Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Xác định thành phần các loài thực vật có tác dụng an thần ở trạm đa dạng sinh học mê linh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 46 trang )




TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA SINH - KTNN



VŨ THỊ THÚY

XÁC ĐỊNH THÀNH PHẦN CÁC
LOÀI THỰC VẬT CÓ TÁC DỤNG AN
THẦN Ở TRẠM ĐA DẠNG SINH HỌC
MÊ LINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành : THỰC VẬT HỌC





HÀ NỘI, 2015






























TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA SINH - KTNN



VŨ THỊ THÚY




XÁC ĐỊNH THÀNH PHẦN CÁC
LOÀI THỰC VẬT CÓ TÁC DỤNG AN
THẦN Ở TRẠM ĐA DẠNG SINH HỌC
MÊ LINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành : THỰC VẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
1. ThS. TRỊNH XUÂN THÀNH
2. TS. HÀ MINH TÂM

HÀ NỘI, 2015







LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khoá luận này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và
sâu sắc nhất đến ThS. Trịnh Xuân Thành và TS. Hà Minh Tâm là những
người đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo tôi trong suốt quá trình thực
hiện đề tài và hoàn thiện khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo Trạm đa dạng sinh học Mê
Linh - Vĩnh Phúc, Ban chủ nhiệm khoa Sinh – KTNN – Trường Đại học sư
phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong việc nghiên cứu, thu

thập số liệu.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn tới những người thân và bạn bè đã
luôn ở bên động viên, giúp đỡ và khích lệ tôi trong suốt thời gian tôi học tập
và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
ĐHSP Hà Nội 2, ngày 15 / 05/ 2015
Sinh viên


Vũ Thị Thúy











LỜI CAM ĐOAN

Để đảm báo tính trung thực ca khóa luận, tôi xin cam đoan:
Khóa luận tốt nghiệp: “Xác định thành phần các loài có tác dụng an
thần ở Trạm đa dạng sinh học Mê Linh” là công trình nghiên cứu ca cá
nhân tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn ca ThS. Trịnh Xuân Thành, TS. Hà
Minh Tâm. Các kết quả nghiên cứu trong khóa luận là trung thực và các
thông tin trích dẫn trong khóa luận này đều được ghi rõ nguồn gốc.
ĐHSP Hà Nội 2, ngày 15 / 05/ 2015

Sinh viên

Vũ Thị Thúy









DANH MỤC VIẾT TẮT

1. ĐDSH : Đa dạng sinh học
2. SCN : Sau Công nguyên
3. PRA : Participatory Rural Appraisal (Cùng tham gia đánh giá
nông thôn)
4. RRA : Rural Rapid Appraisal (Đánh giá nhanh nông thôn)
5. TCN : Trước Công nguyên
6. VQG : Vườn quốc gia
7. WHO : World Health Organization (Tổ chức Y tế thế giới)

















MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Trên thế giới 4
1.2. Ở Việt Nam 6
1.3. Những nghiên cứu về các loài thực vật có tác dụng an thần ở Trạm đa
dạng sinh học Mê Linh 12
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, THỜI GIAN, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 13
2.1. Đối tượng nghiên cứu 13
2.2. Phạm vi nghiên cứu 13
2.2.1. Vị trí địa lý 13
2.2.2. Địa hình 14
2.2.3. Địa chất - Thổ nhưỡng 15
2.2.3.1. Địa chất 15
2.2.3.2. Thổ nhưỡng 15
2.2.4. Khí hậu - thuỷ văn 16
2.2.5. Hiện trạng thảm thực vật 16
2.2.6. Tình hình dân sinh kinh tế 18
2.3. Thời gian nghiên cứu 19
2.4. Nội dung nghiên cứu 19
2.5. Phương pháp nghiên cứu 19

CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 23


3.1. Danh lục các loài thực vật có tác dụng an thần ở Trạm đa dạng sinh học
Mê Linh 23
3.1.1. Danh lục các loài 23
3.1.2. Một số thông tin về phân loại 24
3.2. Giá trị sử dụng các loài thực vật có tác dụng an thần tại Trạm đa dạng
sinh học Mê Linh 28
3.2.1. Cách sử dụng và bộ phận dùng các loài thực vật có tác dụng an thần tại
Trạm đa dạng sinh học Mê Linh 28
3.2.2. Giới thiệu một số bài thuốc có tác dụng an thần 31
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO 35














