Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

BỘ CÂU HỎI VÀ TRẢ LỜI ĐẢNG VIÊN MỚI THÁNG 9 năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.58 KB, 72 trang )

Phan Ngọc Huy
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ TRẢ LỜI
THEO SÁCH BỒI DƯỠNG LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
DÀNH CHO ĐẢNG VIÊN MỚI
(bổ sung văn kiện đại hội Đảng XI)
Câu hỏi 1: Đồng chí hãy phân tích, làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam
Câu 2: Phân tích những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng theo tinh thần nghị quyết Đại hội X của Đảng?
Câu 3: Trình bày quan điểm, chủ trương và giải pháp của Đại hội X về thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Liên hệ trách
nhiệm bản thân ?
Câu 4: Phân tích tính tất yếu khách quan và cơ hội thách thức của hội nhập kinh tế quốc
tế trong giai đoạn hiện nay ?
Câu 5: Từ khi ra đời đến nay, Cương lĩnh 1991 đã được cụ thể hoá và phát triển trong
cuộc sống như thế nào ? (Đi sâu vào những vấn đề Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
của Đảng nói rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta).
Câu 6: Đồng chí cần làm gì và phấn đấu như thế nào để trở thành đảng viên ? Vì sao vấn
đề xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn được đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa quyết định
đối với một đảng viên ? Điều lệ Đảng quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền của đảng
viên như thế nào ?.
Câu 7
Cần làm gỡ và phấn đấu như thế nào để trở thành Đảng viên?
Câu 8:
Đồng chí hãy trình bày 5 bài học lớn của cách mạng Việt nam được nêu trong Cương
lĩnh năm 1991. Phân tích bài học mà đồng chí thấy tâm đắc nhất. í nghĩa của bài học này
đối với công việc của đồng chí ?
1
Phan Ngọc Huy
Câu 9 :
Bản chất giai cấp công nhân của Đảng được thể hiện ở những điểm chủ yếu nào trong


Điều lệ Đảng ?
Cõu 10 :
Đồng chí hãy phân tích sự cần thiết của việc học tập và làm theo tư tưởng tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh. Liên Hệ việc thực hiện cuộc vận động ở cơ quan, đơn vị đồng
chí ?
CÂU 11: Liên hệ thực tiễn bản thân
Trả lời:
Để trả lời câu hỏi này tôi xin được phép đề cập đến một số điểm cơ bản sau:
Trước hết phải khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đó là sản phẩm sàng
lọc nghiêm khắc của lịch sử đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam dưới ánh
sáng của thời đại mới; Là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh; Phong trào công nhân và Phong trào yêu nước ở nước ta trong những năm 20
của thế kỷ XX. Tại Đại hội VII năm 1991 đã chỉ rõ: "Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động "
(Trích: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội). Đây là
kết luận rút ra từ kết quả tổng kết sâu sắc thực tiễn lịch sử của Đảng ta và cách mạng Việt
Nam từ khi thành lập Đảng; Là sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác-Lênin
về sự ra đời của Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến và có truyền thống
yêu nước từ ngàn năm.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam Đảng ta đã vận dụng những nội
dung của tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng của nước ta. Cũng tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VII khẳng định "Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng nêu
2
Phan Ngọc Huy
cao tư tưởng Hồ Chí Minh". Thật vậy, "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan
điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam là kết quả
của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại".
"Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành

thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta".
Khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn còn nguyên giá trị. Khi vận dụng một quan
điểm lý luận cụ thể của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải nắm chắc bối
cảnh ra đời, phạm vi nhiệm vụ mà nguyên lý đó phải giải quyết. Không thể chỉ dựa vào
một câu nói, một luận điểm tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin hay Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong khi không rõ bối cảnh ra đời của nó lại bê nguyên xi vào tình hình thực
tiễn bởi những câu nói, bài viết của các nhà kinh điển luôn gắn liền với hoàn cảnh thực
tiễn của nó.
Cần nắm chắc đặc điểm, tình hình thực tiễn của nước ta cần xác định rõ những yêu
cầu và nhiệm vụ thực tiễn cần giải quyết.
Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn đất nước, tham khảo có chọn lọc
từ đó khái quát thành những bài học cho cách mạng nước ta trong từng giai đoạn, từng
thời kỳ.
Việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện thực
tiễn nước ta hiện nay đang là vấn đề được Đảng ta hết sức quan tâm coi đó là một trong
những nhiệm vụ hàng đầu. Sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay đang đi vào chiều sâu,
nhiều vấn đề mới như kinh tế thị trường, kinh tế tri thức, nhà nước pháp quyền, hội
nhập đều là những vấn đề rất mới cần được nghiên cứu, giải đáp về lý luận và thực tiễn.
Muốn vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh cần phải nắm vững hệ thống các quan điểm và mục tiêu yêu cầu của từng giai
đoạn chỉ có vậy chúng ta mới có thể phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh một cách đúng đắn và khoa học.
3
Phan Ngọc Huy
Bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết phải bảo vệ các
nguyên lý lý luận của nó; là bảo vệ tính hệ thống, toàn vẹn của những nguyên lý cơ bản
đó. Cần đấu tranh với những luận điểm phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh. Đồng thời tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
trong điều kiện mới, đưa những tư tưởng, quan điểm đó vào thực tế cuộc sống, đem lại
hiệu quả thiết thực, thực hiện thắng lợi mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công

