Tải bản đầy đủ (.docx) (69 trang)

Kỹ Thuật Trồng Và Nhân Giống Cây Chùm Ngây Trường ĐH KHTN TP. HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.71 MB, 69 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam nhờ điều kiện sinh thái thích hợp nên có nguồn tài ngun cây
cỏ phong phú với hơn 10.000 lồi, trong đó có hơn 3.000 lồi được sử dụng làm thuốc.
Nhiều cây mọc hoang chưa được nghiên cứu hay chưa nghiên cứu một cách đầy đủ. Bộ
Y Tế ln khuyến khích việc phát triển trồng cây thuốc thu hái làm dược liệu vừa là
nguồn cung cấp dược liệu cho nghiên cứu điều trị vừa cải thiện thu nhập cho các hộ gia
1


đình nơng thơn ở Việt Nam. Hiện tại hệ thống bảo tồn, gìn giữ, xây dựng và phát triển
nguồn gen và giống cây thuốc mới phát hiện tại Việt Nam chưa được quản lý chặt chẽ,
đa số các cây thuốc quý hiếm lại đang có nguy cơ tuyệt chủng. Trong khi đó, theo số
liệu của các cơ quan chức năng, thì trên 50% nguyên dược liệu của nước ta nhập về từ
nước ngoài. Cây chùm ngây (Moringa oleifera Lam.) trong họ Chùm ngây
(Moringaceae R. Br. ex Dumort.) là một loài cây có nhiều giá trị kinh tế, đặc biệt dùng
làm thuốc đã được trồng phổ biến ở 1 số nước Âu Mỹ và Ấn Độ. Cây Chùm ngây
(Moringa oleifera Lam.) có rất nhiều cơng dụng thực tế, qua kết quả nghiên cứu của
lương y Nguyễn Công Đức (Đại học Y Dược -2006) và một số nhà khoa học khác như:
Lockett (2000); Fuglie LJ (1999); Jed W. Fahey (2005);…cây Chùm ngây (Moringa
oleifera Lam.) chứa hơn 90 chất dinh dưỡng tổng hợp, có giá trị cao trong y học và vấn
đề dinh dưỡng. Chùm ngây đã được nghiên cứu và khẳng định là một cây thuốc quý, có
thể chữa một số bệnh, bên cạnh đó cịn là một nguồn thực phẩm bổ dưỡng với rất nhiều
vitamin, khoáng chất và protein. Chùm ngây có ở Việt Nam từ lâu đời, mọc hoang
nhiều ở tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, cây phát triển phù hợp với độ cao dưới 700m. Ở
An Giang, phát hiện cũng có mọc rãi rác một số nơi ở vùng Bảy Núi. Tuy nhiên ở Việt
Nam việc nghiên cứu nhân giống cây Chùm ngây chưa phổ biến, vì thế nhóm chúng em
làm bài báo cáo này để tìm hiểu rõ hơn về cây Chùm ngây đồng thời tìm hiểu thêm về
các nghiên cứu nhân giống truyền thống và vơ tính đã, đang và chưa được áp dụng trên
cây Chùm ngây để có cái nhìn sâu sắc hơn về việc nhân giống cây thuốc quý này.



I.

Tổng quan
1.

Phân loại, nguồn gốc và phân bố
1.1 Phân loại và nguồn gốc

Cây Chùm Ngây có tên khoa học Moringa oleifera (tên đồng nghĩa: Moringa
pterygosperma Gaertn., pterygosperma có nghĩa: phơi có cánh; Guilandina moringa L.;
Moringa moringa (L.) Small), là loài thực vật thân gỗ phổ biến nhất trong chi Chùm
2


Ngây Moringa (được Latin hóa từ tên bản xứ gốc tiếng Tamil là Murungakkai, oleifera
có nghĩa là có chứa dầu), thuộc họ Chùm Ngây Moringaceae, bộ Cải Brassicales, xuất
xứ từ vùng Nam Á từ khu vực thuộc bang Kerala của Ấn Độ từ 4000 năm trước. Loài
cây này rất phổ biến ở Châu Á và Châu Phi, đặt biệt là ở Ấn Độ, được dân tộc Ấn Độ
trân trọng đặt tên là cây Độ Sinh.
Chi Chùm ngây (Moringa) có 13 loài, tất cả trong số chúng đều là các cây thân
gỗ nhỏ, sinh sống trong khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới. Khu vực phân bổ chủ yếu
của chúng là Đông bắc và Tây nam Châu Phi, Madagascar, bán đảo Ả Rập và Nam Á.
Có 2 lồi phổ biến nhất là:


Cây Chùm ngây (Moringa oleifera), có nguồn gốc ở vùng Nam Á từ khu vực thuộc
bang Kerala của Ấn Độ. Lồi cây này đã có lịch sử trồng trọt tới hơn 4.000 năm. Nó rất
phổ biến ở Châu Á và Châu Phi.




Cây chùm ngây Châu Phi (Moringa stenopetala) ít phổ biến hơn.
Trong tiếng Anh, cây chùm ngây có nhiều tên gọi khác nhau như “cây thần diệu”
(Miracle tree), “cây kỳ quan” (Wonder tree), “cây vạn năng” (Multipurpose tree), “cây
độ sinh” (Tree of life, theo quan điểm nhà Phật), “cây cải ngựa” (Horseradish tree, do rễ
non của cây có vị của cải ngựa, mù tạt), “cây dùi trống” (Drumstick tree, do thân/quả
cây giống dùi trống), “cây dầu bel” (Bel-oil tree, do dầu ép từ hạt cây được bán với tên
gọi bel-oil).
1.2 Phân bố

Bản địa của cây chùm ngây là ở vùng sơn cước Hi Mã Lạp Sơn ở Tây bắc Ấn
Độ nhưng ngày nay được trồng rộng rãi ở Châu Phi, Trung Mỹ, Nam Mỹ, và Đông
Nam Á (Campuchia, Malaysia, Indonesia).
Loài cây Chùm ngây (Moringa oleifera) được mọc hoang và trồng tại nhiều nơi
trong khu vực nhiệt đới Châu Á và là lồi duy nhất của Chi Chùm ngây có mặt tại Việt
Nam. Cây Chùm ngây, có ở Việt Nam ta từ lâu đời (mọc hoang nhiều nhất ở vùng Ninh
Thuận, Bình Thuận) nhưng trong vài chục năm trở lại đây người ta nghiên cứu thấy nó
có nhiều tác dụng đặc biệt nên tưởng là cây mới du nhập. Ở An Giang, phát hiện cũng
có mọc rãi rác một số nơi ở vùng Bảy Núi.
Ở Việt Nam cây chùm ngây được trồng nhiều ở tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận
nhưng cũng có mặt ở nững tỉnh khác như Thanh Hóa và đang được mở rộng ở khắp cả
nước.
2.

Đặc điểm hình thái và thành phần hóa học
2.1 Đặc điểm hình thái
3



Cây chùm ngây (Moringa oleifera) thuộc loài cây tiểu mọc, sống ở mơi trường
khơ ráo, khơng thích nghi mơi trường úng nước.


Thân: Là cây thân gổ nhỏ, cao 5-6 m (có thể đến 10 m), phân cành nhiều.
Thân có vỏ màu trắng xám, dày, mềm, sần sùi nứt nẻ, gỗ mềm và nhẹ. Khi bị
tổn thương thân rỉ ra nhựa màu trắng, sau chuyển thành màu nâu.



Lá: Lá kép ba lần dạng lơng chim, dài 30-60 cm, lá chét hình trịn hay hình
trái xoan, dài 10-12 cm, màu xanh lục mốc, không lông, mọc đối từ 6-9 đôi, lá
bẹ bao lấy chồi.



Hoa: Hoa màu trắng, to, có cuống, mọc thành chùy ở nách lá, trông hơi giống
hao hoa Đậu, 5 cánh hoa, dảnh lên, rộng khoảng 2,5 cm; 5 tiểu nhị thụ, xen
với 5 tiểu nhị lép; noãn sào 1 buồng, đính phơi trắc mơ ba, có hương thơm,
hoa nấu ăn được. Sau trồng 8 tháng là cây bắt đầu cho hoa. Mùa hoa tháng 12.



Quả: Quả nang treo, dài 25-30 cm (có khi đến 55 cm), ngang 2-3 cm, có hình
dáng giống quả đậu Cơ ve, có 3 mảnh, dọc theo quả có khía rãnh, khi khơ mở
thành 3 mảnh dày.



Hạt: Quả cho nhiều hột trịn màu đen, có 3 cạnh và 3 cánh màu trắng dạng

màng bao quang, to bằng hạt đậu Hà Lan, cở 0,5 cm.



Rễ: Hệ thống rễ phát triển mạnh nếu được trồng từ hạt, rễ phình to như dạng
củ, có màu trắng với những rễ bên thưa thớt. Nếu trồng bằng cách giâm cành,
hệ thống rễ sẽ không phát triển được như vậy.