1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc sống ngày càng hiện đại, cùng với sự phát triển ca xã hội thì con
người đang bị đe doạ trước vô vàn khó khăn (áp lực) ca cuộc sống liên quan
đến ô nhiễm môi trường, áp lực công việc, gia đình, tình yêu, tiền bạc,… Áp
lực ca cuộc sống mỗi ngày làm cho trí óc và cơ thể ca chúng ta luôn ở trong
trạng thái lo âu, căng thẳng và mệt mỏi, quỹ thời gian để nghỉ ngơi cũng trở
nên eo hẹp hơn. Vì vậy, một giấc ng ngon vào mỗi đêm là phương thức tốt
nhất và hết sức cần thiết để cơ thể phục hồi lại sức khoẻ sau một ngày lo toan
và làm việc mệt nhọc.
Tuy nhiên, không phải mọi người đều có một giấc ng ngon vào mỗi
đêm, đặc biệt là những người phải làm việc căng thẳng đầu óc và hay suy
nghĩ. Họ thường bị chứng nhức đầu, khó ng, ng mơ và mộng mị vào ban
đêm. Kết quả là sáng dậy cơ thể họ càng mệt mỏi hơn, dẫn đến, cơ thể phải
hấng chịu một tình trạng mất cân bằng, làm ảnh hưởng đến sức khoẻ ca bản
thân, đến tình trạng thể chất và tinh thần.
Vì vậy, ngày càng nhiều người tìm đến bia, rượu, các loại thuốc có tác
dụng an thần (thường là thuốc ng) để giúp họ có một giấc ng ngon nhưng
những điều này sẽ gây hại cho cơ thể.
Người dân trên thế giới hiện nay có xu hướng tìm đến các loại thảo mộc
thiên nhiên, có tác dụng an thần để chữa bệnh. Chúng không những chữa khỏi
bệnh mà lại không gây hại cho cơ thể mà còn rất dễ chế biến và sử dụng hàng
ngày. Cho nên, việc nghiên cứu tài nguyên thực vật để khai thác và sử dụng
hợp lý các cây cỏ có ích vào việc chữa trị bệnh này là hết sức cần thiết.
Vốn là một đất nước được thiên nhiên ưu đãi, nằm trong vùng nhiệt đới
gió mùa, Việt Nam có một thảm thực vật vô cùng phong phú và đa dạng với


2


hơn 12.000 loài thực vật bậc cao khác nhau. Hiện đã tìm thấy được hơn 2.000
loại thảo mộc có khả năng chữa bệnh, trong đó, có rất nhiều loài thực vật có
tác dụng an thần. Trạm đa dạng sinh học Mê Linh có diện tích khoảng gần
200 ha với hơn 1.126 loài thực vật, trong đó nhiều loài đã và đang được sử
dụng làm thuốc trong dân gian. Để chuẩn bị đánh giá toàn diện giá trị làm
thuốc ca hệ thực vật nơi đây, chuẩn bị cho việc nghiên cứu toàn diện về các
loài thực vật có tác dụng an thần ở Việt Nam, góp phần cung cấp dữ liệu cho
việc nhận biết và sử dụng các loài thực vật có tác dụng an thần ở Việt Nam,
chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Xác định thành phần các loài
thực vật có tác dụng an thần ở Trạm đa dạng sinh học Mê Linh”.
2. Mục đích nghiên cứu
Hoàn thành công trình khoa học về xác định thành phần các loài thực
vật có tác dụng an thần ở Trạm đa dạng sinh học Mê Linh một cách hệ thống,
làm cơ sở cho việc nghiên cứu các loài thảo mộc có tác dụng an thần ở Việt
Nam và cho những nghiên cứu có liên quan.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Ý nghĩa khoa học: Kết quả ca đề tài phục vụ cho các ngành ứng dụng, y
- dược, sinh thái, tài nguyên sinh vật, đa dạng sinh học, bảo tồn các loài thuốc
và chuẩn bị cho việc đánh giá toàn diện về giá trị làm thuốc ca hệ thực vật
tại Trạm đa dạng sinh học Mê Linh. Góp phần nâng cao chất lượng sử dụng
các phương pháp trong nghiên cứu và giảng dạy môn phân loại thực vật nói
chung, trong đó, có các loài thực có tác dụng an thần nói riêng.
Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả ca đề tài phục vụ cho việc khai thác và sử
dụng hợp lí nguồn tài nguyên cây thuốc xung quanh khu vực con người sinh
sống, mang lại lợi ích chung cho cộng đồng, sử dụng các bài thuốc góp phần
nâng cao chất lượng cuộc sống.



3


4. Điểm mới của đề tài
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu xác định thành phần các loài thực
vật có tác dụng an thần ở Trạm đa dạng sinh học Mê Linh.
5. Bố cục của khóa luận
Gồm 34 trang, 3 hình, 5 ảnh, 2 bảng được chia thành các phần chính như
sau: Mở đầu (3 trang), chương 1 (Tổng quan tài liệu: 9 trang), chương 2 (Đối
tượng, phạm vi, thời gian và phương pháp nghiên cứu: 10 trang), chương 3
(Kết quả nghiên cứu: 11 trang), kết luận và kiến nghị (1 trang), tài liệu tham
khảo: 29 tài liệu.















