Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Hoạt động cách mạng của Phan Bội Châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.05 KB, 21 trang )

Phan Bội Châu
Phan Bội Châu (chữ Hán: 潘潘潘; 26 tháng 12 năm 1867 – 29 tháng 10 năm 1940), tên
thật là Phan Văn San (潘潘潘)
[1]
, tự là Hải Thu, bút hiệu là Sào Nam (潘潘)
[2]
, Thị Hán (潘
潘 ), Độc Tỉnh Tử, Việt Điểu, Hãn Mãn Tử, v.v Ông là một danh sĩ và là nhà cách
mạng Việt Nam, hoạt động trong thời kỳ Pháp thuộc.
Thân thế
Phan Bội Châu sinh ngày 26 tháng 12 năm 1867 tại làng Đan Nhiễm, xã Nam Hòa,
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Cha ông là Phan Văn Phổ, mẹ là Nguyễn Thị Nhàn. Ông nổi tiếng thông minh từ bé, năm
6 tuổi học 3 ngày thuộc hết Tam Tự Kinh, 7 tuổi ông đã đọc và hiểu được sách Luận Ngữ,
13 tuổi ông thi đỗ đầu huyện.
Thuở thiếu thời ông đã sớm có lòng yêu nước. Năm 17 tuổi, ông viết bài "Hịch Bình Tây
Thu Bắc" đem dán ở cây đa đầu làng để hưởng ứng việc Bắc Kỳ khởi nghĩa kháng Pháp.
Năm 19 tuổi (1885), ông cùng bạn là Trần Văn Lương lập đội “Sĩ tử Cần Vương” (hơn
60 người) chống Pháp, nhưng bị đối phương kéo tới khủng bố nên phải giải tán.
Gia cảnh khó khăn, ông đi dạy học kiếm sống và học thi, nhưng thi suốt 10 năm không
đỗ, lại can tội hoài hiệp văn tự (mang văn tự trong áo) nên bị kết án chung thân bất đắc
ứng thí (suối đời không được dự thi).
Năm 1896, Phan Bội Châu vào Huế dạy học, do mến tài ông nên các quan đã xin vua
Thành Thái xóa án. Nhờ vậy, khoa thi hương năm Canh Tý (1900) ở trường Nghệ An và
đậu Giải nguyên
[3]
.
Hoạt động Cách mạng
Lập Duy Tân hội, sang Nhật cầu viện
Phan Bội Châu (ngồi) và Cường Để (đứng) tại Nhật Bản
Trong vòng 5 năm sau khi đỗ Giải nguyên, Phan Bội Châu bôn ba khắp nước Việt Nam


kết giao với các nhà yêu nước như Phan Chu Trinh
[4]
, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp,
Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Hàm (tức Tiểu La Nguyễn Thành), Đặng Nguyên Cẩn,
Ngô Đức Kế, Đặng Thái Thân, Hồ Sĩ Kiện, Lê Huân, Nguyễn Quyền, Võ Hoành, Lê
Đại,
Năm 1904, ông cùng Nguyễn Hàm và khoảng 20 đồng chí khác thành lập Duy Tân hội ở
Quảng Nam để đánh đuổi Pháp, chọn Kỳ Ngoại hầu Cường Để - một người thuộc dòng
dõi nhà Nguyễn - làm hội chủ.
Năm 1905, ông cùng Đặng Tử Kính và Tăng Bạt Hổ sang Trung Quốc rồi sang Nhật
Bản, để cầu viện Nhật giúp Duy Tân hội đánh đuổi Pháp. Tại Nhật, ông gặp Lương Khải
Siêu, một nhà cách mạng người Trung Quốc, và được khuyên là nên dùng thơ văn (nghe
lời Phan Bội Châu viết Việt Nam vong quốc sử) để thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân
Việt Nam. Lại nghe hai nhân vật quan trọng của Đảng Tiến Bộ đang cầm quyền ở Nhật
Bản, là Bá tước Ôi Trọng Tín (Okuma Shigenobu) và Thủ tướng Khuyển Dưỡng Nghị
(Inukai Tsuyoshi) khuyên là nên cổ động thanh niên ra nước ngoài học tập để sau này về
giúp nước.
Tháng 6 năm 1905, Phan Bội Châu cùng Đặng Tử Kính mang theo một số sách Việt Nam
vong quốc sử về nước. Tháng 8 năm 1905 tại Hà Tĩnh, ông và các đồng chí nồng cốt
trong Duy Tân hội bàn bạc rồi đưa ra kế hoạch hành động đó là:
• Nhanh chóng đưa Kỳ Ngoại hầu Cường Để ra nước ngoài.
• Lập các hội nông, hội buôn, hội học để tập hợp quần chúng và để có tài chánh cho
hội.
• Chọn một số thanh niên thông minh hiếu học, chịu được gian khổ, đưa đi học ở
nước ngoài
[5]
.
Phát động phong trào Đông Du
Trong ba nhiệm vụ trên, thì nhiệm vụ thứ ba hết sức quan trọng và bí mật, nên Duy Tân
hội đã cử Phan Bội Châu và Nguyễn Hàm tự định liệu. Sau đó, phong trào Đông Du được

hai ông phát động, được đông đảo người dân ở cả ba kỳ tham gia và ủng hộ, nhất là ở
Nam Kỳ.
Tháng 10 năm 1905, Phan Bội Châu trở lại Nhật Bản cùng với ba thanh niên, sau đó lại
có thêm 45 người nữa. Năm 1906, Cường Để qua Nhật, được bố trí vào học trường Chấn
Võ. Kể từ đó cho đến năm 1908, số học sinh sang Nhật Bản du học lên tới khoảng 200
người, sinh hoạt chung trong một tổ chức có quy củ gọi là Cống hiến hội
Tháng 3 năm 1908, phong trào "cự sưu khất thuế" (tức phong trào chống sưu thuế Trung
Kỳ nổi lên rầm rộ ở Quảng Nam rồi nhanh chóng lan ra các tỉnh khác. Bị thực dân Pháp
đưa quân đàn áp, nhiều hội viên trong phong trào Duy Tân và Duy Tân hội bị bắt, trong
số đó có Nguyễn Hàm, một yếu nhân của hội
[6]
.
Mất mát này chưa kịp khắc phục, thì hai phái viên của hội là Hoàng Quang Thanh và
Đặng Bỉnh Thành lại bị Pháp đón bắt được khi từ Nhật về Nam Kỳ nhận tiền quyên góp
cho phong trào Đông Du. Tiếp theo nữa là Pháp và Nhật vừa ký với nhau một hiệp ước
(tháng 9 năm 1908), theo đó chính phủ Nhật ra lệnh trục xuất các du học sinh người Việt
ra khỏi đất Nhật. Tháng 3 năm 1909, Cường Để và Phan Bội Châu cũng bị trục xuất. Đến
đây, phong trào Đông Du mà Phan Bội Châu và các thành viên khác đã dày công xây
dựng hoàn toàn tan rã, kết thúc một hoạt động quan trọng của hội.
Lúc này, ở nhiều nơi trong nước, mọi hoạt động quyên góp tài chính và chuẩn bị vũ trang
bạo động của Duy Tân hội cũng bị thực dân cho quân đến đàn áp dữ dội. Những người
sống sót sau các đợt khủng bố đều phải nằm im, hoặc vượt biên sang Trung Quốc, Xiêm
La, Lào để mưu tính kế lâu dài.
Cuối năm 1910, Phan Bội Châu chuyển một đại bộ phận hội viên (trong đó có khoảng 50
thanh niên) ở Quảng Đông về xây dựng căn cứ địa ở Bạn Thầm (Xiêm La). Tại đây, họ
cùng nhau cày cấy, học tập và luyện tập võ nghệ để chuẩn bị cho một kế hoạch phục quốc
sau này.
Thượng tuần tháng 5 năm Nhâm Tý (tháng 6 năm 1912), trong cuộc “Đại hội nghị” tại từ
đường nhà Lưu Vĩnh Phúc ở Quảng Đông (Trung Quốc), có đông đủ đại biểu khắp ba kỳ
đã quyết định giải tán Duy Tân hội và thành lập Việt Nam Quang phục Hội, tức thay đổi

