Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

phân tích hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại phòng giao dịch ngân hàng chính sách xã hội huyện hồng ngự tỉnh đồng tháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 75 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KINH TẾ - QUẢN TRỊ KINH DOANH




NGUYỄN THỊ BÉ SON



PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI
HỘ NGHÈO TẠI PHÒNG GIAO DỊCH
NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
HUYỆN HỒNG NGỰ TỈNH ĐỒNG THÁP





LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành Tài chính-ngân hàng
Mã số ngành: 52340201



Tháng 11 - Năm 2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KINH TẾ - QUẢN TRỊ KINH DOANH


NGUYỄN THỊ BÉ SON


MSSV: C1200087


PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI
HỘ NGHÈO TẠI PHÒNG GIAO DỊCH
NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
HUYỆN HỒNG NGỰ TỈNH ĐỒNG THÁP



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
Mã số ngành: 52340201


GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
PHẠM PHÁT TIẾN



Tháng 11 – Năm 2014
i
LỜI CẢM TẠ

Để hoàn thành chƣơng trình đại học và viết bài luận văn tốt nghiệp này,
tôi đã nhận đƣợc sự hƣớng dẫn, giúp đỡ, góp ý nhiệt tình của quý thầy, cô
trƣờng Đại học Cần Thơ và sự nhiệt tình hƣớng dẫn cung cấp tài liệu của các
cô, chú, anh, chị trong cơ quan thực tập.
Trƣớc hết tôi xin chân thành cảm ơn đến quý thầy, cô trƣờng Đại học
Cần Thơ, đặc biệt là những thầy, cô đã tận tình dạy bảo cho tôi trong suốt thời

gian học tập tại trƣờng.
Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến thầy Phạm Phát Tiến đã dành rất nhiều
thời gian, tâm huyết hƣớng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành bài luận văn này.
Đồng thời tôi cũng cảm ơn các cô, chú, anh, chị trong PGD NHCSXH
huyện Hồng Ngự đã tạo điều kiện cho tôi có số liệu viết bài luận văn này.
Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng hoàn thiện luận văn bằng tất cả tâm huyết
và năng lực của mình nhƣng vẫn không thể tránh khỏi những sai sót, rất mong
nhận đƣợc sự đóng góp quý báo của quý thầy, cô để bài báo cáo của tôi đƣợc
hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

Cần Thơ, ngày 28 tháng 11 năm 2014
Người thực hiện



Nguyễn Thị Bé Son








ii
TRANG CAM KẾT

Tôi tên: NGUYỄN THỊ BÉ SON
MSSV : C1200087

Là sinh viên lớp Tài chính ngân hàng khóa 38, Bộ môn Tài chính- Ngân
hàng, Khoa Kinh tế-Quản trị kinh doanh, Trƣờng Đại học Cần Thơ.
Tôi xin cam kết luận văn này đƣợc hoàn thành dựa trên các kết quả
nghiên cứu của tôi, số liệu đƣợc trình bày trong luận văn đúng sự thật và có sử
dụng số liệu đã đƣợc sự cho phép của chú Hà Xuân Bảo- Giám đốc PGD
NHCSXH huyện Hồng Ngự về kết quả nghiên cứu tình hình sử dụng vốn vay
của hộ nghèo tại NHCSXH huyện Hồng Ngự của chú. Chú có quyền sử dụng
kết quả của luận văn này để phục vụ cho dự án nghiên cứu của chú.

Cần Thơ, ngày 28 tháng 11 năm 2014
Người thực hiện



Nguyễn Thị Bé Son












iii
NHẬN XÉT CỦA CƠ QUAN THỰC TẬP




























iv
MỤC LỤC

Trang

Chƣơng 1 GIỚI THIỆU CHUNG 1
1.1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 2
1.2.1 Mục tiêu chung 2
1.2.2 Mục tiêu cụ thể 2
1.3 PHẠM VI NGHIÊN CỨU 2
1.3.1 Không gian 2
1.3.2 Thời gian 2
1.3.3 Đối tƣợng nghiên cứu 3
Chƣơng 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4
2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN 4
2.1.1 Tổng quan về đói nghèo 4
2.1.2 Tín dụng và hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo 14
2.1.3 Sự cần thiết phải hỗ trợ vốn cho ngƣời nghèo ở huyện Hồng Ngự tỉnh
Đồng Tháp 22
2.2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 25
2.2.1 Phƣơng pháp thu thập số liệu 25
2.2.2 Phƣơng pháp phân tích số liệu 25
Chƣơng 3 GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ PHÒNG GIAO DỊCH
NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI HUYỆN HỒNG NGỰ
TỈNH ĐỒNG THÁP 26
3.1 LỊCH SỬ HÌNH THÀNH 26
3.2 CƠ CẤU TỔ CHỨC 27
3.3 ĐỐI TƢỢNG PHỤC VỤ 29
3.4 CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG 29
3.4.1 Chức năng, nội dung nhiệm vụ của Phòng giao dịch 29
3.4.2 Định hƣớng hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo tại PGD 30
3.5 QUY ĐỊNH CHUNG ĐỐI VỚI CHO VAY HỘ NGHÈO 31
3.5.1 Nguyên tắc vay vốn 31
3.5.2 Điều kiện vay vốn 31