bằng, dân chủ, văn minh". Đó chính là cách tốt nhất để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng cơ hội, xét lại và bảo thủ, giáo điều. Đấu
tranh chống chiến lược "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa với những
hoạt động phủ nhận chủ nghãi Mác - Lênin, xuyên tạc, bôi đen những thành quả của chủ
nghĩa xã hội và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đấu tranh với các hành
động xuyên tạc, đối lập với tư tưởng Hồ Chí Minh Đây là kết quả tất yếu của sự chuẩn
bị công phu, gian khổ với những bước đi phù hợp thể hiện năng lực tổ chức tài tình của
lãnh tụ Nguyễn ái Quốc; Là sự thắng thế của tư tưởng vô sản đối với đường lối chính trị
của giai cấp tư sản. Trong cuộc đấu tranh tư tưởng này hơn ai hết đảng viên phải là người
đi đầu, kiên quyết bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối, bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng.
Muốn vậy, điều trước hết và chủ yếu là đảng viên phải có lập trường tư tưởng vững vàng,
không mơ hồ, dao động; phải nói và làm theo nghị quyết, thực hiện đúng Cương lĩnh,
Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước; Kiên định những vấn đề và quan điểm có tính
nguyên tắc của Đảng./.
Câu 2: Phân tích những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân
ta xây dựng theo tinh thần nghị quyết Đại hội X của Đảng?
Trả lời:
Sự lãnh đạo của Đảng từ khi mới ra đời cho dù còn non trẻ qua các kỳ Đại hội
nhưng vẫn giữ vững được những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam đó
là giữ vững Cương lĩnh, đường lối đúng đắn, bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục
4
Phan Ngọc Huy
tiêu lý tưởng cách mạng. Tinh thần độc lập tự chủ, vận dụng sáng tạo và vấn đề đoàn kết,
tạo sự thống nhất trong toàn Đảng luôn được đặt lên hàng đầu điều đó được thể hiện qua
các cuộc Hội nghị Ban chấp hành TW; Thể hiện trên con đường phát triển của cách mạng
Việt Nam, nhất là trong những bước ngoặt lịch sử phải đương đầu với mọi thử thách dù
hiểm nghèo tưởng không thể vượt qua Đảng đã kịp thời có những quyết sách sáng suốt
đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn nhưng dưới sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của
Đảng đã đưa con thuyền cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Đại hội X đã khẳng định: "Hai mươi năm qua với sự nỗ lực phấn đấu của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn
và có ý nghĩa lịch sử". Nước ta đã có sự thay đổi cơ bản và toàn diện như:
Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự
nghiệp CNH - HĐH phát triển kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy
mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết
dân tộc được tăng cường; Chính trị - xã hội ổn định; Quốc phòng - an ninh được giữ
vững; Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao; Sức mạnh tổng
hợp của quốc gia đã tăng lên nhiều, tạo thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với
nhiều triển vọng tốt đẹp.
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng
sáng tỏ hơn; Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ
nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những đặc
trưng chủ yếu của xã hội mà chúng ta đang xây dựng là:
- Xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Từ ngày thành lập
đến nay, Đảng ta luôn quan tâm đến xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. đặc biệt từ
Đại hội VI đến nay, nhận thức của Đảng ta về đại đoàn kết toàn dân tộc có những phát
triển mới. Quán triệt tư tưởng "Lấy dân làm gốc"; "xây dựng và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân lao động". Thực hiện Nghị quyết đại hội VI, ngày 27/3/1990 Hội nghị TW
8 đã ra Nghị quyết 8B về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan
hệ giữa Đảng và nhân dân, nhấn mạnh quan điểm: Cách mạng là sự nghiệp của dân, do
5
Phan Ngọc Huy
dân, vì dân. đến đại hội VIII khẳng định: "Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến
của nhân dân và nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân
hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua bao khó khăn, thủ thách mà
công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu hôm nay".
Tư duy mới về vai trò của nhân dân, về vấn đề dân tộc trong thời kỳ mới, Đảng ta
đã xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh, là động
lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam. Tiếp tục đường lối được xác định trong các kỳ Đại

hội trước, Đại hội X đã nhấn mạnh vấn đề phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xem đó là
một trong bốn thành tố của chủ đề Đại hội;
Hiện nay, bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước, Đảng xác định điểm
tương đồng là "Giữ vững độc lập thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh". Điểm tương đồng ngày nay tổng quát hơn, dễ đạt được
sự nhất trí hơn cả với đồng bào ở trong nước và đồng bào ta định cư ở nước ngoài. Đây
thực sự là một quan điểm rất mới, thành quả của quá trình đổi mới tư duy lý luận của
Đảng ta: thay thuật ngữ "đại đoàn kết toàn dân" bằng thuật ngữ "đại đoàn kết bằng dân
tộc" với nội dung đầy đủ hơn, toàn diện hơn.
Đại hội X chỉ rõ:
- Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó với đồng bào các
dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong và ngoài nước.
- Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp.
- Tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc.
- Đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy
lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội.
- Do nhân dân làm chủ (Cương lĩnh 1991 nói: Do nhân dân lao động làm chủ).
Đây chính là nét mới tiến bộ hơn so với Cương lĩnh 1991. Thực chất nhân dân ở đây là
nhân dân lao động, chiếm đại bộ phận dân cư. Nói nhân dân là phù hợp với mục tiêu xây
dựng Nhà nước ta là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong điều kiện nền kinh tế
6
Phan Ngọc Huy
nhiều thành phần, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, nói nhân dân làm chủ có lợi hơn cho
đại đoàn kết toàn dân.
- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; Việc bỏ cụm từ:
"dựa trên sự công hữu về tư liệu sản xuất" xuất phát từ thực tế ở nước ta tồn tại 3 chế độ
sở hữu cơ bản và nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Hơn nữa, vấn đề sở hữu là một trong
những vấn đề lý luận phức tạp. Công hữu hay không sẽ do trình độ phát triển lực lượng

