Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

ảnh hưởng của mật độ sạ đến năng suất lúa om6796 vụ đông xuân năm 2012 – 2013 tại huyện kế sách,tỉnh sóc trăng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 52 trang )



TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG







ĐẶNG THỊ TUYẾT NHUNG



ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT
LÚA OM6796 VỤ ĐÔNG XUÂN NĂM 2012 – 2013
TẠI HUYỆN KẾ SÁCH,TỈNH SÓC TRĂNG



Luận văn tốt nghiệp
Ngành: NÔNG HỌC












Cần Thơ, 2013





Luận văn tốt nghiệp
Ngành: NÔNG HỌC



Tên đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT
LÚA OM6796 VỤ ĐÔNG XUÂN NĂM 2012 – 2013
TẠI HUYỆN KẾ SÁCH,TỈNH SÓC TRĂNG



Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
GS.TS. Nguyễn Bảo Vệ ĐẶNG THỊ TUYẾT NHUNG
ThS. Trần Thị Bích Vân MSSV: 3103474
Lớp: NH K36














TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG

Cần Thơ, 2013
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG


Luận văn tốt nghiệp kỹ sƣ ngành Nông Học

ĐỀ TÀI
“ẢNH HƢỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT
LÚA OM6796 VỤ ĐÔNG XUÂN NĂM 2012 -2013
TẠI HUYỆN KẾ SÁCH TỈNH TỈNH SÓC TRĂNG”


Sinh viên thực hiện: ĐẶNG THỊ TUYẾT NHUNG
Kính trình lên hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp xem xét.



Cần Thơ, ngày… tháng… năm 2013

Cán bộ hƣớng dẫn


Gs. Ts. Nguyễn Bảo Vệ


Ths. Trần Thị Bích Vân

iii
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN DI TRUYỀN GIỐNG NÔNG NGHIỆP
 O 

Hội đồng khoa học chấm luận văn tốt nghiệp với đề tài:
“ẢNH HƢỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT
GIỐNG LÚA OM6796 VỤ ĐÔNG XUÂN NĂM 2012 -2013
TẠI HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG”

Do sinh viên ĐẶNG THỊ TUYẾT NHUNG thực hiện và bảo vệ trƣớc hội đồng.
Ý kiến hội đồng:
…………………………………………………………………………………………
… ……………………………………………………………………………………
……… ………………………………………………………………….……………
……… ………………………………………………………………….……………
Luận văn đã đƣợc Hội đồng đánh giá ở mức: ……………

Cần Thơ, ngày……tháng… năm 2013
Thành viên Hội đồng






DUYỆT KHOA
Trƣởng Khoa Nông Nghiệp & SHƢD


iv
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu, kết
quả đƣợc trình bày trong luận văn tốt nghiệp là trung thực và chƣa từng đƣợc ai
công bố trong bất kỳ công trình luận văn nào trƣớc đây.




Tác giả luận văn



ĐẶNG THỊ TUYẾT NHUNG





















v

LỜI CẢM TẠ

Xin tỏ lòng biết ơn đến
Cha mẹ đã tận tụy nuôi dƣỡng và tạo điều kiện cho tôi đƣợc học tập và rèn
luyện.
Thầy Nguyễn Bảo Vệ và cô Trần Thị Bích Vân đã tận tình hƣớng dẫn, chỉ
bảo và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành nghiên cứu.
Cô cố vấn Trần Thị Thanh Thủy cùng với quý thầy cô của Khoa Nông
nghiệp và Sinh học ứng dụng, Trƣờng Đại học Cần Thơ đã truyền đạt những kiến
thức quý báo cho tôi trong quá trình học tập và rèn luyện tại trƣờng.
Chân thành cảm ơn
Các bạn sinh viên nghành Nông học, Khóa 36 đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong
quá trình học tập và thực hiện đề tài.


























vi
QUÁ TRÌNH HỌC TẬP

LÝ LỊCH SƠ LƢỢC
Họ và tên: ĐẶNG THỊ TUYẾT NHUNG
Ngày sinh: 28/ 10/ 1991
Nơi sinh: Kế Sách, Sóc Trăng

Dân tộc: Kinh
Chỗ ở hiện nay: Ấp Đông Hải, xã Đại Hải, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng.
Điện thoại: 01288724433
E- mail:
QUÁ TRÌNH HỌC TẬP
Năm 2002 tốt nghiệp tiểu học.
Năm 2006 tốt nghiệp trung học cơ sở.
Năm 2009 tốt nghiệp trung học phổ thông.
Năm 2010-2013 là sinh viên nghành Nông học khóa 36 Trƣờng Đại học Cần Thơ.

























vii
ĐẶNG THỊ TUYẾT NHUNG, 2013 “ Ảnh hưởng của mật độ sạ đến năng suất
giống lúa OM6796 vụ Đông Xuân năm 2012-2013 tại huyện Kế Sách, tỉnh Sóc
Trăng”. Luận văn tốt nghiệp đại học, Khoa Nông nghiệp và Sinh học Ứng dụng,
trƣờng Đại học Cần Thơ. Cán bộ hƣớng dẫn: GS. TS. Nguyễn Bảo Vệ và ThS. Trần
Thị Bích Vân.

TÓM LƢỢC
Đề tài “Ảnh hưởng của mật độ gieo sạ đến năng suất giống lúa OM6796
vụ Đông Xuân năm 2012-2013 tại huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng” đƣợc thực
hiện nhằm mục tiêu xác định mật độ gieo sạ thích hợp để làm tăng năng suất lúa và
hiệu quả kinh tế cao nhất trong sản xuất ở vùng nghiên cứu. Thí nghiệm đƣợc tiến
hành trong vụ Đông Xuân năm 2012-2013 tại xã Đại Hải, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc
Trăng. Đƣợc bố trí theo thể thức khối hoàn toàn ngẫu nhiên, ba lần lặp lại, bao gồm
các nghiệm thức: sạ ở mật độ 200 kg/ha, sạ ở mật độ 150 kg/ha, sạ ở mật độ 100
kg/ha. Kết quả thí nghiệm cho thấy trong vụ Đông Xuân, sạ với mật độ 200kg/ha có
số chồi/m
2
, số bông/m
2
cao hơn nhƣng chiều dài bông, số hạt/bông, số hạt
chắc/bông và năng suất lại thấp hơn. Không đem lại hiệu quả kinh tế khi không
giảm đƣợc chi phí cho sản xuất. Sạ 150 kg/ha có chồi/m
2
, số bông/m
2
thấp hơn sạ

200 kg/ha nhƣng chiều dài bông, số hạt/bông, số hạt chắc/bông và năng suất lại cao
hơn. Hiệu quả kinh tế cao hơn khi lợi nhuận tăng thêm 955.000 đồng/ha. Sạ 100
kg/ha có chồi/m
2
, số bông/m
2
thấp hơn sạ 200 kg/ha và 150 kg/ha nhƣng chiều dài
bông, số hạt/bông, số hạt chắc/bông và năng suất lại cao hơn. Hiệu quả kinh tế cao
hơn khi lợi nhuận tăng thêm 2.090.000 đồng/ha.