tôn chỉ từ chủ nghĩa quân chủ sang chủ nghĩa dân chủ để đánh đuổi quân Pháp, khôi
phục Việt Nam, thành lập nước Cộng hòa Dân quốc kiến lập Việt Nam
[7]
, đáp ứng tình
hình chuyển biến mới trên trường quốc tế.
Hoạt động ở Trung Quốc
Mặc dù thay đổi tôn chỉ, nhưng Phan Bội Châu vẫn duy trì Kỳ Ngoại hầu Cường Để
trong vai trò chủ tịch chính phủ lâm thời Việt Nam Quang phục Hội, nhằm tranh thủ sự
ủng hộ của nhân dân trong nước.
Sau đó, Việt Nam Quang phục Hội cử một số hội viên về nước để trừ khử một vài viên
chức Pháp và cộng sự đắc lực của họ, nhằm "đánh thức đồng bào", "kêu gọi hồn nước".
Các cuộc bạo động bằng tạc đạn tuy xảy ra lẻ tẻ, nhưng vẫn khuấy động được dư luận
trong và ngoài nước, làm nhà cầm quyền Pháp tăng cường khủng bố, khiến nhiều người
bị bắt và bị giết. Bị kết tội chủ mưu, Phan Bội Châu và Cường Để bị thực dân Pháp cùng
với Nam triều kết án tử hình vắng mặt.
Căn nhà tranh là nơi ở của ông già Bến Ngự
Năm 1913, thực dân Pháp cử người đến Quảng Đông “mặc cả” với Tổng đốc Long Tế
Quang yêu cầu bắt Phan Bội Châu và các yếu nhân của hội. Ngày 24 tháng 12 năm 1913,
Phan Bội Châu bị bắt. Nhưng nhờ Nguyễn Thượng Hiền lúc bấy giờ đang ở Bắc Kinh
vận động, nên Long Tế Quang không thể giao nộp ông cho Pháp, mà chỉ đưa giam vào
nhà tù Quảng Đông, mãi đến tháng 2 năm 1917, ông mới được giải thoát
[8]
.
Ra tù, Phan Bội Châu lại tiếp tục hoạt động cách mạng. Năm 1922, phỏng theo Quốc dân
Đảng của Tôn Trung Sơn, ông cải tổ Việt Nam Quang phục Hội thành Đảng Việt Nam
Quốc dân. Được Nguyễn Ái Quốc (lúc này đang làm Ủy viên Đông phương bộ, phụ trách
Cục phương Nam của Quốc tế cộng sản) góp ý, Phan Bội Châu định thay đổi đường lối
theo hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng chưa kịp cải tổ thì ông bị bắt cóc ngày 30 tháng 6
năm 1925
[9]

.
Bị Pháp bắt và an trí
Ngày 30 tháng 6 năm 1925, ông bị thực dân Pháp bắt cóc
[10]
tại Thượng Hải giải về nước
xử án tù chung thân, mặc dù trước đó (1912) ông đã bị đối phương kết án vắng mặt
[11]
.
Trước phong trào đấu tranh của nhân dân cả nước đòi thả Phan Bội Châu, và nhờ sự can
thiệp của Toàn quyền Varenne, ông được về an trí tại Bến Ngự (Huế). Trong 15 năm cuối
đời, ông (lúc bấy giờ được gọi là Ông già Bến Ngự) vẫn giữ trọn phẩm cách cao khiết,
không ngừng tuyên truyền tinh thần yêu nước bằng văn thơ, nên rất được nhân dân yếu
mến.
Phan Bội Châu mất ngày 29 tháng 12 năm 1940 tại Huế. Hiện tên ông đã được đặt cho
trường chuyên của tỉnh Nghệ An và một con phố lớn tại Hà Nội.
Tác phẩm
Tác phẩm cách mạng
Việt Nam vong quốc sử
• Việt Nam Quốc sử khảo (1909)
• Ngục Trung Thư (1913) (loc) – Sài Gòn: NXB Tân Việt, 1950
• Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư (19??)
• Việt Nam vong quốc sử (1905)
• Việt Nam Quốc sử bình diễn ca (1927)
• Cao Đẳng Quốc Dân Di Cảo (19??) (loc) – Huế: NXB Anh-Minh, 1957
• Chủng diêt dự ngôn(19??) (loc) – Hà Nội: NXB Khoa hoc xã hội, 1991
• Tân Việt Nam (19??) (loc) – Hà Nội: NXB Cục lưu trữ nhà nước, 1989
• Thiên Hồ Đế Hồ (19??) (loc) – Hà Nội: NXB Khoa học xã hội, 1978
• Khuyến quốc dân du học ca (19??)
• Hải ngoại huyết thư (1906)
• Dĩ cửu niên lai sở trì chủ nghĩa (19??)

• Hà thành liệt sĩ ca (19??)
• Truyện Lê Thái Tổ (19??)
• Tuồng Trưng nữ vương (19??)
• Gia huấn ca (19??)
• Giác quần thư (19??)
• Nam quốc dân tu tri (19??)
• Nữ quốc dân tu tri (19??)
• Truyện Chân tướng quân (1917)
• Truyện tái sinh sinh (19??)
• Truyện Phạm Hồng Thái (19??)
Tác phẩm biên khảo, thi ca
• Kí niệm lục (19??)
• Vấn đề phụ nữ (19??)
• Luận lí vấn đáp (19??)
• Sào nam văn tập (19??)
• Hậu Trần dật sử (19??) (loc) – Hà Nội: NXB Văn hóa-thông tin, 1996
• Khổng Học Đăng (19??) (loc) – Houston, TX: NXB Xuân Thu, 1986
• Phan Bội Châu Niên Biểu (19??) (loc) – Sài Gòn: Nhóm nghiên-cứu Sử Địa, 1971
• Phan Bội Châu Toàn Tập (19??) (loc) – Huế: NXB Thuận hóa: Trung tâm văn
hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2001
• Trùng Quang Tâm Sử (19??) (loc) Hà Nội: NXB Văn học, 1971
[12]
.
Nhận xét
Trích một vài nhận xét (chỉ để tham khảo):
Nhóm tác giả sách Đại cương cương lịch sử Việt Nam viết:
Theo Phan Bội Châu, chỉ có con đường vũ trang bạo động
[13]
Đây là con đường
đúng đắn nhất. Tuy nhiên, ông thất bại là vì "không có lực lượng bên trong mà

chỉ ỉ lại vào người ngoài thì thật là khó", "ỉ lại vào người thì không thể thành
công được"(trích Niên biểu) Những lời tự phê phán của ông thật sự nghiêm
khắc mà cũng vô cùng chính xác! Mặc dù không giành được thắng lợi, nhưng
đường lối bạo động cạch mạng đó đã phát động mạnh mẽ tinh thần yêu nước,
giải phóng dân tộc của nhân dân Việt. Đó là cống hiến lớn lao của Phan Bội
Châu và các tổ chức của ông
[14]

Mộ phần
Sinh thời, Phan Bội Châu đã được một luật sư người Pháp tên là Bona ca ngợi rằng:
Cụ Phan (Phan Bội Châu) là người quả không hổ là kẻ ái quốc, ái quân chân
chính. Dầu tôi là người Pháp, đối với cụ Phan tôi cũng phải ngưỡng mộ. Tôi
ngưỡng mộ là ngưỡng mộ cái thân thế quang minh, cái tinh thần cao thượng, cái
nghị lực bất di, bất khuất đã chứng tỏ ra trong việc làm của cụ.
[15]

Ngoài sự nghiệp cách mạng, ông còn viết rất nhiều sách báo, và đã được phổ biến sâu
rộng trong nhân dân. Trong Từ điển văn học (bộ mới), sau khi giới thiệu về ông và sự
nghiệp văn chương của ông, đã kết luận như sau:
Trong lịch sử văn học Việt Nam không dễ gì có nhiều văn chương có sức lay động
quần chúng đứng lên đấu tranh cách mạng lớn lao như văn chương của Phan Bội
Châu. Ngày nay trong văn chương đó, về tư tưởng và quan niệm, có thể điểm này
điểm khác không còn phù hợp, nhưng trái tim chan chứa nhiệt huyết của tác giả
vẫn còn nguyên giá trị. Ông là một trong số những nhà văn lớn của văn học Việt
Nam trong nửa đầu thế kỷ 20
[16]