sản xuất quy định, chứ không phải do ý muốn chủ quan áp đặt.
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Đại hội X xác định những
lĩnh vực đó là: "Phát huy tinh thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân
dân trong đời sống văn hóa. Đa dạng hóa các hình thức hoạt động của phong trào "Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa". Phát huy tiềm năng khuyến khích sáng tạo
văn học, nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Xây
dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa, chú trọng công trình văn hóa lớn,
tiêu biểu. Phát huy tinh thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân
trong đời sống văn hóa. đây là động lực lớn nhất, đồng thời cũng là nguyên nhân có tính
chất quyết định tạo nên tính bền vững và chất lượng, hiệu quả của phong trào "Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú
cho mỗi người và cả cộng đồng.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, phát triển toàn diện; Việc bỏ đoạn: "con người thoát khỏi bóc lột" xuất phát
từ thực tế bản chất chế độ chúng ta xây dựng không phải chế độ bóc lột nhưng hiện tượng
bóc lột thì vẫn còn trong thời kỳ quá độ, do trình độ sản xuất quy định và còn có ý nghĩa
thúc đẩy kinh tế phát triển.
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; So với Cương lĩnh 1991 đặc trưng này được bổ sung thêm
từ tương trợ. Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, là công việc của mỗi người dân.
Để nâng cao trách nhiệm của toàn dân, Đảng ta đặt vấn đề phải xây dựng sự đồng thuận
7
Phan Ngọc Huy
xã hội. Nhà nước phát huy vai trò to lớn trong việc thực hiện đại đoàn kết dân tộc không
chỉ bằng việc thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật mà
còn phải có trách nhiệm tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật đó một cách có hiệu
quả, thông qua bộ máy công quyền trong sạch, tận tụy, công tâm, hết lòng phục vụ nhân
dân.
- Có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; Nhà nước pháp quyền không phải là

một kiểu nhà nước riêng gắn liền với một giai cấp như nhà nước chủ nô, nhà nước phong
kiến, nhà nước tư sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa mà là một hình thức tổ chức nhà nước,
một trình độ phát triển của nhà nước về phương diện tổ chức - thiết kế, hoạt động trong
đó có sự phân công và tổ chức quyền lực để bảo đảm Hiến pháp và pháp luật giữ địa vị
tối cao. Đại hội X của Đảng chỉ rõ: "Xây dựng cơ chế vận hành của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về
nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ
quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp".
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Đại hội
X đã xác định: Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, tạo các
điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội,
CNH - HĐH đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đồng thời góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội.
Câu 3: Trình bày quan điểm, chủ trương và giải pháp của Đại hội X về thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Liên hệ
trách nhiệm bản thân ?
Trả lời:
Tiến bộ và công bằng xã hội là thể hiện bản chất xã hội chủ nghĩa của chế độ ta.
Quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc", trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam
8
Phan Ngọc Huy
Đảng ta luôn luôn xác định phát huy sức mạnh toàn dân tộc là nguồn lực chủ yếu để đấu
tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quan điểm phát huy sức mạnh toàn dân tộc của Đại hội X được thể hiện qua các
nội dung sau:
Một là, đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội gũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, lấy đường lối chiến lược của
cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa
quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt
nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức trong
đó các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghãi quan trọng
hàng đầu.
Ba là, vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc bắt đầu từ sự đặt đúng vị trí của yếu tố lợi
ích, theo quan điểm được xác định từ Nghị quyết Trung ương 8B khóa VI là: "Động lực
thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài
hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi và nghĩa vụ của công dân".
Bốn là, thực hiện dân chủ và phát huy chủ nghĩa yêu nước là những yếu tố quan
trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước luôn
luôn là động lực lớn nhất của dân tộc ta trong quá trình lịch sử. Dân chủ vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của cách mạng.
Trong 5 năm tới Đảng ta chủ trương tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức
xúc như sau:
Một là, khuyến khích mọi người làm giàu theo luật pháp, thực hiện tốt các chính
sách xóa đói giảm nghèo. Tạo điều kiện và cơ hội tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát
triển, hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản, vươn lên thoát đói nghèo vững chắc ở các
vùng nghèo và các bộ phận dân cư nghèo.
Khắc phục tư tưởng bao cấp, ỷ lại.
9
Phan Ngọc Huy
Hai là, xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm dịch vụ công cộng thiết
yếu, bình đẳng cho mọi người dân về giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe, văn hóa -
thông tin, thể dục thể thao, tạo việc làm
Xây dựng hệ thống an ninh xã hội đa dạng, phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân.
Đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội, tạo việc làm, đẩy mạnh xuất khẩu lao
động, hướng tới xuất khẩu lao động trình độ cao
Tiếp tục đổi mới chính sách tiền lương, chính sách phân phối thu nhập.
Ba là, phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả, bảo đảm cho sức khỏe mọi

người dân được chăm sóc và bảo vệ.
Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư để nâng cấp các cơ sở y tế, y tế dự phòng, xây dựng
và hoàn thiện chính sách trợ cấp và bảo hiểm y tế cho người hưởng chính sách xã hội và
người nghèo trong khám, chữa bệnh.
Phát triển các dịch vụ y tế công nghệ cao ngoài công lập.
Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế.
Bốn là, xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người
Việt Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nòi.
Phát triển mạnh thể dục thể thao, kết hợp tốt thể thao phong trào và thể thao thành
tích cao, dân tộc và hiện đại.
Thúc đẩy phong trào toàn xã hội chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em, tạo điều kiện
cho trẻ em được sống trong môi trường an toàn, lành mạnh, phát triển hài hòa về thể chất,
trí tuệ và đạo đức; giảm nhanh tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng. Phòng chống HIV/AIDS
bằng các biện pháp mạnh mẽ, kiên trì và có hiệu quả.
Năm là, thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.
Giảm tốc độ tăng dân số.
Tiếp tục duy trì kế hoạch giảm sinh và giữ mức sinh thay thế bảo đảm quy mô và
cơ cấu dân số hợp lý, nâng cao chất lượng dân số.
10
Phan Ngọc Huy
Phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam thích ứng với
những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc thật sự là tổ ấm của mỗi
người, alf tees bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi
dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt
đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sáu là, chú trọng các chính sách, ưu đãi xã hội.
Vận động toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ
nguồn đối với các lão thành cách mạng, những người có công với nước, người hưởng
chính sách xã hội.