.


ix
MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa iii
Lời cam đoan iv
Cảm tạ v
Quá trình học tập vi
Tóm lƣợc vii
Mục lục viii
Danh mục bảng x
Danh sách hình xi

MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: LƢỢC KHẢO TÀI LỆU 2
1.1 NGUỒN GỐC VÀ PHÂN LOẠI CÂY LÚA 2
1.1.1 Nguồn gốc cây lúa 2

1.1.2 Phân loại cây lúa theo đặc tính thực vật học 2
1.2 ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT 2
1.2.1 Rễ lúa 2
1.2.2 Thân lúa 3
1.2.3 Lá lúa 3
1.3 THỜI KỲ SINH TRƢỞNG CỦA CÂY LÚA 4
1.3.1 Giai đoạn tăng trƣởng 4
1.3.2 Giai đoạng sinh sản 5
1.3.3 Giai đoạn chín 5
1.4 YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN NĂNG SUẤT 5
1.4.1 Ảnh hƣởng của khí hậu 5
1.4.2 Ảnh hƣởng của đất 7
1.4.3 Ảnh hƣởng của sâu bệnh 7
1.5 PHƢƠNG PHÁP GIEO SẠ 7

x
1.5.1 Sạ lan 7
1.5.1.1 Sạ ƣớt 8
1.5.1.2 Sạ khô 8
1.5.1.3 Sạ ngầm 8
1.5.1.4 Sạ chay 8
1.5.1.5 Sạ gởi 8
1.5.2 Sạ hàng 9
1.6 ĐẶC TÍNH NÔNG HỌCVÀ THÀNH PHẦN NĂNG SUẤT 9
1.6.1 Chiều cao cây 10
1.6.2 Chiều dài bông 10
1.6.3 Số bông/m
2
10
1.6.4 Số hạt/bông 11

1.3.5 Tỷ lệ hạt chắc 11
1.3.6 Trọng lƣợng 1000 hạt 11
1.7 MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VỀ HÌNH DẠNG CÂY LÚA NĂNG SUẤT CAO . 12
1.8 ẢNH HƢỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ 12
1.8.1 Ảnh hƣởng của mật độ sạ đến sinh trƣởng cây lúa 13
1.8.2 Ảnh hƣởng của mật độ sạ đến các năng suất lúa 14
CHƢƠNG 2: PHƢƠNG TIỆN VÀ PHƢƠNG PHÁP 15
2.1 PHƢƠNG TIỆN 15
2.1.1 Địa điểm và thời gian nghiên cứu 15
2.1.2 Vật liệu thí nghiệm 15
2.2 PHƢƠNG PHÁP 15
2.2.1 Bố trí thí nghiệm 15
2.2.2 Kỹ thuật canh tác 16
2.2.3 Các chỉ tiêu theo dõi 16
2.2.4 Đánh giá chỉ tiêu vế các thành phần năng suất 16
2.2.5 Đánh giá chỉ tiêu về năng suất 17
2.2.6 Đánh giá khả năng phản ứng với một số sâu bệnh hại 17
2.2.7 Phƣơng pháp phân tích số liệu 18

xi
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 19
3.1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH THÍ NGHIỆM 19
3.1.1 Tình hình đất đai và khí hậu 19
3.1.2 Tình hình phát triển của cây lúa 19
3.13 Tình hình sâu bệnh hại 19
3.2 ẢNH HƢỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN SỰ SINH TRƢỞNG VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA CÂY LÚA 21
3.2.1 Chiều cao cây 21
3.2.2 Số chồi/ m
2

22
3.2.3 Chiều dài bông 23
3.3 ẢNH HƢỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN THÀNH PHẦN NĂNG SUẤT 24
3.3.1 Số hạt trên bông 24
3.3.2 Số bông/m
2
25
3.3.3 Số hạt chắc /bông 26
3.3.4 Tỷ lệ hạt chắc 27
3.3.5 Trọng lƣợng 1000 hạt 27
3.4 NĂNG SUẤT 27
3.4.1 Năng suất lý thuyết 27
3.4.2 Năng suất thực tế 28
3.5 HIỆU QUẢ KINH TẾ 29
CHƢƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 31
4.1 KẾT LUẬN 31
4.2 ĐỀ NGHỊ 31
TÀI LIỆU THAM KHẢO 32
PHỤ CHƢƠNG






xii

DANH SÁCH BẢNG
Bảng
Tựa bảng

Trang
3.1
Số liệu khí tƣợng thủy văn những tháng cuối 2012 và những
tháng đầu năm 2013
19
3.2
Ghi nhận tình hình chung của giống lúa OM6796 tại xã Đại Hải,
huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng vụ Đông Xuân năm 2012- 2013
20
3.3
Chiều cao cây (cm) qua các giai đoạn sinh trƣởng của giống lúa
OM6796 tại xã Đại Hải, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng vụ
Đông Xuân năm 2012- 2013
21
3.4
Số chồi/m
2
qua các giai đoạn sinh trƣởng của giống lúa OM6796
tại xã Đại Hải, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng vụ Đông Xuân
năm 2012- 2013
23
3.5
Chiều dài bông(cm) của giống lúa OM6796 tại xã Đại Hải,
huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng vụ Đông Xuân năm 2012- 2013
24
3.6
Thành phần năng suất của lúa OM6796 tại xã Đại Hải, huyện Kế
Sách, tỉnh Sóc Trăng vụ Đông Xuân năm 2012- 2013

3.7

Năng suất lý thuyết và năng suất thực tế của giống lúa OM6796
tại xã Đại Hải, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng vụ Đông Xuân
năm 2012- 2013
28
3.8
Phân tích hiệu quả kinh tế của lúa OM6796 tại xã Đại Hải,
huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng vụ Đông Xuân năm 2012- 2013
30


xiii

DANH MỤC HÌNH

Hình
Tựa hình
Trang
2.1
Sơ đồ bố trí thí nghiệm.
16
3.3
Số hạt trên bông của giống lúa OM6796 vụ Đông Xuận năm 2012-
2013 tại xã Đại Hải, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng vụ Đông Xuân
năm 2012- 2013
25














