Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.89 KB, 2 trang )
Ca dao Việt Nam là một kho mĩ từ pháp
September 12, 2014 - Chuyên mục: Văn mẫu THPT - Tác giả: qt
Đề bài: Có ý kiến cho rằng: “Ca dao Việt Nam là một kho mĩ từ pháp”. Qua một số bài ca dao, em hãy chứng minh ý kiến
trên.
Mỹ từ pháp là cách diễn đạt mang tính nghệ thuật làm cho lời văn, lời thơ trở nên đẹp, có sức gợi tả, gợi cảm. Như thế, mỹ từ
pháp cũng là cách thức sử đụng tu từ trong văn chương. Nói ca dao dân ca là một kho mỹ từ pháp có nghĩa là người ta tìm thấy
trong ca dao dân ca rất nhiều biện pháp tu từ, hầu như câu ca dao dân ca nào cũng diễn đạt bằng biện pháp tu từ. Người nhận định
có ý ca ngợi cách diễn đạt tinh tế, bóng bẩy của người xưa qua ca dao dân ca, ca ngợi giá trị của ca dao dân ca.
Thử chọn phân tích vài bài ca dao dân ca để thấy rõ rằng tu từ là biện pháp diễn đạt ý phổ biến của ca dao dân ca và đổng thời
thấy dược các biện pháp tu từ trong ca dao dân ca.
“Thân em như con hạc đầu đình
Muốn bay chẳng cất nổi mình mà bay”.
Trong câu ca dao trên, tác giả dân gian ví von thật thích hợp. Hình ảnh một “con hạc đầu đình” chứ không phải là một con hạc tự
do trên bầu trời lồng lộng. Đây chỉ là một cái tượng hình chim hạc, được đúc bằng vật liệu,xây dựng hoặc tạc bằng đá, gắn lên
mái đình làng cho đẹp. Đẹp thì có thể đẹp đấy, nhưng làm sao mà bay được? Người thợ tạc tượng khéo tay đã tạo dáng cho hạc
trong tư thế đang vươn cánh như muốn tung bay lên bầu trời xanh kia. Lại càng mai mla thêm! Bởi vì làm sao hạc bay lên trời
được khi nó được gắn chặt với mái đình? Hơn nữa, đó chỉ là một con hạc đá. Vậy mà tác giả ví thân phận người phụ nữ như con
hạc đá ấy! Cách so sánh mới gợi hình gợi cảm làm sao! Lại kèm thêm phép đối nữa chứ! Đối lập ở đây thật sát sao, gợi lên nhiều
ý nghĩa và cụ thể hóa cái hiện thực đầy bi kịch của người phụ nữ ngày xưa. Đối lập giữa cái “muốn” và cái “chẳng”. Bởi ai trong
chúng ta lại không biết thân phận của người phụ nữ trong xã hội xưa? Họ bị ràng buộc, bị tước đoạt, bị cấm đoán mọi quyền của
con người. Chế độ tam tòng tai ác kia xem họ như một thứ dây leo, sống nhờ sống gởi. Họ cùng có nhiều ước mơ và khả năng
lớn như nam giới, nhưng lại bị trói buộc, khinh rẻ, không làm được gì ngoài việc lao động miệt mài, thầm lặng suốt đời để phục
vụ gia đình. Có ai biết rằng trong thời phong kiến phụ nữ không được đến trường, không được thi cử, không được tham gia việc
xã hội? Làm sao mà bay được! Cách so sánh nói lên thân phận đáng thương của người phụ nữ xưa, vừa cho thấy khát vọng cháy
bỏng của người phụ nữ. Điều đó gợi lên cho chúng ta bao cảm xúc: yêu thương, xót xa, căm giận!
Trong ca dao có hàng vạn câu dùng cách nói ví von như thế. Bóng bẩy mà sâu xa hơn nữa là phép ẩn dụ:
“Rủ nhau xuống bể mò cua
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng
Em ơi! Chua ngọt đã từng
Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau!”.
Bài ca dao có hai mươi bốn tiếng mà có sáu hình ảnh ẩn dụ, cả một bài ca dao là một trường ẩn dụ và tương phản. Chuyện anh và