4

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Trên thế giới
Trên thế giới từ thời thượng cổ đến nay con người vẫn luôn coi trọng

cây cỏ như là một nguồn thuốc chính để chữa bệnh và bảo vệ sức khoẻ. Theo
thống kê ca WHO, đến năm 1985 trên thế giới có khoảng 20.000 loài thực
vật (bao gồm cả bậc cao và bậc thấp) trong số các loài đã biết, được sử dụng
trực tiếp làm thuốc hoặc làm nguyên liệu để cung cấp hoạt chất tự nhiên dùng
làm thuốc [8]. Hiện nay, số loài cây thuốc được sử dụng trên thế giới ước tính
từ 30.000 đến 70.000 loài [1]. Lịch sử nghiên cứu cây thuốc và vị thuốc đã
xuất hiện cách đây hàng nghìn năm. Các kinh nghiệm dân gian về sử dụng
cây thuốc chữa bệnh được nghiên cứu ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào
sự phát triển ca từng quốc gia.
G.M.Ebers và E.Smith đã tìm được một số bản papyrus ca người Ai
Cập cổ đại có niên đại 1700 năm trước Công nguyên liệt kê 700 phương thuốc
từ thảo mộc được người Ai Cập sử dụng như lô hội, dầu thầu dầu, rễ lựu,
thuốc phiện, [26].
Nền y học Hy Lạp cũng đã có nhiều thành tựu rực rỡ mà không thể
không nhắc tới Hyppocrate (460-370 TCN), ông được xem như ông tổ ca
ngành y học hiện đại, thầy thuốc vĩ đại nhất thời cổ đại. Bên cạnh những
công trình nghiên cứu về giải phẫu, sinh lí, nhi khoa, sản khoa,…
Hyppocrate còn đưa vào sử dụng hơn 200 loài thực vật làm thuốc [26].
Năm 384-322 (TCN), Aistote người Hy Lạp đã ghi chép và lưu giữ sớm
nhất kiến thức về cây cỏ nước này [17]. Sau đó Théophraste, một nhà thực vật
học người Hy Lạp (372-286 TCN), bác sĩ quân đội La Mã, đã thống kê và
miêu tả 500 loài thực vật trong cuốn sách “Lịch sử thực vật”, trong đó có 40
loài vẫn còn được sử dụng làm thuốc đến ngày nay.


5

Năm 79-24 (TCN), nhà tự nhiên học người La Mã Plinus soạn thảo bộ
sách “Vạn vật học” gồm 37 tập giới thiệu 1000 loài cây cỏ có ích [17].
Tại châu Á, Trung Quốc và Ấn Độ là hai quốc gia có nền y học cổ

truyền từ rất lâu đời với nhiều thành tựu rực rỡ. Ngoài ra, Hàn Quốc, Nhật
Bản, Đài Loan và một số nước Đông Nam Á cũng có truyền thống chữa
bệnh theo lối y học cổ truyền.
Ấn Độ cổ đại có một nền y dược học phát triển và có ảnh hưởng đến
nhiều nước trong khu vực. Các kiến thức về y học và sử dụng cây thuốc ca
người Ấn Độ được đề cập đến trong kinh Vệ đà (Ayurveda – Khoa học ca
đời sống) xuất hiện khoảng 4000-1000 năm TCN. Nhiều tri thức bản địa đã
được nghiên cứu, đánh giá và ứng dụng có hiệu quả; theo thống kê có khoảng
2.000 loài cây cỏ có công dụng làm thuốc [26].
Trung Quốc là một trong những quốc gia có nền Y học cổ truyền rất
phát triển. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, Y học Trung Quốc
dựa trên nền tảng có sẵn ca các dân tộc trên đất nước Trung Hoa cổ đại chịu
ảnh hưởng ca y học Ai Cập, Hy Lạp, La Mã, Ấn Độ đồng thời cũng kế thừa
những kinh nghiệm về y học dân tộc ca các nước khác như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Việt Nam,… Cuốn “Kinh Thần Nông” thế kỷ I sau Công nguyên
(SCN) đã ghi chép 364 vị thuốc. Đây là cuốn sách tạo nền tảng cho sự phát
triển liên tục ca nền y học dược thảo Trung Quốc cho đến nay [17].
Năm 1595, Lý Thời Trân (1519-1593) người Trung Quốc, sống ở đời
nhà Minh, đã tổng kết tất cả các kinh nghiệm về cây thuốc và dược liệu để
soạn thành quyển “Bản thảo cương mục”, đây là bộ sách quan trọng và đầy đ
nhất về các dược liệu và công dụng ca chúng. Để viết cuốn sách này, ông đã
tìm đọc hơn 800 cuốn sách tổ, kết hợp sự thu thập ca mình và viết cuốn dược
điển qua 3 lần sửa đổi. Trải qua gần 30 năm nỗ lực, năm 1578 ông đã hoàn
thành. Bản Thảo cương mục gồm hơn 90 vạn từ, chia làm 16 bộ, 60 loại gồm


6

50 cuốn, thống kê được 12000 vị thuốc với hơn 11 nghìn bài thuốc. Ông còn
có tranh minh họa, để mọi người dễ nhận biết. Bản Thảo cương mục đã hiệu