Chú thích
1. ^ Vì San trùng với tên húy vua Duy Tân (Vĩnh San) nên phải đổi thành Phan Bội Châu.
(theo Họ và tên người Việt Nam- PGS.TS Lê Trung Hoa, nhà xuất bản Khoa học xã hội,

2005).
2. ^ Tên hiệu Sào Nam lấy từ 2 câu thơ cổ Hồ mã tê sóc phong, Việt điểu sào nam chi nghĩa
là Ngựa Hồ hí gió Bắc, Chim Việt đậu cành Nam, ý nói người không quên gốc gác của
mình.
3. ^ Xem Gia Phả Họ Phan, Phần Thứ Hai, Chương V-03, [1]
4. ^ Năm 1904, Phan Châu Trinh từ quan rồi bí mật sang Quảng Đông (Trung Quốc) gặp
Phan Bội Châu, trao đổi ý kiến rồi cùng sang Nhật Bản, tiếp xúc với nhiều nhà chính trị
tại đây (trong số đó có Lương Khải Siêu) và xem xét công cuộc duy tân của xứ sở này
(theo Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên, Quyển 5, Tập Trung, tr. 429). Ông hoan nghênh
việc Phan Bội Châu đưa thanh niên ra nước ngoài học tập, phổ biến tài liệu tuyên truyền
giáo dục trong nước, nhưng ông phản đối chủ trương duy trì nền quân chủ, phương pháp
bạo động vũ trang và việc mưu cầu ngoại viện. Bởi theo ông, muốn cứu được nước nhà,
phải đi theo con đường dân chủ và cải cách xã hội, bằng việc nâng cao dân trí và dân
quyền rồi mới có thể mưu tính được việc khác.Tuy nhiên, hai khuynh hướng này song
song tồn tại và không đối lập nhau một cách tuyệt đối mà đan xen, hòa lẫn vào nhau, tạo
điều kiện cho nhau phát triển. Xem chi tiết ở trang Phong trào Đông Du.
5. ^ Theo nhóm Đinh Xuân Lâm, sách đã dẫn, tr. 142.
6. ^ Nguyễn Hàm bị đày đi Côn Đảo và mất tại đó năm 1911.
7. ^ Theo Phan Bội Châu toàn tập, Tập 4. Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1990, tr 178.
8. ^ Theo nhóm Đinh Xuân Lâm (sách đã dẫn, tr,. 181).
9. ^ Theo Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam [2] và Từ điển văn học Việt Nam (bộ mới).
Nhà xuất bản Thế giới, 2004, tr, 1378.
10. ^ Theo Vĩnh Sính trong "Mối liên hệ giữa Phan Bội Châu và Nguyễn Ái Quốc ở Trung
Quốc, 1924-1925 – giới thiệu tài liệu mới phát hiện" thì: "Trong Phan Bội Châu niên
biểu, Phan Bội Châu quy cho Nguyễn Thượng Huyền, người được ông nuôi dưỡng ở
Hàng Châu, tội mật báo với Pháp để họ bắt cóc ông ở ga Thượng Hải. Tuy nhiên, Kỳ
Ngoại hầu Cường Để, trong hồi ký, lại quy cho Lâm Đức Thụ là người chủ mưu (Vĩnh
Sính, tr. 242).
11. ^ Từ điển văn học (bộ mới), tr. 1378.
12. ^ Các bản có đánh dấu (loc) hiện còn lưu trữ.

13. ^ Vì vậy, Duy Tân hội do Phan Bội Châu và các đồng chí của ông thành lập còn được gọi
là Ám xã, khác với phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh đề xướng (1906), được gọi
là Minh xã, vì họ hoạt động công khai và không bạo động
14. ^ Theo nhóm Đinh Xuân Lâm, sách đã dẫn, tr. 181-182.
15. ^ Dẫn theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam do Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế biên
soạn. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992, tr. 773.
16. ^ Lược theo Nguyễn Đình Chú, mục từ Phan Bội Châu trong Từ điển văn học (bộ mới).
Nhà xuất bản Thế giới, 2004, tr. 1380.
Duy Tân hội
Duy Tân hội là một tổ chức chống Pháp do Phan Bội Châu, Nguyễn Hàm và một số
đồng chí khác thành lập năm 1904 tại Quảng Nam (Việt Nam), và tồn tại cho đến năm
1912 thì tự động giải tán. Theo một số nhà sử học, thì tổ chức này đã tạo ra một không
khí cách mạng sôi nổi, đáng kể nhất là phong trào Đông Du mà hội phát động đã lan
rộng khắp cả nước, và đã nhận được sự ủng hộ của rất nhiều người, nhất là ở Nam Kỳ.
Trong suốt cả thời kỳ từ 1904 - 1911, Duy Tân hội thực sự đóng vai trò như một đảng
chính trị
[1]
Thành lập
Ngày 8 tháng 4 năm Giáp Thìn (1904), sau khi từ Nam Kỳ về, Phan Bội Châu cùng
Cường Để và hơn 20 đồng chí khác họp tại nhà riêng của Nguyễn Hàm (còn có tên là
Nguyễn Thành, Nguyễn Tiểu La) tại Nam Thịnh sơn trang (Thăng Bình, Quảng Nam) lập
ra một tổ chức bí mật có tên là Duy Tân hội.
Kỳ Ngoại hầu Cường Để (cháu 5 đời của Nguyễn Phúc Cảnh) được mời làm Hội chủ để
thu phục nhân tâm
[2]
, tập hợp sĩ phu yêu nước, tranh thủ sự đồng tình và giúp đỡ của nhiều
người trong nước. Còn Phan Bội Châu, Nguyễn Thành, Trình Hiền, Lê Võ, Đặng Tử
Kính, Đặng Thái Thân đều là những hội viên trọng yếu, đảm nhận mọi hoạt động của
hội.
Sự kiện lịch sử quan trọng này đã được Phan Bội Châu ghi lại trong Tự Phán như sau:

Đến ngày kỳ ước chính là thượng tuần tháng 4, tôi vào nhà Tiểu La (Nguyễn
Hàm), có cả ông Kỳ Ngoại Hầu tới. Giữa hội chỉ là người trọng yếu hơn hai chục
người Bắt đầu khai hội từ buổi sáng qua chính trưa tan hội. Tên hội chỉ người
trong hội biết, không lập sổ sách, không biên chép họ tên, chương trình kế hoạch
chỉ miệng trao lòng nhớ mà thôi. Đặt Kỳ Ngoại Hầu làm Hội chủ, hễ lúc xưng hô
chỉ gọi bằng ông chủ, cấm không được hở chữ "hội" ra Những tiếng xưng hô
nhau, chỉ gọi bằng anh em, tuyệt không đặt ra danh mục gì
[3]

Theo nhà sử học Phạm Văn Sơn, thì phạm vi công tác được phân định như sau: Từ Nam
Ngãi (Quảng Nam và Quảng Ngãi) trở vào Nam, do Nguyễn Hàm phụ trách; từ Quảng
Bình, Quảng Trị trở ra Bắc thì do Phan Bội Châu đảm nhiệm
[4]
.
Điều này cho thấy hai ông là hai yếu nhân bậc nhất của Duy Tân hội. Và qua quá trình
hoạt động của hội, cũng đã cho thấy hai ông quả là nhà thiết kế, là người thực hiện các
công tác quan trọng của hội.
Mục đích
Năm 1901, Phan Bội Châu cùng một số đồng chí thân thiết đã vạch ra ba kế hoạch, đó là:
• Liên kết với dư đảng Cần Vương và các trai tráng ở chốn sơn lâm, xướng khởi
nghĩa binh đánh Pháp với phương thức bạo động.
• Tìm người dòng họ vua nhà Nguyễn lập làm minh chủ, rồi ngầm liên kết với
những người có thế lực, tập hợp những người trung nghĩa để cùng nhau khởi sự.
• Khi cần thiết sẽ phái người xuất hiện cầu ngoại viện.
Mục đích là cốt sao khôi phục được Việt Nam, lập ra một chính phủ độc lập, ngoài ra
chưa có chủ nghĩa gì khác cả
[5]
Đây có thể coi là sự khởi đầu của một cương lĩnh hoạt động của Duy Tân hội, được lập
năm 1904. Đến năm 1906, tức khoảng 2 năm sau kể từ khi Duy Tân hội ra đời, chương
trình của hội mới được Phan Bội Châu khởi thảo, cho in và công bố. Lúc đó mục đích của

