Hội Dóng
November 17, 2014 - Chuyên mục: Văn mẫu THCS - Tác giả: Thu Huyền
Hội Dóng
Làng Dóng, vốn là tên gọi nguyên sơ để chỉ một làng Việt cổ nay là khu vực các làng Đổng Viên,
Đổng Xuyên, Phù Đổng và cả Phù Dực, thuộc xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, Làng
mở hội hàng năm từ ngày mùng 6 đến 12 tháng Tư âm lịch, chính hội là mùng 9. Hội Dóng là hội lễ
lớn nhất và phong phú, nghiêm trang nhất của đất Kinh Bắc xưa.
Hội Dóng dường như bao quát không gian phân bố của quần thể các di tích về người anh hùng làng
Dóng, như nơi sinh thành, không gian sống thuở nhỏ, nơi thờ tự sau khi thăng hóa… Hội Dóng còn
trình diễn lại chiến tích bất diệt của người anh hùng, trong cuộc đọ sức với kẻ thù một cách ngoan
cường và toàn thắng.
Theo tục truyền thì hội lễ Dóng hàng năm được tổ chức với quy mô như chúng ta thấy, bắt đầu từ vua
Lý Thái Tổ (1010 – 1028) (chính vị vua đầu triều đại Lý này đã tạo dựng ngôi đền Dóng và tổ chức hội
lễ, cùng lúc dựng lại chùa Kiến Sơ, nằm kề đền Dóng, nơi mà thuở hàn vi ông đã nương nhờ cửa Phật).
Làng mở hội Dóng hàng năm từ ngày mùng 6 đến 12 tháng Tư âm lịch
Theo quy cách truyền thống, cả 4 làng thuộc tổng Phù Đổng gồm 15 giáp, đều tham dự hội Dóng.
Trong đó hai làng Phù Đổng và Phù Dực thay nhau làm hội trưởng, hai làng kia chỉ đóng vai phụ,
nhưng 10 giáp trong hai làng trên thay phiên nhau điều hành và gọi là Giáp hội trưởng. Giáp hội trưởng
phải cử ra: Hiệu cờ, 1 người, cầm cờ và múa cờ; Hiệu chiêng, 1 người, cầm chiêng và múa đánh
chiêng; Hiệu trống, 1 người, cầm trống và múa đánh trống; Hiệu trung quân, 1 người, chỉ huy đội trung
quân của Dóng; Hiệu tiểu cổ, 2 người, chỉ huy tiên phong. Hiệu cờ, tượng trưng cho uy lực của Dóng,
vào hội được che 4 lọng, còn các ông hiệu khác là tướng của Dóng, che 2 lọng. Các ông hiệu phải chọn
trong số trai đinh, chưa có vợ, từ 12 đến 20 tuổi, nếu hàng giáp không đủ người thì chọn trai đinh có
vợ, và tuổi không quá 26. Hai làng kia chỉ cử hai người phục dịch cho hiệu trống và hiệu chiêng với 30
người thám sát và vận lương, có 1 chỉ huy. Đạo quân của Dóng gọi là Phù giá ngoại, chia làm 6 đạo,
gồm 90 trai đinh từ 18-36 tuổi của 4 làng và một xướng xuất điều khiển; còn Phù giá nội là 12 trẻ chọn
trong làng Phù Đổng. Quân của Dóng để trần, khố bao đen, giải khố dài quàng chéo qua ngực, vai vòng
ra sau lưng, rồi thắt lại ở hông, phía có đeo túi đen hình sừng trâu, đầu đội mũ vải đen, thêu kim tuyến,
đính mặt gương tròn nhỏ mái rủ xuống sau gáy.
Tham gia hội Dóng có Phường Ải Lao hay Phường Tùng cắc của trẻ em làng Hội Xá. Phường có 20
người, gồm: 1 ông trùm, 1 người đánh trống khẩu, 1 người đánh chiêng, 1 người cầm cung nỏ (người đi
săn theo tục truyền), 1 người cầm câu (người câu cá theo tục truyền) 2 người cầm cờ lau (tượng trưng
cho đoàn trẻ chăn trâu đang chơi cờ lau của Hội Xá, theo đoàn quân của Dóng), 1 người múa hổ, hóa
trang hình hổ, 12 người còn lại cầm sênh và hát. Phường múa này tập múa hát từ 15 tháng Ba đến
mùng 6 tháng Tư, và ở lại chùa Kiến Sơ từ mùng 6 đến 13 tháng Tư để phục vụ hội. Các phường viên
khi vào hội mặc áo chẽn, chít khăn đen, chân đất, thắt lưng xanh buộc múi bên trái; múa hai điệu: cúng
thần và vây bắt hổ và hát 12 bài truyền thống, như: Vào đền dâng lễ, Chầu trước điện thần, Chầu trước
đền Mẫu, Câu cá, Săn hổ…
Lịch chuẩn bị hội cũng theo nếp truyền thống và chính xác. Khởi đầu từ mùng Một tháng Ba ta, khi
Giáp hội trưởng nhận sổ lệ rồi phân vai chuẩn bị. Từ mùng Sáu tháng Ba các ông hiệu phải trai giới,
kiêng kỵ, riêng hiệu cờ phải ăn ngủ riêng tại nhà cầu của đền có người phục dịch riêng. Ngày Rằm
tháng Ba vào đền trình diện thánh, đại diện giáp nhận cờ, trông và chiêng, rồi giao cho các ông hiệu.
Cờ lệnh khổ rộng 0,35m chiều dài gấp 9 lần giữa có chữ lệnh, là cờ của hội cũ; đến đầu tháng Tư,
người ta làm cờ mới, chọn ngày để viết chữ lệnh, bao gói kỹ rồi rước từ đền Thượng đến đền Mẫu.