đính và làm rõ nhiều sai lầm trước đây ca tiền nhân, tăng thêm các loại thuốc
mới phát hiện cũng như công hiệu ca thuốc. Lý Thời Trân đã dốc cả cuộc
đời cho việc tổng kết những kinh nghiệm y dược trong nhân dân Trung Quốc
mấy nghìn năm qua, biên soạn lên cuốn “Bản thảo cương mục” nổi tiếng, đưa
nền y học cổ đại Trung Quốc lên tới đỉnh cao, bởi vậy ông là nhà dược học vĩ
đại nhất trong thời cổ đại Trung Quốc [27].
Năm 1952, tác giả người Pháp A.Pétélot có công trình “Les phantes de
médicinalea du Cambodye, du Laos et du Viet Nam” gồm 4 tập nghiên cứu về
cây thuốc và sản phẩm làm thuốc từ thực vật ở Đông Dương [17].
Như vậy, những công trình nghiên cứu về dược liệu đã có từ lâu đời.
Hiện nay, với sự giúp đỡ ca khoa học công nghệ, việc nghiên cứu không chỉ
dừng ở mô tả, nêu công dụng ca các loài theo kinh nghiệm dân gian mà đã
có những dẫn chứng về khả năng chữa bệnh ca chúng bằng việc nghiên cứu
thành phần hóa học, tính chất dược lý trong tế bào. Công nghệ chiết xuất các
hoạt tính sinh học trong cây để sản xuất dược phẩm cũng được chú trọng rất
nhiều.
1.2. Ở Việt Nam
Việt Nam được đánh giá là nước đứng thứ 16 trên thế giới về sự phong
phú và đa dạng sinh vật, trong đó, hệ thực vật cũng rất phong phú và đa dạng.
Với lợi thế về khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng và ẩm, Việt Nam có nguồn tài
nguyên thực vật phong phú, vì vậy mà tập quán sử dụng cây thuốc đã có từ
lâu. Lịch sử Y học cổ truyền Việt Nam đã được hình thành cùng với tiến trình
phát triển ca dân tộc Việt Nam. Trong quá trình tìm kiếm thức ăn, tổ tiên ta
đã ngẫu nhiên phát hiện ra công dụng và tác hại ca nhiều loại cây. Với các
kinh nghiệm chữa bệnh ca cộng đồng gồm 54 dân tộc Việt Nam, cùng với


7

kinh nghiệm sử dụng các nguồn dược liệu phong phú ca đất nước trong vùng

nhiệt đới, trải qua nhiều thế hệ, các thầy thuốc Y học cổ truyền Việt Nam đã
xây dựng nền Y học cổ truyền vững mạnh phục vụ sự nghiệp chăm sóc, bảo
vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân.
Những nghiên cứu về cây thuốc đã được tiến hành từ rất sớm, gắn
liền với tên tuổi ca các danh y nổi tiếng như Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn
Ông – Lê Hữu Trác,
Tuệ Tĩnh hay Nguyễn Bá Tĩnh là một thầy thuốc giỏi sống ở thời nhà
Trần thế kỷ XIV. Tuệ Tĩnh đã nghiên cứu những cây cỏ Việt Nam dùng để
chữa bệnh, sưu tầm ý nghĩa các bài thuốc thường dùng trong dân gian, đúc kết
các kinh nghiệm trị bệnh ca Trung y nên đã xây dựng được một sự nghiệp y
dược có tính chất dân tộc, đại chúng. Tuệ Tĩnh để lại hai tác phẩm có giá trị
lớn cho nền y học dân tộc Việt nam là bộ “Nam dược thần hiệu” và “Hồng
nghĩa giác tư y thư” [22].
+ Bộ “Nam dược thần hiệu” gồm 11 quyển với 496 vị thuốc nam,
trong đó có 241 vị thuốc có nguồn gốc thực vật. Đây là tập sách thứ hai xuất
hiện trong lịch sử nghiên cứu cây thuốc ở nước ta sau tập “Bản thảo thực vật
toàn yếu” do Phan Chu Tiên biên soạn (1492) là tập cây thuốc và dược liệu
đầu tiên ca Việt Nam [17].
+ Bộ “Hồng nghĩa giác tư y thư” gồm hai quyển Thượng và Hạ vừa
viết bằng chữ Hán, vừa bằng chữ Nôm mô tả về dược tính cây thuốc, ch trị
ca cây thuốc và các bài thuốc cụ thể, được triều hậu Lê in lại (1727 và 1723)
và được lưu truyền đến nay [17].
Thế kỷ XVIII, Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác (1720-1791) là nhà
y học uyên bác, nhà dược học nổi tiếng ca Việt Nam. Trên tinh thần kế thừa
và phát huy truyền thống ca Tuệ Tĩnh, tổng kết kinh nghiệm ca Trung y và


