phân tích đoạn trích sau đây trong bài Phú sông Bạch Đằng của
Trương Hán Siêu
November 13, 2014 - Chuyên mục: Văn mẫu THPT - Tác giả: Thu Huyền
Đề bài: Hãy phân tích đoạn trích sau đây trong bài Phú sông Bạch
Đằng của Trương Hán Siêu.
Bên giữa dòng chữ buông chèo;
Học Tử Trường chừ thú tiêu diêu
…………………………………
Tái tạo công lao
Nghìn thu ca ngợi.
Sông Bạch Đằng, cửa biển Bạch Đằng là một di tích lịch sử được ca ngợi trong văn học nước ta: thơ của Trần Minh Tông, thơ
Nguyễn Trãi, phú của Nguyện Mộng Tuân, thơ trong Hồng Đức quốc âm thi tập… Riêng bài Phú sông Bạch Đằng của Trương
Hán Siêu là một tác phẩm được biết nhiều nhất từ trước đến nay.
Ta hãy giải thích đoạn trích của bài phú nói trên:
Bên giữa dòng chừ buông trèo;
Học Từ Trưởng chừ thú tiêu diêu.
………………………
Tải tạo công lao;
Nghìn thu ca ngợi.
Bài phú nhắc lại những chiến công lừng lẫy trên sông Bạch Đằng. Tác giả xúc động trước cảnh sông nước mênh mông, hồi tưởng
về chiến trận giữa ta và địch. Từ đó suy nghĩ về nền độc lập nước nhà, tài trí của các bậc anh hùng và cuối cùng rút ra bài học giữ
nước.
Đoạn phú mở đầu bằng câu:
Bèn giữa dòng chừ buông trèo;
Học Tử Trưởng chừ thú tiêu diêu.
Tử Trường tức Tư Mã Thiên, nhà sử học, nhà văn học nổi tiếng đời Hán của Trung Quấc, văn chương được khen là có khí thế hào
hùng, đã từng đi khắp đất nước Trung Hoa để du ngoạn, học hỏi. Nhà thơ học Tử Trường, du ngoạn trên sông Bạch Đằng để
hưởng thú nhàn dật, di dưỡng tâm hồn. Ông ngắm cảnh vật và xúc động: Cửa đại than, bến Đông Triều đang hẹp nhỏ, đến sông
Đạch Đằng bỗng mở rộng mênh mông:
Bát ngát sóng kình muôn dặm;
Bập bênh đuôi trĩ liền nhau.
Sóng mênh mông, thuyền lướt sống, nước xanh, trời xanh vào tiết cuối thu. Lau lách đìu hiu, xào xạc. Giáo gãy, xương khô. Đây
là chiến trường thuở nọ. Đánh lớn, thắng to. Nhưng hy sinh không nhỏ. Trời nước trong lặng kia lắng nghĩ chăng? Lau lách nọ thì
thầm chuyện cũ chang? Giáo tượng, cương gãy im lìm, vĩnh viễn. Cảnh vật ấy làm sao không động lòng người! Khách xúc động
mà đứng lặng. Tiếc thương bao kẻ anh hùng nay đã khuất. Buồn thay vết tích cũ hãy còn khiến người vãn cảnh không khỏi đau
buồn, thương tiếc.
Đó là cảm xúc hoài cổ tức là nhớ xưa, cảm chuyện xưa. Sau này Nguyễn Trãi thăm cảnh Bạch Đằng, cùng bâng khuâng nhớ tìm
lại cảnh cũ trên dòng nước trôi:
Kình ngạc băm vằm non mấy khúc
Giáo gươm chìm gãy bãi bao tầng
Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng…
Đáng để ý chăng là giọng điệu của bài phú đang rợn ngợp trước cảnh bao la trời nước thì bống chuyển sang điệu cảm khái buồn
buồn: Ngăn lai xào xạc, bến lách đìu hiu… Vậy là cảnh và tình của đoạn văn đã phù hợp với cảnh sông lịch sử này:
Bên sông, bô lão hỏi ta sở cầu…
Đây là chiến địa…
Trên là cảnh sông bình yên, dưới là cảnh chiến trận không còn sóng bát ngát mà thuyền mà thuyền đuổi nhau theo sóng, không
phảỉ là lau lách, là giáo gãy xương khô, trời nước một màu mà:
Thuyền bè muôn đội;
Tinh kì phấp phới
Tì hổ ba quân;
Giáo gươm sáng chói.