1
MỞ ĐẦU
Với quan niệm “tốt cây không bằng dày đám” nhà nông đã gieo sạ lúa với
mật độ rất dày. Nhưng trong thực tế lúa là loại cây có khả năng tự điều chỉnh trong
quần thể, nếu sạ quá dày cây lúa sẽ đẻ nhánh ít hoặc không đẻ nhánh, tỉ lệ nhánh vô
hiệu cao, thậm chí có cây bị chết do cạnh tranh sinh tồn. Bên cạnh đó, sâu bệnh phá
hại nặng do ánh sáng quang hợp hạn chế. Theo Bùi Huy Đáp (1980) nông dân một
số địa phương Nam Bộ (Ang Giang, Đồng Tháp) có tập quán sạ lúa ngắn ngày khá
dày, nhiều nơi sạ tới 300kg/ha hay cao hơn.
Theo Yoshida (1981) khi sạ thẳng ở lượng hạt thường dùng khả năng đâm chồi ít bị
ảnh hưởng đến năng suất hạt vì tổng số bông/m
2
tùy thuộc vào thân chính hơn số
chồi . Ở mật độ cây cao, những cây lúa đa thân sẽ không đâm chồi hoặc chỉ cho số
chồi hạn chế, như vậy sẽ tiến tới quần thể đơn thân. Trên một đơn vị diện tích nếu
mật độ càng cao thì số bông càng nhiều. Trong một giới hạn nhất định việc tăng số
bông không làm giảm số hạt/ bông và khối lượng 1000 hạt nhưng nếu vượt qua giới
hạn nhất định, số hạt/ bông sẽ giảm dần và khối lượng 1000 hạt sẽ giảm dần do sự
cạnh tranh dinh dưỡng và ánh sáng, vì thế khi gieo sạ quá dày sẽ làm năng suất
giảm nghiêm trọng. Tuy nhiên, gieo sạ mật độ quá thưa đối với giống có thời gian
sinh trưởng ngắn ngày khó đạt được số bông tối ưu.
Khi gieo sạ dày đòi hỏi phải cung cấp nhiều dinh dưỡng, đặc biệt là đạm để cây

phát triển, đồng thời ẩm độ trong ruộng càng thích hợp để bệnh, rầy tấn công ảnh
hưởng đến năng suất (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008). Cho nên gieo sạ với mật độ vừa
phải có ý nghĩa trong việc làm giảm sự phát triển của sâu bệnh, chuột hại và hiện
tượng đổ ngã nhưng vẫn đảm bảo được năng suất của cây lúa, tiết kiện được lượng
giống sử dụng 100kg/ha, tăng hiệu quả kinh tế. Đề tài “Ảnh hưởng mật độ sạ đến
năng suất lúa OM6796 trong vụ Đông Xuân năm 2013 tại huyện Kế sách,tỉnh
Sóc Trăng” được thực hiện nhằm mục tiêu xác định mật độ sạ thích hợp để tăng
năng suất và mang lại hiệu quả kinh tế trong sản xuất lúa ở vùng nghiên cứu.








2
CHƢƠNG 1
LƢỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1 NGUỒN GỐC VÀ PHÂN LOẠI CÂY LÚA
1.1.1 Nguồn gốc cây lúa
Về nguồn gốc cây lúa, đã có nhiều tác giả đề cập tới nhưng cho tới nay vẫn
chưa có những dữ liệu chắc chắn và thống nhất. Có một điều là lịch sử cây lúa đã có
từ lâu và gắn liền với lịch sử phát triển của nhân dân các nước Châu Á (Nguyễn
Ngọc Đệ, 2008).
Chang (1976, trích dẫn bởi Nuyễn Ngọc Đệ, 2008) cho rằng việc thuần hóa lúa
trồng có thể đã được tiến hành một cách độc lập cùng một lúc ở nhiều nơi, dọc theo
vành đai trải dài từ Đồng bằng sông Ganges dưới chân phía Đông của dãy núi Hy-
Mã-Lạp-Sơn (Himalayas - Ấn Độ), ngang qua Bắc Miến Điện, Bắc Thái Lan, Lào
và Việt Nam, đến Tây Nam và Nam Trung Quốc. Tuy có nhiều ý kiến nhận định vế

nguồn gốc của cây lúa nhưng chưa thống nhất và bên cạnh đó nhiều người cũng
đồng ý rằng nguồn gốc cây lúa là vùng đầm lầy Đông Nam Á, rồi từ đó lan đi các
nơi khác. Thêm vào đó, người ta đồng ý rằng cây lúa và nghề trồng lúa đã có từ rất
lâu từ vùng này, lịch sử và đời sống các dân tộc Đông Nam Á gắn liền với lúa gạo.
1.1.2 Phân loại cây lúa theo đặc tính thực học
Qua nhiều lần nghiên cứu, có rất nhiều tác giả cho rằng: có rất nhiều loại lúa,
chỉ có loài Oryza sativa fatua spontaneae gần giống với lúa trồng và được coi là tổ
tiên của giống lúa trồng hiện nay. Lúa là cây hằng niên có tổng số nhiễm sắc thể
2n=24. Cây lúa thuộc họ hòa thảo (Gramineae), chi Oryza. Oryza có khoảng 20 loài
nhưng trong đó chỉ có hai loài là lúa trồng.
Theo Bùi Huy Đáp (1999) cho rằng hai cây lúa trồng này có những đặc điểm
khác nhau về hình thái. Lúa trồng Châu Á có mặt lá và vỏ trấu ráp có lông tơ. Lá
còn có những lông tơ cứng, ở hai rìa hai bên. Lúa trồng Châu Phi có mặt lá và vỏ
trấu không có lông tơ, không ráp lá, láng trơn.
1.2 ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT
1.2.1 Rễ lúa
Rễ có nhiệm vụ hút nước và chất dinh dưỡng nuôi cây, giúp cây bám chặt
vào đất, cho nên bộ rễ có khỏe mạnh thì cây lúa mới tốt được. Trong điều kiện bình
thường rễ non có màu trắng sữa, rễ già sẽ chuyển sang màu vàng, nâu nhạt rồi nâu
đậm, tuy nhiên phần chóp rễ vẫn còn màu trắng. Bộ rễ không phát triển, rễ bị thối
đen biểu hiện tình trạng mất cân bằng dinh dưỡng trong đất, cây lúa không hấp thu
được dinh dưỡng nên còi cọc, lá vàng, dễ bị bệnh và rụi dần nếu không có biện

3
pháp xử lý kịp thời. Sự phát triển của bộ rễ tốt hay xấu tùy loại đất, điều kiện nước
ruộng, tình trạng dinh dưỡng của cây và giống lúa (Nguyễn Thành Hối, 2011).
Bên trong rễ có nhiều khoảng trống ăn thông với thân và lá. Nhờ có cấu tạo
đặc biệt này mà rễ lúa có thể sống trong điều kiện thiếu oxy do ngập nước (Nguyễn
Ngọc Đệ, 2008). Theo Đinh Thế Lộc (2006) phương thức gieo cấy khác nhau bộ rễ
lúa phát triển cũng khác nhau. Lúa gieo thẳng (lúa xạ) rễ ăn rộng hơn lúa cấy và chỉ