8

Y học cổ truyền dân tộc, ông đã biên soạn bộ “Hải Thượng Y Tông Tâm

Lĩnh” gồm 28 tập, 66 quyển bao gồm lý, pháp, phương, dược và biện chứng
luận trị về nội khoa và ngoại khoa, sản phụ khoa, khoa nhi, cấp cứu đạo đức
y học, vệ sinh phòng bệnh. Trong đó, quyển 12 và 13 - “Lĩnh Nam bản thảo”
Lê Hữu Trác đã sưu tầm, mô tả thêm 300 vị thuốc nam, tổng hợp được 2854
phương thuốc chữa bệnh bằng kinh nghiệm dân gian [23]. Bộ sách ca ông
được đánh giá cao trong và ngoài nước, góp phần phát triển nền y học dân tộc
ca đất nước.
Ngoài bộ sách trên còn kể đến tập “Vạn phương thập nghiệm” ca
Nguyễn Nho và Ngô Văn Tĩnh gồm 8 tập, xuất bản năm 1763. Tập “Nam
bang thảo mộc” ca Trần Nguyệt Phương mô tả 100 loài cây thuốc Nam, xuất
bản năm 1858 [17].
Triều Tây Sơn (1788-1808), Nguyễn Hoành đã để lại tập “Nam dược”
với 620 vị thuốc, các phương thuốc kinh nghiệm gia truyền [17].
Triều Nguyễn (1802-1845) có quyển “Nam dược tập quốc âm” ca
Nguyễn Quang Lượng về phương thuốc dân gian [17].
Nguồn tài nguyên cây thuốc vô cùng phong phú ca nước ta còn thu
hút sự quan tâm ca các nhà nghiên cứu nước ngoài. Thời kỳ Pháp thuộc,
một số tác giả người Pháp đã có những cố gắng để tìm hiểu những cây
thuốc và vị thuốc ở Việt Nam. Có hai bộ sách được nhiều người biết đến:
+ Bộ thứ nhất mang tên “Dược liệu học và dược điển Trung Việt”
(Matière médicale et pharmacopée sinoannamite) ca hai tác giả E.M.
Perrot và Paul Hurrier xuất bản tại Pari năm 1907. Trong bộ sách này, các
tác giả chia thành hai phần lớn, phần thứ nhất có một số nhận xét chung về
y học Á Đông, việc hành nghề Đông Y ở Việt Nam và Trung Quốc; phần


9

thứ hai kê danh mục những vị thuốc có nguồn gốc thực vật, động vật và
khoáng vật dùng trong y học Trung Quốc và Việt Nam.

+ Bộ sách thứ hai mang tên “Danh mục những sản phẩm ở Đông
Dương – Phần cây thuốc” (Catalogue des produits de L’lndochine –
Produits médicinaux) do hai tác giả Ch.Crévost và A.Pételot biên soạn
thành hai tập: tập I năm 1928, tập II năm 1935. Bộ sách này chỉ thống kê
những vị thuốc có nguồn gốc thảo mộc dùng trong y học dân tộc ở ba nước
Việt Nam, Lào và Campuchia. Đến năm 1952, A.Pételot có sửa chữa lại, bổ
sung thêm, đặt cho bộ sách tên mới là “Những cây thuốc ca Campuchia,
Lào và Việt Nam” (Les plantes de médicinales du Cambodge, du Laos et
du Vietnam) và cho in thành 4 tập: tập I (1952), tập II (1953), tập III và IV
(1954). Trong bộ sách này, tác giả đã thống kê 1482 vị thuốc thảo mộc trên
ba nước Đông Dương, so với bộ cũ chỉ có 1340 vị [15].
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 và chiến thắng Điện Biên Ph năm
1945 đã mở ra một con đường mới cho ngành Y học cổ truyền dân tộc phát
triển. Đảng và nhà nước ch trương xây dựng nền Y học dân tộc “đại
chúng”, “kết hợp Đông y và Tây y” với phương châm “tự lực cánh sinh”
(Đỗ Tất Lợi, 2005). Vì vậy các nhà khoa học Việt Nam có nhiều thuận lợi
trong việc sưu tầm,điều tra, phát hiện, thống kê và nghiên cứu nguồn tài
nguyên cây thuốc, với nhiều công trình nghiên cứu tiêu biểu như:
Năm 1965, GS.TS Đỗ Tất Lợi cho xuất bản bộ sách “Những cây
thuốc và vị thuốc Việt Nam” gồm 6 tập, giới thiệu trên 600 vị thuốc trong
đó có 15 loài có tác dụng an thần. Công trình này sau đó được tái bản nhiều
lần, không ngừng được tác giả bổ sung thêm các kết quả nghiên cứu mới
trong nước và quốc tế, đến năm 1995 lên đến 792 loài [14].


10

Trương Công Quyền, Đỗ Tất Lợi và cộng sự với cuốn “Dược liệu Việt
Nam” (1978) đã giới thiệu 415 loài thực vật làm thuốc. Các tác giả cũng đã
miêu tả khá chi tiết cách thu hái, bảo quản [17].