3.5.3 Hộ nghèo đƣợc vay vốn vào các việc 31
v
3.5.4 Mức cho vay 32
3.5.5 Thời hạn cho vay 32
3.5.6 Lãi suất cho vay 33
3.5.7 Xử lý rủi ro 33
3.5.8 Những hộ nghèo không đƣợc vay vốn tại Ngân hàng chính sách xã hội33
3.6 VAI TRÒ CỦA PGD NHCSXH HUYỆN HỒNG NGỰ 34
Chƣơng 4 PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO TẠI
PHÒNG GIAO DỊCH NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI HUYỆN
HỒNG NGỰ 35
4.1 THỰC TRẠNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO TẠI PHÒNG GIAO
DỊCH NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI HUYỆN HỒNG NGỰ
TỈNH ĐỒNG THÁP 35
4.1.1 Nguồn vốn 35
4.1.2 Cơ chế cho vay 38
4.1.3 Tình hình cho vay 40
4.2 ĐÁNH GIÁ VỀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO TẠI
PHÒNG GIAO DỊCH NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI HUYỆN
HỒNG NGỰ 48
4.2.1 Đánh giá thông qua các chỉ số tài chính 48
4.2.2 Đánh giá về hiệu quả kinh tế xã hội 50
4.2.3 Các yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu quả sử dụng vốn của hộ nghèo trên địa
bàn huyện Hồng Ngự 52
Chƣơng 5 GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ
NGHÈO TẠI PHÒNG GIAO DỊCH NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
HUYỆN HỒNG NGỰ 57
5.1 NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƢỢC VÀ NHỮNG MẶT HẠN CHẾ CẦN
KHẮC PHỤC 57
5.1.1 Những kết quả đạt đƣợc 57

5.1.2 Những mặt còn hạn chế và nguyên nhân tồn tại 57
5.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI
VỚI HỘ NGHÈO TẠI PHÒNG GIAO DỊCH NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH
XÃ HỘI HUYỆN HỒNG NGỰ 59
5.2.1 Tăng cƣờng các biện pháp để khai thác tốt nguồn vốn huy động nhằm
nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu vay vốn của hộ nghèo 59
5.2.2 Nâng cao kỹ năng làm việc cho các cán bộ Hội, đoàn thể trong việc ủy
thác cho vay của ngân hàng 59
5.2.3 Tăng cƣờng thêm biên chế hoat động cho ngân hàng 60
vi
Chƣơng 6 KẾT LUẬN 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO 62




























vii
DANH SÁCH BẢNG

Trang
Bảng 2.1: Tình hình hộ nghèo trên địa bàn 23
Bảng 3.1: Tình hình nhân sự tại PGD NHCSXH huyện Hồng Ngự 29
Bảng 4.1: Tình hình nguồn vốn của NHCSXH huyện Hồng Ngự 35
Bảng 4.2: Tình hình nguồn vốn cho vay hộ nghèo của NHCSXH
huyện Hồng Ngự 37
Bảng 4.3: Tình hình ủy thác qua cho vay qua các hộ đoàn thể tại phòng
giao dịch ngân hàng CSXH huyện Hồng Ngự 39
Bảng 4.4: Tình hình cho vay hộ nghèo tại phòng giao dịch NHCSXH
huyện Hồng Ngự 41
Bảng 4.5: Doanh số cho vay hộ nghèo theo mục đích vay vốn tại
NHCSXH huyện Hồng Ngự 42
Bảng 4.6: Doanh số cho vay hộ nghèo theo thời hạn tại NHCSXH
huyện Hồng Ngự 43
Bảng 4.7: Doanh số thu nợ hộ nghèo theo mục đích vay vốn tại PGD
NHCSXH huyện Hồng Ngự 45
Bảng 4.8: Doanh số thu nợ hộ nghèo theo thời hạn tại PGD NHCSXH
huyện Hồng Ngự 46

Bảng 4.9: Tình hình dƣ nợ cho vay hộ nghèo theo địa bàn tại
NHCSXH huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp 48
Bảng 4.10: Dƣ nợ cho vay hộ nghèo theo mục đích vay vốn tại PGD
NHCSXH huyện Hồng Ngự 49
Bảng 4.11: Dƣ nợ cho vay hộ nghèo theo thời hạn tại PGD NHCSXH
huyện Hồng Ngự 50
Bảng 4.12: Hệ số thu nợ trong cho vay hộ nghèo tại phòng giao dịch
NHCSXH huyện Hồng Ngự giai đoạn 2011 đến hết tháng 6/2014 51
Bảng 4.13: Hệ số rủi ro tín dụng trong cho vay hộ nghèo tại phòng
giao dịch NHCSXH huyện Hồng Ngự giai đoạn 2011 – 2013 51
Bảng 4.14: Tỷ lệ hộ nghèo đƣợc vay vốn tại phòng giao dịch
NHCSXH huyện Hồng Ngự giai đoạn 2011-2013 53
Bảng 4.15: Số hộ thoát nghèo nhờ vốn vay của NHCSXH huyện Hồng
Ngự giai đoạn 2011-2013 53
Bảng 4.16: Số hộ nghèo đƣợc phỏng vấn tại các địa bàn 55
viii
DANH SÁCH HÌNH