hội mới được đề cập một cách tương đối rõ ràng là khôi phục nước Việt Nam, lập thành
nước quân chủ lập hiến
[6]
.
Nhiệm vụ trước mắt
Hội nghị thành lập hội Duy Tân hội năm 1904 đã đề ra ba nhiệm vụ trước mắt, đó là:
• Phát triển thế lực của hội về người cũng như về tài chính.
• Xúc tiến việc chuẩn bị bạo động và các công việc sau đó.
• Xác định phương châm ra nước ngoài cầu viện và phương thức thực hiện.
Hai khoản trên giao cho toàn thể hội viên đảm đương, còn khoản thứ ba thì ủy thác cho
Nguyễn Thành và Phan Bội Châu bàn kín rồi thực hiện, các hội viên khác không được
biết. Và theo Nguyễn Hàm, thì nước Tàu hiện nay quốc thể đã suy hèn, cứu mình không
xong thì cứu được ai. Duy nước Nhật Bản là một nước tân tiến ở trong nòi giống da vàng
mới đánh được Nga, dã tâm đang hăng lắm. Tới đó, đem hết lợi hại tỏ với nó, tất nó ứng
viện cho ta. Nếu nó không xuất binh nữa mà (ta tới) mướn tư lương mua khí giới, tất có
thể dễ lắm
[7]
Sau đó, việc sang Nhật Bản cầu viện đã được đông đảo hội viên tán thành.
Lược kể một vài hoạt động của hội
Tổ chức phong trào Đông Du
Ngày 20 tháng Giêng năm Ất Tỵ (1905), Phan Bội Châu, Đặng Tử Kính, Tăng Bạt Hổ
(một thành viên cũ của phong trào Cần vương, làm người dẫn đường) xuống tàu thủy tại
Hải Phòng, theo đường biển bí mật sang Quảng Đông, Hồng Kông, Thượng Hải rồi đi tới
Hoành Tân (Yokohama) thuộc Nhật Bản.
Đến nơi Phan Bội Châu gửi thư xin gặp Lương Khải Siêu, một nhà cách mạng người
Trung Quốc. Trong cuộc bút đàm, Lương Khải Siêu khuyên Phan Bội Châu không tìm
cách cầu ngoại viện (nhất là không nên đem quân đội Nhật vào nước) để lấy lại độc lập;
mà nên chú trọng việc giáo dục và thức tỉnh nhân dân trong nước trước, khi có thời cơ tốt
thì ai nấy đều đã sẳn sàng để làm cuộc nổi dậy… Sau đó, Lương Khải Siêu còn giới thiệu
Phan Bội Châu với hai nhân vật quan trọng của Đảng Tiến Bộ đang cầm quyền ở Nhật

Bản, là Bá tước Ôi Trọng Tín (Okuma Shigenobu) và Thủ tướng Khuyển Dưỡng Nghị
(Inukai Tsuyoshi) để xin chính phủ Nhật giúp đỡ Việt Nam đánh đuổi Pháp. Nhưng hai
người này cho rằng thời điểm đó chưa thích hợp để Nhật có thể giúp đỡ về quân sự, chỉ
khuyên Phan Bội Châu đưa Cường Để sang Nhật (để không bị Pháp bắt), viết sách báo để
tranh thủ sự đồng tình của dư luận thế giới, đồng thời cổ động thanh niên sang Nhật học
tập để chờ đợi thời cơ
[8]
.
Tháng 6 năm Ất Tỵ (1905), Phan Bội Châu và Đặng Tử Kính mang một số sách "Việt
Nam vong quốc sử"
[9]
bí mật về nước.
Sau khi bị Nhật Bản từ chối giúp đỡ binh lực cho hội, Phan Bội Châu đã chuyển hướng từ
"cầu viện" sang "cầu học". Nhờ vậy phong trào Đông Du được dấy lên, được đông đảo
người dân ở cả ba kỳ tham gia và ủng hộ, nhất là ở Nam Kỳ
[10]
.
Tháng 10 năm 1905, Phan Bội Châu trở lại Nhật Bản cùng với 3 thanh niên, sau đó lại có
thêm 5 người nữa. Năm 1906, Cường Để qua Nhật, được bố trí vào học trường Chấn Võ.
Kể từ đó cho đến năm 1908, số học sinh sang Nhật Bản du học lên tới khoảng 200 người,
sinh hoạt chung trong một tổ chức có quy củ gọi là Việt Nam Cống hiến hội
Các hoạt động khác
Ngoài việc tuyển chọn một số thanh niên trẻ, thông minh, hiếu học, chịu được lao khổ,
đưa đi du học; Duy Tân hội còn tiến hành những hoạt động sau:
• Tuyên truyền, vận động các sĩ phu, nhà doanh nghiệp và người dân yêu nước
đứng lập ra các hội nông, hội buôn
[11]
, hội học; vừa để tập hợp quần chúng, vừa để
có kinh phí cho hội.
• Chuẩn bị vũ khí tiến tới bạo động. Đây là vấn đề khó nhất. Trong Ngục Trung

Thư, Phan Bội Châu đã viết rõ:
Phải chi mình ở vào những thời Đinh, Lý, Lê, Trịnh thuở xưa, thì chỉ vung tay mà
kêu lên một tiếng, tức thời sóng dậy sấm vang chỉ là việc thành trong giây lát mà
thôi. Nhưng đời nay thì khác hẳn. Từ lúc đời có súng đạn phát minh ra, bao nhiêu
khí giới gọi là gươm giáo đao thương đã hóa ra đồ bỏ. Cái thứ để chặt cây làm
mác kia, đời xưa người ta vác đi đánh Tần đuổi Sở được, chứ đời nay có dùng nó
làm nên trò vè gì! Phải biết vũ khí của người Pháp tinh nhuệ hơn của người mình
muôn lần ngàn lần
[12]
. Con đường tìm kiếm vũ khí bị bế tắc, bàn tính mãi, cuối
cùng chỉ còn cách xuất dương cầu viện.
• Liên kết với các tổ chức kháng chiến khác. Ở đây có hai sự kiện đáng chú ý, đó
là:
-Năm 1906, Phan Bội Châu tranh thủ sự đồng tình của Phan Châu Trinh, nhưng
không thành công, vì ông Trinh phản đối chủ trương duy trì nền quân chủ,
phương pháp bạo động vũ trang và việc mưu cầu ngoại viện. Bởi theo ông, muốn
cứu được nước nhà, phải đi theo con đường dân chủ và cải cách xã hội, bằng việc
nâng cao dân trí và dân quyền rồi mới có thể mưu tính được việc khác
[13]
Tuy
nhiên, Phan Châu Trinh rất hoan nghênh việc Duy Tân hội đã vận động được một
số học sinh ra nước ngoài học tập và phổ biến những tài liệu, thơ ca truyên truyền
giáo dục quốc dân trong nước
[14]

-Cũng trong năm này, Phan Bội Châu theo đường Lạng Sơn về nước. Ông có đến
gặp Hoàng Hoa Thám ở Phồn Xương (Yên Thế, Bắc Giang). Sau hơn mười ngày
bàn bạc, thủ lĩnh họ Hoàng đồng ý gia nhập Duy Tân hội, và thuận ứng viện khi
Trung Kỳ khởi nghĩa, nhận giúp đỡ và che chở các nghĩa sĩ Trung Kỳ ra Bắc ẩn
náu một khi bị quân Pháp lùng bắt.