Cây chùm ngây được trồng ở những vùng đất khô, nhiệt đới hoặc bán nhiệt đới.
Cây này chuộng đất ráo nước, nhiều cát, dù là đất xấu cũng dễ mọc, chịu được hạn hán.
Ở Việt Nam, cây trổ hoa vào khoảng tháng 1-2, cây ra hoa rất sớm, thường ngay trong
năm đầu tiên, khoảng 6 tháng sau khi trồng. Cây bắt đầu cho quả từ thân và nhánh từ 6
đến 8 tháng sau khi trồng. Cây khoảng 12 năm tuổi là cho hạt tốt nhất. Khi quả chín, hạt
giống phát tán khắp nơi theo gió và nước, hoặc được mang đi bởi những loài động vật
ăn hạt.
Khả năng nảy mầm của hạt cịn mới là 60-90%, tuy nhiên khả năng này khơng
giữ được nếu hạt được lưu giữ ở điều kiện thường quá 2 tháng. Tỉ lệ nảy mầm giảm dần
từ 60%, 48% và 7,5% tương ứng với thời gian lưu trữ hạt là 1,2 và 3 tháng (kết quả thử
nghiệm ở Ấn Độ).
Cây có thể trồng bằng hạt hoặc bằng cách giâm cành, trồng bằng hạt là phương
pháp dễ dàng nhất. cây trồng từ hạt có sức sống cao, tuy nhiên trong gia đoạn còn non,
4


cây yếu nên cần được chăm sóc trong điều kiện bóng mát. Biện pháp giâm cành cũng
có thể thực hiện tuy nhiên không hiệu quả bằng gieo hạt, giam cành thường được tiến
hành vào mùa mưa, khi điều kiện không khí đạt được độ ẩm thích hợp.
Cây ưa sáng mọc nhanh, giai đoạn đầu ưa bóng nên có thể trồng xen, khi cây lớn
điều chình ánh sáng, phân cành cao, vỏ màu hơi xanh khi còn non, màu trắng mốc khi
cây đã già, tái sinh chồi mạnh với những nơi độ ẩm cao, đất xốp, tầng mùn dày, tái sinh

hạt yếu.
Ở Việt Nam Cây chùm ngây trồng được ở cao độ dưới 500 m; lá ăn được như
rau, trái (nạc nương) dùng làm bột cà ri; dầu từ hột ăn được, có tính làm giảm sự thụ
thai. Cây gặp ở Nha Trang, Phan Thiết, Phú Quốc.
2.2 Thành phần hóa học

Đầu thập niên 1950, một người Pháp tên Vialard Goudou đã phân tích lá Chùm
ngây mà nhân dân Việt Nam bán ở các chợ để làm rau ăn, cho thấy lá cây chùm ngây
rất giàu dinh dưỡng, nhất là chất đạm, chất sắt và sinh tố C.
Sách Nghiên cứu y học cổ truyền Đông Dương (Les Plantes Médicinales du
Cambodge, du Laos et du Vietnam) của Alfred Petelot, Saigon 1953, cho thấy tất cả bộ
phận của cây đều chứa một chất glycosid có vị cay cay giống như hột Cải cay (mù tạc).


Rễ cây Chùm ngây chứa hợp chất glucosinolates như: 4(-alpha-Lrhamnosyloxy)benzylglucosinolate (khoảng 1%), sau khi chịu tác động của enzyme
myrosinase sẽ cho 4(-alpha-L-rhamnosyloxy)benzylisothiocyanate, glucotropaeolin
(khoảng 0,05%) và benzylisothiocyanate. Thân, cành và vỏ rễ chứa (belzylamil),
moringinin, athonin, spirochin, pterigospermin.


Hạt cây Chùm Ngây chứa glucosinolate như trong rễ, có thể lên đến 9% sau khi
hột đã được khử chất béo, các acid loại phenol carboxylic như 1-beta-D-glusosyl-2,6dimethylbenzoate. Ngồi ra hạt cịn chứ 33-38% chất béo được dùng làm dầu ăn và
hương liệu, thành phần chính gồm các acid béo như oleic acid (60-70%), palmitic acid
(3-12%), stearic acid (3-12%), và các acid béo khác như behenic acid, eicosanoic acid
và lignoceric acid.


Lá cây Chùm Ngây chứa các hợp chất thuộc nhóm flavonoids và phenolic như
kaempferol-3-O-alpha-rhamnoside, kaempferol, syringic acid, gallic acid, rutin,
quercetin-3-O-beta-glucoside. Các flavonol glycosides được xác định đều thuộc nhóm

kaempferide nối kết với các rhamnoside hay glucoside.

5




Hoa Chùm Ngây chứa polysaccharide được dùng làm chất phụ gia trong công
nghệ thực phẩm. Trà hoa Chùm Ngây là nguồn cung cấp tốt calcium và potassium.


Chất gơm tiết từ thân cây Chùm ngây chứa arabinose, galactose, acid glucuronic
và vết rhamnose. Từ gôm, chất leucoanthocyanin đã được chiết xuất và xác định là
leucodelphinidin, galactopyranosyl, glucopyranoside.
Theo Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA), thành phần chất dinh dưỡng trong cây
Chùm ngây (Moringa oleifera) như sau:
Trong 100 gam lá tươi của cây Chùm ngây có:
Thành phần dinh dưỡng trong 100 gam lá tươi
Năng lượng
64 kcal (270 kJ)
Carbohydrates
8.28 g
- Chất xơ
2.0 g
Chất béo
1.40 g
Protein
9.40 g
Nước
78.66 g

Vitamin A equiv.
378 μg (47%)
Thiamine (vit. B1)
0.257 mg (22%)
Riboflavin (vit. B2)
0.660 mg (55%)
Niacin (vit. B3)
2.220 mg (15%)
Pantothenic acid (B5)
0.125 mg (3%)
Vitamin B6
1.200 mg (92%)
Folate (vit. B9)
40 μg (10%)
Vitamin C
51.7 mg (62%)
Calcium
185 mg (19%)
Iron
4.00 mg (31%)
Magnesium
147 mg (41%)
Manganese
0.36 mg (17%)
Phosphorus
112 mg (16%)
Potassium
337 mg (7%)
Sodium
9 mg (1%)

Zinc
0.6 mg (6%)
6


Nguồn: USDA Nutrient Database
So sánh chất dinh dưỡng trong lá cây chùm ngây với một số thực phẩm
khác
Chất dinh dưỡng Thực phẩm thông dụng

Lá cây chùm ngây

Vitamin A

Củ Carrot

1.8 mg

6.8 mg

Calcium
Potassium
Protein
Vitamin C

Sữa
Chuối
Yogurt
Cam


120 mg
88 mg
3.1 g
30 mg

440 mg
259 mg
6.7 g
220 mg

Nguồn: USDA Nutrient Database
Thành phần dinh dưỡng trong 100 gam hạt tươi
Thành phần trong 100 gam hạt tươi
Năng lượng
37 kcal (150 kJ)
Carbohydrates
8.53 g
- Chất xơ
3.2 g
Chất béo
0.20 g
Protein
2.10 g
Nước
88.20 g
Vitamin A equiv.
4 μg (1%)
Thiamine (vit. B1)
0.0530 mg (5%)
Riboflavin (vit. B2)

0.074 mg (6%)
Niacin (vit. B3)
0.620 mg (4%)
Pantothenic acid (B5)
0.794 mg (16%)
Vitamin B6
0.120 mg (9%)
Folate (vit. B9)
44 μg (11%)
Vitamin C
141.0 mg (170%)
Calcium
30 mg (3%)
Iron
0.36 mg (3%)
Magnesium
45 mg (13%)
Manganese
0.259 mg (12%)
Phosphorus
50 mg (7%)
Potassium
461 mg (10%)
Sodium
42 mg (3%)
Zinc
0.45 mg (5%)
7



Ghi chú: Tỷ lệ % so với nhu cầu hàng ngày của người lớn theo tiêu chuẩn của US
recommendations .
Nguồn: USDA Nutrient Database
Vài số liệu so sánh chất dinh dưỡng ở lá chùm ngây
-

Vitamin C nhiều gấp 7 lần so với trái Cam.

-

Vitamin A nhiều gấp 4 lần so với Cà-rốt.

-

Calcium nhiều gấp 4 lần so với sữa.

-

Chất sắt nhiều gấp 3 lần so với cải bó xơi.

-

Chất đạm (protein) nhiều gấp 2 lần so với Ya-ua.

3.

Công dụng của Chùm Ngây
3.1 Cơng dụng làm thực phẩm

Cây Chùm Ngây rất có ý nghĩa trong việc chống lại suy dinh dưỡng tại các khu

vực đói nghèo, nhiều bộ phận của cây như quả, lá non, hoa, các nhánh non đều có thể
dùng làm thực phẩm được. Theo các nghiên cứu thì cây Chùm Ngây khơng chỉ là
nguồn thực phầm có giá trị dinh dưỡng cao mà cịn chứa nhiều khống chất và acid
amin có lợi cho cơ thể.
Các bộ phận của cây được dùng làm thực phẩm gồm:


Đọt và lá non: Được dùng làm rau phổ biến ở Việt Nam, Cam-pu-chia, Phi-líppin, Nam Ấn Độ, Sri Lanka và Châu Phi. Lá, chồi, cành non và cả cây con đều có thể
được dùng trộn dầu giấm ăn thay rau diếp, làm bột cà ri, ủ chua làm gia vị, làm trà giải
khát...


Búp hoa: Được làm rau xào hoặc nấu như đậu Hà Lan, có hương vị như Măng

tây.


Hoa: Có thể ăn được khi nấu chín và có mùi như nấm. Hoa Chùm Ngây cịn có
thể được dùng làm trà (nhiều nước phương tây sản xuất trà hoa Chùm Ngây bán trên thị
trường). Nó cũng là nguồn cung cấp nguyên liệu rất tốt cho những người ni ong.


Quả và hạt non: Được gọi là "đùi", được dùng làm ra phổ biến ở Châu Á và
Châu Phi. Trong vỏ hạt rất giàu vitamin C và vitamin B và các khoáng chất. Quả và hạt
non ăn như Đậu Hà Lan.

8





Hoa, lá và cành non, trái non đều luộc ăn được, lại có kích thích tiêu hóa và có
tính kháng sinh (nhờ chất lacton: ptyrigospermin).