tập trung chủ yếu ở tầng mặt. Có thể chia sự phát triển của bộ rễ lúa ra 2 thời kỳ
chính: thời kỳ đẻ nhánh và làm đòng, bộ rễ phát triển theo chiều ngang (có hình bầu
dục); thời kỳ trổ bông, bộ rễ lúa phát triển xuống sâu (có hình quả trứng lộn ngược).
1.2.2 Thân lúa
Cây lúa nào có lóng ngắn, thành lóng dày, bẹ lá ôm sát thân thì thân lúa sẽ
cứng chắc, khó đổ ngã và ngược lại. Nếu đất ruộng có nhiều nước, sạ cấy dày, thiếu
sánh sáng, bón nhiều phân đạm thì lóng có khuynh hướng vươn dài và mềm yếu
làm cây lúa dễ đổ ngã. Lúa bị đổ ngã thì sự hút dinh dưỡng và quang hợp bị trở
ngại, sự vận chuyển các chất bị cản trở, hô hấp mạnh làm tiêu hao chất dự trữ đưa
đến hạt lép nhiều, năng suất giảm. Sự đổ ngã càng sớm, lúa bị thiệt hại càng nhiều
và năng suất càng giảm (Nguyễn Thành Hối, 2011).
Số đốt của thân cây lúa thường có số lượng khác nhau tùy giống và ít thay
đổi do điều kiện môi trường. Thường trung bình mỗi thân cây lúa có 5 đốt dài phân
biệt được. Có những giống có tới 6-7 đốt (các giống có phản ứng áng sáng ngày
ngắn và cấy ở chân ruộng sâu như Tám xoan, Tám thơm). Các đốt phát triển tuần tự
từ dưới lên trên, đốt sau dài hơn đốt trước, dài nhất là đốt sát bông (đốt mang bông
lúa). Mặc dầu các giống lúa có sự khác nhau về số đốt song số đốt dài nhất cũng chỉ
có 3 đốt và tổng chiều dài 3 đốt này cùng với bông lúa chiếm tới 90% chiều dài
thân, 3 đốt cuối (đốt gốc) ngắn, to, dày thì thường cây lúa có khả năng chống đỡ tốt
Nhánh lúa là một cây lúa con được mọc ra từ mầm nách thân cây mẹ và có đủ các
bộ phận rễ, thân, lá, có thể sống độc lập, sinh trưởng phát triển thành một cây lúa
con, trổ bông phát triển bình thường như cây mẹ. Đẻ nhánh là một đặc tính rất tốt
của cây lúa nhằm nâng cao số bông trên một khóm lúa để nâng cao năng suất cao
nhất (Đinh Thế Lộc, 2006).
1.2.3 Lá lúa
Trong các bộ phận của lá thì phiến lá đóng vai trò quan trọng nhất bởi đây là
nơi diễn ra quá trình quang hợp để tạo ra vật chất đồng hóa (đường, tinh bột) tích
lũy cho cây. Trên thân cây lúa, các lá được hình thành từ gốc lên kế tiếp nhau và
được sắp xếp so le. Các giống có thời gian sinh trưởng khác nhau thì số lá khác
nhau. Giống có thời gian sinh trưởng càng dài thì số lá càng nhiều. Nói chung các


4
giống lúa trồng hiện nay có số lá trên thân chính biến động từ 10-21 lá (Nguyễn
Thành Hối, 2011).
Lá hình thành cuối cùng gọi là lá đòng. Trong quá trình phát triển, lá thứ hai
tính từ trên xuống luôn hoạt động mạnh nhất nên được gọi là lá công năng. Cây lúa
có nhiều nhánh nên ở mỗi thời kì đều có nhiều lá công năng cùng hoạt động mạnh.
Hoạt động của lá lúa theo quy luật lá sau ra thì lá trước lụi đi nên trên một thân cây
lúa thì duy trì từ 4-5 lá xanh do khóm lúa có nhiều nhánh nên số lá tồn tại ở một
khóm khá nhiều. Lá đòng giữ vai trò lớn nhất trong việc nuôi dưỡng bông lúa sau
khi trổ (Đinh Thế Lộc, 2006).
1.3 THỜI KỲ SINH TRƢỞNG CỦA CÂY LÚA
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2008) cho rằng, thời gian sinh trưởng của một giống
là một chỉ tiêu quan trọng nhằm giúp cho việc chọn giống cây trồng phù hợp với
từng vùng sinh thái khác nhau và bố chí cơ cấu mùa vụ thích hợp. Thời gian sinh
trưởng của cây lúa ngắn sẽ hỗ trợ rất nhiều cho việc thâm canh tăng vụ. Trong quá
trình canh tác, hiểu rõ cấu tạo và đặc tính sinh trưởng của các bộ phận cây lúa
chúng ta mới có thể có những biện pháp kỹ thuật thích hợp, điều khiển sự sinh
trưởng của cây lúa trong từng giai đoạn để đạt năng suất cao nhất. Đối với các
giống lúa ngắn ngày do có thời gian sinh trưởng ngắn nó cần sử dụng nhiều hơn về
dinh dưỡng, năng lượng ánh sáng mặt trời dể tạo năng suất nên phải chú ý tạo giống
lúa thấp cây, lá đòng thẳng đứng (Bùi Chí Bửu, 1998).
Đời sống cây lúa bắt đầu từ khi hạt nảy mầm cho đến khi lúa chín. Có thể
chia làm 3 giai đoạn chính: giai đoạn tăng trưởng, giai đoạn sinh sản và giai đoạn
chín ( Nguyễn Ngọc Đệ, 2008).
1.3.1 Giai đoạn tăng trƣởng
Giai đoạn tăng trưởng bắt đầu từ khi hạt nảy mầm đến khi cây lúa phân hóa
đòng. Giai đoạn này biểu hiện bởi sự đâm chồi tích cực, sự tăng dần chiều cao cây
và sự ra lá đều đặn. Tất cả góp phần tăng diện tích lá nhận ánh sáng mặt trời. Trong
các bộ phận của lá thì phiến lá đóng vai trò quan trọng nhất, bởi đây là nơi diễn ra

quá trình quang hợp tạo ra vật chất đồng hóa tích lũy cho cây (Đinh Thế Lộc, 2006).
Theo Yoshida (1981), các giống có thời gian sinh trưởng quá ngắn có thể
không cho năng suất cao vì sự sinh trưởng dinh dưỡng hạn chế và những giống có
thời gian sinh trưởng quá dài có thể không cho năng suất cao vì sự sinh trưởng dư
có thể gây đổ ngã. Thời gian sinh trưởng cây lúa kéo dài hay ngắn khác nhau chủ
yếu là do giai đoạn tăng trưởng này dài hay ngắn (Nguyễn Thành Hối, 2011). Theo
Đinh Thế Lộc (2006), cần có sự cân đối giữa sinh trưởng nhánh và sinh trưởng lá
sao cho số nhánh sinh ra được đủ số lá (thường phải trên 4 lá) có khả năng sống độc