Suy yếu và tự giải tán
Tháng 3 năm 1908, phong trào "cự sưu khất thuế" (tức phong trào chống sưu thuế Trung
Kỳ nổi lên rầm rộ ở Quảng Nam rồi nhanh chóng lan ra các tỉnh khác. Bị thực dân Pháp
đưa quân đàn áp, nhiều hội viên trong phong trào Duy Tân và Duy Tân hội bị bắt, trong
số đó có Nguyễn Hàm, một yếu nhân của hội
[15]
.
Đang khi ấy thì hai phái viên của hội là Hoàng Quang Thanh và Đặng Bỉnh Thành lại bị
Pháp đón bắt được khi từ Nhật về Sài Gòn nhận tiền quyên góp cho phong trào Đông Du.
Sau đó, các phụ huynh bị buộc phải gọi các con em đang du học tại Nhật về, các hội buôn
có díu líu đến phong trào bị khám xét và những người có liên quan đều bị bắt bớ.
Tiếp theo nữa là, để tận diệt phong trào, Pháp còn ký với Nhật hiệp ước vào tháng 9 năm
1908. Theo đó, Pháp cho Nhật vào Việt Nam mua bán; đổi lại, Nhật sẽ không cho các
nhà cách mạng và lưu học sinh Việt Nam ở Nhật nữa. Sau khi cử cảnh sát đến trường
Đông Á đồng văn thư viện để giải tán học sinh người Việt, tháng 3 năm 1909, Cường Để
và Phan Bội Châu cũng bị trục xuất. Đến đây, phong trào Đông Du mà Phan Bội Châu và
Duy Tân hội đã dày công xây dựng hoàn toàn tan rã, kết thúc một hoạt động quan trọng
của hội.
Lúc này, ở nhiều nơi trong nước, mọi hoạt động quyên góp tài chính và chuẩn bị vũ trang
bạo động của Duy Tân hội cũng bị thực dân cho quân đến đàn áp dữ dội. Những người
sống sót sau các đợt khủng bố đều phải nằm im, hoặc vượt biên sang Trung Quốc, Xiêm
La, Lào để mưu tính kế lâu dài.
Cuối năm 1910, Phan Bội Châu chuyển một đại bộ phận hội viên (trong đó có khoảng 50
thanh niên) ở Quảng Đông về xây dựng căn cứ địa ở Bạn Thầm (Xiêm La). Tại đây, họ
cùng nhau cày cấy, học tập và luyện tập võ nghệ để chuẩn bị cho một kế hoạch phục quốc
sau này.
Thượng tuần tháng 5 năm Nhâm Tý (tháng 6 năm 1912), trong cuộc “Đại hội nghị” tại từ
đường nhà Lưu Vĩnh Phúc ở Quảng Đông (Trung Quốc), có đông đủ đại biểu khắp ba kỳ
đã quyết định giải tán Duy Tân hội và thành lập Việt Nam Quang phục hội, tức thay đổi
tôn chỉ từ chủ nghĩa quân chủ sang chủ nghĩa dân chủ để đánh đuổi quân Pháp, khôi

phục Việt Nam, thành lập nước Cộng hòa Dân quốc kiến lập Việt Nam
[16]
, đáp ứng tình
hình chuyển biến mới trên trường quốc tế.
Chú thích
1. ^ Lược theo Đại cương cương lịch sử Việt Nam (Tập 2), tr, 145-146.
2. ^ Trong Tự Phán Phan Bội Châu đã nói rõ chủ trương này là của Nguyễn Hàm. Ông kể:
Tiểu La nói với tôi rằng: "Một khi ta khởi sự, trước hết phải thu lòng người Vả lại sắp
tính việc lớn, tất phải trù có món tiền thật to. Kim tiền nước ta là ở Nam Kỳ, mà khai thác
ra Nam Kỳ là công đức triều Nguyễn làm. Vua Gia Long lấy lại nước rặt là nhờ tài lực ở
trong ấy. Bây giờ nếu ta tìm được chính giòng Gia Long, đặt làm minh chủ, hiệu triệu
Nam Kỳ tất ảnh hưởng mau lắm" (Phan Bội Châu toàn tập, Tập 4. Nhà xuất bản Thuận
Hóa, 1990, tr 36).
3. ^ Phan Bội Châu toàn tập, Tập 4, tr 43.
4. ^ Việt sử tân biên, sách đã dẫn, tr. 360.
5. ^ Theo Phan Bội Châu niên biểu (nhà xuất bản Văn Sử Địa, Hà Nội, 1957, tr. 53).
6. ^ Trong lần bút đàm giữa Phan Bội Châu và Tôn Dật Tiên (tức Tôn Văn hay Tôn Trung
Sơn), nhà cách mạng Trung Quốc này đã công kích chủ trương quân chủ lập hiến của
Duy Tân hội. Tuy nhiên, Phan Bội Châu và những thành viên khác trong hội (nhất là
Nguyễn Hàm) vẫn tin rằng nó là một "biện pháp" hữu hiệu đối với hoạt động cách mạng
cứu nước lúc bấy giờ, nhất là ở Nam Kỳ. Bởi dân ở đây vẫn còn nhớ triều đại cũ, nên
muốn thu hút sự hợp tác của họ, cần phải xướng lên việc "phù trợ quân vương" để kêu
gọi lòng người (theo nhóm Đinh Xuân Lâm, tr. 143). Còn GS. Nguyễn Văn Trung thì cho
rằng, quân chủ lập hiến chỉ là một lá bài đưa ra để chiêu mộ, thu phục lòng dân, chứ
không hẳn là một chủ nghĩa mà Phan Bội Châu hết lòng tin theo và muốn thực hiện. Bởi
sau này khi Cách mạng Tân Hợi (1911) thành công ở Trung Quốc, chính cụ Phan là
người đầu tiên đề ra và cũng là người tranh luận hăng hái nhất để bảo vệ chủ nghĩa dân
chủ, và cuối cùng đã được đa số chấp nhận (sách ở mục tham khảo, tr. 209).
7. ^ Theo Phan Bội Châu toàn tập (Tập 6), tr. 77.
8. ^ Theo nhóm Đinh Xuân Lâm, tr.141.

9. ^ Theo sự góp ý của Lương Khải Siêu về sách lược chống Pháp, Phan Bội Châu viết
"Việt Nam vong quốc sử". Sau đó ông Siêu đề tựa và in giúp quyển sách này.
10. ^ Ở Nam Kỳ, phong trào Đông Du đã nhận được sự giúp đỡ rất tích cực của tri phủ Trần
Chánh Chiểu (hay Chiếu). Ông này đã lập ra khách sạn Nam Trung để làm nơi gặp gỡ
của nhưng người yêu nước, lập Minh Tân công nghệ xã, để vừa chấn hưng công-thương-
nghiệp, vừa để có tiền ủng hộ phong trào Đông Du. Ngoài ra, với vai trò là chủ bút tờ
Nông cổ mín đàm và Lục tỉnh tân văn, ông còn cho đăng báo những bài có tư tưởng
chống Pháp. Nhiều nhân sĩ khác ở đây cũng tham gia Duy Tân hội và hết lòng lo cho sự
nghiệp chung như Đặng Thúc Liêng, Nguyễn Thần Hiến, Nguyễn An Khương, Bùi Chí
Nhuận, v.v (theo Phạm Văn Sơn, tr. 371).
11. ^ Theo tài liệu của sở Mật thám Pháp, Nguyễn Thành có quan hệ chặt chẽ với 72 cơ sở
"thương hội" trong toàn miền (theo Chương Thâu, 100 năm thành lập Duy Tân hội -
Thân thế và sự nghiệp Tiểu La Nguyễn Thành, kỷ yếu hội thảo 100 năm thành lập Duy
Tân hội [1])
12. ^ Phan Bội Châu toàn tập, Tập 4, tr 285-286)
13. ^ Vì chủ trương và phương pháp đấu tranh khác nhau, nên phong trào Duy Tân còn được
gọi là Minh xã, vì hoạt động công khai, theo đường lối dân chủ, chủ trương "ỷ Pháp tự
cường". Còn Duy Tân hội do Phan Bội Châu sáng lập còn được gọi là Ám xã, vì hoạt
động bí mật, theo đường lối quân chủ, chủ trương "bài Pháp giành độc lập".
14. ^ Theo Nhóm Đinh Xuân Lâm, tr. 148.
15. ^ Nguyễn Hàm bị đày đi Côn Đảo và mất tại đó năm 1911.
16. ^ Theo Phan Bội Châu toàn tập, Tập 4, tr 178.
Phong trào Đông Du
Phong trào Đông Du là một phong trào cách mạng ở Việt Nam đầu thế kỷ 20. Phong
trào có mục đích kêu gọi thanh niên Việt Nam ra nước ngoài (Nhật Bản) học tập, chuẩn
bị lực lượng chờ thời cơ cho việc giành lại độc lập cho nước nhà. Lực lượng nòng cốt cổ
động và thực hiện phong trào là Duy Tân hội và Phan Bội Châu.
Lịch sử
Đầu thế kỷ 20, đế quốc Pháp đã hầu như hoàn thành quá trình bình định Việt Nam, dẹp
yên các cuộc nổi dậy đòi độc lập trong nước. Cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Đề Thám chỉ