Hạt Chùm Ngây chứa nhiều dầu, lượng dầu chiếm đến 30-40% trọng lượng hạt.
Dầu Chùm Ngây ăn được và cịn có thể được dùng để bơi trơn máy móc, đồng hồ, dùng
trong cơng nghệ mỹ phẩm, xà phịng, dùng để dưỡng tóc. Dầu Chùm Ngây được bán
trên thị trường với tên tiếng anh là Ben oil.


Các đoạn rễ non được dùng làm rau thay cho Cải Ngựa, do có mùi giống như
Cải Ngựa, để kích thích tiêu hóa trong các bữa ăn ở Châu Âu.


Lá cây chùm ngây được xem là phần bổ dưỡng nhất của của cây, là một nguồn
quan trọng của vitamin B6, vitamin C, tiền vitamin A như beta-carotene, magiê và
protein, trong số các chất dinh dưỡng khác theo báo cáo của USDA đều rất cao, có thể
được nấu chín, chế biến bằng nhiều cách khác nhau, hoặc trộn làm salad, hoặc xay uống
như sinh tố.
Lá của cây chứa nhiều dưỡng chất quan trọng như: chất đạm, các vitamine, betacarotene, acid amin và nhiều hợp chất khó gặp ở các cây khác như zeatin, nhóm hợp
chất flavonoid (quercetin, rutin, beta-sistosterol, acid caffeoylquinic và kaempferol…),
vì vậy lá Chùm Ngây cịn được sử dụng làm các loại thực phẩm khác như trà túi lọc và
nước uống, được chế biến thành dạng bột khơ đóng gói bán trên thị trường.
Lá Chùm Ngây giàu dinh dưỡng hiện được hai tổ chức thế giới WHO và FAO
xem như là giải pháp ưu việt cho các bà mẹ thiếu sữa và trẻ em suy dinh dưỡng, và là
giải pháp lương thực cho thế giới thứ ba. Nếu sử dụng lá tươi, cứ 100 gam lá/ngày cho
trẻ từ 1 đến 3 tuổi sẽ cung cấp 100% lượng calcium so với nhu cầu dinh dưỡng, khoảng
70% lượng sắt, 50% lượng protein, kali, đồng, vitamin B và amino acid không thay thế.
Khoảng 20 gam lá là đủ lượng vitamin A và C với trẻ nhỏ. Sử dụng 100 gam lá

tươi/ngày với phụ nữ mang thai sẽ cung cấp được khoảng 1/3 nhu cầu dinh dưỡng hàng
ngày. Tuy nhiên, cũng tương tự rau ngót, phụ nữ mang thai khơng nên sử dụng nhiều
rau chùm ngây trong 3 tháng đầu. Nếu sử dụng bột chế biến từ lá, với trẻ em khoảng 8
gam/ngày, với phụ nữ khoảng 50 gam/ngày sẽ đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng cần
thiết…
Thành phần dinh dưỡng trong 100g lá Chùm Ngây khô:

9


Ở các nước phương tây, lá Chùm Ngây được nấu chín và được sử dụng như rau
bina. Ngồi được sử dụng tươi thay thế cho rau bina, lá của nó cịn được sấy khơ và
nghiền thành bột được sử dụng trong súp và nước sốt.
Ở Nam Ấn Độ và Sri Lanka, các đọt non của cây Chùm Ngây được chiên, hoặc
nấu cà ri với nước cốt dừa, hạt poppy để tăng thêm hương vị của món cà ri chua hay
ngọt. Bẹ lá được để nguyên hoặc xắt nhỏ để trang trí cho các món rau và sa lát để tăng
thêm hương vị. Lá được sử dụng thay thế hoặc cùng với rau mùi. Ở một số vùng, những
bông hoa được thu gom và làm sạch để nấu chín với các món xào besan và pakoras.
Ở Bangladesh, đọt cây Chùm Ngây được dùng để nấu các món cà ri, sambars,
kormas và anddals như ở Ấn Độ, ngồi ra nó cịn được dùng để tăng hương vị cho các
món nấu với thịt và nhiều món ăn khác. Thị quả và hạt non được dùng để nấu canh, Lá
non được chiên với tôm hoặc thêm vào các món súp cá sang trọng.
Ở Đơng Java (Indonesia) lá và đọt non cây Chùm Ngây được dùng để nấu món
canh chua hoặc súp rau hỗn hợp. Lá có thể được chiên và trộn với thịt cá ngừ (cá
Maldive) chiên khô, hành tây và ớt khô. Ở Khu vực Maldives, món súp được nấu từ gạo
10


với lá cây chùm ngây để dùng trong tháng ăn kiêng Ramazan. Quả non được dùng trong
món trứng tráng và để nấu món cà ri nhẹ.

Ở Pakistan, tại khu vực Saraiki Nam Punjab, búp hoa cây Chùm Ngây được luộc
chín, tán nhuyễn và để đông lại, dùng để nêm vào các món ăn ưa thích.
Ở Thái Lan đọt non, lá và hoa cây Chùm Ngây dùng để nấu các món cà ri, xào,
súp, trứng gà rán và rau trộn. Một trong những món ăn truyền thống nhất là món Cà ri
chua Thái được nấu với cụm hoa và cá.
Ở Campuchia lá cây Chùm Ngây được nấu thành món canh gọi là m'rum hoặc
súp hỗn hợp được gọi là korko.
Ở Philippines lá cây Chùm Ngây được bán phổ biến trên thị trường với giá cả
phải chăng. Các lá thường được nấu món súp đơn giản và bổ dưỡng. Các lá đơi khi
cũng được sử dụng như là một thành phần đặc trưng trong món intinola, một món canh
gà truyền thống của Philippines được nấu bằng thịt gà với lá chùm ngây và đu đủ xanh.
Lá cây Chùm Ngây còn được trộn với dầu ô liu, nước sốt pasta pesto đã trở thành phổ
biến trên trường ẩm thực Philippines. Nước trái cây Chùm Ngây pha chanh dùng làm
bánh kẹo và nước đá hoặc thức uống lạnh dược dùng cho những người không ưa thích
ăn rau.
Ở Việt Nam lá cây Chùm Ngây được dùng để nấu canh. Hoa Chùm Ngây phơi
khơ có thể dùng nấu lấy nước uống như một loại trà. Trái non được dùng như đậu ve.
Khi già, hạt chùm ngây thì có thể đem rang lên và ăn như đậu phộng. Ở Malaysia hạt
Chùm Ngây cũng được ăn giống như hạt đậu phộng.
3.2 Công dụng trong y học

Cây Chùm Ngây Moringa Oleifera hiện được 80 quốc gia trên thế giới, những
quốc gia tiên tiến sử dụng rộng rãi và đa dạng trong công nghệ dược phẩm, mỹ phẩm,
nước giải khát dinh dưỡng và thực phẩm chức năng. Ví dụ như ở một số nước sau:
• Campuchia: vỏ cây được dùng làm thuốc cho phụ nữ sau khi sinh đẻ

uống để chóng lại sức.
• Thái Lan: vỏ thân cây được dùng làm thuốc thông hơi. Quả cây dùng để

chữa bệnh đau gan và tỳ, đau khớp, uốn ván và chứng liệt.

• Trung Mỹ: Hạt Chùm Ngây được dùng để trị táo bón, mụn cóc và giun

sán.
• Saudi Arabia: Hạt được dùng trị đau bụng, ăn khơng tiêu, nóng sốt, sưng

tấy ngồi da, tiểu đường và đau thắt ngang hơng.
• Ở châu Phi và Indonesia: lá Chùm Ngây thường được các bà mẹ đang

nuôi con ăn để làm tăng tiết sữa.
11


• Senegal: người ta dùng cành, lá sắc uống trị cịi xương, viêm cuống phổi,

phù nề, thấp khớp.
• Philippines: người ta dùng rễ làm thuốc đắp thế mù tạc làm tụ máu, vì nó

gây cảm giác rất đau.
• Ấn Độ: Cây Chùm Ngây được gọi là sainjna, mungna (Hindi, Asam, Bengal..).

Là một trong những cây thuốc dân gian rất thông dụng tại Ấn Độ. Lá trị ốm cịi, gây
nơn và đau bụng khi có kinh. Vỏ thân được dùng trị nóng sốt, đau bao tử, đau bụng khi
có kinh, sâu răng, làm thuốc thoa trị hói tóc; trị đau trong cổ họng (dùng chung với hoa
của cây nghệ, hạt tiêu đen, rễ củ Dioscorea oppositifolia); trị kinh phong (dùng chung
với thuốc phiện); trị đau quanh cổ (thoa chung với căn hành của Melothria
heterophylla, Cocci niacordifolia, hạt mướp (Luffa) và hạt Lagenaria vulgaris); trị tiểu
ra máu; trị thổ tả (dùng chung với vỏ thân Calotropis gigantea, Tiêu đen, và Chìa vơi).
Thân cây bị vết chặt sẽ tiết ra một gôm trắng đục, sau phơi nắng trở thành hồng hay đỏ
nâu ở mặt ngồi. Gơm này có tính trương nở lớn, ở Ấn Độ người ta đã biết dùng làm
trương nở cổ tử cung để phá thai (Pharmacographia Indica 1890). Hoa dùng làm thuốc

bổ, lợi tiểu. Quả giã kỹ với gừng và lá Justicia gendarussa để làm thuốc đắp trị gẫy
xương. Dầu từ hạt để trị phong thấp.
• Pakistan: Cây chùm ngây được gọi là Sajana, Sigru. Cũng như tại Ấn, Cây