5
lập phát triển để có tổng số lá gần với tổng số lá vốn có của cây giống. Các nhánh
đó là nhánh hữu hiệu, tức sẽ cho bông để thu hoạch. Còn các nhánh ra muộn số lá sẽ
ít, trở thành nhánh vô hiệu, không có khả năng cho bông.
Yếu tố ảnh hưởng phổ biến đến thời gian sinh trưởng là phương pháp canh
tác và lượng phân đạm bón vào. Lúa sạ thẳng luôn chín sớm và bón nhiều phân đạm
làm chín chậm ít ngày.
1.3.2 Giai đoạn sinh sản
Giai đoạn sinh sản là thời kỳ phân hóa, hình thành cơ quan sinh sản bắt đầu
từ lúc làm đòng cho đến khi thu hoạch. Thời gian của giai đoạn này kéo dài khoảng
27-35 ngày, trung bình 30 ngày và giống lúa dài ngày hay ngắn ngày thường không
khác nhau nhiều. Giai đoạn này bao gồm quá trình làm đòng, trổ bông và hình thành
hạt (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008). Theo Yoshida (1981) thời kỳ trổ bông được xác định
vào lúc 50% số bông thoát ra ngoài lá đòng. Sau khi hoàn thành việc trổ bông, các
hoa lúa sẽ bắt đầu nở hoa trong khoảng thời gian từ 8 giờ sáng đến 13 giờ chiều và
sự thụ tinh cũng kết thúc trong vòng 5-6 giờ sau khi nở hoa. Trên cùng một bông
các hoa lúa phải mất 7-10 ngày mới nở hết và hầu hết các hoa nở trong vòng 5
ngày. Theo Đinh Thế Lộc (2006), trong thời kỳ này nếu được chăm sóc chu đáo,
điều kiện thời tiết thuận lợi thì số hoa lúa được hình thành tối đa là tiền đề để có số
hạt/bông nhiều.
1.3.3 Giai đoạn chín

Giai đoạn này chín bắt đầu từ khi vào chắc đến lúc thu hoạch, đặc điểm cơ
bản của thời kỳ này là hoa lúa nở, thụ phấn thụ tinh để hình thành hạt và quan trọng
nhất là quá trình vận chuyển và tích lũy chất đồng hóa (vật chất khô) từ thân lá vào
hạt (Đinh Thế Lộc, 2006). Theo Yoshida (1981), thuận ngữ cơ bản này đơn giản
dựa vào cấu tạo và màu của hạt (sự tăng kích thước), trọng lượng và sự đổi màu của
hạt. Trong lúc hạt sinh trưởng mạnh, cả trọng lương khô và tươi tăng lên. Tuy
nhiên, ở giai trưởng thành trọng lương khô tăng chậm nhưng trọng lượng tươi giảm
do sự mất nước. Trong giai đoạn này gặp điều kiện thuận lợi (ngoại cảnh, dinh
dưỡng,…) thì sẽ giảm tỷ lệ hạt lép, tăng tỷ lệ hạt chắc (tăng số hạt trên bông) và
nhất là tăng khối lượng hạt (Đinh Thế Lộc, 2006).
1.4 CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN NĂNG SUẤT
1.4.1 Ảnh hƣởng của khí hậu
Theo Yoshida (1981) nhiệt độ bức xạ mặt và lượng mưa ảnh hưởng đến năng
suất lúa do ảnh hưởng trực tiếp các quá trình sinh lý liên hệ đến sự tạo hạt và ảnh
hưởng những khía cạnh khác nhau. Sự ổn định năng suất cây lúa ảnh hưởng bởi

6
nhiều yếu tố. Ảnh hưởng mặt trời gắn liền với lượng mưa thoái hóa lúc lúa chín làm
cho năng suất thấp.
Nhiệt độ cao tăng vận tốc ra lá và sinh nhiều mầm chồi hơn. Nhiệt độ cao sẽ
rút ngắn giai đoạn vào chắc, thời tiết có mây thường xuyên gây hại cho sự chắc hạt
ở nhiệt độ cao sẽ làm quá trình chín ngắn hơn. Nhiệt độ cao hơn 35°C khi trổ gié
hoa có thể làm phần trăm bất thụ cao (Phạm Ngọc Hải và ctv., 2003). Nhiệt độ có
tác dụng quyết định đến tốc độ sinh trưởng của cây lúa nhanh hay chậm, tốt hay
xấu. Trong phạm vi giới hạn (20-30ºC), nhiệt độ càng tăng cây lúa phát triển càng
mạnh. Nhiệt độ trên 40ºC hoặc dưới 17ºC cây lúa tăng trưởng chậm lại. Dưới 13ºC
cây lúa ngừng sinh trưởng, nếu kéo dài quá một tuần cây lúa sẽ chết (Nguyễn Ngọc
Đệ, 2008).
Bức xạ mặt trời có ảnh hưởng lớn nhất trên năng suất hạt ở giai đoạn thành
thục, ảnh hưởng kế tiếp giai đoạn chín và ảnh hưởng cực nhỏ giai đoạn dinh dưỡng

(Yoshida, 1981). Lượng bức xạ mặt trời có liên quan đến cường độ quang hợp. Nói
chung cường độ ánh sáng tăng thì cường độ quang hợp tăng. Đến một giới hạn nào
đó cường độ ánh sáng tăng nhưng cường độ quang hợp không tăng nữa, tại thời
điểm đó người ta gọi là điểm bão hòa ánh sáng trong quang hợp. Điểm bão hòa ánh
sáng của cây lúa khoảng 50Klux (Đinh Thế Lộc và ctv., 2006). Cường độ ánh sáng
ảnh hưởng trực tiếp đến sự quang hợp cây lúa thể hiện chủ yếu bằng năng lượng
ánh sáng mặt trời chiếu trên đơn vị diện tích. Thông thường cây lúa chỉ sử dụng
65% năng lượng ánh sáng mặt trời chiếu tới ruộng lúa (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008).
Lượng mưa là một trong yếu tố khí hậu có tính chất quyết định đến việc hình
thành các vùng trồng lúa và các vụ lúa trong năm. Trong mùa mưa lượng mưa cần
thiết cho cây lúa trung bình khoảng 6-7mm/ngày và 8-9mm/ngày trong mùa khô
nếu không có nguồn nước khác bổ sung. Mưa nhiều, gió to, trời âm u và ít nắng cây
lúa phát triển không thuận lợi (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008).
Cây lúa thiếu nước ở bất kỳ giai đoạn nào cũng gây giảm năng suất. Do đó,
để có thể gieo trồng một năm hai, ba vụ lúa người ta đã xây dựng các công trình
thủy lợi để chủ động nước tưới hiệu quả cho cây lúa (Yoshida, 1981). Trong thời kỳ
phát triển bông hạt nhất là khi làm đòng cho đến khi phơi màu cây lúa cần nhiều
nước. Trong thời kỳ đẻ nhánh nếu thiếu nước thì số bông giảm bớt nhưng sau đó
nếu nước đầy đủ thì hạt chắc sẽ tăng lên nên tác hại cũng ít. Sau khi phân hóa đòng
nếu thiếu nước trong thời kỳ phân chia giảm nhiễm và khi trổ sẽ có tác hại rất lớn,
sau đó đến thời kỳ chín sữa, khi lúa chín thiếu nước tác hại cũng giảm nhẹ. Sau khi
lúa chín không cần giữ nước lâu trong ruộng, nhưng nếu tháo nước quá sớm, cây bị
hạn sẽ chín sớm, không thuận lợi cho việc tích lũy tinh bột và protein, hạt lép nhiều
và có thể bị đạo ôn, nhưng nếu tháo muộn thời gian chín sẽ kéo dài, hạt xanh nhiều