Chăm sóc đời sống vật chất tinh thần của người già, nhất là những người già cô
đơn, không nơi nương tựa.
Giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam, người tàn tật, trẻ mồ côi, lang thang.
Bảy là, đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng.
Phát triển về quy mô gắn với chất lượng và hiệu quả các dịch vụ công cộng, nâng
cao năng lực quản lý nhà nước, đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị công lập và huy
động mạnh mẽ mọi nguồn lực của xã hội.
Công khai mức phí tại các cơ sở công lập và ngoài công lập, chấm dứt các khoản
thu, chi không minh bạch và sai quy định, bảo đảm người làm dịch vụ có chế độ thu nhập
hợp lý, có lương tâm nghề nghiệp.
Thúc đẩy các cơ sở công lập và ngoài công lập về dịch vụ công cộng phát triển cả
về quy mô và chất lượng xây dựng các cơ sở dịch vụ đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
*** Liên hệ bản thân:
Đại hội X của Đảng đã đưa ra những định hướng lớn và thể hiện quyết tâm của
toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiếp tục công cuộc đổi mới toàn diện, sớm đưa đất nước
ra khỏi tình trạng kém phát triển, do vậy mỗi người dân cần phải học tập, quán triệt sâu
sắc đường lối, quan điểm, các chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp do Đại hội X nêu ra để từ đó
nâng cao bản lĩnh chính trị, xác định lòng tin và ý chí phấn đấu tạo sự đồng thuận cao
11
Phan Ngọc Huy
trong toàn xã hội, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng. Với bản
thân tôi là một nhà báo, một đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam trên tinh thần đổi mới,
nhìn thẳng vào sự thật nhận thấy cần tham gia tích cực các sinh hoạt chính trị, đóng góp
vào việc thể chế hóa và xây dựng chương trình hành động, kế hoạch công tác của các cấp
ủy cơ quan, chính quyền địa phương nơi tôi cư trú thiết thực đưa Nghị quyết Đại hội X
vào cuộc sống; đồng thời tích cực tham dự các buổi sinh hoạt góp ý xây dựng Đảng, có ý
kiến kịp thời giúp tổ chức đảng khắc phục khó khăn, gắn bó với quần chúng lao động để
tổ chức đảng nơi mình sinh hoạt thực sự trong sạch và vững mạnh trở thành chỗ dựa tin
cậy của nhân dân.
Trong "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" Nguyễn Đình Chiểu có viết "Chở bao nhiêu

đạo thuyền không khẳm, đâm mấy thằng gian bút chẳng tà" là một nhà báo trong
lĩnh vực truyền thông việc đưa thông tin chính thống, tuyên truyền chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; nhận thức rõ cần có thái độ ủng hộ cái tốt,
cái đúng, những nhân tố điển hình tiên tiến; cần đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực
như cửa quyền, tham những, lãng phí, cục bộ Kiên quyết phản bác các quan điểm tư
tưởng sai trái, thù địch làm cản trở công cuộc đổi mới của đất nước, bảo vệ chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền nhân dân. Hơn nữa,
bản thân cần không ngừng trau dồi lý tưởng cách mạng, ra sức rèn luyện về chính trị, đạo
đức, lối sống và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để thực sự trở thành một nhà báo giỏi,
một công dân gương mẫu về mọi mặt. Tích cực lao động sáng tạo với ý chí vươn lên
đóng góp thật nhiều công sức, trí tuệ cho sự nghiệp đổi mới đất nước; đồng thời là người
tuyên truyền, giáo dục, vận động người thân, người cùng cơ quan, cùng nơi cư trú và bạn
bè nhận thức đầy đủ quyền lợi và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện tốt đường
lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đó chính là việc làm có ý
nghĩa nhất thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội X của Đảng./.

Câu 4: Phân tích tính tất yếu khách quan và cơ hội thách thức của hội nhập kinh tế
quốc tế trong giai đoạn hiện nay ?
12
Phan Ngọc Huy
Trả lời:
Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước ta đã chủ
trương tham gia các thể chế kinh tế quốc tế. Trong "Lời kêu gọi Liên Hợp quốc" tháng
12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Đối với các nước dân chủ nước Việt Nam sẵn
sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực". Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân, trong đó có chiến tranh kéo dài và cục diện đối đầu hai cực trên thế giới,
nước ta bị bao vây cấm vận nhiều năm, quan hệ kinh tế quốc tế của nước ta chủ yếu với
các nước xã hội chủ nghĩa, có tham gia liên kết, hợp tác trong khuôn khổ của SEV từ năm
1978.
Từ Đại hội VI, khi tiến hành đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta chủ trương "tham

gia sự phân công lao động quốc tế ; tranh thủ mở mang quan hệ kinh tế và khoa học kỹ
thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế
và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi". Đến đại hội VII của Đảng
chủ trương: "Mở rộng, đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc giữ vững
độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi". Đại hội VIII, đặc biệt là NGhị quyết Hội
nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành TW khóa VIII về kinh ế đối ngoại đã nhấn mạnh:
"Chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết về cán bộ, luật pháp và nhất là về những sản
phẩm mà chúng ta có khả năng cạnh tranh để hội nhập thị trường khu vực và thị trường
quốc tế. Tiến hành khẩn trương vững chắc việc đàm phán Hiệp định Thương mại với Mỹ,
gia nhập APEC và WTO. Có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết trong
khuôn khổ AFTA". Đại hội IX của Đảng đưa ra chủ trương "chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực". Sau Đại hội IX, Nghị quyết TW 9 khóa IX nhấn mạnh: "Chủ động
và khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế
đa phương, song phương nwocs ta đã kỹ và chuẩn bị tốt điều kiện để sớm gia nhập Tổ
chức thương mại thế giới (WTO).
Có thể thấy rằng, sau 20 năm đổi mới, từ nhận thức đúng đắn tính tất yếu khách
quan và những vấn đề của toàn cầu hóa, Đảng ta đã xác định rõ chủ trương hội nhập kinh
tế quốc tế và khu vực.
13
Phan Ngọc Huy
*. Về cơ hội và thách thức trong hội nhập kinh tế quốc tế:
Hội nhập kinh tế không đơn giản là lập quan hệ thương mại với một số nước hoặc
thành viên của một thể chế kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế cần được hiểu là quá
trình chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế trong nước theo hướng hiện đại, xây dựng nền
kinh tế có chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao; giải phóng mọi sức sản xuất; từng
bước tự do hóa các hoạt động kinh tế, tháo gỡ những trói buộc và cản trở đối với các hoạt
động sản xuất kinh doanh; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; mở cửa thị trường; đẩy mạnh
các hoạt động kinh tế - thương mại - tài chính giữa nước ta với các quốc gia trên thế giới.
Hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để phát triển nhanh, hệu quả và bền vững. Hội
nhập kinh tế quốc tế mở rộng thị trường xuất khẩu hàng háo và dịch vụ; thu hút nguồn