Chùm Ngây được dùng rất nhiều để làm các phương thuốc trị bệnh trong dân gian.
Ngoài các cách sử dụng như tại Ấn độ, các thành phần của cây còn được dùng như: lá
giả nát đắp lên vết thương, trị sưng và nhọt, đắp và bọng dịch hoàn để trị sưng và sa;
trộn với mật ong đắp lên mắt để trị mắt sưng đỏ… Vỏ thân dùng để phá thai bằng cách
đưa vào tử cung để gây giãn nở. Vỏ rễ dùng sắc lấy nước trị đau răng, đau tai… Rễ tươi
của cây non dùng trị nóng sốt, phong thấp, gout, sưng gan và lá lách… Nhựa từ chồi
non dùng chung với sữa trị nhức đầu, sưng răng…
• Ở Việt Nam: theo Võ Văn Chi (1999), Phạm Hoàng Hộ (2006), các bộ

phận của cây như quả, lá non, hoa, các nhánh non đều có thể dùng làm rau ăn
nhưng phải nấu chín. Cành lá cây Chùm Ngây luộc hay sắc uống có tác dụng
kích thích tiêu hóa, kiện vị, trị tiêu chảy, kiết lị, viêm phổi. Rễ Chùm Ngây sắc
uống có tác dụng kiện vị, giã đắp làm sung huyết (tụ máu) thay cải Mù tạc, trị
thấp khớp. Rễ cây Chùm Ngây được cho là có tính kích thích, giúp lưu thơng
máu huyết, làm dễ tiêu hóa, tác dụng lên thần kinh làm dịu cơn đau, có khả năng
làm giảm sự thụ thai. Hoa Chùm Ngây có tính kích dục, hạt và nhựa (gơm) từ
thân có tác dụng làm dịu cơn đau, vỏ chứ moringin có thể gây phấn khích cho
tim. Ngồi ra, theo lương y Nguyễn Cơng Đức, Chùm Ngây còn được dùng để
chữa các bệnh như u xơ tiền liệt tuyến, trị suy nhược cơ thể, suy nhược thần
kinh, giúp ổn định huyết áp, ổn định đường huyết, bảo vệ gan.

12


Lá, hoa và rễ Chùm Ngây được dùng trong y học cộng đồng, chữa trị các khối u.
Lá dùng uống để điều trị chứng hạ huyết áp và vò xát vào vùng thái dương để trị chứng

nhức đầu. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy rằng, lá chùm ngây có tính chất như một
kháng sinh chống các viêm nhiễm nhỏ. Vỏ, lá và rễ được dùng tăng cường tiêu hóa.
Theo Hartwell, hoa, lá, và rễ còn được dùng trị sưng tấy; còn hạt dùng trị trướng bụng.
Lá còn được dùng để điều trị các vết cắt ở da, vết trầy sướt, sưng tấy, nổi mẩn ngứa hay
các dấu hiệu của lão hóa da. Dịch chiết từ lá có tác dụng duy trì ổn định huyết áp, trị
chứng bần thần, chống nhiễm trùng da. Nó cũng được dùng để điều khiển lượng đường
máu trong trường hợp bị bệnh tiểu đường. Dịch chiết từ lá có thêm nước cà-rốt là một
thức uống lợi tiểu. Bột làm từ lá tươi có khả năng cung cấp năng lượng làm cho năng
lượng tăng gấp bội khi dùng thường xuyên. Lá cũng được dùng chữa sốt, viêm phế
quản, viêm nhiễm mắt và tai, viêm màng cơ, diệt giun sán và làm thuốc tẩy xổ. Sản phụ
ăn lá sẽ làm tăng tiết sữa. Ở Philippines lá được chỉ định dùng chống thiếu máu, do
chứa lượng sắt cao.
Hạt điều trị bệnh viêm dạ dày. Dầu hạt được dùng ngoài để điều trị nấm da.
Trường Đại học San Carlos ở Guatemala đã tìm ra một loại kháng sinh có tác dụng như
neomycin có khả năng bảo vệ da khỏi sự viêm nhiễm do Staphylococcus aureus. Loại
kháng sinh này là một hỗn hợp kháng khuẩn và nấm có tên pterygospermin, danh pháp
hóa học là glucosinolate 4 alpha-L-rhamnosyloxy benzyl isothiocyanate. Nhiều nơi trên
thế giới dùng bột nghiền từ hạt để khử trùng nước sơng, nước sơng trong mùa lũ có
tổng số trực trùng Escherichia coli lên tới 1.600 - 18.000 / 100 ml, được xử lý bằng bột
hạt chùm ngây trong vài giờ đồng hồ đã giảm xuống còn 1 - 200 / 100 ml.
Rễ có vị đắng, được xem như một loại thuốc bổ cho cơ thể và phổi, điều kinh,
long đàm, lợi tiểu nhẹ. Ở Nicaragua, nước sắc rễ được dùng chữa bệnh phù thủng. Dịch
rễ được dùng ngoài để điều trị chứng mẩn ngứa do dị ứng. Trong rễ và hạt, cũng có chất
kháng sinh pterygospermin. Vỏ cây được dùng điều trị chứng thiếu vitamin C, đôi khi
dùng trị tiêu chảy.
3.2.1

Theo Đông Y

Các bộ phận của cây như lá, rễ, hạt, vỏ cây, quả và hoa.. có những hoạt tính như

kích thích hoạt động của tim và hệ tuần hồn, hoạt tính chống u-bướu, hạ nhiệt, chống
kinh phong, chống sưng viêm, trị ung loét, chống co giật, lợi tiểu, hạ huyết áp, hạ
cholesterol, chống oxy-hóa, trị tiểu đường, bảo vệ gan, kháng sinh và chống nấm… Lá
cây Chùm Ngây làm trà lợi sữa, trị cảm, suyễn, hạ huyết áp. Vỏ cây chứa moringin làm
phấn khích tim. Hoa Chùm Ngây trị ho, thân tán thành bột uống trị độc (rắn, bị cạp…).
Vỏ và rễ cây chứa athonin có hoạt tính diệt vi khuẩn (Theo “Cây có vị thuốc ở Việt
Nam” – Phạm Hoàng Hộ). Cây đã được dùng để trị nhiều bệnh trong Y-học dân gian tại
nhiều nước trong vùng Nam Á. (Phytotherapy Research Số 21-2007).
 Một số bài thuốc từ cây chùm ngây:

Theo hướng dẫn của lương y Nguyễn Công Đức - giảng viên khoa Y học cổ
truyền (ĐH Y Dược,TP.HCM):
13


+ Trị u xơ tiền liệt tuyến: dùng 100gr rễ chùm ngây tươi và 80gr lá trinh nữ hoàng
cung tươi (hoặc dùng rễ chùm ngây khô 30gr và lá trinh nữ hồng cung khơ 20gr). Đem
nấu với 2 lít nước, nấu cịn lại nửa lít thuốc. Uống ấm 3 lần trong ngày.
+ Trị suy nhược cơ thể, suy nhược thần kinh, giúp ổn định huyết áp, ổn định đường
huyết, bảo vệ gan: mỗi ngày dùng 150gr lá chùm ngây non rửa sạch, giã nát, thêm
300ml nước sạch vắt lấy nước cốt (hoặc dùng máy xay sinh tố), thêm 2 muỗng canh
mật ong trộn đều, chia uống 3 lần dùng trong ngày.
+ Trị tăng cholesterol, tăng lipid máu, tăng triglycerid, hoặc làm giảm acid uric,
ngăn ngừa sỏi oxalate: mỗi ngày dùng 100gr rễ chùm ngây tươi (hoặc 30gr khô) rửa
sạch, nấu với 1 lít nước, nấu sơi 15 phút, để uống cả ngày.
+ Ngừa thai: cứ 5 ngày thì dùng 2 nắm rễ cây chùm ngây còn tươi (150gr) rửa sạch
băm nhỏ nấu với 2 lít nước, nấu cịn nửa lít thuốc, chia uống 2 lần trong ngày.
+ Chùm ngây còn được dùng để lọc nước - bằng cách lấy 2 trái chùm ngây tươi đã
có hột già, lấy hột giã nát, trộn đều 5 phút với 3 lít nước đục, để lắng 2 giờ thì có nước
trong dùng được.

3.2.2

Theo Tây Y:

Chùm Ngây (Moringa oleifera) được xem là một cây đa dụng, rất hữu ích tại
những quốc gia nghèo thuộc “Thế giới thứ ba” nên đã được nghiên cứu khá nhiều về
các hoạt tính dược dụng, giá trị dinh dưỡng và công nghiệp. Đa số các nghiên cứu được
thực hiện tại Ấn Độ, Philippines, và Phi Châu..
Do là cây rau và cây thuốc còn được mệnh danh là cây Độ Sinh (Tree of Life)
hay cây Thần Diệu (Miracle Tree) nên cây chùm ngây là một trong những loài cây rau
làm thuốc được nghiên cứu nhiều nhất thế giới.
3.2.2.1 Khả năng kháng sinh diệt vi khuẩn và vi nấm:

Chất Athonin có tác dụng kháng sinh trên vi trùng dịch tả (Vibrio cholerae) và
hoạt tính của nó nằm giữa chloromycetin và streptomycin (Sen Gupta và cs 1956). Chất
Spirochin có tính kháng sinh trên vi khuẩn gram+ nhất là chống
Staphyllococcus và Streptococcus (Chatterjee, 1951). Dịch chiết từ cây chùm ngây
được xác định tác dụng kháng sinh chống lại nhiều dòng vi khuẩn nhờ hoạt
chất Pterigospermin của nó. Chất Pterigospermin là kháng sinh quan trọng nhất của cây
Chùm ngây, với kháng khuẩn phổ rộng, trên cả vi khuẩn gram+ lẫn gram-:
Micrococcus pyogenes var. aureus, Bacillus subtilis, Escherichia coli, Aerobacter
aerogenes, Salmonella typhi, Salmonella enteritidis, Shigella dysenteriae,
Mycobacterium tuberculosis (Kurup và Narasimha 1954). Chất chiết từ vỏ cây có tính
kháng sinh trên Micrococcus pyogene var. aureus, Bacillus subtilis, Diplococcus
pneumoniae, Streptococcus pyogenes, Escherichia coli, Salmonella typhi, Vibri ocoma,
Shigella dysenteriae, Mycobacterium phlei. Nó cũng ức chế vi nấm Microsporum
14


gypseum, Trichophyto mantagrophytes, Candida albicans, Helminthosporium sativum

(Bhatnaga và cs 1961). Trích tinh lá bằng ether có tác dụng trụ sinh (bacteriostatic
activity) đối với Staphyllococcus aureus và Salmonella typhi (Bhawasa và cs 1965).
Chất 4 (alpha-L-Rhamnosyloxy) benzyl isothiocyanate được xác định là có hoạt tính
kháng sinh mạnh nhất trong các hoạt chất trích từ hạt Chùm Ngây (trong hạt Chùm
Ngây cịn có benzyl isothiocyanate). Hàm lượng chất này rất cao: 8 - 10%, với điều
kiện trong quá trình tách chiết phải thêm ascorbic acid vào nước trích. Nó có tác dụng
kháng sinh với rất nhiều vi khuẩn và vi nấm (Eilert và cs, 1981). Nồng độ tối thiểu để
ức chế Bacillus subtilis là 56 micromol/l và để ức chế Mycobacterium phlei là 40
micromol/l (Planta Medica Số 42-1981). Nghiên cứu tại Viện Institute of
Bioagricultural Sciences, Academia Sinica, Đài Bắc (Taiwan) ghi nhận dịch chiết từ lá
và hạt Chùm Ngây bằng ethanol có các hoạt tính diệt được nấm gây bệnh loại
Trichophyton rubrum, Trichophyton mentagrophytes, Epidermophyton floccosum và
Microsporum canis. Các phân tích hóa học đã tìm được trong dầu trích từ lá Chùm
Ngây đến 44 hóa chất kháng sinh. (Bioresource Technology Số 98-2007).
3.2.2.2 Tác dụng của quả Chùm Ngây trên cholesterol và lipid trong máu:

Nghiên cứu tại Đại Học Baroda, Kalabhavan, Gujarat (Ấn Độ) về hoạt tính trên
các thơng số lipid của quả Chùm Ngây, thử trên thỏ, ghi nhận: Thỏ cho ăn Chùm Ngây
(200mg/kg mỗi ngày) hay uống lovastatin (6mg/kg/ ngày) trộn trong một hổn hợp thực
phẩm có tính cách tạo cholestero cao, thử nghiệm kéo dài 120 ngày. Kết quả cho thấy
Chùm Ngây và Lovastatin có tác dụng gây hạ cholesterol, phospholipid, triglyceride,
VLDL, LDL hạ tỷ số cholesterol/ phospholipid trong máu…so với thỏ trong nhóm đối
chứng. Khi cho thỏ bình thường dùng Chùm Ngây hay Lovastatin: mức HDL lại giảm
hạ nhưng nếu thỏ bị cao cholesterol thì mức HDL lại gia tăng. Riêng Chùm Ngây cịn
có thêm tác dụng làm tăng sự thải loại cholesterol qua phân (Journal of
Ethnopharmacology Số 86-2003).
3.2.2.3 Giảm bệnh tiểu đường:

Dịch chiết từ cây chùm ngây được xác định cải thiện dung nạp glucose (glucose
tolerance) trên mơ hình thí nghiệm chuột mắc bệnh tiểu đường (diabetes), ức chế hoạt

động của virus Epstein-Barr trong ống nghiệm (in vitro) và giảm bệnh viêm da do virus
(papillomas) ở chuột.
3.2.2.4 Tính kháng ung thư:

Chất chiết bằng cồn của cây Chùm ngây, kể cả rễ, có tính kháng ung thư biểu mơ
mũi hầu, trên mô cấy và tế bào lymphô P388 của ung thư bạch cầu của Chuột (Dhawan
và cs 1980).
3.2.2.5 Các hoạt tính chống co-giật, chống sưng và gây lợi tiểu:

Dịch trích bằng nước nóng của hoa, lá, rễ, hạt, vỏ thân Chùm Ngây đã được
nghiên cứu tại Trung Tâm Nghiên cứu Kỹ Thuật (CEMAT) tại Guatamala City về các
15


hoạt tính dược học, thử nơi chuột. Hoạt tính chống co giật được chứng minh bằng thử
nghiệm trên chuột đã cơ lập, hoạt tính chống sưng thử trên chân chuột bị gây phù bằng
carrageenan và tác dụng lợi tiểu bằng lượng nước tiểu thu được khi chuột được nuôi
nhốt trong lồng. Nước trích từ hạt cho thấy tác động ức chế khá rõ sự co giật gây ra bởi
acetylcholine ở liều ED50= 65.6 mg/ml môi trường ; tác động ức chế phụ gây ra do
carrageenan được định ở 1000mg/kg và hoạt tính lợi tiểu cũng ở 1000 mg/kg. Nước
trích từ Rễ cũng cho một số kết quả (Journal of Ethnopharmacology Số 36-1992).
3.2.2.6 Khả năng ngừa thai của Rễ Chùm Ngây:

Nghiên cứu tại Đại Học Jiwaji, Gwalior (Ấn Độ) về các hoạt tính estrogenic,
kháng estrogenic, ngừa thai của nước chiết từ Rễ Chùm Ngây ghi nhận chuột đã bị cắt
buồng trứng, cho uống nước chiết, có sự gia tăng trọng lượng của tử cung. Hoạt tính
estrogenic được chứng minh bằng sự kích thích hoạt động mơ tế bào tử cung. Khi cho
chuột uống nước chiết này chung với estradiol dipropionate (EDP) thì có sự tiếp nối tụt
giảm trọng lượng của tử cung so sánh với sự gia tăng trọng lượng khi chỉ cho chuột
uống riêng EDP. Trong thử nghiệm deciduoma liều cao nhất 600mg/kg có tác động gây

rối loạn sự tạo deciduoma nơi 50 % số chuột thử . Tác dụng ngừa thai của Rễ Chùm
Ngây được cho là do nhiều yếu tố phối hợp (Journal of Ethnopharmacology Số 221988).
3.2.2.7 Hoạt tính của Rễ Chùm ngây trên Sạn thận loại Oxalate:

Thử nghiệm tại Đại Học Dược K.L.E.S, Nehru Nagar, Karnakata (Ấn Độ) trên
chuột bị gây sạn thận, oxalate bằng ethylen glycol ghi nhận dịch chiết bằng nước và
alcohol rễ cùng lõi gỗ Chùm Ngây làm giảm rõ rệt nồng độ oxalate trong nước tiểu
bằng cách can thiệp vào sự tổng hợp oxalate trong cơ thể. Sự kết đọng tạo sạn trong
thận cũng giảm rất rõ khi cho chuột dùng dịch chiết này như một biện pháp phịng ngừa
bệnh sạn thận.
Hoạt tính kháng sinh của hạt Chùm Ngây:
4-(alpha-L-Rhamnosyloxy)-benzyl-isothiocyanate được xác định là có hoạt tính
kháng sinh mạnh nhất trong các hoạt chất trích từ hạt Chùm Ngây ( trong hạt Chùm
Ngây cịn có benzyl isothiocyanate). Hợp chất trên ức chế sự tăng trưởng của nhiều vi
khuẩn và nấm gây bệnh. Nồng độ tối thiểu để ức chế Bacillus subtilis là 56 micromol/l
và để ức chế Mycobacterium phlei là 40 micromol/l (Planta Medica Số 42-1981).
Chú ý! Liều lượng và các phản ứng phụ cần lưu ý!
Hiện nay chưa có những báo cáo về những nguy hại đối với sức khoẻ trong việc
sử dụng Hạt và Rễ Cây Chùm Ngây theo các liều lượng trị liệu. Tuy nhiên dùng liều
quá cao có thể gây ra buồn nơn, chóng mặt và ói mửa.
16


Liều cho uống: 5gram/ kg trọng lượng cơ thể, thử trên chuột, gây phản ứng
keratin hóa quá mức tế bào bao tử và sơ hóa tế bào gan.
Liều chích qua màng phúc toan 22 đến 50 mg/ kg trọng lượng cơ thể gây tử vong
nơi chuột thử nghiệm.
Không nên dùng Rễ Cây Chùm Ngây với phụ nữ có thai, vì có khả năng gây
trụy thai (theo DS Trần Viết Hưng/ ĐH Cần Thơ).
Một số canxi trong lá cây chùm ngây ở dạng như tinh thể calcium oxalate có thể

ức chế khả cấp canxi cho cơ thể. Không phải rõ ràng trong việc tính tốn lượng canxi
trong lá cây chùm ngây ở dạng khả dụng hay canxi không khả dụng sinh học.
3.3 Các công dụng khác
3.3.1

Làm nguyên liệu thực phẩm, mỹ phẩm, tân dược và công nghiệp:

Mỹ hiện nay là nước nhập nguyên liệu Cây chùm ngây thô nhiều nhất, sử dụng
trong công nghệ nước uống, mỹ phẩm cao cấp, và quan trọng hơn là chiết suất thành
nguyên liệu tinh cung ứng cho cơng nghiệp dược phẩm, hóa chất.
Nghiên cứu rộng rãi nhất về giá trị của cây chùm ngây được thực hiện tại
Trường Đại học Nông Nghiệp Falsalabad, Pakistan cho biết cây chùm ngây là một lồi
cây có giá trị kinh tế cao, cây phân bố tại nhiều quốc gia nhiệt đới và cận nhiệt đới. Cây
vừa là một nguồn dược liệu và là một nguồn thực phẩm rất tốt.
Ở Jamaica, nhựa cây được sử dụng cho một loại thuốc nhuộm màu xanh.
Bánh dầu được sử dụng làm phân bón và làm chất khử nước nhờ chất keo kết tụ
chất cặn bả trong nước.
Tại Mỹ và các nước Châu Âu, cây chùm ngây được sử dụng rộng rãi trong công
nghệ dưỡng da, mỹ phẩm cao cấp.
Cách dùng đơn giản, các bà các cơ có thể áp dụng ngay: giã nhuyễn 20g lá, để
không hoặc trộn với dầu lấy từ hạt Chùm ngây thoa đắp 2 lần, mỗi lần 7 phút trong một
ngày, trong một tuần sẽ thấy hiệu nghiệm.
3.3.2

Hạt cây chùm ngây dùng để lọc nước:

Việc nghiên cứu xữ lý nước từ hạt của cây Chùm Ngây đã được biết từ lâu, và
cho đến năm 1970 đã có những báo cáo về hoạt tính lọc nước của hạt Chùm Ngây.
Những nghiên cứu về hoạt chất ngưng kết, làm trong nước và diệt khuẩn có trong hạt
Chùm Ngây, đồng thời thử nghiệm qui trình lọc nước của hạt cây Chùm Ngây đã được

nhiều người quan tâm.
17


Bột hạt cây chùm ngây được đánh giá có khả năng lọc nước tốt. Người ta nghiền
hạt cây chùm ngây khơ thành bột rồi hịa với ít nước thành một dịch cái rồi tùy theo độ
bẩn của nước muốn khử trùng mà pha vào từ 1- 3% dịch cái ấy, khuấy đều và để lắng.
Chất gôm trong bột hạt chùm ngây có tác dụng như một chất điện phân đa cực sẽ thu
hút vi trùng và bụi bẩn rồi lắng đọng xuống đáy. Mặt khác các chất có hoạt tính kháng
sinh nói trên cũng tiêu diệt vi trùng và nấm mốc trong nước.
Kết quả cho thấy rằng với bột từ hạt chùm ngây làm giảm ô nhiễm nguồn nước
và giảm số lượng vi khuẩn sau khi sử lý. Cách này được áp dụng ở Ấn Độ và Châu Phi
để lọc nước sông, nước ao và nước giếng để dùng trong sinh hoạt và ăn uống.
Kết quả thử nghiệm lọc nước: Nước đục (độ đục 15-25 NTU, chứa các vi khuẩn
tạp 280-500 cfu ml (-1), khuẩn coli từ phân 280-500 MPN 100 ml(-1). Dùng hạt Chùm
Ngây làm chất tạo trầm lắng và kết tụ, đưa đến kết quả rất tốt (độ đục còn 0.3-1.5 NTU;
vi khuẩn tạp còn 5-20 cfu; và khuẩn coli còn 5-10 MPN..). Phương pháp lọc này rất hữu
dụng tại các vùng nông thôn của các nước nghèo và được áp dụng khá rộng rãi tại Ấn
độ (Journal of Water and Health Số 3-2005).
Tác dụng lắng lọc, diệt khuẩn gây bệnh đường ruột trong việc xữ lý nước bẩn có
thể áp dụng cho các vùng lũ ở Việt Nam. Tuy nhiên, những chất bổ dưỡng có trong hột
Chùm ngây cũng có thể là nguồn thức ăn cho một số vi sinh vật phát triển sau lắng lọc!
Do đó theo kinh nghiệm ở Việt Nam nên dùng phèn chua để làm trong nước, sau khi
lắng cặn cho nước vào túi nylon và phơi nắng trong 1 ngày thì có nước sạch để dùng,
cách này tiện lợi hơn.
3.3.3

Ứng dụng trong cơng nghiệp:

Gỗ cây Chùm Ngây rất nhẹ, có thể dùng làm củi, nhưng năng lượng khơng cao.

Nó được xem là nguồn nguyên liệu tiềm năng cho công nghệ giấy và còn được dùng để
sản xuất các chế phẩm màu xanh. Vỏ cây có khả năng cung cấp tanin, nhựa dầu và sợi
thơ. Do cây tăng trưởng nhanh, thân trịn thẳng, tán lá thưa nên nó được sử dụng làm
nọc sống cho cây tiêu.
3.3.4

Khả năng phòng hộ:

Cây Chùm Ngây sống được ở những điều kiện đất đai khô cằn và trong điều kiện
khí hậu khắc nghiệt, chịu được hạn hán. Do vậy, nhiều nơi trên thế giới, Chùm Ngây
được trồng làm hàng rào xanh che chắn cho các khu sản xuất nơng nghiệp, che bóng
cho các cây cơng nghiệp dài ngày, chắn gió, chắn cát bay. Ngồi ra cây cịn có khả năng
cải tạo đất, lá dùng làm phân xanh và làm thức ăn bổ sung cho gia súc rất tốt, cây có lá
nhỏ, thân thon, tán đẹp nên cịn có thể được trồng làm cây cảnh.
4.

Các phương pháp nuôi trồng bình thường
18


4.1 Gieo trồng trực tiếp:
4.1.1

Chọn địa điểm:

Điều kiện môi trường:
+ Khí hậu nhiệt đới hoặc cận nhiệt.
+ Độ cao ở khoảng 0-2000m.
+ Nhiệt độ 25-35 độ C.
+ Lượng mưa 250-2000mm.

+ Loại đất: đất mùn, đất cát hoặc đất mùn pha cát.
+ Độ pH: từ acid nhẹ đến kiềm nhẹ (5-9)
Chọn khu vực khơ ráo, đã được thốt nước nhằm rút lượng nước dư thừa ra khỏi
đất và cho phép sự trao đổi khí tự do giữa mơi trường khí quyển bên trên và các hạt đất
bên dưới được thuận lợi, tránh cho các hạt sét trong đất dính lại với nhau khi ướt và trở
nên cứng khi khô. Nên chọn vùng đất nhận được nhiều ánh nắng mặt trời và phải rào lại
cẩn thận (trồng cây làm hàng rào hoặc đóng hàng rào, hoặc lưới rào) để bảo vệ vường
tược khỏi những con thú lang thang trong khu vựa đến phá cây. Nếu có thể, hãy tránh
chọn vùng đất bị nhiễm mối.
Những vùng đất không nên chọn để trồng Chùm Ngây:
+ Nơi có chất thải cơng nghiệp: đất có thể đã hấp thụ những chất ô nhiễm
không mong muốn hoặc kim loại nặng.
+ Khu vực đọng nước: đất thoát nước kém có thể làm thối, úng rễ. Ví dụ như
các vùng đất từng trồng lúa, khư vực lưu vực sông, vùng đất nhiều đất sét.
+ Khu vực chăn thả súc vật / vùng đất bị nhiễm mối: cây con và cây trưởng
thành có thể bị súc vật và mối phá hủy hoặc gây hư hại.
4.1.2

Chuẩn bị cho khu đất trồng:

Điều kiện để cho cây sinh trưởng và phát triển tốt đó là bộ rễ của cây phải lan
rộng được dễ dàng trong đất, do đó cây Chùm Ngây cần được trồng trên đất mùn hoặc
đất cát để đảm bảo cho sự phát triển tối ưu. Đất cần được cào xới cho tơi xốp và loại bỏ
các chất không cần thiết trước khi gieo hạt. Nếu trồng với mật độ cao, đất cần được cày
bừa đến độ sâu tối đa là 30 cm. Nếu mật độ trồng thấp (lớn hơn 1 x 1 m) thì tốt hơn nên
đào các hố nhỏ rồi đổ đất lấp vào lại, điều này giúp đảm bảo cho hệ thống rễ có thể đâm
xuyên tốt mà khơng làm xói mịn đất (cày bừa có thể đem lại nhiều rủi ro cho môi
trường nhiệt đới, trong điều kiện thường xuyên có mưa nặng hạt, gió lớn và địa hình
dốc nghiêng). Trong trường hợp này các hố được đào phải sâu từ 30-50 cm và rộng
khoảng 20-40 cm. Khi đổ đất vào lại trong hố thì trộn đất chung với phân bón.

4.1.3

Truyền giống:
19


Thu hoạch hoặc thu lượm hạt giống từ nguồn đáng tin cậy. Một hạt giống tốt cần
có sức sống tốt, sạch, khỏe mạnh và sạch bệnh. Hạt giống không được để trữ trong kho
qua thời gian dài vì sức sống của hạt sẽ giảm sau 1 năm trữ kho. 1 kg có khoảng 4000
hạt Chùm Ngây (bao gồm cả vỏ).
Hạt giống có thể được gieo vào các vật chứa như túi bầu, khay, chậu, gieo trên
luống hoặc gieo trực tiếp ngồi đồng. Trong đó, gieo hạt trực tiếp là thích hợp hơn cả vì
Chùm Ngây có tỉ lệ nảy mầm cao, thí dụ như ở togo (1 nước cộng hịa nằm ở bờ biển
phía tây của châu Phi, trên vịnh Guinea), tỉ lệ nảy mầm của Chùm Ngây đạt trên 85%
chỉ sau 12 ngày sau khi gieo hạt.
 Những ưu điểm của phương pháp nhân giống bằng hạt.