7
tỷ lệ chất khô kém. Nhìn chung, sau khi lúa trổ khoảng 25 ngày nên tháo nước để
thu sản lượng cao.
Ở giai đoạn làm đòng và trổ, gió mạnh ảnh hưởng xấu đến quá trình hình
thành và phát triển của đòng lúa, sự trổ bông, thụ phấn, thụ tinh và sự tích lũy chất

khô trong hạt bị trở ngại làm tăng tỷ lệ hạt lép, hạt lửng. Gió nhẹ giúp quá trình
quang hợp và hô hấp của ruộng lúa góp phần tăng năng suất (Nguyễn Ngọc Đệ,
2008).
1.4.2 Ảnh hƣởng của đất
Đất trồng lúa có sự khác nhau rất lớn về đặc đểm hòa hợp, địa lý thổ nhưỡng
và sinh học giữa các khu, các vùng và ngay cả trong cung một khu vực (Đinh Thế
Lộc và ctv., 2006). Đất trồng lúa cần giàu dinh dưỡng, nhiều hữu cơ, tơi xốp, khả
năng giữ nước, giữ phân tốt, tầng canh tác dầy để bộ rễ ăn sâu, bám chặt vào đất
huy động dinh dưỡng nuôi cây. Loại đất thịt hay đất thịt pha sét, ít chua hoặc chung
tính (PH=5,5-7,5) là thích hợp đối với cây lúa, đất ruộng cần bằng phẳng và chủ
động được nước để lúa đạt năng suất cao (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008).
1.4.3 Ảnh hƣởng của sâu bệnh
Sâu bệnh phá hoại gây lên những khó khăn đối với sản xuất ở những vùng
trồng lúa trên thế giới. Ở Việt Nam theo ước tính hàng năm sâu bệnh làm giảm
khoảng 20% năng suất, côn trùng gây hại trong suốt quá trình sinh trưởng của cây
lúa cả trên và dưới mặt đất. Côn trùng phá hoại không những ảnh hưởng đến năng
suất mà còn ảnh hưởng đến chất lượng hạt giống. Lượng phân bón không cân đối và
không đúng yêu sinh trưởng của cây lúa. Sự hiểu biết về sâu bệnh và biện phát
phòng trừ của nông dân bị giới hạn. Đó là điều kiện tốt cho sâu bệnh bộc phát, lưu
tồn và phát triển gia tăng thiệt hại cho ruộng lúa, làm giảm năng suất và có khi mất
trắng (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008).
1.5 PHƢƠNG PHÁP GIEO SẠ
1.5.1 Sạ lan
1.5.1.1 Sạ ướt
Sạ ướt là phương pháp sạ phổ biến, vì phần lớn diện tích lúa đã trồng bằng
các giống lúa cao sản ngắn ngày, cần cho lúa mọc tốt ngay từ giai đoạn mạ, để có
cơ sở ban đầu cho sự sinh trưởng phát triển đạt năng suất cao, và cây lúa không có
thời gian phục hồi như đối với lúa mùa dài ngày (Nguyễn Văn Luật, 2001)
Nguyễn Ngọc Đệ (2008) đất được chuẩn bị trong điều kiện ướt, xong rút cạn
nước và gieo hạt giống đã ngâm ủ cho nảy mầm trên đất đã đánh bùn nhuyễn. Đây


8
là hình thức sạ phổ biến ở những nơi có nước đủ để làm đất và chủ động nước. Sạ
ướt có thể áp dung cho tất cả các vụ Hè Thu, Thu Đông hay Đông Xuân.
1.5.1.2 Sạ khô
Kiểu sạ khô đã được thực hiện từ lâu ở vùng lúa nổi với các giống lúa địa
phương. Tuy nhiên, sạ khô lúa cao sản có yêu cầu cao hơn. Sạ khô nhằm tăng thêm
một vụ lúa ngắn ngày tại những vùng đất bị nhiễm mặn hoặc canh tác nhờ vào nước
trời, bẳng cách tận dụng lượng nước mưa đầu mùa để cho lúa phát triển, tranh thủ
thời vụ, đảm bảo năng suất vụ sau. Đất được chuẩn bị trong điều kiện khô và hạt
giống khô, không gâm ủ. Sạ khô chỉ được thực hiện trong vụ Hè Thu sớm (Nguyễn
Ngọc Đệ, 2008).
Theo Nguyễn Văn Luật (2001) gieo thẳng khô thường phải gieo với lượng
giống rất cao để phòng hờ và cạnh tranh với cỏ dại, khoảng 250-300 kg/ha. Sạ khô
thường tốn công, tốn thuốc trừ cỏ và công dậm vì lúa chết mất khoảng.
1.5.1.3 Sạ ngầm
Sạ hạt giống đã nảy mầm trong ruộng ngậm nước. Kỹ thuật này thường được
áp dụng trong vụ Thu Đông hoặc Đông Xuân ở những chân ruộng trũng nước ngập
sâu và không có điều kiện thoát nước hoặc để tranh thủ mùa vụ xuống giống sớm
hơn, giảm được công bơm tưới về sau. Sạ ngầm có điều kiện tiên quyết là nước phải
trong nhanh sau khi sạ (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008).
1.5.1.4 Sạ chay
Là biện pháp sạ lúa không làm đất, sử dụng hạt giống không hoặc đã ngâm
24 giờ, sạ vào ruộng đã phơi khô hoặc đốt đồng, sau đó bơm nước vào hoặc nước
vào ruộng rồi mới sạ. Nước được giữ vào ruộng một ngày để gâm đất và cho hạt lúa
hút nước đầy đủ. Sau đó rút nước ra chỉ giữ ẩm để hạt lúa mọc mầm như đối với
trường hợp hạt sạ ướt ( Nguyễn Ngọc Đệ, 2008).
1.5.1.5 Sạ gởi
Sạ gởi thường áp dụng những vùng lúa nước trời, nhiễm mặn phèn, nơi mà
thời gian trồng có thể rất ngắn (5-6 tháng) trong mùa mưa hoặc những vùng nước

trũng, nước ngập sâu không có thủy lợi tốt để có thể trồng hai vụ lúa thuận lợi. Đây
là những vùng đất khó khăn, trước đây chỉ trồng được một vụ lúa mùa. Tăng thêm
một vụ lúa ngắn ngày ở đây là điều không đơn giản. Hạt giống của cây lúa ngắn
ngày (thường dưới 100 ngày) được trộn lẫn với hạt lúa mùa dài ngày theo một tỷ lệ
nhất định tùy vào yếu tố đất đai và đặc tính giống. Sạ cùng một lúc hai loại giống
bằng phương pháp sạ ướt hoặc khô tùy vào điều kiện từng nơi. Sau khi thu hoạch vụ
lúa ngắn ngày người ta tiếp tục chăm sóc cho trà lúa mùa phát triển tốt để thu hoạch
vào cuối mùa mưa, khi nguồn nước ngọt đã cạn và ruộng khô. Như thế bằng cách sạ