Năm 1990, tập thể các nhà khoa học Viện dược liệu đã giới thiệu tổng
số 399 loài trong cuốn “Cây thuốc Việt Nam” có kèm theo hình vẽ minh họa
rất rõ ràng [17].
Năm 1993, Viện Dược liệu đã cho giới thiệu “Tài nguyên cây thuốc
Việt Nam” cho chương trình tạo nguồn nguyên liệu làm thuốc (KY – 02 ),
trong đó giới thiệu 721 loài cây có khả năng làm thuốc [24].
Trần Đình Lý năm 1993 đã xuất bản cuốn “1900 loài cây cỏ có ích ở
Việt Nam” cho biết trong số các loài thực vật bậc cao có mạch ở Việt Nam có
76 loài cho nhựa thơm, 160 loài cho tinh dầu, 260 loài cho dầu béo, 600 loài
chứa tanin, 50 loài cây gỗ có giá trị, 40 loài tre nứa, 40 loài song mây [17].
Nhà khoa học Võ Văn Chi là người có tâm huyết, năm 1976, ông đã
thống kê 1.360 loài cây thuốc thuộc 192 họ trong ngành hạt kín ở miền Bắc.
Sau nhiều năm miệt mài nghiên cứu, năm 1997, ông đã cho ra mắt cuốn sách
“Từ điển cây thuốc Việt Nam”, trong đó có đề cập tới 3.165 loài. Tác giả đã
mô tả chi tiết từng cây có kèm theo hình vẽ minh họa, nơi phân bố, thành
phần hóa học, công dụng và liều dùng. Đặc biệt ông đã tham khảo kinh
nghiệm sử dụng cây thuốc ca nhiều nước trên thế giới như: Trung Quốc, Ấn
Độ, Philippin, Pháp… nên đã bổ sung được công dụng ca rất nhiều loài mà
các nghiên cứu tại Việt Nam trước đây chưa đề cập tới [7]. Đến năm 2012,
trong cuốn “Từ điển cây thuốc Việt Nam” (bộ mới), tác giả đã giới thiệu
4.472 loài cây làm thuốc thuộc 1.862 chi, trong 338 họ, ca 9 nhóm ngành từ
sinh vật tiền nhân đến ngành Ngọc lan và 1500 ảnh màu, rất thuận tiện cho
việc tra cứu. Có thể nói, tài liệu này đã giới thiệu một số lượng cây thuốc lớn
nhất và đầy đ nhất ca nước ta cho tới nay [8,9].


11

Cuốn sách “Cây cỏ Việt Nam” (1999) ca Phạm Hoàng Hộ gồm 3 tập
là cuốn sách rất có giá trị đối với những người làm về thực vật trong việc tra

cứu, định loài. Tuy tác giả ch yếu đi sâu vào việc miêu tả nhưng ông cũng đã
đề cập qua công dụng làm thuốc ca 1559 loài trong đó có 175 loài có khả
năng làm thuốc [17].
Cùng với “Từ điển cây thuốc” ca Võ Văn Chi và “Những cây thuốc và
vị thuốc Việt Nam” ca Đỗ Tất Lợi, cuốn “Cây thuốc và động vật làm thuốc ở
Việt Nam” ca tập thể cán bộ và các nhà khoa học ca Viện dược liệu là 3 bộ
Dược liệu cây thuốc được đánh giá cao tại Việt Nam. Với 2 tập sách, các tác
giả đã giới thiệu 920 loài cây và 80 động vật được lựa chọn từ hơn 4000 cây
thuốc và 400 động vật làm thuốc trong đó có 29 loài thực vật có tác dụng an
thần [4,5].
Bộ Khoa học và Công nghệ, 2007, Sách Đỏ Việt Nam, Phần II -Thực
vật, thống kê 120 loài cây có giá trị làm thuốc cần được bảo tồn, trong đó có
12 loài có tác dụng an thần [6].
Năm 2010, nhà xuất bản Y học đã cho xuất bản cuốn “Cẩm nang sử
dụng và phát triển cây thuốc ở Việt Nam” là cuốn sách tra cứu hơn 300 cây
làm thuốc thông thường ở Việt Nam, trong đó có 29 loài có tác dụng an thần,
ng, nhức đầu. Cuốn sách do Viện sĩ, Tiến sĩ Nguyễn Duy Cương và Trần
Công Khánh ch biên. Cuốn sách được biên soạn trong thời gian 3 năm, với
nội dung ngắn gọn, cập nhật thông tin mới có liên quan, để tra cứu cho người
cho người sử dụng cây thuốc và dược liệu [11].
Ngoài những công trình nghiên cứu thuốc trên toàn lãnh thổ Việt Nam
còn có những công trình nghiên cứu cây thuốc ca từng vùng, từng địa
phương.


12

Mỗi cuốn sách, mỗi công trình nghiên cứu là kết quả ca những chuyến
đi thực tế, tìm hiểu nguồn cây thuốc và bài thuốc cổ truyền trong cộng đồng
54 dân tộc Việt Nam, kết hợp với sự nghiên cứu lâu dài cũng như sưu tầm tài