- Kỹ thuật đơn giản, dễ làm.
- Chi phí lao động thấp, do đó giá thành cây con thấp.
- Hệ số nhân giống cao.
- Tuổi thọ của cây trồng bằng hạt thường cao.
- Cây trồng bằng hạt thường có khả năng thích ứng rộng với điều kiện ngoại
cảnh.
 Những nhược điểm của phương pháp nhân giống bằng hạt

- Cây giống trồng từ hạt thường khó giữ được những đặc tính của cây mẹ.
- Cây giống trồng từ hạt thường ra hoa kết quả muộn.
- Cây giống trồng từ hạt thường có thân tán cao, gặp khó khăn trong việc
chăm sóc cũng như thu hái sản phẩm.
Những điểm chú ý khi nhân giống bằng hạt:

- Phải nắm được các đặc tính, sinh lý của hạt: một số hạt chín sinh lý sớm, nảy
mầm ngay trong hạt (hạt mít, hạt bưởi); một số hạt có vỏ cứng cần xử lý hố chất, bóc
bỏ vỏ cứng trước khi gieo (hạt xoài, hạt mận) và một số hạt khi để lâu sẽ mất sức nảy
mầm (hạt nhãn, hạt vải).
- Phải đảm bảo các điều kiện ngoại cảnh cho hạt nảy mầm tốt: nhiệt độ, không
quá thấp hoặc quá cao, độ ẩm đất đảm bảo 70 - 80% độ ẩm bão hoà và đất gieo hạt phải
tơi xốp, thống khí.

20


- Phải tuân thủ nghiêm ngặt các bước chọn lọc: chọn giống có khả năng sinh
trưởng khoẻ, năng suất cao và phẩm chất tốt; chọn những cây mang đầy đủ các đặc
điểm của giống muốn nhân; chọn những quả có hình dạng đặc trưng của giống; chọn
những hạt to, mẩy, cân đối và chọn cây con to, khoẻ, sinh trưởng cân đối.
4.1.4

Gieo trồng trực tiếp:

Hạt giống cần được gieo ở độ sâu tối đa 2 cm, gieo sâu hơn có thể làm giảm
đáng kể tỉ lệ nảy mầm. Có thể gieo 1 hoặc 2 hạt vào trong 1 hố. Trong trường hợp giá
cả hạt giống đang đắt đỏ hoặc khó tìm mua được hạt giống thì chỉ gieo 1 hạt và chờ
khoảng 2 tuần cho hạt nảy mầm. Còn khi chất lượng hạt giống không đảm bảo hoặc
trong thời gian đó mơi trường khơng đảm bảo đủ điều kiện để hạt giống phát triển tối
ưu thì nên gieo 2 hạt vào trong 1 hố.
Nếu cả 2 hạt đều nảy mầm, hãy loại ra cây yếu hơn khi chúng đạt đến chiều cao
30 cm, nhưng khi loại ra phải nhổ cây một cách cẩn thận để tránh làm ảnh hưởng đến
hệ thống rễ của cây khỏe mạnh còn lại. để sản xuất cây con cho truyền giống thì khơng
nên gieo hạt trực tiếp vì sẽ có nguy cơ cao rễ cái bị hư hại.
Hạt Chùm Ngây sẽ nảy mầm sau 5-12 ngày sau khi gieo. Nếu sau 2 tuần mà hạt

giống vẫn khơng nảy mầm thì có nghĩa nó sẽ khơng có khả năng nảy mầm và nên được
loại ra. Nếu cả 2 hạt trong hố đều khơng nảy mầm thì nên đào chúng lên và kiểm tra
xem vị trí gieo hạt đó có bị cơn trùng trong đất tấn cơng hay khơng (kiến hoặc mối).
Trong trường hợp đó, vị trí gieo hạt cần được xữ lý bằng lá Sầu Đông (cây Neem, có
cơng cụng trừ sâu hại, cơn trùng mà không gây hại cho cây), hoặc tốt hơn là xữ lý với
tinh dầu Neem pha trộn với nước xà phòng, sau đó có thể gieo hạt lại vào vị trí cũ.
Gieo trồng trên luống có những hạn chế sau:
+ Địi hỏi nhiều công sức, nhất là khi đem cấy.
+ Khi cấy có thể gây tổn hại cho rễ cái; bộ phận mỏng manh và cần thiết để
đảm bảo cho năng suất trong tương lai và khả năng chịu hạn của cây.
4.1.5

Gieo trồng trong vật chứa:

Nên sử dụng vật chứa là túi nhựa PE hoặc bao ni lông sợi được phủ sẵn đất mùn
ẩm vào trong đó, gieo hạt vào trong đất sâu hơn 2 cm. Hạt giống sẽ nảy mầm vào
khoảng 5-12 ngày sau khi gieo.
Đặt các túi chứa hạt đã gieo ở nơi có bóng mát và được bảo vệ khỏi mưa lớn,
nếu điều kiện trên không được đáp ứng thì rạch 2-3 rãnh nhỏ trên túi nhựa để nước có
thể thốt ra, tránh bị đọng lại trong bao. Tưới đất 2-3 ngày 1 lần tùy vào độ ẩm của đất,
mỗi lần tưới khoảng 10-20 ml vào mỗi túi là tốt nhất. Trong thời gian này cần bảo vệ
tốt cây con khỏi châu chấu, cào cào, mối và các con động vật nhai lại.
Chú ý tưới nước cẩn thận tránh làm cho thân cây yếu ớt bị cong vênh do áp lực.
Nếu cây bị cong vênh thì cần phải được chống đỡ kịp thời. Các cây Chùm Ngây non
21


cần được chăm sóc khoảng 4-6 tuần trước khi được đem đi truyền giống, khi chúng đã
đạt chiều cao từ 30 cm. Khi truyền giống xé bỏ túi PE cẩn thận tránh làm tổn hại đến bộ
rễ.

 Nhược điểm khi gieo hạt vào vật chứa:

+ Tốn thời gian cho các công đoạn: lấp đất vào chậu / khay và đem đặt ở nơi
thích hợp (nhiều nắng, ít gió…), cấp dưỡng cho cây, di chuyển cây và đem cấy.
+ Hao tốn nhân lực và nguyên vật liệu.
4.1.6

Giâm cành:

Chọn càng cắt khoảng 1 m, đường kính ít nhất 4-5 cm để truyền giống, khi giâm
cành, chôn 1/3 thân cây dưới đất. Cây được trồng bằng cách giâm cành sẽ khơng có hệ
thống rế đâm sâu và sẽ dễ bị tác động bởi gió và chịu hạn kém hơn cây được gieo trồng
trực tiếp, thậm chí cịn dễ bị ảnh hưởng nhiều hơn khi mối tấn cơng.
4.2 Gieo ươm:

Thời vụ thích hợp gieo ươm là từ tháng 5-8. Cây bắt đầu cho quả sau 6-8 tháng
trồng. quả được thu hoạch vào giữa tháng 3 và tháng 4, sau đó thu lại một đợt nữa trong
tháng 9 và tháng 10.
 Chuẩn bị:

Túi bầu PE 11x20 cm hoặc chậu cây cảnh đựng hỗn hợp ruột bầu. Thành phần
ruột bầu gồm 80% đất mặt tầng AB + 20% phân hữu cơ đã hoai. Đất làm ruột bầu được
đập sàn nhỏ trộn đều với phân và đổ vào bầu thật đầy, sau đó xếp thành luống có chiều
ngang 0,8-1 m, chiếu dài tùy ý, khoảng cách giữa 2 luống 0,4 m.
Cây cịn có thể được trồng trong khay nhựa. Sử dụng khay và chậu được sử dụng
nhiều do ít thiệt hại cây con khi cấy. Một khay 50 ngăn với mỗi ngăn rộng 3-4 cm và
sâu thích hợp. Cho vào các khay với một hỗn hợp kết dính có khả năng giữ nước tốt,
thốt nước tốt. Sử dụng than bùn đầm lầy, đất thương mại, hoặc một kết hợp hỗn hợp
chuẩn bị từ đất, phân hữu cơ, chất khống hoặc cát. Thơng thường người trồng sử dụng
một hỗn hợp của 67% than bùn đầm lầy và 33% cát thô. Nếu sử dụng các dụng cụ

không vô trùng thì nên nên hấp dụng cụ bằng nồi hấp hoặc nung nhiệt ở 150 0C trong 2
giờ.
 Xử lý hạt:

Ngâm hạt Chùm Ngây với nước ấm khoảng 60 độ (2 sơi, 3 lạnh) trong 24 giờ,
sau đó đem gieo.
 Gieo ươm:

+ Gieo trực tiếp: Dùng túi bầu PE hoặc chậu nhựa có lỗ thốt nước, đựng hỗn
hợp ruột bầu. Sau đó đặt hạt sâu khoảng 25mm dưới lớp đất xốp, phủ và nén đất nhè
22


nhẹ, tưới nước cầm chừng không để quá khô hay quá ướt. Sau 3-6 ngày hạt nảy mầm,
và cây sẽ ló ra khỏi mặt đất sau chừng 1 tuần, tiếp tục giữ ẩm không để cho cây quá
khô, tuyệt đối ko được để cây úng nước, và phải để trong bóng mát. Tưới cây giống vào
buổi sáng và những khi cần thiết (tạo độ ẩm vừa phải, không để không khí q ẩm),
tưới bằng phun sương để tránh sói đất và tổn hại cây.
+ Ươm và túi bầu PE hoặc chậu có 2 cách sau:
Cách 1: Ngâm hạt trong nước ấm 60 độ 24 giờ, hạt sau khi ngâm vớt ra trộn với
cát, ủ trong bao tải hoặc rơm rạ mỗi ngày tưới 1 lần, 3-6 ngày sau hạt nảy mầm, đem
hạt ươm vào túi bầu PE hoặc chậu nhựa chứa đất tơi xốp và có kht lỗ thốt nước, tưới
nước vừa đủ để giữ ẩm cho cây, tránh úng nước, khoảng 1 tuần sau cây nhú lên, chờ 68 tuần cho cây phát triển đủ khỏe.
Cách 2: Sau khi ngâm hạt Chùm Ngây 24 giờ trong nước ấm 60 độ, lấy khăn bọc
hạt lại và để trong tối, vì ánh sáng khuếch tán có lợi cho cây xanh nhưng cưỡng bức quá
trình nảy mầm, đặc biệt là thành phần quang phổ màu xanh trong phổ ánh sáng trắng.
Mỗi ngày nhúng bọc hạt Chùm Ngây vào nước mưa, trở qua trở lại, sau đó vẫy nhẹ để
khơng bị ứ nước bên trong. Chú ý làm cẩn thận tránh để hư mầm non bên trong, bổ
sung nước cũng như tránh ẩm mốc cho hạt. Vài ngài sau hạt nảy mầm, đem hạt ươm
vào chậu hoặc túi bầu PE có hỗn hợp ruột bầu, lưu ý là cả chậu lẫn túi PE đều cần khoét

lỗ để thoát nước cho cây.
4.3 Trồng cây:
4.3.1

Thâm canh:

Các cây nên cách nhau một diện tích là 15 x 15 cm hoặc 20 x 10 cm và nên có
lối đi thuận tiện giữa các hàng cây (thí dụ như mỗi 4m là có 1 đường đi) để ta có thể dễ
dàng chăm sóc và thu hoạch khi cần. Ngồi ra cũng có thể gieo hạt theo từng hàng, với
mỗi hàng cách nhau 45cm và các vị trí gieo hạt trên hàng cách nhau 5cm, hoặc cũng có
thể gieo mỗi hàng cách nhau 30cm với khoảng cách giữa các vị trí gieo hạt trên hàng là
10-20 cm. Hệ thống thâm canh này thích hợp cho sản xuất thương mại nhưng địi hỏi
phải có sự quản lý và chăm sóc cẩn thận. Thâm canh ở mật độ cao đòi hỏi phải có kỹ
thuật nhổ cỏ, bón phân và trừ cỏ phù hợp.
4.3.2

Bán thâm canh:

Khoảng cách giữa các cây nên từ 50 cm đến 1m, thích hợp cho nơng dân canh
tác nhỏ lẻ và đem đến kết quả khả quan mà địi hỏi ít cơng sức và kỹ thuật chăm sóc.
4.3.3

Xen canh:

Cây Chùm Ngây có thể được gieo trồng theo hàng và trồng kết hợp với vụ mùa
khác. Khoảng cách giữa các hàng cây Chùm Ngây phải từ 2-4 m và theo phương đông
– tây để đảm bảo cho cây xen canh nhận được đủ ánh sáng mặt trời.
Tránh trồng xen canh cây Chùm Ngây với các loại cây sau:
23



+ Nhu cầu cần nhiều nitrogen như cây ngô, cây sắn.
+ Cây cần phải được xữ ký với hóa chất (thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật).
+ Các cây cạnh tranh ánh sáng với Chùm Ngây. Ví dụ như cây kê, cây bobo.
Tốt hơn nên trồng kết hợp các mùa vụ nào mà có thể làm giàu khống và
nitrogen trong đất như các cây họ đậu: đậu phọng, đậu nành, đậu Hịa Lan…
4.4 Chăm sóc cây:

Chùm ngây cần rất nhiều sự chăm sóc và ni dưỡng để cho sản lượng mong
muốn.
4.4.1

Tạo hình cho cây:

Chùm ngây có xu hướng phát triển chiều cao và chỉ phát triển lá và quả trong
điều kiện khắc nghiệt, sản lượng sẽ rất thấp nếu để cây phát triển tự nhiên. Cây có thể
mọc cao 3-4 m trong năm đầu tiên và tiếp tục cao đến 10-12 m trong những năm kế
tiếp. Do đó rất cần thiết hướng cho cây có hình dáng thích hợp khi còn non bằng cách
tăng sự phát triển của nhánh để cây mọc rậm rạp.
Ngắt chồi ngọn của nhánh chính của cây khi cây đạt chiều cao từ 50 cm đến 1 m.
Điều này tăng cường phát triển các nhánh bên, tăng năng suất và giảm chiều cao của
cây. Ngoài ra cịn giảm tác động của gió lớn và dễ thu hoạch hơn.
Nếu nhánh cây mềm thì có thể ngắt chồi ngọt bằng tay, nếu như cây già hơn và
chồi ngọn chưa được ngắt kịp lúc thì hãy cắt bằng kéo, ngay phía trên mắt. Cắt ngay
lóng sẽ làm hư thối cả phần lóng phía dưới vị trí cắt, và là con đường để ký sinh trùng
và nấm bệnh xâm nhập gây hại cho cây.
4.4.2

Tưới nước:


Chùm ngây có thể nảy mầm và phát triển mà không cần tưới nếu được gieo trồng
trong mùa mưa. Rễ của chúng phát triển trong 20 ngày và cho phép các cây con chịu
được khô hạn. Tuy nhiên để phát triển tốt nhất thì nên tưới nước thường xuyên trong 3
tháng đầu sau khi gieo hạt.
Làm hệ thống tưới tiêu là điều cần thiết cho việc trồng và thu hoạch lá quanh
năm, gồm cả trong mùa khô. Một cách khác là giảm thu hoạch trong mùa khô: cây sẽ
rụng lá nhưng ko chết. Lúc bắt đầu mùa mưa, việc cắt tỉa và bón phân hữu cơ sẽ giúp
cây phát triển thêm nhiều nhánh và lá.
Bất kỳ hệ thống tưới tiêu nào thích hợp đều có thể sử dụng, ví dụ: ống nhựa,
bình tưới, vịi phun hay vòi phun sương. Tốt nhất nên tưới vào buổi sáng sớm, buổi
chiều tối hoặc ban đêm để giảm sự bay hơi. Nếu thiếu nước, có thể phủ lớp mùn hoặc
làm cỏ sơ sài cũng có thể giảm sự thốt hơi nước.
4.4.3

Làm cỏ:

24


Làm cỏ bằng cuốc loại bỏ cỏ dại và xới đất tơi xốp và thống khí. Phải làm cỏ
thường xun để tránh xảy ra cạnh tranh chất dinh dưỡng, đặc biệt là Nitơ. Nếu khơng
làm cỏ thì cây sẽ ít ra lá và các lá ở gốc cây bắt đầu vàng. Nên làm cỏ thường xuyên lúc
cây còn non để ánh sáng chạm tới mặt đất.
Lời khuyên là nên làm cỏ ít nhất 4 lần 1 năm và với tần suất nhiều hơn vào mùa
mưa.
Có một cách là để lại cỏ dại đã nhổ phủ lên trên mặt đất như một lớp phủ để
giảm độ bốc hơi nước và làm giàu dinh dưỡng cho đất bằng cách phân hủy dần dần. Ở
vùng nhiệt đới, không cần phải chôn cỏ trong đất vì đất có khả năng giữ khống trong
suốt thời gian. Nếu thực hiện điều này thì cần tránh làm ở những nới có địa hình
nghiêng để tránh làm sói mòn đất.

Làm cỏ phải được thực hiện sớm trước khi gieo hạt, khơng để hạt giống nảy
mầm khi có cỏ dại.
4.4.4

Phủ rơm:

Có nghĩa là phủ rơm rạ hoặc cỏ dại đã bị nhổ đi lên đất để làm giảm sự thốt ẩm
của đất và khơng phải mất cơng tưới nước nhiều cho cây trong những tháng khô hạn.
Đồng thời phủ rơm cịn làm giảm sự phát triển của cỏ dại.
4.4.5

Bón phân:

Chùm ngây có thể cho sản lượng lá lớn nếu được cung cấp đầy đủ chất hữu cơ.
Lá chùm ngây rất giàu protein và khống chất, có nghĩa là đất cần cung cấp đủ đạm và
khống chất cho cây.
Nên bón phân hữu cơ (dư lượng cây còn lại đem ủ) thay cho phân hóa học, phân
chuồng (phân động vật trộn với bã thực vật), phân hữu cơ có thể cung cấp các chất dinh
dưỡng cần thiết cũng như cải thiện cấu trúc đất. Phân bón tốt nhất là loại phân bón được
trộn giữa loại bã phân hủy nhanh (phân động vật, bã thực vật xanh) với bã phân hủy
chậm (rơm rạ, bã cây khơ và các nhánh cây mỏng).
Bón phân phải được thực hiện trong thời gian chuẩn bị đất trồng, trước khi gieo
hạt. Điều quan trọng thứ hai là bón phân hữu cơ ít nhất 1 lần 1 năm, ví dụ trước \mùa
mưa, khi cây bắt đầu giai đoạn tăng trưởng mạnh (cắt tỉa cũng có thể được thực hiện
vào thời điểm này). Nếu có hai mùa mưa, thì nên áp dụng cả hai.
4.4.6

Cắt tỉa:

Sau những cắt tỉa ban đầu để định hình cho cây, cần duy trì cắt tỉa. Điều này có

thể thực hiện vào mỗi đợt thu hoạch nếu lá được thu hoạch bằng cách cắt tất cả các
nhánh cây tại cùng một độ cao nhất định. Nếu lá thu hoạch bằng cách tuốt lá, hoặc
những cây rụng lá vào mùa khơ, hình dạng bụi cây có thể bị mất và cần cắt tỉa lại vào
lúc bắt đầu mùa mưa.

25


×