vốn bên ngoài; tiếp nhận những thành tựu và kinh nghiệm về quản lý sản xuất, kinh
doanh; về điều hành các mặt của đời sống xã hội Qua hội nhập kinh tế quốc tế các
doanh nghiệp trong nước buộc phải tham gia cuộc cạnh tranh quốc tế gay gắt ngay trong
thị trường trong nước, tự vươn lên để tồn tại và phát triển.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt cho nhân dân ta nhiều thách thức và có những
tác động bất lợi. Sự chi phối quá trình toàn cầu hóa của các nước tư bản phát triển mang
lại nhiều thách thức, thua thiệt cho các nước kém phát triển, trong đó có nước ta. Các
nước phát triển giành nhiều lợi thế trong cạnh tranh, gây sức ép mở cửa thị trường hàng
hóa và dịch vụ, đồng thời tạo nên những rào cản để bảo hộ sản xuất trong nước họ
Hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với những biến động của tình hình thế giới, như
khủng hoảng kinh tế, chính trị, năng lượng, môi trường, chiến tranh, xung đột cục bộ
tác động vào kinh tế thế giới trong đó có nước ta.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng gặp những khó khăn, thách thức từ trong nước, do
trình độ phát triển kinh tế còn thấp, ảnh hưởng của tư duy cũ, bao cấp còn nặng nề, có sự
do dự, chần chừ, trông đợi ỷa lại vào Nhà nước
Nghị quyết Đại hội X của Đảng về chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế:
Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại
sáng lập và rèn luyện đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
14
Phan Ngọc Huy
khác, thắng lợi mà nhân dân, dân tộc ta đánh đổi bằng cả xương máu của các lớp thế hệ
con Lạc cháu Hồng.
Đó là thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước
Việt Nam dân chủ Cộng hoà. Đây là kết quả tổng hợp của các phong trào cách mạng liên
tục diễn ra trong 15 năm sau ngày thành lập Đảng, từ cao trào cách mạng 1930 – 1931.
Đặc biệt là phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939 đến
phong trào giải phóng dân tộc 1939 – 1945. Như ba cuộc tổng diễn tập, với khí thế cách
mạng vĩ đại của quần chúng, nắm chắc thời cơ lịch sử, với một nghệ thuật lãnh đạo và tổ
chức khởi nghĩa tài tình, Đảng ta đã lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng
Tám thành công trọn vẹn, đã xoá bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở nước ta, mở ra kỷ

nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Đó là thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ
Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp
phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
Đó là thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Kế thừa những thành tựu và kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc khi còn chiến tranh và trong những năm đầu sau khi nước nhà thống nhất, trải qua
nhiều tìm tòi khảo nghiệm sáng kiến của nhân dân, Đảng đã đề ra và lãnh đạo thực hiện
đường lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc phù hợp với thực tiễn
Việt Nam và bối cảnh quốc tế mới.
Với sự cố gắng của các tổ chức Đảng ở trong nước và của các đồng chí hoạt động
ở nước ngoài Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ Nhất (3/1935) đề ra chủ trương đường
lối và tổ chức hoạt động của Đảng. Đại hội đã đánh dấu sự khôi phục của tổ chức Đảng
từ Trung ương đến đại phương, thống nhất phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của
Ban chấp hành Trung ương mới, đem lại niềm tin cho đảng viên và quần chúng.
15
Phan Ngọc Huy
Những năm 1936 – 1939, tình hình trong nước và thế giới có nhiều thay đổi, các
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng năm 1936, 1937 và 1939 đã có những quyết
định kịp thời về chuyển hướng hình thức tổ chức và sử dụng những hình thức đấu tranh
phù hợp, dấy lên cuộc vận động dân chủ rộng lớn – một hiện tượng hiếm có xảy ra ở một
nước thuộc địa. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (1/9/1939), thực dân Pháp tăng
cường đàn áp phong trào cách mạng, phát xít Nhật đánh chiếm Việt Nam và Đông
Dương, Nhật – Pháp câu kết thống trị dân tộc ta, loàm cho mâu thuẫn giữa dân tộc Việt
Nam với thực dân Pháp và phát xít Nhật phát triển gay gắt. Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương Đảng (11/1939) đã nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc. Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương (11/1940) tiếp tục chủ trương đó. Tháng 1/1941, sau gần 30 năm hoạt
động ở nước ngoài lãnh tụ Nguyễn ái Quốc về nước cùng với Trung ương Đảng trực tiếp

lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc. Trong lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc,
hoạt động bí mật không có điều kiện họp Đại hội đại biểu toàn quốc định kỳ, các Hội
nghị Trung ương, Hội nghị Ban thường vụ Trung ương và Hội nghị cán bộ Đảng có vai
trò quan trọng. Cụ thể hoá Nghị quyết Trung ương 5/1941. Hội nghị Ban Thường vụ
Trung ương mở rộng 3/1945 và bản Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta”. Trên cương vị là Người đứng đầu Đảng và Chính phủ, Hồ Chí Minh đã cùng
Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã chèo lái con thuyền cách mạng chiến thắng giặc
đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Sau tháng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 Đảng
đã nắm chính quyền toàn quốc nhưng do hoàn cảnh lịch sử khó khăn, phức tạp Đảng phải
rút vào bí mật để thực hiện sự lãnh đạo kín đáo và khôn khéo. Các Hội nghị Ban Thường
vụ Trung ương Đảng đã trực tiếp quyết định những vấn đề về chiến lược và sách lược của
Đảng và Nhà nước cách mạng về xây dựng chế độ mới và kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược. Hội nghị Ban thường vụ Trung ương Đảng 11/1945 với bản chỉ thị
“Kháng chiến kiến quốc”; Hội nghị BCH TW Đảng mở rộng 3/1946 với chủ trương
“Hoà để tiến”; Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng 12/1946 với bản chỉ
thị “Toàn dân kháng chiến”.
16
Phan Ngọc Huy
Trong lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá III đã có nhiều Hội nghị với những Nghị quyết quan trọng, cụ thể hoá
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc; Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần
thứ Năm (1961) bàn về phát triển nông nghiệp. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần
thứ bảy (1962) bàn về phương hướng, xây dựng và phát triển công nghiệp. Hội nghị lần
thứ Tám (1963) bàn về phát triển kinh tế quốc dân. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ Mười (1964) tập trung bàn về thương nghiệp và giá cả. Các Hội nghị Trung
ương lần thứ mười chín (1971), lần thứ Hai mươi (1972) và lần thứ Hai mươi hai (1973)
về phát triển kinh tế quốc dân ở miền Bắc.
đối với sự nghiệp cách mạng miền Nam và chống Mĩ cứu nước, Bộ Chính trị và
Ban Chấp hành Trung ương đã giành nhiều Hội nghị với những nghị quyết quan trọng để
lãnh đạo và chỉ đạo kịp thời. Hội nghị Bộ Chính trị (1/1961) ra Chỉ thị “Về phương

hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam”. Tháng 2/1962 Bộ
Chính trị ra Nghị quyết “Về công tác cách mạng miền Nam”. Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ chín (12/1963) bàn về “Phương hướng và nhiệm vụ cách
mạng miền Nam và đường lối quốc tế của Đảng trong tình hình mới”. Các Hội nghị
Trung ương lần thứ mười một (3/1965) và lần thứ mười hai (12/1965); Hội nghị Trung
ương lần thứ 13 (1967) về đẩy mạnh đấu tranh công tác ngoại giao. Chủ trương mở cuộc
tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968 được đề ra tại Hội nghị Trung ương lần thứ 14;
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 18 (1970) với chủ trương “Đánh bại chiến
lược Việt Nam hoá chiến tranh của đế quốc Mỹ”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 19
(1971) là “Kiên trì đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”. Sau khi ký
Hiệp định Pari, đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai vẫn ngoan cố tiếp tục chiến tranh, vi
phạm Hiệp định. Trước tình hình đó Hội ghị Ban Chấp hành Trung ương đảng lần thứ 21
(1973) đã có Nghị quyết quan trọng khẳng định “Con đường cách mạng miền Nam vẫn
là con đường bạo lực cách mạng”, phát triển lực lượng về mọi mặt để giành thắng lợi
hoàn toàn. Những quyết định về phương án giải phóng miền Nam đã được Hội nghị Bộ
Chính trị họp ngày 30/9 đến 8/10/1974 và từ 18/12/1974 đến 8/1/1975 thông qua trực tiếp
17
Phan Ngọc Huy
đưa đến thắng lợi hoàn toàn của Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền
Nam thống nhất đất nước.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đất nước thống nhất và đi
lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã họp tháng
12/1976 tại Hà Nội. Đại hội đã tổng kết thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước và của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam. Đại hội đề ra đường lối cách
mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng phát triển kinh tế trên cả nước. Đại hội
quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhân dân
cả nước vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa phải tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở
biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Đó là khó khăn và cũng là thách thức mới. Các
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra những chủ trương, biện pháp để kết
hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Về xây dựng chủ nghĩa xã hội, các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương đã cụ thể
hoá đường lối của Đại hội IV thực hiện công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam,
xác lập quan hệ sản xuất mới, đẩy mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội theo những chỉ tiêu
chủ yếu mà Đại hội đã đề ra. Tình hình kinh tế, xã hội, đời sống của nhân dân có nhiều
khó khăn do hậu quả của chiến tranh và cũng do sự trì trệ, kém hiệu quả của cơ chế quản
lý cũ… Từ trong khó khăn đó Đảng và nhân dân ta đã bắt đầu có những khảo nghiệm
thực tế và tìm tòi cách thức, cơ chế quản lý mới. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ sáu khoá IV (9/1979) đã mở đầu cho quá trình tìm tòi, đổi mới chủ trương
khuyến khích mọi lực lượng và năng lực sản xuất làm cho sản xuất bung ra làm ra nhiều
của cải vật chất cho xã hội. Các Hội nghị Trung ương tiếp theo và những quyết dịnh của
Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã hướng vào sự tìm tòi, đổi mới cơ chế quản lý… “Trong cuộc
trường chinh để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, ở đâu và lúc nào cũng có Đảng.
Đảng đi đầu trong chiến đấu. Đảng xông pha nơi khó khăn. Đảng gắn bó với nhân
dân bằng những gì Đảng đã làm cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Trong giai đoạn
mới, Đảng quyết làm tất cả vì phồn vinh của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân”
(1)
18
Phan Ngọc Huy
Các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá V đã tập trung giải quyết
những vấn đề cấp bách về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội hàng năm và
dài hạn, công tác tư tưởng và tổ chức bảo đảm nhiệm vụ kinh tế, xã hội về phân cấp quản
lý kinh tế, xây dựng và tăng cường cấp huyện, những vấn đề về phân phối lưu thông…
Trải qua mười năm lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt
Nam họp đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6/1996) đã nêu bật những thành tựu của
10 năm đổi mới về nhịp độ phát triển kinh tế, những chuyển biến tích cực về mặt xã hội;
giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng an ninh; thực hiện có kết quả một số đổi
mới quan trọng về hệ thống chính trị và phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại. Đại hội
đặc biệt nhấn mạnh nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; đã cơ bản hoàn
thành nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho
công nghiệp hoá, đất nước chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá;