liệu trong và ngoài nước ca các tác giả hoặc một nhóm tác giả. Từ đó cho
thấy, Việt Nam là 1 đất nước có nguồn tài nguyên cây thuốc vô cùng phong
phú và quý giá tạo nên một nền Y học cổ truyền không chỉ phong phú về tài
nguyên cây thuốc mà còn phong phú về các phương thuốc trị bệnh. Việc điều
tra, nghiên cứu, thống kê những loài có giá trị làm thuốc, tìm hiểu kinh
nghiệm trị bệnh ca các đồng bào dân tộc sinh sống trên khắp đất nước ta vẫn
là một vấn đề cần được quan tâm hơn nữa. Nó không chỉ góp phần làm phong
phú thêm kho tàng y học dân tộc nước nhà, bảo tồn và phát huy nền văn hóa
dân tộc mà còn giúp bảo tồn đa dạng sinh học đảm bảo cho sự phát triển bền
vững.
1.3. Nhng nghiên cứu về các loài thực vật có tác dụng an thần  Trm
đa dng sinh học Mê Linh
Trạm đa dạng sinh học Mê Linh có diện tích 170,3 ha (thuộc xã Ngọc
Thanh, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc) là khu vực nằm bên cạnh VQG Tam
Đảo và là khu vực đầu nguồn ca con suối Đại Lải, do đó thảm thực vật ở đây
hết sức phong phú. Theo Vũ Xuân Phương và cộng sự (2001) hệ thực vật tại
đây có 171 họ thực vật với 669 chi và 1.226 loài, trong đó có rất nhiều thực
vật có tác dụng chữa bệnh cho con người [18]. Đây là công trình đầu tiên
nghiên cứu về các loài thực vật có tác dụng an thần ở Trạm đa dạng sinh học
Mê Linh, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.



13

CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, THỜI GIAN, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Các loài thực vật có tác dụng an thần ở Trạm đa dạng sinh học Mê Linh,
dựa trên cơ sở mẫu vật và tài liệu.

Tài liệu: Các tài liệu về các loài thực vật ở Trạm đa dạng sinh học Mê
Linh và các tài liệu về các loài có tác dụng an thần ở Việt Nam.
Mẫu vật: Các mẫu thực vật ca các loài có tác dụng an thần phân bố ở
Trạm đa dạng sinh học Mê Linh.
2.2. Phm vi nghiên cứu
Trạm đa dạng sinh học Mê Linh, xã Ngọc Thanh, thị xã Phúc Yên, tỉnh
Vĩnh Phúc.
2.2.1. Vị trí địa lý
Trạm đa dạng sinh học Mê Linh nằm trong địa phận ca xã Ngọc Thanh,
thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc (trước thuộc huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh
Phúc). Trạm đa dạng sinh học cách trung tâm thị xã Phúc Yên khoảng 35 km
về phía Bắc.
Với diện tích 170,3 ha trong đó chiều dài khoảng 3.000 m, chiều rộng
trung bình khoảng 550 m (chỗ rộng nhất khoảng 800 m, chỗ hẹp nhất khoảng
300 m).
Khu vực Trạm có toạ độ:
21
o
23’57’’ - 21
o
23’35’’ vĩ độ Bắc
105
o
42’40’’ - 105
o
42’40’’ kinh độ Đông
Phía Bắc giáp huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên
Phía Đông và phía Nam giáp hợp tác xã Đồng Trầm, xã Ngọc Thanh, thị



14

xã Phúc Yên.
Phía Tây giáp vùng ngoại vi Vườn Quốc gia Tam Đảo, huyện Tam Đảo,
tỉnh Vĩnh Phúc.
2.2.2. Địa hình
Đây thuộc vùng bán sơn địa phía Bắc huyện Mê Linh, là phần kéo dài về
phía Đông Nam ca dãy Tam Đảo, có địa hình đồi và núi thấp với xu hướng
thấp dần từ Bắc xuống Nam.

Hình 3.1. Bản đồ địa hình Trạm ĐDSH Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc


15

Địa hình khu vực nghiên cứu phần lớn là đất dốc, độ chia cắt sâu với
nhiều dông phụ gần như vuông góc với dông chính, độ dốc trung bình từ 15-
30
o
, nhiều nơi dốc đến 30-35
o
, điểm cao nhất là 520 m (điểm cực đông thuộc
đỉnh núi Đá trắng). Ở khu vực Trạm các bãi bằng rất ít nằm rải rác dọc theo
ven suối phía Tây.
2.2.3. Địa chất - Thổ nhưỡng
2.2.3.1. Địa chất
Đất gồm 2 loại ch yếu:
+ Ở độ cao 400 m đất feralitic màu vàng phát triển trên đá sa thạch cuội
hoặc dăm kết.
+ Ở độ cao dưới 400 m đất feralitic màu vàng đỏ phát triển trên sa phiến

thạch.
Ngoài ra, còn có đất dốc tụ phù sa ở ven các suối lớn ở độ cao dưới 100
m. Đất thuộc loại chua có pH 3,0-5,5; thành phần cơ giới trung bình, độ dày
tầng đất khoảng 30-40 cm .
2.2.3.2. Thổ nhưỡng
Nhìn chung các loại đá mẹ khá cứng, thành phần khoáng có nhiều Thạch
anh, Muscovit, khó phong hóa, hình thành nên các loại đất có thành phần cơ
giới nhẹ, cấp hạt thô, dễ bị rửa trôi và xói mòn, nhất là những nơi dốc cao bị
xói mòn mạnh để trơ lại phần đá rất cứng (điển hình là khu vực từ độ cao 300-
400 m).
Theo nguồn gốc phát sinh trong vùng có hai loại đất chính sau:
- Ở độ cao trên 300 m là đất Feralit mùn đỏ vàng. Đất có màu vàng ưu
thế do độ ẩm cao, hàm lượng sắt di động và nhôm tích luỹ cao. Do đất phát
triển trên đá Mácma axit kết tinh chua nên tầng đất mỏng, thành phần cơ giới
nhẹ, tầng mùn mỏng, không có tầng thảm mục, đá lộ đầu nhiều trên 75%.