Hình ảnh miêu tả cảnh chiến trận đều mãnh liệt, hùng dũng, phù hợp với tính chất quyết liệt, to lớn của trận đánh. Chiến thuyền
thì thuyền bè muôn đội, mà lại rực rỡ cờ xí, người thì ba quân tì hổ, giáo gươm không phải là giáo gãy, gió chìm mà là giáo gươm
sáng chói. Không phải cảnh nước trời một sắc trong xanh, êm ả, mà nhật nguyệt phải mờ, trời đất sắp đổi.;
Lữ giặc kiêu ngạo, khoác lác gánh chịu số phần của kẻ bại trận nhục nhã. Đồ Kiên kiêu căng bảo gieo roi một lần là quét sạch
nước Nam. Điển tích đã cho thấy tiếp theo câu nói ấy là sự bại vong tuyệt đối, không có gì thảm hại bằng trận Hợp Phì, giặc Bồ
Kiên hoàn toàn chết trụi. Dẫn tích Tào Tháo thua ở Xích Bích cũng là một gươm thất bại không kém thảm hại. Bài phú Tiền Xích
Bích của Tô Đông Pha thuật vắn tắt nhưng đều tả cảnh thuyền bè cháy trụi, hàng vạn binh sĩ đều thành tro bụi. Dẫn tích bên Tàu
đấy, nhưng là để nói các trận đánh ở trên sông này từ Ngô Quyền đến Trần Hưng Đạo. Cái còn lại của lũ giặc chỉ là sự nhục nhã,
mà thảm hại thay, nước sông tuy chảy hoài mà nhục ấy không rửa nổi. Các bô lão hầu như không nói gì nhiều và trực tiếp về phía
quên ta, nhưng sức mạnh có trời giúp, tức sức mạnh có chính nghĩa tự nó bộc lộ thành chiến thắng vang dội. Kết lại chỉ có một
lòng biết ơn là tái tạo công lao, nghìn thu ca ngợi.
Ở đây cùng như phần một, mở đầu, thời gian và không gian lẫn lộn với nhau, thâm nhập vào nhau, thâm nhập vào nhau. Không
gian xưa kèm với thời gian xưa. Đương khí ấy là xưa trong thời gian, thuyền bè… sắp đổi là xưa trong không gian: Đến nay là
nay, nước sông chảy hoài là cả xưa lẫn nay. Trong nghệ thuật viết văn hay điện ảnh ngày nay, người ta gọi cách ấy là đồng hiện,
làm cho truyện kể được sinh động, không đơn điệu, nhờ đó tăng phần lôi cuốn.
Đoạn trích thể hiện cảm xúc bồi hồi của Trương Hãn Siêu khi đứng trước cảnh sông nước ghi dấu những chiến công oanh liệt của
dân tộc ta. Đoạn trích cũng thể hiện lòng tiếc thương, kính phục các bậc anh hùng ngày trước. Đó cũng chính là tấm lòng yêu
nước và niềm tự hào dân tộc của tác giả.
Đề bài: Về bài “Bạch Đằng giang phú”.
Bạch Đằng giang phú là một bài phú theo lối có thể, được tác giả tuân theo đúng qui tắc kết cấu của thể loại. Như Bùi Văn
Nguyên đã phân tích, bài phú gồm 6 phần:
1. Lung, tức phần phá đề
Khách có kẻ… tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
Nói: thú ham thích du ngoạn mà cũng là tráng chí của tác giả.