9
gởi người ta có thể thu hai vụ lúa trong một năm ở những vùng đất khó khăn, chỉ
chuẩn bị đất và gieo sạ cho một lần vào đầu mùa mưa (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008).
1.5.2 Sạ hàng
Trong kỹ thuật canh tác, ngoài biện pháp làm đất, bón phân, phòng trừ sâu
bệnh thì phương pháp sạ lúa theo hàng là một trong những kỹ thuật được Viện Lúa
Đồng bằng sông Cửu Long nghiên cứu cải tiến từ dụng cụ gieo hàng của Viện
Nghiên cứu lúa Gạo Quốc Tế (IRRI). Hiện nay, kỹ thuật này được ứng dụng rộng
rãi ở những vùng trồng lúa nước Đồng bằng sông Cửu Long.
Gieo thẳng bằng công cụ sạ hàng được Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long
khẳng định sự vượt trội hơn so với gieo cấy lúa truyền thống: giảm chi phí sản xuất:
công lao động và tiết kiệm lúa giống gieo sạ 50-70%, dễ dàng chăm sóc và khử lẫn,
hạn chế sự đổ ngã, giảm sâu bệnh và chuột, giảm chi phí phân bón, có thể kết hợp
nuôi cá trong ruộng lúa, năng suất cao hơn so với sạ lan mật độ dày từ 0,5-1 tấn/ha.
Tuy nhiên, việc áp dụng phương pháp này cũng một số trở ngại là: đất
trên nông hộ nhỏ khó áp dụng và đất thiếu bằng phẳng, do chim, chuột và đặc biệt
là ốc bươu vàng, kỹ thuật gâm giống của nông dân còn chưa đúng quy trình,tập
quán sạ ở mật độ dày của nông dân áp dụng từ lâu lên khi chuyển sang kỹ thuật sạ
hàng cần có thời gian để thay đổi nhận thức (Lê Trường Giang, 2005; Trịnh Quang
Khương, 2010).
Dưới điều kiện quản lý đồng ruộng tốt, mật độ sạ 100 kg giống/ha được

khuyến cáo để tăng năng suất lúa có chất lượng tốt, cũng như đáp ứng đủ số
bông/m
2
cho việc chín đồng bộ trong hệ thống canh tác lúa sạ ướt (Trần Thị Ngọc
Huân và ctv., 1999). Trong kỹ thuật này, cây lúa có sự phân bố quần thể ruộng lúa
thích hợp tạo năng suất và giảm thiện hại do tác động của ngoại cảnh (Nguyễn Văn
Luật, 2001).
1.6 ĐẶC TÍNH NÔNG HỌC VÀ THÀNH PHẦN NĂNG SUẤT
Theo Nguyễn Đình Giao và ctv., (1997) muốn nâng cao năng suất lúa cần
hiểu được quá trình hình thành các yếu tố năng suất, trước hết là thời gian, các điều
kiện ảnh hưởng đến các yếu tố đó. Trên cơ sở đó mới có thể áp dụng các biện pháp
kỹ thuật đúng lúc và đúng cách. Năng suất lúa được hình thành và chịu ảnh hưởng
trực tiếp của 4 thành phần năng suất : số bông trên đơn vị diện tích, số hạt trên
bông, tỉ lệ hạt chắc và khối lượng 1000 hạt. Các thành phần này được xác định ở
các giai đoạn sinh trưởng khác nhau nhưng chúng có mối quan hệ ảnh hưởng lẫn
nhau.



10
1.6.1 Chiều cao cây
Hơn bất cứ đặc tính nào khác, thân rạ thấp và cứng là hai yếu tố quyết định
tính đổ ngã. Thân rạ cao, ốm yếu, dễ đổ ngã sớm làm rối bộ lá, tăng hiện tượng rợp
bóng, cản trở sự chuyển vị các dưỡng liệu và các chất quang hợp làm cho hạt bị lép
và giảm năng suất. Thân rạ ngắn và dày cũng sẽ chống lại sự đổ ngã. Tuy nhiên,
không phải tất cả thân ngắn đều cứng rạ, nó còn phụ thuộc vào các đặc tính như
đường kính thân, độ dày thân rạ, mức độ bẹ lá ôm lấy các lóng (Theo Jennings và
ctv.,1979). Chiều cao cây được xem như lý tưởng về năng suất là từ 90-100 cm
(Akita, 1989).
1.6.2 Chiều dài bông

Chiều dài bông là một đặc điểm di truyền của giống, nó thay đổi tùy theo
giống, vùng đất và kỹ thuật canh tác. Chiều dài bông được tính từ đốt cổ bông đến
đầu mút bông. Giống có bông dài, hạt xếp khít, tỷ lệ hạt lép thấp, khối lượng 1000
hạt cao sẽ cho năng suất cao (Vũ Văn Liết và ctv., 2004).
1.6.3 Số bông/m
2

Trong 4 yếu tố cấu tạo nâng cao năng suất thì số bông là yếu tố có tính chất
quyết định nhất và sớm nhất. Số bông có thể đóng góp 74% năng suất, trong khi số
lượng và trọng lượng 1000 hạt đóng góp 26% (Nguyễn Đình Giao và ctv.,1997).
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2008), số bông trên đơn vị diện tích được quyết định
vào giai đoạn sinh trưởng ban đầu của cây lúa, nhưng chủ yếu là giai đoạn từ khi
cấy đến khoảng 10 ngày trước khi có chồi tối đa. Số bông trên đơn vị điện tích tùy
thuộc vào mật độ sạ và khả năng nở bụi của cây lúa. Mật độ sạ là khả năng nở bụi
của lúa thay đổ tùy thuộc vào giống lúa, điều kiện đất đai, thời tiết, lượng phân bón
nhất là là đạm và chế độ nước. Trong phạm vi nhất định, cấy dày lúa đẻ nhánh ít,
cây thưa lúa đẻ nhánh nhiều cuối cùng cũng đạt được số bông trên diện tích như
nhau.
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2008), trong giai đoạn này gặp điều kiện thuận lợi
(ngoại cảnh, dinh dưỡng…) sẽ giảm tỷ lệ hạt lép, tăng tỷ lệ hạt chắc (tăng số hạt
trên bông) và nhất là tăng khối lương hạt. Tuy nhiên, cần lưu ý các biện pháp kỹ
thuật để tăng số bông trên đơn vị diện tích: chọn giống thích hợp với đất đai và mùa
vụ tại chỗ, cấy mạ đúng tuổi, đúng khoảng cách thích hợp cho từng giống để lúa nở
bụi khỏe. Đối với lúa sạ thì ngâm ủ đúng kỹ thuật và xạ với mật độ thích hợp, bón
phân lót đầy đủ, bón thúc sớm để lúa nở bụi sớm mau đạt số chồi tối đa và chồi
khỏe cho bông và bông to sau này, làm cỏ, sục bùn kịp thời, giữa nước và phải liên
tục để điều hòa liên tục để điều hòa nhiệt độ và khống chế cỏ dại, phòng trị sâu
bệnh kịp thời.