còn hoạt động ở diện hẹp (bị dập tắt vào năm 1913).
Năm 1903, Phan Bội Châu, một sĩ phu yêu nước người Nghệ An, bắt đầu đi vào Nam ra
Bắc để liên hệ và để thành lập một tổ chức cách mạng.
Thành lập Duy Tân hội
Phan Bội Châu (ngồi) và Cường Để (đứng), hai thành viên quan trọng của Phong trào Đông Du
Đầu năm 1904, sau khi từ Nam Kỳ về, ngày 8 tháng 4 năm Giáp Thìn (1904), Phan Bội
Châu cùng Kỳ Ngoại hầu Cường Để (cháu 5 đời của Hoàng tử Cảnh) và hơn 20 đồng chí
khác họp tại nhà riêng của Nguyễn Hàm (còn có tên là Nguyễn Thành, Nguyễn Tiểu La)
tại Nam Thịnh sơn trang (Thăng Bình, Quảng Nam) lập ra một tổ chức bí mật có tên là
Duy Tân hội.
Kỳ Ngoại hầu Cường Để được mời làm Hội chủ để thu phục nhân tâm tập hợp sĩ phu yêu
nước, tranh thủ sự đồng tình và giúp đỡ của nhiều người trong nước. Còn Phan Bội Châu,
Nguyễn Hàm, Trình Hiền, Lê Võ, Đặng Tử Kính, Đặng Thái Thân đều là những hội
viên trọng yếu, đảm nhận mọi hoạt động của hội.
Sau khi bàn bạc, hội nghị thành lập hội đã đề ra ba nhiệm trước mắt, đó là: *Phát triển thế
lực hội về người cũng như về tài chính.
• Xúc tiến chuẩn bị bạo động và các công việc khác sau khi khởi phát bạo động.
• Xác định phương châm ra nước ngoài cầu viện, và cách thức tiến hành.
Hai khoản trên giao cho toàn thể hội viên đảm đương, còn khoản thứ ba thì ủy thác cho
Nguyễn Thành và Phan Bội Châu bàn kín rồi thực hiện, các hội viên khác không được
biết.
Và theo Nguyễn Hàm, thì nước Tàu hiện nay quốc thể đã suy hèn, cứu mình không xong
thì cứu được ai. Duy nước Nhật Bản là một nước tân tiến ở trong nòi giống da vàng mới
đánh được Nga, dã tâm đang hăng lắm. Tới đó, đem hết lợi hại tỏ với nó, tất nó ứng viện
cho ta. Nếu nó không xuất binh nữa mà (ta tới) mướn tư lương mua khí giới, tất có thể dễ
lắm
[1]
Sau đó, việc sang Nhật Bản cầu viện đã được đông đảo hội viên tán thành.
Sang Nhật Bản cầu viện
Ngày 20 tháng Giêng năm Ất Tỵ (1905), Phan Bội Châu, Đặng Tử Kính, Tăng Bạt Hổ

(một thành viên cũ của phong trào Cần vương, làm người dẫn đường) xuống tàu thủy tại
Hải Phòng, theo đường biển bí mật sang Quảng Đông, Hồng Kông, Thượng Hải rồi đi tới
Hoành Tân (Yokohama) thuộc Nhật Bản.
Đến nơi Phan Bội Châu gửi thư xin gặp Lương Khải Siêu, một nhà cách mạng người
Trung Quốc. Trong cuộc bút đàm, Lương Khải Siêu khuyên Phan Bội Châu không tìm
cách cầu ngoại viện (nhất là không nên đem quân đội Nhật vào nước) để lấy lại độc lập;
mà nên chú trọng việc giáo dục và thức tỉnh nhân dân trong nước trước, khi có thời cơ tốt
thì ai nấy đều đã sẳn sàng để làm cuộc nổi dậy
Sau đó, Lương Khải Siêu còn giới thiệu Phan Bội Châu với hai nhân vật quan trọng của
Đảng Tiến Bộ đang cầm quyền ở Nhật Bản, là Bá tước Ôi Trọng Tín (Okuma Shigenobu)
và Thủ tướng Khuyển Dưỡng Nghị (Inukai Tsuyoshi) để xin chính phủ Nhật giúp đỡ Việt
Nam đánh đuổi Pháp. Nhưng hai người này cho rằng thời điểm đó chưa thích hợp để
Nhật có thể giúp đỡ về quân sự, chỉ khuyên Phan Bội Châu đưa Cường Để sang Nhật (để
không bị Pháp bắt), viết sách báo để tranh thủ sự đồng tình của dư luận thế giới, đồng
thời cổ động thanh niên sang Nhật học tập để chờ đợi thời cơ
[2]
.
Sau khi bị Nhật Bản từ chối giúp đỡ binh lực cho hội, Phan Bội Châu đã chuyển hướng từ
"cầu viện" sang "cầu học".
Tháng 6 năm Ất Tỵ (1905), Phan Bội Châu và Đặng Tử Kính mang một số sách "Việt
Nam vong quốc sử"
[3]
bí mật về nước.
Phát động phong trào Đông Du
Phan Bội Châu cùng các thành viên nồng cốt trong hội Duy Tân, sau khi bàn bạc đã đề
xướng việc lập các hội nông, công, thương, để vừa tập hợp đoàn kết lực lượng, vừa lấy
đó làm cơ sở kêu gọi thanh niên xuất dương và là cơ quan tài chính giúp đỡ phong trào
Đông Du.
Song song với các hoạt động trên, các thành viên của phong trào còn sáng tác nhiều thơ
ca yêu nước như: “Hải ngoại huyết thư”, “Việt Nam Quốc sử khảo”, “Tân Việt Nam”,

“Sùng bái giai nhân” (Phan Bội Châu), “Viễn hải quy hồng” (Nguyễn Thượng Hiền),
“Kính cáo toàn quốc” (Cường Để), v.v gửi về nước tuyên truyền cổ động nhân dân
hưởng ứng phong trào.
Vì vậy, sau khi phát động, phong trào Đông Du đã được đông đảo người dân ở cả ba kỳ
tham gia và ủng hộ, nhất là ở Nam Kỳ.
Ở Nam Kỳ, phong trào Đông Du đã nhận được sự giúp đỡ rất tích cực của tri phủ Trần
Chánh Chiếu. Ông này đã lập ra khách sạn Nam Trung để làm nơi gặp gỡ của nhưng
người yêu nước, lập Minh Tân công nghệ xã, để vừa chấn hưng công-thương-nghiệp, vừa
để có tiền ủng hộ phong trào Đông Du. Ngoài ra, với vai trò là chủ bút tờ Nông cổ mín
đàm và Lục tỉnh tân văn, ông còn cho đăng báo những bài có tư tưởng chống Pháp. Nhiều
nhân sĩ khác ở đây cũng tích cực tham gia và hết lòng lo cho sự nghiệp chung như Đặng
Thúc Liêng, Nguyễn Thần Hiến, Nguyễn An Khương, Bùi Chí Nhuận, v.v
[4]
.
Tháng 10 năm 1905, Phan Bội Châu trở lại Nhật Bản cùng với 3 thanh niên (Nguyễn
Thúc Canh, Nguyễn Điền, Lê Khiết), sau đó lại có thêm 5 người nữa (trong đó có hai anh
em Lương Ngọc Quyến, Lương Nhị Khanh và Nguyễn Văn Điến) .
Năm 1906, Cường Để qua Nhật, được bố trí vào học trường Chấn Võ cùng với Lương
Ngọc Quyến. Kể từ đó cho đến năm 1908, số học sinh sang Nhật du học lên tới khoảng
200 người, hầu hết đều vào học tại Đồng Văn thư viện ở Tokyo, sinh hoạt chung trong
một tổ chức có quy củ gọi là Cống hiến hội
Tổ chức Cống hiến hội
Tại trường Chấn Võ và Đông Á đồng Văn thư viện, lưu học sinh Việt Nam được phiên
chế vào các ban ngành chuyên môn. Buổi sáng học văn hóa, buổi chiều học các tri thức
quân sự và luyện tập ở thao trường.
Để tăng cường quản lý học sinh, giữa năm 1907, Phan Bội Châu tổ chức Việt Nam Cống
hiến hội (gọi tắt là Cống hiến hội), cử Cường Để làm Hội trưởng và ông (Phan Bội Châu)
làm Tổng lý kiêm Giám đốc trực tiếp chỉ đạo tổ chức này.
Hội có 4 bộ lớn, mỗi bộ có 3 đại biểu của Bắc-Trung-Nam, đó là:
• Bộ Kinh tài chuyên trách việc thu chi; gồm các ủy viên Đặng Tử Kính, Đặng