2. Biện nguyên, tức phá thừa đề:
Bèn giữa dòng… bồng bềnh mái chèo.
Nói: cuộc du ngoạn trên sông Bạch Đằng.
3. Thích thực: tả tỉ mỉ cuộc du ngoạn trên sông Bạch Đằng.
Bát ngát sóng kình… dấu vết luống còn lưu.
Cảnh trên sông Bạch Đằng hùng vĩ nhưng đìu hiu, gợi buồn.
4. Phu diễn, nghĩa là trình bày để minh họa thêm chú ý đoạn trên.
Bên sông bô lão… nghìn xưa ca ngợi.
Các bô lão kể cho tác giả nghe về về mảnh đất lịch sử oanh liệt, về trận chiến thắng lẫy lừng của nhà Trần trên sông Bạch Đằng.
5. Nghị luận, tức lời bàn của các bô lão.
Tuy nhiên… nhớ người xưa chừ lệ chan.
Các bô lão nhấn mạnh vai trò của con người, đặc biệt là của Đại vương Trần Hưng Đạo đối với thắng lợi của trận đánh.
6. Kết – phần còn lại của bài phú
Lời tổng luận của các bô lão và kết luận của tác giả.
Tuy nhiên, nếu xét về mạch ý thì bài phú có 3 phần chính:
- Nhân vật khách cũng chính là cái tôi tác giả.
Mở đầu tác phẩm, nhân vật khách xuất hiện với đặc điểm nổi bật của tính cách: phóng khoáng. Khách rất ham du ngoạn: giương
buồm giong gió, lướt bể chơi trăng; sớm thả thuyền ở Tiêu Tương, chiều đã đến thăm Vũ Huyệt, Gót giang hồ đi đã khắp:
Cửu giang, Ngũ hồ
Tam Ngô, Bách Việt.
Nơi có người đi,
Đâu mà chẳng biết
Đầm Vân Mộng chứa vài trặm trong dạ.
Nhưng, tráng chí vẫn còn chưa thoả: Mà tráng chí bốn phương vẫn còn thiết tha thiết.
Ở tiểu đoạn này bằng những hình ảnh không gian rộng: biển lớn (giương buồm, giong gió, lướt bể chơi trang), sông hồ (Ngũ hồ
Nguyên Tương), những vùng đất nổi tiếng (Tam Ngô, Bách Việt, đầm Vân Mộng) ; bằng những động từ thể hiện động tác mạnh:
thôn (nuốt), quải (treo), thám (thảm) ; bằng số từ số bách, số nhiều, đi liền với cách diễn tả thời gian chuyển tiếp nhanh: sớm,
chiều, và cả cách nói khẳng định: Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết, tác giả đã khắc họa rõ nét tính cách ưu hoạt động, có tráng
chí, sôi nổi, ham hiểu biết của khách. Tất cả những điều đó tạo nên sự khác biệt trong những cuộc chơi của khách – một con
người hành động, nhập cuộc khác với các cuộc nhàn du của các bậc ẩn sĩ, lánh đời. Những cuộc đi của khách không chỉ để tìm thi
liệu mà còn để bổ tri thức vì những trang sử nước nhà như một Tử Trường (Tư Mã Thiên).
Bạch Đằng giang phú đã khắc họa một cảnh trí mĩ lệ của Tổ quốc với cả hình bóng chiến công oanh liệt của quân dân ta thời
trước
Trở lên là nói về tráng chí, hoài bão và sự lịch duyệt của khách, phần tiếp theo tác giả sẽ mô tả một cuộc du ngoạn cụ thể: cuộc
chơi sông Bạch Đằng. Khác với cách miêu tả ở đoạn trên chủ yếu là tổng quát, ước lệ, không gian, thời gian đã tượng trưng hoá,
ở đoạn này tác giả đi vào tả cảnh thực. Đó là: một không gian cụ thể: cửa Đạt Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng, bãi chiến
trường xưa ; một thời gian được chỉ định rõ: tháng chín (ba thu) và một phong cảnh cụ thể: nước trời một sắc, bờ lau san sát, bến
lách đìu hiu, cùng những dấu vết của chiến trường được diễn tả một cách hình tượng, sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô.