11

1.6.4 Số hạt/bông
Số hạt trên bông quyết định từ lúc tượng cổ bông đến 5 ngày trước khi trổ,
nhưng quan trọng nhất là thời kì phân hóa hoa và giảm nhiễm tích cực. Ở giai đoạn
này, số hạt trên bông có ảnh hưởng đến số hoa được phân hóa. Như vậy, số hạt trên
bông tùy thuộc vào số hoa được phân hóa và số hoa bị thoái hóa; hai yếu tố này bị
ảnh hưởng bởi giống lúa, kỹ thuật canh tác và điều kiện thời tiết (Nguyễn Ngọc Đệ,
2008).
Vì vậy, đối với những giống lúa bông to, kỹ thuật canh tác tốt, bón phân đầy
đủ, thời tiết thuận lợi có tác dụng hạn chế qúa trình thái hóa hoa, từ đó tăng được số
hoa hữu hiệu trên bông. Nên số hạt cuối cùng trên bông cao (Nguyễn Đình Giao và
ctv., 1997).
1.6.5 Tỷ lệ hạt chắc
Tỷ lệ hạt chắc tùy thuộc vào số hoa trên bông, đặc tính sinh lý của cây lúa và
chịu ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh và tỷ lệ hạt chắc cao hay thấp. Các giống
lúa có khả năng quang hợp, tích lũy và chuyển vị các chất mạnh, cộng với cấu tạo
mô cơ giới vững chắc không đổ ngã sớm, trổ và tạo hạt trong điều kiện thời tiết tốt,
dinh dưỡng đầy đủ thì tỷ lệ hạt chắc sẽ cao và ngược lại. Số hoa trên bông quá
nhiều dễ dẫn đến tỷ lệ hạt chắc thấp. Vì vậy muốn đạt năng suất cao thì tỷ lệ hạt
chắc phải trên 80% (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008).
1.6.6 Trọng lƣợng 1000 hạt
Đặc tính của trọng lượng 1000 hạt ít chịu tác động của điều kiện môi trường
và có hệ số di truyền cao. Nó phụ thuộc hoàn toàn vào giống. Trọng lượng 1000 hạt
của một giống giữ ổn định không có nghĩa là từng hạt có khối lượng như nhau,
chúng thay đổi trong một giới hạn nhất định nhưng giá trị trung bình thì luôn ổn
định. Trọng lượng hạt quyết định ngay trong thời kỳ phân hóa hoa đến khi lúa chín,
nhưng quan trọng nhất là thời kỳ giảm nhiễm tích cực và vào chắc rộ. Trọng lượng
hạt phụ thuộc vào cỡ hạt và độ mẩy của hạt (Nguyễn Đình Giao và ctv., 1997).
Trọng lượng hạt do hai yếu tố cấu thành là vỏ trấu chiếm 20% và khối lượng
hạt gạo chiếm 80%. Phần lớn các giống lúa, trọng lượng 1000 hạt thường biến
thiên, tập trung trong khoảng 20-30g. Trọng lượng hạt chủ yếu do đặc tính di truyền

của giống quyết định, điệu kiện môi trường có ảnh hưởng một phần vào thời kỳ
giảm nhiễm trên cỡ hạt, cho đến khi vào chắc rộ và độ mẩy của hạt (Nguyễn Ngọc
Đệ, 2008). Theo Đinh Văn Lữ (1978), biện phát tăng trọng 1000 hạt là: tăng độ to
nhỏ của vỏ trấu, xúc tiến quá trình tích lũy phôi nhũ. Thời kỳ này ảnh hưởng đến
trọng lượng 1000 hạt rõ rệt nhất trước và sau thời kỳ giảm nhiễm và vào chắc.


12
1.7 MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VỀ HÌNH DẠNG CÂY LÚA NĂNG SUẤT CAO
Các số liệu thí nghiệm ở những giống lúa nhiệt đới chứng minh rõ vài đặc
điểm hình thái thật sự gắn liền với tiềm năng năng suất (Tanaka và ctv., 1964).
Những đặc điểm hình thái đang được chú ý là thân thấp cứng, lá đứng và đâm chồi
mạnh. Sự hình thành năng suất của cây là do mối quan hệ giữa nguồn (đạm và
carbon) và sức chứa (hạt). Giải quyết tốt mối quan hệ này là chìa khóa đề gia tăng
tiền năng năng suất. Những năm gần đây, IRRI đã đưa vào thử nghiệm những giống
lúa có kiểu hình mới: có khả năng hấp thụ một cách hiệu quả ánh sáng do sự tán xạ,
đáp ứng phân đạm cao hơn và khả năng đồng hóa cacbon hơn tại rễ và chồi, chống
chịu khá với đổ ngã (Kroff và ctv., 1994, Setter và ctv., 1994).
Giống lúa thân thấp, cứng và được phát triển từ những năm 1960. Đáp ứng
mục tiêu thâm canh, không quang cảnh, phản ứng cao với phân đạm, năng suất cao
và ổn định. Thực tế cho thấy, với cây lúa hiện nay, năng suất của nó đã đạt tới tiền
năng tối đa, cần có những cấu trúc mới để có thể đột phá được ngưỡng nói trên (Bùi
Chí Bửu, 1998).
1.8 ẢNH HƢỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ
Theo Bùi Huy Đáp cho rằng việc bố trí mật độ cây trồng cũng tùy thuộc vào
giống, đối với giống dài ngày, cao cây với mực nước ruộng thích hợp và điều kiện
nhiệt đới ở nước ta thì cấy với với mật độ dày là hợp lý, mỗi bụi nên cấy ít tép, bụi
lúa cấy ít tép sẽ đẻ nhánh thuận xòe ra 4 phía, bụi lúa tròn khỏe. Nếu cấy với mật độ
quá dày với số tép cao trên bụi dễ đưa đến tình trạng lốp, đổ non và có thể không
thu hoạch được năng suất do quần thể giảm nhiều. Đối với giống lúa thấp cây, ngắn

ngày có những đặc tính khác với giống cây cao, dài ngày nhất là kiểu lá, số lá trên
cây (ít hơn), độ dày lá, kích thước lá, góc lá hẹp…
Tất cả những yếu tố trên cho phép cây lúa chịu được những mật độ dày hơn
những giống cao cây. Đối với giống này sạ với mật độ càng dày thì số chồi hữu hiệu
càng giảm thấp. Để cải thiện một thành phần năng suất lại đưa đến giảm thành phần
năng suất khác, chẳng hạn như tăng số bông trên đơn vị diện tích thì số hạt trên
bông giảm. Để cải thiện năng suất cây trồng thì dựa vào mật độ cây trồng, diện tích
lá, điều kiện đất đai để đạt năng suất cao nhất (Đào Thế Tuấn, 1984).
Ở Đồng bằng sông Cửu Long, những nghiên cứu về mật độ sạ, phương pháp
sạ và đã khuyến cáo sạ ở mật độ 100 kg/ha cho năng suất tương đương hoặc cao
hơn sạ ở mật độ 200 kg giống/ha, sạ thưa có số bông ít hơn sạ dày, nhưng bông dài
và số hạt chắc trên bông nhiều. Nếu sạ hàng thì mật độ sạ 50, 75, 125 giống/ha cho
năng suất lúa không khác biệt nhau (Trịnh Quang Khương, 2010).

×