Bỉnh Thành, Phạm Chấn Yêm.
• Bộ Kỷ luật chuyên theo dõi ưu khuyết và thưởng phạt học sinh; gồm các ủy viên
Đàm Kỳ Sinh, Phan Bá Ngọc, Hoàng Quang Thành.
• Bộ Giao tế phụ trách việc giao thiệp với người nước ngoài và đưa đón người
trong nước ra, gồm các ủy viên [[Phan Thế Mỹ, Nguyễn Thái Bạt, Lâm Quảng
Trung.
• Bộ văn thư chuyên trách việc giấy tờ đi lại, phát hành và lưu trữ các văn kiện;
gồm các ủy viên Hoàng Trọng Mậu, Đặng Ngô Lân và Hoàng Hưng.
Ngoài ra, còn có cục Kiểm tra để giám sát nhân viên các bộ trên trong khi thừa hành
nghiệp vụ; gồm các ủy viên Lương Nhập Nham, Trần Hữu Công và Nguyễn Diễn.
Phong trào tan rã
Lúc bấy giờ, các cuộc vận động duy tân ở trong nước của các tổ chức Duy Tân hội,
phong trào Duy Tân (phát động năm 1906) và Đông Kinh nghĩa thục (thành lập tháng 3
năm 1907)đã tạo nên một không khí cách mạng về dân trí rất sôi nổi.
Phong trào Đông Du cũng đã và đang lan rộng khắp Bắc, Trung, Nam; và việc học tập
của lưu học sinh ở Nhật cũng đã ổn định và đang phát triển thuận lợi.
Tháng 3 năm 1908, phong trào "cự sưu khất thuế" (tức phong trào chống sưu thuế Trung
Kỳ nổi lên rầm rộ ở Quảng Nam, rồi nhanh chóng lan ra các tỉnh khác. Bị thực dân Pháp
đưa quân đàn áp, nhiều hội viên trong phong trào Duy Tân và Duy Tân hội bị bắt, trong
số đó có Nguyễn Hàm, một yếu nhân của hội
[5]
.
Đang khi ấy ở Nam Kỳ, Trần Chánh Chiếu (một trong số người tích cực ủng hộ Phong
trào Đông Du ở Nam Kỳ) lại cho đăng những bài có tư tưởng chống Pháp. Vì thiếu chứng
cớ, chính quyền thực dân không thể kết án ông, nhưng kể từ đó nhiều người cùng hoạt
động với ông bị họ bí mật khủng bố.
Thêm một cái cớ nữa để thực dân ra sức đàn áp, đó là vào tháng 3 năm 1908, các phụ
huynh của du học sinh ở Nam Kỳ lại gửi thư công khai theo đường bưu điện cho Phan
Bội Châu nhắn là cử người về nhận tiền quyên góp. Hay tin, thực dân Pháp bèn bố trí
người và bắt được Hoàng Quang Thành và Đặng Bỉnh Thành cùng với mọi giấy tờ, khi

tàu vừa cặp bến Sài Gòn. Lập tức, các phụ huynh bị buộc phải gọi các con em đang du
học tại Nhật về, các hội buôn có díu líu đến phong trào bị khám xét và những người có
liên quan đều bị bắt bớ
Tháng 6 năm đó, lại xảy ra vụ Hà thành đầu độc khiến chính quyền thực dân càng ra sức
đàn áp các phong trào và tổ chức cách mạng Việt Nam.
Đặc biệt, để làm tan rã phong trào Đông Du, Pháp còn ký với Nhật hiệp ước vào tháng 9
năm 1908. Theo đó, Pháp cho Nhật vào Việt Nam mua bán; đổi lại, Nhật sẽ không cho
các nhà cách mạng và lưu học sinh Việt Nam ở Nhật nữa.
Sau khi cử cảnh sát đến trường Đông Á đồng văn thư viện để giải tán tất cả các học sinh
người Việt, tháng 3 năm 1909, Cường Để và Phan Bội Châu cũng bị trục xuất. Đến đây,
phong trào Đông Du mà Phan Bội Châu và Duy Tân hội đã dày công xây dựng hoàn toàn
tan rã, kết thúc một hoạt động quan trọng của hội
[6]
.
Ý nghĩa
Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam viết:
Mặc dầu chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn, nhưng phong trào Đông
Du được coi là một trong những phong trào yêu nước mạnh mẽ nhất của nhân
dân Việt Nam đầu thế kỷ 20 và đặc biệt nhiều thanh niên du học của trào lưu này
đã trở thành những hạt nhân của các phong trào cách mạng tiếp theo trong công
cuộc giải phóng dân tộc
[7]
.
Chú thích
1. ↑ Theo Phan Bội Châu toàn tập (Tập 6), tr. 77.
2. ↑ Theo nhóm Đinh Xuân Lâm, tr.141.
3. ↑ Theo sự góp ý của Lương Khải Siêu về sách lược chống Pháp, Phan Bội Châu viết
"Việt Nam vong quốc sử" (Lịch sử mất nước của Việt Nam). Sau đó, Lương Khải Siêu đã
đề tựa và in giúp quyển sách này.
4. ↑ Theo Phạm Văn Sơn, sách đã dẫn, tr. 371.

5. ↑ Nguyễn Hàm bị đày đi Côn Đảo và mất tại đó năm 1911.
6. ↑ Lược kể theo Việt sử tân biên (sách đã dẫn, tr. 375) và Đại cương lịch sử Việt Nam
(Tập 2, tr. 145).
Việt Nam Quang phục Hội
Việt Nam Quang phục Hội (chữ Hán: 越越越越越 ) là một tổ chức cách mạng thành lập
năm 1912 do Phan Bội Châu đề xướng theo chủ nghĩa dân chủ với mục đích đánh đuổi
người Pháp khỏi Đông Dương.
Tôn chỉ của Hội là: Khôi phục Việt Nam, kiến lập Việt Nam Cộng hòa Dân quốc.
Hình thành
Sau cuộc Cách mạng Tân Hợi thành công ở Trung Hoa thì triều đình nhà Thanh cáo
chung và tư tưởng dân chủ tư bản đã thuyết phục được Phan Bội Châu noi theo con
đường mới thay vì đường lối quân chủ lập hiến trước kia. Tuy vậy ông vẫn suy tôn Kỳ
Ngoại Hầu Cường Để làm hội chủ, chức Bộ trưởng Tổng vụ của một hội đoàn mới mang
tên Việt Nam Quang phục Hội.
Phan Bội Châu tự đảm nhận làm phó hội chủ cùng là đại diện Trung Kỳ; Nguyễn Thượng
Hiền là đại diện Bắc Kỳ; và Nguyễn Thần Hiến là đại diện Nam Kỳ. Ba ông là thành
phần "Bình nghị Bộ" của Hội.
Mười thành viên khác là "Chấp hành bộ" để lo việc điều hành gồm:
• Quân vụ Ủy viên: Hoàng Trọng Mậu và Lương Ngọc Quyến;
• Kinh tế Ủy viên: Đặng Tử Kính và Mai Lão Bạng;
• Giao tế Ủy viên: Lâm Đức Mậu và Đặng Bỉnh Thành
• Văn hóa Ủy viên: Phan Bá Ngọc và Nguyễn Yên Dược;
• Thư vụ Ủy viên: Đinh Tế Dân và Phan Quý Chức.
Trụ sở Hội đặt ở Quảng Châu, Trung Hoa.
Thành phần trong nước có ba ủy viên đảm nhiệm ba kỳ: Bắc Kỳ là Đặng Xung Hồng
(Đặng Hữu Bằng), Trung Kỳ là Lâm Quảng Trung (Võ Quang), và Nam Kỳ là Đặng
Bỉnh Thành.
Đội quân thành lập lấy tên là "Quang phục Quân" có sách nội quy với tên Quang phục
Quân Phương lược hơn 100 trang do Phan Bội Châu và Hoàng Trọng Mậu soạn.
Hội lấy cờ vàng, góc tư trên màu đỏ với năm ngôi sao trắng xếp thành chữ "X" gọi là