Phong cảnh Bạch Đằng cũng rất to rộng, hoành tráng song ảm đạm tiêu sắt và khách từ tâm trạng phơi phới, tràn đầy hào khí đã
bị sự tác động mạnh của hoàn cảnh tỏ ra một tâm hồn phong phú và nhạy cảm: đứng sững, buồn tiếc ngậm ngùi:
Buồn vì thảm cảnh
Đứng lặng giờ lâu
Thương nối anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.
Như vậy, ở phần một này nhân vật khách được giđi thiệu một cách trang trọng, là một nhân vật được khẳng định. Thực ra đó
cũng là sự tự khẳng định tự giới thiệu của chính tác giả: một tâm hồn thơ, một khách hải hồ nhưng đồng thời lại là một kẻ sĩ thiết
tha với đất nước và lịch sử dân tộc.
Sự xuất hiện của nhân vật khách với trạng thái trầm tư cổ ý nghĩa như một cách đặt vấn đề, nêu câu hỏi và dẫn dắt đến sự xuất
hiện của nhân vật tập thể các bô lão. Bằng vài nét phác họa tác giả đã gợi cho người đọc hình dung được những đặc điểm quan
trọng về nhốm nhân vật này. Đó là một số đông đa dạng về tuổi tác. Có người đã rất giả phải chống gậy, có người trẻ hơn, còn
khoẻ bơi được thuyền nhỏ, nhưng tất cả đều nhiệt tình, nhạy cảm và hiếu khách. Thấy khách đứng lặng giờ lâu, họ hiểu khách có
điều đang băn khoăn liền thăm hỏi:
Bên sông bô lão
Hỏi ta sở cầu.
Trương Hán Siêu không nhắc lại câu hỏi của khách, nhưng qua sự sốt sắng của các bô lão, qua phương thức nóỉ chuyện của
khách và các bô lão, người đọc có thể hình dung ra chủ đề câu chuyện: các bô lão với tư cách người địa phương và rất có thể
nhiều người đã là chứng nhân của trận Bạch Đằng oanh liệt đã dẫn khách thăm nơi chiến địa cũ và thuyết minh cho ông về mảnh
đất lịch sử, kể cho ông nghe về chiến công Bạch Đằng buổi Trùng Hưng.
Có kẻ gậy lê chống trước
Có người thuyền nhẹ bơi sau.
Vái ta mà thưa rằng:
- Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã
Cũng là bãi đất xưa thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.
Với niềm tự hào về quê hương, về lịch sử, các bô lão đã hào hứng, sôi nổi kể lại trận đánh đương khi ấy. Đó là một trận đánh lớn,
tầm cỡ, trực diện mặt đối mặt giữa hai đội quân hùng mạnh:
Thuyền bè muôn đội Tinh kì phấp phới.
Tì hổ ba quân Giáo gươm sáng chói.
Trận đánh thư hùng chửa phân.
Chiến luỹ Bắc Nam chống đối.
Đó cũng là một trận đánh ác liệt, kinh thiên động địa:
Ảnh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp hoại.
Tính chất ác liệt của trận đánh là do quy mô, lực lượng so sánh, do ý nghĩa trận đánh nhưng mặt khác cũng rất quan trọng là do
sự đôì đầu về ý chí của hai bên đốỉ phương. Và chính ở trận Bạch Đằng này quân nhà Trần cũng như quân Ngô Quyền trước đó
đã phải đối đầu với một đội quân mưu sâu, chước quỷ hung đồ như vậy.
Tất Liệt thế cường
Lưu Chung chước dối
Những tưởng tưng roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi.