16

- Ở độ cao dưới 300 m là đất Feralit vàng đỏ phát triển trên nhiều loại đá
khác nhau, đất có khả năng hấp phụ không cao do có nhiều khoáng sét phổ
biến là Kaolinit.
Ngoài ra còn có đất dốc tụ phù sa ven suối ở độ cao dưới 100 m. Thành
phần cơ giới ca loại đất này là trung bình, tầng đất dày, độ ẩm cao, màu mỡ,
đã được khai phá để trồng lúa và hoa màu.
Đất thuộc loại chua với độ pH 3,5-5,5, độ dày tầng đất trung bình 30-40
cm.
2.2.4. Khí hậu - thuỷ văn
Đây là vùng nhiệt đới gió mùa, nằm trong vùng khí hậu chung ca đồng
bằng Bắc Bộ, nhiệt độ trung bình hàng năm là 22-23

o
C, tập trung không đều,
tháng có nhiệt độ cao là tháng 6, tháng 7 và tháng 8. Còn mùa lạnh vào các
tháng 12, tháng 1 và tháng 2. Nhiệt độ cao điểm trong các tháng nóng nực lên
đến 40
o
C, nhiệt độ lạnh nhất tới 4
o
C. Nhìn chung nhiệt độ trung bình vào mùa
hè từ 27-29
o
C, trung bình vào mùa đông là 16-17
o
C.
Lượng mưa từ 1.100-1.600 mm/năm, phân bố không đều, tập trung vào
mùa hè từ tháng 6-8 hàng năm, ở đây có 2 mùa gió thổi rõ rệt là gió mùa
Đông Bắc (từ tháng 10 đến 3 năm sau) và gió mùa Đông Nam (từ tháng 4 đến
tháng 9). Độ ẩm trung bình là 80%. Là khu vực đầu nguồn ca nhiều suối nhỏ
đổ vào hồ Đại Lải.
2.2.5. Hiện trng thảm thực vật
Theo kết quả nghiên cứu ca các nhà sinh thái thực vật (Lê Đồng Tấn và
cs., 2003) [19], khi nghiên cứu về thảm thực vật Trạm Đa dạng sinh học Mê
Linh đã khẳng định rằng rừng nguyên sinh trong khu vực nghiên cứu đã bị
phá huỷ hoàn toàn, thay thế vào đó là các trạng thái thảm thực vật thứ sinh
nhân tác từ trảng cỏ, trảng cây bụi đến rừng thứ sinh phục hồi tự nhiên hay


17

rừng trồng nhân tạo. Khu vực rừng trồng (khoảng 100 ha) với phương thức

rừng trồng thuần loại 1 trong 5 loài (không phải là cây bản địa) là: Thông đuôi
ngựa (Pinus massoniana Lamb.), Thông nhựa (Pinus merkusii Jungh. &
Vriese), Keo tai tượng (Acacia auriculiformis A. Cunn. ex Benth.), Keo lá
tràm (Acacia confusa Merr.), Bạch đàn (Eucalyptus globulus Labill.).
Rừng trồng: Về kết cấu bao gồm: rừng thuần loại (rừng Bạch đàn, Keo
tai tượng, Keo lá tràm, Thông nhựa) và rừng hỗn giao (Bạch đàn - Keo tai
tượng, Bạch đàn - Keo lá tràm, Thông - Keo lá tràm).
Ở khu vực nghiên cứu thành phần tuổi rừng rất khác nhau từ rừng mới
trồng đến rừng trưởng thành. Trừ các diện tích mới trồng trong vùng đệm ca
Vườn Quốc gia Tam Đảo là thuộc hệ thống rừng phòng hộ hay bảo vệ đầu
nguồn, còn phần lớn rừng trồng là nhằm mục đích kinh doanh: Làm bột giấy,
gỗ trụ mỏ, làm vật liệu xây dựng…
Như vậy, rừng trồng ch yếu là cây nhập nội với phương thức trồng
thuần loại hay hỗn giao đơn giản. Rừng chưa khép tán nên khả năng chống
xói mòn bảo vệ đất rất hạn chế. Nhiều nơi phần lớn đã khai thác nhưng không
được trồng lại hay chăm sóc nên chất lượng rừng rất thấp. Trên những diện
tích này khả năng phục hồi lại thảm thực vật là rất khó khăn do đất đai bạc
màu và đã bị suy thoái nghiêm trọng.

×