Ngày 25 tháng Ba làm vệ sinh đền miếu, đường sá và bãi diễn hội. Ngày 5 tháng Tư, tổng diễn tập các
tiết mục trước cửa đền Thượng, như để trình ông Dóng trước. Phía giặc Ân trong hội Dóng được tượng
trưng bằng những tướng nữ, gồm 28 em gái từ 10-13 tuổi, mỗi giáp 2 em, trừ giáp hội trưởng, trong đó
chọn 1 tướng đốc chánh soái và 1 tướng ngựa phó soái. Các nữ tướng ăn mặc lộng lẫy, đội mũ thêu
hoa, quấn vòng xuyến vàng bạc lấp lánh.
Hội Dóng bắt đầu từ ngày mùng 6 tháng Tư âm lịch, bằng một lễ rước nước, khoảng 15 giờ chiều hôm
đó. Theo truyền thống thì tất cả những người tham dự hội đều có mặt. Đoàn người rước hai chum
“thiêng” từ đền Thượng đến đền Mẫu và đặt lên bệ bên bờ giếng, có 80 quân phù giá xếp thành hai
hàng hai bên bậc xuống giếng. Người đứng gần mép nước kính cẩn múc từng gáo nước chuyền lên đổ
vào chum qua một lớp vải lọc.
Sáng mùng 7, rước cỗ chay (cơm với cà) từ đền Mẫu về đền Thượng, có múa Ai Lao. Buổi trưa có múa
rối nước ở ao trước đền Thượng. Chiều là rước khám đường, với ý nghĩa thăm dò đường đến trận địa.
Ngày mùng 8, duyệt lại 28 nữ tướng, chọn tướng nhất, tướng nhì của môi giáp.
Ngày mùng 9, chính hội Dóng, tương truyền là ngày Dóng đánh thắng giặc Ân và về vườn nhà cũ hái
cà, theo kinh nghiệm thì hôm đó buổi sáng trời mưa, buổi trưa trời nắng. Mở đầu hội là cuộc rước cờ từ
đền Mầu đến đền Thượng. Khi đám rước về đến đền Thượng, đốt pháo hoa, đội quân của Dóng biểu
diễn hàng ngũ và các động tác quân sự theo nhịp trống chiêng “tùng, teng”.
Tiếp đó phường múa Ải Lao diễn trò săn hổ và vây bắt hổ, theo điệu múa hổ, không khí hội náo nức
nhưng trang nghiêm. Tiếp theo, khi có trinh sát về báo giặc Ân vây đóng ở Đống Đàm, thế là chiêng
trống lại nổi lên, đoàn người tiến về Đống Đàm dưới hình thức một đám rước lớn, đoàn quân theo thứ
tự: hai tướng tiên phong, áo đỏ quần vàng; 12 em bé cầm roi song (tượng trưng “làng áo đen áo đỏ”);
ông hổ; phường Ai Lao; các tướng của Dóng (hiệu trống, hiệu chiêng, hiệu trung quân); hiệu cờ, ngựa
trắng bằng gỗ tượng trưng ớho ngựa của Dóng; sau cùng là đoàn quân xếp thành hai hàng dài khi qua
đền Mẫu, mọi người dừng chân cúi đầu chào mẹ Dóng. Đến chiến trường, hiệu trống nổi ba hồi to, mọi
người íim lặng như tưởng nhớ Dóng; hiệu trung quân đốt tràng pháo ra lệnh tiến công, tướng tiên
phong đáp lại bằng ba hồi trống con; cờ lệnh bắt đầu mở, tung bay trước gió, trong tiếng chiêng trống
và hò reo vang dậy một vùng trời.
Trận chiến đấu chống giặc Ân bắt đầu bằng điệu múa cờ lệnh. Chấm dứt múa cờ lệnh là lúc quân tướng
giặc Ân tan tác bỏ chạy.
Sau chiến thắng, đám rước lại trở về đền Thượng, hàng tổng mở tiệc khao quân, nhưng vào giữa bữa
tiệc, trinh sát cấp báo quân giặc đang vây ở Sòi Bia nên đoàn quân Dóng tiến về Sòi Bia. Cuộc chiến
đấu dũng cảm diễn ra được tượng trưng bằng diệu múa cờ lệnh, theo thể thức lần múa trước ở Đống
Đàm. Khi điệu múa chấm dứt, quân giặc đại bại, tướng giặc bi bắt giải về đền Thượng cùng với trống
chiêng rền vang báo tiệp. Tại đây, hiệu cờ múa chém tướng giặc. Tiếp đó làm lễ dâng thủ cấp giặc cho
Dóng. Lễ xong, tiệc khao lại thịnh soạn trong không khí chiến thắng bao trùm hội lễ.
Ngày mùng 10 tháng Tư là lễ rước văn, để duyệt quân và kiểm tra vũ khí, đồng thời cử hành lễ tạ ơn
Dóng và hội mừng thắng lợi khao quân, lễ thả 26 tướng giặc (vì có 2 vị bị chém), tướng giặc dâng lễ
vật lên bàn thờ Dóng và cùng dự tiệc với quân của Dóng.
Ngày 11 tháng Tư, lễ rửa hội, một hình thức rước nước về đền rửa tự khí và vũ khí, lại múa hát nhộn
nhịp.
Ngày 12 tháng Tư, Rước cắm cờ, là cuộc xem lại hai chiến trường, phòng có tên giặc nào sống sót, rồi
cắm cờ an toàn. Buổi chiều làm lễ báo tiệp với đất trời và lễ hạ hồi; bốn nghệ nhân xuất sắc của phường
Ải Lao múa hát vang bài Lạc thành ca ngợi chiến công to lớn của quân dân đời Hùng Vương
Read more: />