Trận chiến quyết liệt, khó khăn, nhiều tổn thất, đến nỗi sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô, đến nỗi bao nhiêu năm sau các
nhà thơ qua đó đều vẫn có chung cảm giác nước sông còn loang máu đỏ:
Ánh nước chiều hôm màu đỏ khé,
Tưởng ràng máu giặc vẫn chưa khô
(Trần Minh Tông – Bạch Đàng giang)
Bạch Đằng một cõi chiến tràng,
Xương bay trống đất máu màng đỏ sông.
(Đại Nam quốc sử diễn ca)
Đồng trụ đến nay rêu phủ biếc;
Đàng giang tự cổ máu còn hồng
(Khuyết danh)
Chính vì tính chất khó khăn, quyết liệt đó, mà hơn ai hết các bô lão hiểu rằng trận chiến thắng của dân tộc mình, của các bậc anh
hùng đương thời là một trận thắng thuộc tầm cỡ những trận đánh lừng danh trong lịch sử, không chi đổi với một qụốc gia, không
chỉ có ý nghĩa dối với một thời:
Khác nào:
Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay.
Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên phút giây chết trụi.
Đến nay nước sông tuy chảy hoài,
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.
Tái tạo công lao.
Muôn đời ca ngợi.
- Bình luận về chiến thắng sông Bạch Dằng.
Theo binh pháp cổ, muốn thắng lợi trong chiến tranh cần phải có ba nhân tố cơ bản: thiên thời, địa lợi, nhân hoà, nghĩa là được
thời của trời (hợp, đúng thời cơ), được lợi thế của đất và được sự đồng lòng của người, ở đây cũng trên những nguyên tắc chung
đó nhưng các bô lão chỉ rút lại có hai nhân tốc: sự trợ giúp của trời và tài năng của người chèo lái cuộc chiến. Sự trợ giúp của trời
được thể hiện ở hai điểm quan trọng: Trời cũng chiều người và Trời cho nơi đất hiểm. Thiên Thái thề trong Kinh thư, một kinh
điển quan trọng của nho gia, có câu: Thiên căng vu dân, dân chi sở dục, thiên tắc lòng chi (nghĩa là: Trời thương dân, điều dân
muốn, trời sẽ theo). Như vậy trận đánh trên sông Bạch Đằng, nói rộng ra là cả cuộc kháng chiến chống quân Nguyễn đã được sự
trợ giúp của trời, cũng có nghĩa là nó đã bao gồm được cả ba nhân tố thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Tuy nhiên, ở đây các bô lão
còn nhấn mạnh thêm vai trò của con người, những người có tài, những nhân vật xuất chúng, đủ sức đảm đương gánh nặng mà đất
nước giao phó. Đó là các bậc sánh với Vương sư họ Lã trong hội Mạnh Tân, với Quốc sĩ họ Hàn trong trận Duy Thuỷ và đặc biệt
là Đại vương Trần Quốc Tuấn, một người có tài thao lược nhất là có tầm nhìn chiến lược muôn đời ngợi ca:
Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.
Tiếng thơm đồn mãi,
Bia miệng không mòn.
Trong cuộc chơi sông Bạch Đằng hôm ấy, Trương Hán Siêu đã dựng lên hai khung cảnh ở hai thời gian khác nhau. Cảnh thứ nhất
là Bạch Đằng lúc đương đại; thiên nhiên vẫn hùng tráng, vẫn đẹp như từ có vũ trụ song đối với thế tình nó như đã nhuốm mùi
dâu bể, như đã bị lãng quên, khiến cho một tâm hồn thơ như khách phẳi ngậm ngùi. Bạch Đằng đương đại là một cảnh sắc đậm
tính trữ tình, đậm chất thơ. Cảnh thứ hai là một Bạch Đằng trong lịch sử, nổ đã được sống dậy trong sự hồi tưởng của các bô lão,
rất đậm tính chất anh hùng ca. Tuy nhiên, sau khi làm sông lại quá khứ say sưa và bình luận về quá khứ, những người ngày nay
cũng đều phải trở về với thời đại và cương vị của mình. Cũng như khách, kết thúc những lời kể, các bô lão bộc lộ tâm trạng, tình
cảm:
Hoài cổ nhân hề vẫn thế.
