Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Phân tích bài thơ vịnh đổng thiên vương của cao bá quát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.81 KB, 3 trang )

Phân tích bài thơ Vịnh Đổng Thiên Vương của Cao
Bá Quát
November 12, 2014 - Chuyên mục: Văn mẫu THCS - Tác giả: Thu Huyền
Đề bài: Phân tích bài thơ “Vịnh Đổng Thiên Vương” của
Cao Bá Quát.
“Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu,
Mồng chín đâu đâu cũng về hồi Gióng.”
(Ca dao Kinh Bắc)
Đã bao đời nay, hội Gióng là một trong những lễ hội lớn của nhân dân ta. Ngày mồng chín tháng
giêng(âm lịch) hàng vạn hàng ngàn người lũ lượt kéo về làng Gióng, trước đây thuộc huyện Tiên Du,
tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội, để dự hội. Đề thờ Thánh Gióng đã rêu phong, mà
đôi câu đối của Cao Bá Quát, với nét chữ tung hoành và màu son chói lọi vẫn đầy ấn tượng cảm hứng
sử thi hào hùng:
“Phá tan tặc đản hiền tam tuế văn,
Đằng vân do hận cửu thiên đê”
(Đánh tan giặc còn hiềm ba tuổi thì quá muộn,
Bay lên mây còn giận chín tầng trời vẫn thấp)
Có lẽ đôi câu đối ấy đã khơi nguồn cảm hứng để Cao Bá Quát viết tiếp bài thơ “Vịnh Đổng Thiên
Vương” theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ đã bám sát truyền thuyết về Thánh Gióng để ca
ngợi và khẳng định một cách hùng hồn chiến tích của người anh hùng huyền thoại.
Hai câu thơ trong phần đề, tác giả sử dụng thủ pháp tương phản để nêu bật tầm vóc thần kì của người
con trai làng Gióng. “Ba năm” với “một sớm”, “náu mình” với “vùng dậy” thời gian với thời gian, dài
và ngắn, ẩn và hiện, lúc đầu thì đời chưa ai biết thế mà bỗng chốc, chỉ một sớm đã làm nên sự nghiệp
phi thường. Câu thơ gợi tả sự hội tụ, dồn nén và sức mạnh quật khởi của dân tộc ta thời Hùng Vương
thứ 6:
“Ba năm rồng náu chừa ai hay,
Oanh liệt ra tay bỗng một ngày”
Tuổi thơ của Gióng “ba năm chẳng nói chẳng cười trơ trơ” được Cao Bá Quát viết thành một ý thơ độc
đáo: “tam tải tiềm long”. Gióng được ví với con Rồng đang ẩn mình, náu mình suốt ba năm trời.
Truyền thuyết Thánh Gióng thường được nhắc đến con số 3: Sau 3 năm, Gióng mới cất tiếng nói.
Gióng xin vua 3 thứ vũ khí để giết giặc: ngựa sắt, giáp sắt và roi sắt. Gióng lớn nhanh như thổi:


“Ăn bảy nong cơm, ba nong cà
Uống một hớp nước cạn đà khúc sông
Nói lên cái phi thường của Gióng, Cao Bá Quát có một lối nói hàm súc bằng một hình ảnh ẩn dụ, một
cấu trúc ngôn ngữ tương phản làm nổi bật nguồn gốc và sự xuất hiện của một anh hùng sử thi thần kì.
Tiếc rằng câu thơ dịch thứ hai chưa hay như câu thơ chữ Hán.
Hai câu trong phần thực rất đặc sắc. Ngôn ngữ thơ trang trọng. Hình tượng thơ kì vĩ mang màu sắc thần
thoại: “kim tiên” (roi vàng), “thiên thanh” (tiếng trời), “thiết mã” (ngựa sắt), “cỡ tích” (tích cũ, dấu cũ).
Các động từ diễn tả sức mạnh phi thường của người anh hùng truyền thuyết: “phá lỗ” (phá giặc),
“chấn” (chấn động), “đằng không” (bay lên không), “kì” (kì lạ). Trong truyền thuyết kể lại: Gióng nhảy
lên ngựa sắt, ngựa hí vang trời, phun lửa, Gióng thúc ngựa xông thẳng vào giặc Ân, vung roi sắt quật
vào giặc Ân, giặc chết như ngả rạ. Cao Bá Quát đã sáng tạo thành “roi vàng”. Câu thơ đối chỉnh, làm
hiện lên hình ảnh Thánh Gióng ra trận, chiến thắng giặc rồi người cùng ngựa bay lên trời. Cao Bá Quát
đã chọn được những chữ đẹp nhất để viết nên câu thơ hay nhất:
“Kim tiên phá lỗ thiên thanh chấn
Thiết mã đằng không cổ tích kì”
(Phá giặc roi vàng gám sấm sét
Lên không ngựa sắt lạ xưa nay)
Câu thơ dịch đã đi quá xa nguyên tác: “gầm sấm sét”, “lạ xưa nay”,… Các từ ngữ hình ảnh như “thiên
thanh chấn…” lại không dịch được.
Bài thơ ca ngợi công đức và uy phong của Phù Đổng Thiên Vương
Phần luận ca ngợi công đức và uy phong của Phù Đổng Thiên Vương, cả một không gian rộng lớn từ
“trời đất Việt” đến “cỏ cây Ân” đều không thể phai mờ hình ảnh người anh hùng. Công lao to lớn của
Thánh Gióng trường tổn mãi mãi với quê hương đất nước. Uy phong vang dội của Phù Đổng Thiên
Vương vần làm khiếp sợ cây cỏ đất Ân (lũ giặc phương Bắc):
“Công ghi cõi Việt so trời đất,
Oai dẹp quân Ân khiếp cỏ cây.”
Câu thơ của Cao Bá Quát vừa biểu thị niềm tự hào dân tộc, ngợi ca chiến tích và công ơn của người
anh hùng, vừa gợi nhớ những tình tiết oai hùng được nói đến trong truyền thuyết: Khi roi sắt gãy,
Gióng đã nhổ tre đánh, quật tơi bời vào lũ giặc Ân. Đến nay trong dân gian vẫn truyền tụng:
“Đứa thì sứt mũi, sứt tai,

Đứa thì chết nhóc bởi gai tre ngà.”
Trí tưởng tượng phong phú kì diệu, Cao Bá Quát đã phóng bút viết nên những vần thơ thậm xưng
mang âm điệu anh hùng ca, biểu lộ ý chí tự lập tự cường của nhân dân ta từ bao đời nay khi nhắc đến
Thánh Gióng. .
Nói đến đền miếu là thể hiện lòng biết ơn theo truyền thống đạo lí của dân tộc. Mỗi khi gió thổi thông
reo, từ bao đời nay, người đến viếng miếu đền Thánh Gióng còn tưởng như năm nào quán ta chiến
thắng giặc Ân trở về:
“Miếu cũ thông reo khi gió động,
Tướng quân thắng trận trở về đây”
Hai câu thư kết là sự ngân vang chiến thắng, từ sự mẫn cảm của nhà thơ. Quá khứ và hiện tại, tổ tiên
ông cha và con cháu gắn bó vối nhau, bảo vệ và phát huy cao độ truyền thống yêu nước anh hùng của
dân tộc. Cùng với mạch cảm xúc ấy của thi sĩ họ Cao, sau này nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã viết:
“Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về”
(Đất nước)
Thơ hay là ở cảm xúc và hình tượng. Thơ đẹp là ở trí tưởng tượng phong phú, làm cho vần thơ cất cánh
bay lên. Nghe tiếng gió thổi thông reo ở ngồi đền Thánh Gióng mà Cao Bá Quát tưởng như âm vang
của đoàn quân thắng trận trở về. Trên một nghìn bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát để lại, người đọc
tìm thấy nhiều bài thơ ca ngợi những danh nhân của đất nước như Thánh Gióng, Bà Trưng, Trần Quốc
Tuấn, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Đặng Tất,… Đó là những bài thơ biểu lộ lòng yêu nước nồng nàn, ý
chí tự lập tự cường và niềm tự hào dân tộc.
“Vịnh Phù Đổng Thiên Vương” là một bài thơ tuyệt tác. Ngôn ngữ trang trọng, hình tượng kì vĩ, liên
tưởng và cảm xúc dồi dào – Cao Bá Quát đã từ truyền thuyết sáng tạo nên bài thơ thất ngôn bát cú
Đường luật mang âm điệu anh hùng ca, làm sống lại chiến công thần kì của Thánh Gióng, người anh
hùng dân tộc buổi bình minh lịch sử đất nước. Cái vươn vai của Gióng mãi mãi là biêu tượng cho sức
mạnh quật khởi của nhân dân ta, mãi mãi là niềm mơ ước của tuổi thơ Việt Nam ngày nay như Chế Lan
Viên đã viết:
Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt

Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng.”
(“Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng”)
Read more: />quat/#ixzz3mXrh3jJL

×