con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ Năm (7/1998) đã thông qua
Nghị quyết về “Xây dựng và phát triển nên văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc”, nêu rõ 5 quan điểm chỉ đạo. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần
thứ sáu (10/1998) thảo luận và quyết định những vấn đề kinh tế – xã hội để khắc phục
những khó khăn yếu kém, vượt qua những thách thức do ảnh hưởng của khủng hoảng tài
chính, tiền tệ các nước trong khu vực. Hội nghị Trung ương sáu (lần 2) họp tháng 1-
2/1999 đã thảo luận và ra Nghị quyết “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong xây
dựng Đảng hiện nay” mở cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện tự phê
bình và phê bình nhân kỷ niệm 30 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
kỷ niệm 70 năm thành lập Đảng…
Có thể thấy rằng sự lãnh đạo của Đảng từ khi mới ra đời cho dù còn non trẻ qua
các kỳ Đại hội nhưng vẫn giữ vững được những truyền thống quý báu của Đảng Cộng
sản Việt Nam đó là giữ vững Cương lĩnh, đường lối đúng đắn, bản lĩnh chính trị vững
vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng; Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh suyên suốt cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, nhân dân ta.
19
Phan Ngọc Huy
Tinh thần độc lập tự chủ, vận dụng sáng tạo và vấn đề đoàn kết, tạo sự thống nhất trong
toàn Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức luôn được đặt lên hàng đầu điều đó được thể
hiện qua các cuộc Hội nghị Ban chấp hành Trung ương; Thể hiện trên con đường phát
triển của cách mạng Việt Nam, nhất là trong những bước ngoặt lịch sử phải đương đầu
với mọi thử thách dù hiểm nghèo tưởng không thể vượt qua, Đảng đã kịp thời có những
quyết sách sáng suốt đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn nhưng dưới sự lãnh đạo tài
tình sáng suốt của Đảng đã đưa con thuyền cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác. Trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người viết: “Đoàn kết là một
truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân tộc. Các đồng chí từ Trung ương
đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như con ngươi của
mắt mình”. Đảng ta không chỉ nắm bắt những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-
Lênin mà còn biết vận dụng sáng tạo và phát triển trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.

Đồng thời, Đảng ta không ngừng phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tiếp thu
những tinh hoa trí tuệ của nhân loại. Và chính là kết quả của quá trình phấn đấu không
mệt mỏi của các thế hệ đảng viên của Đảng. Những truyền thống đó có ý nghĩa dân tộc
và quốc tế sâu sắc thể hiện tinh thần cách mạng triệt để, trình độ trí tuệ ngày càng được
nâng cao của Đảng ta. Đây là kết quả tất yếu của sự chuẩn bị công phu, gian khổ với
những bước đi phù hợp thể hiện năng lực tổ chức tài tình của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc; Là
sự thắng thế của tư tưởng vô sản đối với đường lối chính trị của giai cấp tư sản…
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt thời kỳ đơn độc, biệt lập của phong
trào dân tộc Việt Nam. Từ đây gắn chặt phong trào cách mạng nước ta gắn kết chặt chẽ
với phong trào cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh thời đại và sức mạnh trong nước,
kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
“Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. Đảng lãnh
đạo cách mạng không phải là một đặc quyền, đặc lợi mà là sứ mệnh lịch sử, là trách
nhiệm nặng nề, vẻ vang của Đảng với giai cấp, với dân tộc được nhân dân giao
phó”
(2)
. Cơ sở, nguồn gốc sức mạnh và truyền thống của Đảng là ở chỗ: Đảng đứng vững
trên nền tảng tư tưởng tiên tiến của thời đại, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
20
Phan Ngọc Huy
Minh. Đảng ta không chỉ nắm bắt những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin mà
còn biết vận dụng sáng tạo và phát triển trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng
không ngừng phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta mà còn tiếp thu những tinh hoa
trí tuệ của nhân loại. Trong bài nói tại Lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định:
“ Đảng ta vĩ đại như biển rộng núi cao,
Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình.
Đảng ta là đạo đức, là văn minh,
Là thống nhất, độc lập, là hoà bình ấm no.
Công ơn Đảng thật là to,

Ba mươi năm lịch sử Đảng là cả một pho lịch sử bằng vàng”.
Thật vậy, kể từ ngày thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân,
cùng nhân dân mình viết nên những trang sử chói lọi, trong đó mỗi kỳ Đại hội Đảng, mỗi
thời đoạn của cách mạng Việt Nam là một dấu son không thể phai mờ trong lịch sử dân
tộc./.
(1) Trích Báo cáo Chính trị BCHTW Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IV
(2) Trích Nghị quyết Trung ương 7 khoá VI
Câu 5: Từ khi ra đời đến nay, Cương lĩnh 1991 đã được cụ thể hoá và phát triển
trong cuộc sống như thế nào ? (Đi sâu vào những vấn đề Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX của Đảng nói rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta).
Trả lời: Trong quá trình đấu tranh giai cấp yêu cầu phải có một tổ chức Đảng ra
đời đòi hỏi phải xây dựng một cương lĩnh hay một chương trình hành động cho chính
Đảng của mình để thu phục nhân dân, làm cho nhân dân đi theo. Vì cương lĩnh chính là
sự thống nhất.
Cương lĩnh chính trị là văn kiện lý luận và chính trị cơ bản, chỉ rõ mục tiêu, đường
lối, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng trong một giai đoạn lịch sử nhất định của một
21
Phan Ngọc Huy
chính đảng hoặc một tổ chức chính trị. Theo quan niệm của Đảng ta, Cương lĩnh chính
trị là văn bản trình bày những nội dung cơ bản về mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ và
phương pháp cách mạng trong một giai đoạn nhất định. Nó mang một ý nghĩa vô cùng
to lớn là cơ sở thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, là ngọn cờ tập hợp, cổ
vũ các lực lượng xã hội phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (1930) là một cương lĩnh cách mạng giải phóng dân
tộc đúng đắn và sáng tạo, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, nhuận nhuyễn
về quan điểm giai cấp, thấm đượm tinh thần dân tộc, phản ánh đúng yêu cầu khách quan
của lịch sử và nguyện vọng độc lập của quần chúng nhân dân. Độc lập tự do gắn liền với
chủ nghĩa xã hội là tư tưởng cốt lõi của Hồ Chí Minh đã được phản ánh đầy đủ trong
cương lĩnh của Đảng. Nhưng do yêu cầu thực tế của cuộc cách mạng trong thời kỳ mới

