy lưng
trắng đạt cao nhất vào thời kỳ lúa trỗ sau đó giảm dần cho đến khi lúa chín.
Trong 10 giống điều tra, giống Nếp 451 có mật độ cao hơn cả. Rầy lưng trắng
tồn tại và gây hại trên các giống lúa xuân, song mật độ thấp và gây hại là
không đáng kể. Kết quả điều tra rầy nâu nhỏ trên lúa xuân 2007 tại Gia Lâm -
Hà Nội cho thấy rầy nâu nhỏ xuất hiện muộn hơn rầy nâu và rầy lưng trắng. Ở
giai đoạn đẻ nhánh chưa có giống lúa nào bị nhiễm rầy nâu nhỏ. Đến lúc lúa
đứng cái chỉ có 5 giống lúa có rầy nâu nhỏ xuất hiện đó là Xi23, Nếp DT21,
Nếp 451, C70, C71 với mật độ thấp. Nhìn chung rầy nâu nhỏ xuất hiện trên
các giống với mật độ thấp nên sự gây hại là không đáng kể. Đỉnh cao của mật
độ rầy nâu nhỏ thường xuất hiện muộn vào giai đoạn lúa chín sáp. Mặt khác,
sức đẻ trứng của rầy nâu nhỏ cũng rất thấp nên hầu như rầy nâu nhỏ chưa bao
giờ phát triển đạt số lượng để gây cháy lúa.
Theo Nguyễn Đức Khiêm (1995b), mức độ nhiễm rầy lưng trắng của
tập đoàn giống lúa của Bộ môn Giống, Khoa Trồng trọt, Trường ĐHNNI , Hà
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 16

Nội như sau: Nếp 451, Mộc tuyền, U17, Ch, KV, mật độ rầy lưng trắng cao
nhất lúc lúa đứng cái làm đòng, còn giống CR 203 là giống kháng được rầy
lưng trắng, rầy nâu, rầy xám.
Các kết quả thí nghiệm của Trần Đình Chiến (1993), cho thấy những
loại thuốc độc có hiệu quả đối với rầy nâu thì cũng có hiệu lực đối với rầy
lưng trắng như Bassa 50 EC, Mipsin Tuy nhiên, các loại thuốc này đều gây
chết cao đối với thiên địch của nhóm rầy.
Ở nước ta, rầy lưng trắng phát sinh quanh năm và có mật độ cao ngay
từ đầu vụ. Rầy trưởng thành có tính hướng quang mạnh. Trên đồng ruộng, rầy
lưng trắng du nhập sớm hơn rầy nâu. Từ đầu vụ đến giai đoạn lúa đẻ nhánh
rộ, mật độ rầy lưng trắng cao hơn rầy nâu. Một năm trên đồng ruộng có 6 - 7
lứa rầy phát sinh gây hại. Trong đó, rầy lưng trắng có lứa 2 vào cuối tháng 4

giữa tháng 5 hại trên lúa xuân và lứa 5 vào cuối tháng 8 giữa tháng 9 gây hại
nặng cho lúa mùa. Rầy lưng trắng hại nặng trên lúa lai, thuần thơm, ruộng
thâm canh cao bón quá nhiều đạm. Điều kiện thời tiết nắng mưa xen kẽ, nhiệt
độ từ 25 - 30
o
C thích hợp cho rầy phát triển (Chi cục Bảo vệ thực vật Nam
Định, 2012).
Theo Nguyễn Như Cường và cs (2009) đã khẳng định rầy lưng trắng
là môi giới truyền bệnh “lùn lụi” hại lúa ở các tỉnh phía Bắc và miền Trung,
thời gian cây lúa ủ bệnh từ 9 - 12 ngày.
Qua thí nghiệm tìm hiểu thời gian ủ bệnh trong cơ thể rầy lưng trắng
được tiến hành tại nhà lưới Viện Bảo vệ thực vật trong vụ lúa mùa 2010 đã ghi
nhận rầy lưng trắng non và trưởng thành đều truyền được bệnh lùn lụi ở lúa.
Tuy nhiên rầy trưởng thành có hiệu quả truyền bệnh cao hơn so với rầy non.
Rầy trưởng thành cánh dài có thể di chuyển xa và mang nguồn bệnh từ vùng
này qua vùng khác, từ vụ này qua vụ khác là rất nguy hiểm và là đối tượng
chính cần kiểm soát để hạn chế tác hại của bệnh (Ngô Vĩnh Viễn, 2011).
Rầy nâu nhỏ (Rầy xám) mức độ phổ biến không nhiều trên đồng ruộng

×