"ngũ tinh liên châu" làm quốc kỳ; cờ đỏ, sao trắng làm quân kỳ. Ngôi sao ở đây chỉ là
chấm tròn chứ không có cánh. Màu vàng tượng trưng cho nòi giống "Việt" da vàng. Màu
đỏ biểu ý phương "Nam" lửa đỏ. Còn màu trắng là mục đích chính đại.
[1]
Hoạt động
Để tài trợ công cuộc, Hội còn lập thêm "Chấn Hoa hưng Á Hội" ở Quảng Đông để lôi
cuốn sự quyên góp của người Hoa bằng cách bán "quân dụng phiếu" với mệnh giá 5, 10,
20 và 100 viên.
Ném tạc đạn khủng bố
Việt Nam Quang phục Hội trong những năm 1913-15 với yêu sách khôi phục chủ quyền
cho Việt Nam quyết dùng bạo động để gây tiếng vang trong dân chúng cùng áp lực chính
quyền Đông Dương thuộc Pháp. Trong số những sự kiện đáng kể là vụ ám sát quan tuần
phủ tỉnh Thái Bình Nguyễn Duy Hàn bằng tạc đạn vào trưa ngày 19 Tháng Tư, 1913 do
Phạm Văn Tráng và Phạm Đề Quy thực hiện.
[2]
Hai tuần sau vào chiều ngày 26 Tháng Tư
Nguyễn Khắc Cần và Nguyễn Văn Thụy ném tạc đạn vào khách sạn Hanoi Hôtel ở phố
Tràng Tiền, Hà Nội, giết chết hai thiếu tá Pháp Chapuis & Montgrand cùng làm một số
người khác bị thương.
[2]
Chính quyền Bảo hộ liền đàn áp mạnh mẽ, lập Hội đồng Đề hình vào Tháng Năm 1913
để truy tố 99 người. Họ tuyên án tử hình bảy người; một người bị án chung thân khổ sai,
và tám người bị án lưu đày. Bảy người bị chém là Phạm Tráng (người giết Nguyễn Duy
Hàn), Nguyễn Văn Túy (người ném bom khách sạn), Nguyễn Khắc Cầu, Vũ Ngọc Thụy,
Phạm Hoàng Quế và Phạm Hoàng Triết. Ngoài ra năm hội viên Việt Nam Quang phục
Hội là Cường Để, Phan Bội Châu, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Quỳnh Chi, và Nguyễn Bá
Trác cũng bị tuyên án tử hình khiếm diện. Người Pháp còn làm áp lực với Trung Hoa để
ngưng yểm trợ nghĩa quân nên Hội mất căn cứ ở vùng biên giới Việt-Hoa.
Vận động lính bản xứ nổi dậy
Năm 1913 hội viên Đậu Quang Cơ (Đỗ Chấn Thiết) được Hội giao đem sách Hà Thành

liệt sử truyện do Phan Bội Châu viết về vụ đầu độc người Pháp hồi năm 1908 về nước để
phân phát trong các đội lính bản xứ nhưng về đến Hà Khẩu việc bị phát giác. Ông cùng
50 nghĩa quân khác phải chém.
[3]
Cuối năm 1914 thì Phan Bội Châu bị nhà chức trách
Trung Hoa bắt giam, mãi đến năm 1917 ông mới được thả.
Đánh đồn Tà Lùng
Dù vắng Phan Bội Châu, Hội vẫn tiếp tục hoạt động dưới sự lãnh đạo của Nguyễn
Thượng Hiền. Tháng Ba năm 1915 Việt Nam Quang phục Hội lại mở cuộc tấn công đồn
Tà Lùng ở Cao Bằng nhưng thất bại.
Phá ngục Lao Bảo
Ngày 28 tháng 9 năm 1915, tù nhân Lao Bảo, chủ yếu là các thành viên của Việt Nam
Quang phục Hội, Duy tân Hội, do Liêu Thanh và Hồ Bá Kiện chỉ huy đã nổi dậy. Tù
nhân khoảng 200 người giết lính canh, phá gông cùm, cướp vũ khí, rồi rút chạy và tan rã.
Mưu khởi nghĩa ở Trung Kỳ
Năm 1916 các ông Trần Cao Vân & Thái Phiên toan khởi nghĩa ở Huế và Quảng Nam
sau khi liên lạc được với Duy Tân hầu đưa nhà vua ra quân khu dựng cờ chống Pháp
nhưng việc vỡ lở. Vua Duy Tân bị đày sang Réunion. Các ông Thái Phiên, Trần Cao
Vân, Phạm Hồng Cương, Phan Thành Tài đều bị hành quyết.
Khởi nghĩa Thái Nguyên
Lương Ngọc Quyến, Quân vụ Ủy viên của Hội khi bị giam ở Thái Nguyên, vận động
được một số cai đội của trại lính khố xanh người Việt nổi dậy, chống lại sĩ quan người
Pháp rồi truyền hịch kêu gọi hưởng ứng. Trịnh Văn Cấn cầm đầu cuộc khởi nghĩa nhưng
chỉ được năm ngày thì chính quyền Bảo hộ đem quân phản công, dẹp tan. Tuy thất bại,
cuộc Khởi nghĩa Thái Nguyên cho thấy trong một đêm quân đội Pháp có thể bị đánh bại
nếu cách tổ chức được giữ kín và có quy củ.
Mưu sát toàn quyền Merlin
Dầu chưa tạo được thành tích nào lâu dài, Việt Nam Quang phục Hội vẫn âm ỉ theo đuổi
đại cuộc và cuối cùng phát nổ với tiếng bom Sa Diện. Lợi dụng chuyến viếng thăm
Quảng Châu của toàn quyền Martial Henri Merlin vào Tháng Sáu năm 1924, hội viên

Phạm Hồng Thái giả dạng ký giả đột nhập vào khách sạn Victoria rồi ném bom vào bàn
tiệc của Merlin. Viên Toàn quyền thoát chết nhưng có năm người Pháp thiệt mạng. Bị
truy nã gắt gao, Phạm Hồng Thái nhảy xuống sông Châu Giang tự tử.
Tan rã
Năm 1923, một số thanh niên trong Hội như Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, thành lập
Tâm Tâm Xã, còn gọi là Tân Việt Thanh niên Đoàn, như một tổ chức cách mạng, ngoại
vi dành cho thanh niên của Hội. Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu
và thuyết phục được những thành viên ưu tú của Tâm Tâm Xã tham gia thành lập và trở
thành hạt nhân của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (tiền thân của Đảng
Cộng sản Việt Nam).
Sang năm 1925 thì Phan Bội Châu bị người Pháp bắt ở Thượng Hải đem giải về nước.
Việt Nam Quang phục Hội và Tâm Tâm Xã từ đó tan vỡ. Nguyễn Thượng Hiền xuống
tóc đi tu. Số hội viên còn lại nhiều người gia nhập các đoàn thể khác tiếp tục tranh đấu.
Chú thích
1. ^ Trần Đức Thanh Phong và ctv. Kỷ niệm 100 năm Phong trào Đông Du. Đông
Kinh, Nhật Bản: Tân Văn, 2005. tr. 117
2. ^
a

b
Hoàng Cơ Thụy. Việt sử khảo luận. Paris: Nam Á, 2002. tr. 1665
3. ^ Trần Đức Thanh Phong. tr 121

×