đòi hỏi phải có một cương lĩnh mới ra đời phù hợp với điều kiện cách mạng mới, phù hợp
với tình hình phát triển của đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng
(tháng 6/1991) trên cơ sở tổng kết quá trình hơn 60 năm thực hiện cương lĩnh đầu tiên
(1930) phân tích sâu sắc đặc điểm tình hình trong nước và quốc tế, Đảng ta đã đề ra
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã tổng
kết cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến 1991 và nêu lên những bài học kinh nghiệm:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó alf bài học
xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực
hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân
tộc.
Hai là, sự nghiệp cách mạng của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính
nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát
từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó
mật thiết với nhân dân.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết, đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết
toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
22
Phan Ngọc Huy
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và
sức mạnh quốc tế.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tó hàng đầu bảo đảm thắng lợi của
cách mạng Việt Nam.
Cương lĩnh xác định xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã
hội mang 6 đặc trưng cơ bản:
Xã hội nhân dân ta đang xây dựng là xã hội do nhân dân lao động làm chủ.
Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Có nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc.
Con người phải được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực

hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện cá nhân.
Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Những đặc trưng đó thể hiện bản chất của chủ nghĩa xã hội và cũng là tiêu chí để
phân biệt khác với bản chất của chế độ chủ nghĩa tư bản.
Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của nước ta, là sự lựa chọn sáng suốt
của Bác Hồ, của Đảng ta. Xây dựng nước Việt Nam XHCN là mục tiêu, là lý tưởng của
Đảng và nhân dân ta. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là làm cho mục
tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về CNXH, những
hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp.
Chủ nghĩa Mác-Lênin luôn luôn là nền tảng tư tưởng của Đảng ta, chỉ đạo toàn bộ
sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đổi mới tư duy là nhằm khắc phục những quan
niệm không đúng, làm phong phú những quan niệm đúng về thời đại, về CNXH, vận
dụng sáng tạo và phát triển chứ không phải xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-
Lênin.
23
Phan Ngọc Huy
Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định thắng lợi cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc XHCN của nhân dân ta. Phải phê phán những khuynh hướng phủ nhận
hoặc hạ thấp sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời lắng nghe, tiếp nhận những ý kiến trung
thực phê bình những khuyết điểm trong sự lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng
Đảng.
Mở rộng dân chủ các lĩnh vực của đời sống xã hội, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng CNXH. Đó là dân chủ
XHCN, không phải là dân chủ tư sản. Dân chủ phải đi đôi với tập trung, với kỷ luật, ý
thức trách nhiệm công dân và tôn trọng pháp luật. Dân chủ phải có lãnh đạo, lãnh đạo để
phát huy dân chủ đúng hướng và lãnh đạo bằng phương pháp dân chủ. Dân chủ với nhân
dân nhưng phải nghiêm trị những kẻ phá hoại thành quả cách mạng, an ninh trật tự, an
toàn xã hội. Tiến tới một xã hội xã hội chủ nghĩa công bằng, dân chủ, văn minh. Hội nghị

TW 7 cũng nhấn mạnh và khẳng định mục tiêu XHCN của chúng ta: Để đạt được mục
tiêu XHCN về lâu dài chúng ta phải làm cho quan hệ sở hữu XHCN chiếm ưu thế tuyệt
đối trong nền kinh tế quốc dân. Trong thời gian dài Đảng ta chủ trương “thực hiện nhất
quán chính sách cơ cấu nhiều thành phần, giải phóng mọi năng lực sản xuất”. Đến Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định những kinh nghiệm, bài học đổi mới mà
các Đại hội VI, VII, VIII của Đảng đã đúc rút vẫn có giá trị lớn, nhất là những bài học
chủ yếu sau:
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, đổi mới phải dực vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực
tiễn, luôn luôn sáng tạo.
Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạng dân tộc với sức mạnh thời đại.
Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự
nghiệp đổi mới.
Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã
hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp khó khăn, phức tạp cho nên phải trải qua một thời
24
Phan Ngọc Huy
kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính
chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa
cái mới và cái cũ.
Mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là
phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó cũng chính là nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Đại hội IX đã xác định động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại
đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng
lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng
và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết

toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ trên các lĩnh vực hcính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội ở tất cả các cấp, các ngành, thu hút trí tuệ và sức lực của toàn dân vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội diễn ra trong bối cảnh loài người đã kết thức thế kỷ XX
và bước sang thế kỷ XXI, trong bối cảnh dân tộc ta đứng trước những thời cơ lớn đan xen
với nhiều thách thức lớn.
Khả năng duy trì hoà bình, ổn định trên thế giới và khu vực cho phép chúng ta tập
trung vào nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, đồng thời đòi hỏi phải đề cao cảnh
giác, chủ động đối phó với các tình huống bất trắc, phức tạp có thể xảy ra.
Cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ
sinh học, tiếp tục có bước phát triển nhảy vọt, ngày càng trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp, thúc đẩy sự phát triển kinh tế tri thức, làm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế và
biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tri thức và sở hữ trí tuệ có vai trò ngày
càng quan trọng. Trình độ làm chủ thông tin, tri thức có ý nghĩa quyết định sự phát triển.
Chu trình luân chuyển vốn, đổi mới công nghệ và sản phẩm ngày càng được rút ngắn; các
điều kiện kinh doanh trên thị trường thế giới luôn thay đổi đòi hỏi các quốc gia cũng như
doanh nghiệp phải rất nhanh nhạy nắm bắt, thích nghi. Các nước đang phát triển, trong đó
25

×