Lâm giang lưu hề hậu nhan.
Các bản dịch xưa nay đều coi hai chữ hậu nhan có nghĩa là rầu rầu nét mặt, nên nói chung thường dịch là:
Đến (hoặc khách) chơi sông chừ ủ mặt,
Nhớ người xưa (hoặc người hoài cổ) chừ lệ chan.
Song hai chữ hậu nhan có nghĩa gốc là đầy mặt, diễn tả trạng thái xấu hổ, thẹn thùng, vậy thì đúng ra hai câu trên phải được dịch
là:
Đến chơi sông chừ hổ thẹn
Nhớ người xưa chừ lệ chan.
Với tư cách là những người trong cuộc hoặc chứng nhân của mảnh đất lịch sử anh hùng này các bậc bô lão thấy đau xót, hổ thẹn
khi nó bị bỏ rơi đến nỗi dâu tích hào kiệt trở thành hoang phế, mộ phần người bỏ mình cho sự sống còn của dân tộc đã bị lẫn lộn
trong đám cốt khô đầy gò. Và hổ thẹn cũng có thể còn vì một lí do nữa, đó là nghĩ đến trách nhiệm kế nghiệp của mình với cha
anh, những bậc anh hùng thời trước.
Cuộc chơi sông Bạch Đằng kết thúc, thực chất là sự trình bày về dòng sông lịch sử đã hoàn tất, bài phú được kết thúc bằng hai lời
ca và thực sự đã hoàn tất, bài phú được kết thúc bằng hai lời ca và thực sự đó là lời tổng luận của các bô lão và của khách. Nếu
như các bô lão, người dân bình thường, nhấn mạnh một lẽ đời mang tính chất quy luật, như nước sông cuồn cuộn chảy về biển cả,
đó là:
Nhưng người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.
Thì khách, một thi nhân, một con người lịch duyệt và cũng là một phương diện quốc gia đã bổ sung thêm vai trò cửa hai vị thánh
quân, nhấn mạnh đến cái đức cao mà một vị vua phải có để đem lại muôn thuở thanh bình cho trăm họ và cho hoàng tộc. Hơn thế
nữa trong quan niệm của khách, đức cao mới thực sự là điều kiện quyết định:
Tín tri: bất tại quan hà chi hiểm hề, duy tại ỷ đức chi mạc kình.
(Đúng là: chẳng tại non sông hiểm trở, chỉ tại đức cao không gì so sánh được).
Trong những áng thơ văn viết về trận thuỷ chiến Bạch Đằng, bài phú của Trương Hán Siêu là tác phẩm sớm nhất và cững là một
áng văn không tiền khoáng hậu. Sử dụng tính chất khoa trương của thể phú kết hợp với chất trữ tình của thơ, dặt trong kết cấu
phú có thể cổ pha đối thoại và liên ngâm, tác giả đã chuyên chở những ý tình của mình một cách rất sinh động. Có lẽ cũng không
có mấy tác phẩm mà tính chất trữ tình và màu sắc anh hùng ca lại được hoà quyền nhuần nhuyễn và tỉnh tế đến như Bạch Đằng
giang phú. Quả là đúng như sự đánh giá của Bùi Văn Nguyên: Bạch Đằng giang phú đã khắc họa một cảnh trí mĩ lệ của Tổ quốc
với cả hình bóng chiến công oanh liệt của quân dân ta thời trước, là một bài phú mẫu mực chẳng những thể hiện đậm nét hào khí
Đông A của văn học đời Trần mà còn có giá trị to lớn trong lịch sử văn học nước nhà.
Read more: />sieu/#ixzz3mdnvyhbv