Trang
Hình 4.1 Cơ cấu vốn huy động tại NHCSXH huyện Hồng Ngự giai
đoạn từ năm 2011 đến tháng 6 năm 2014 36
Hình 4.2 Tình hình nguồn vốn cho vay hộ nghèo của NHCSXH huyện
Hồng Ngự giai đoạn từ năm 2011 đến tháng 6 năm 2014 38
Hình 4.3 Doanh số cho vay hộ nghèo theo thời hạn tại PGD NHCSXH
huyện Hồng Ngự giai đoạn từ năm 2011đến tháng năm 2014 44
Hình 4.4 Doanh số thu nợ hộ nghèo theo thời hạn tại PGD NHCSXH
huyện Hồng Ngự giai đoạn từ năm 2011 đến tháng 6 năm 2014 47

































ix

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


ĐTN : Đoàn thanh niên
HCCB : Hội Cựu chiến binh
HN : Hộ nghèo
HND : Hội nông dân
HPN : Hội phụ nữ
KHTC : Kế hoạch tài chính
LĐTBXH : Lao động thƣơng binh xã hội
NHCSXH : Ngân hàng chính sách xã hội
NHNo&PTNT : Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
PGD : Phòng giao dịch
SXKD : Sản xuất kinh doanh
SD : Số dƣ
TK&VV : Tiết kiệm và vay vốn
TW : Trung ƣơng
UBND : Ủy ban nhân dân
XĐGN : Xóa đói giảm nghèo
WB : Ngân hàng Thế giới


1
CHƢƠNG 1
GIỚI THIỆU CHUNG
1.1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đói nghèo là một vấn đề xã hội mang tính toàn cầu. Sau chính sách đổi
mới, nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển mạnh mẽ, đạt được những bước
tiến đáng kể và những thành tựu nổi bật. Đời sống nhân dân đã được cải thiện
rõ rệt. Tuy nhiên, nước ta vẫn là một nước đang phát triển với tỷ lệ đói nghèo

khá cao. Mặc dù Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 -
2010 đã đem lại một số kết quả nhất định, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo ở
nước ta từ 22% (2005) xuống còn dưới 10% (2010) nhưng nếu tính theo chuẩn
nghèo mới thì tỷ lệ hộ nghèo chung của cả nước năm 2011 vẫn còn rất cao
(ước tính khoảng 15% - 16%). Hơn nữa, hiện nay, sự phân hóa giàu nghèo
đang diễn ra rất mạnh, là vấn đề xã hội cần được quan tâm giải quyết. Chính vì
vậy, xóa đói giảm nghèo vẫn đang là mục tiêu quan trọng hàng đầu trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở nước ta.
Trong số các nguyên nhân dẫn đến đói nghèo thì nguyên nhân quan
trọng nhất chính là: thiếu vốn sản xuất kinh doanh. Từ thực trạng đó, ngày 4
tháng 10 năm 2002; Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 131/TTg thành
lập Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng
phục vụ người nghèo để thực hiện nhiệm vụ cho vay hộ nghèo và các đối
tượng chính sách khác đã hỗ trợ rất nhiều cho mục tiêu xóa đói giảm nghèo
của Chính phủ.
Là một tỉnh nghèo ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, Đồng Tháp
còn muôn vàn khó khăn khi hạ tầng cơ sở còn nhiều thiếu thốn, điều kiện phát
triển sản xuất của bà con bị hạn chế, trình độ dân trí thấp. Nhiều mô hình làm
kinh tế khả thi nhưng vì thiếu vốn nên không thể nhân rộng được. Trong khi
đó để vay vốn các Ngân hàng Thương mại thì vấn đề lãi suất là quá sức với
người dân nghèo. Từ nguồn vốn vay của NHCSXH tỉnh Đồng Tháp đã đáp
ứng sự mong mỏi của người dân, đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển
chung của tỉnh. Tuy nhiên, trong quá trình cho vay hộ nghèo cho thấy nổi lên
vấn đề là hiệu quả vốn tín dụng còn thấp dẫn đến ảnh hưởng chất lượng tín
dụng cho vay đối với hộ nghèo.
Vì vậy NHCSXH tỉnh Đồng Tháp trong thời gian tới là tập trung thực
hiện Đề án nâng cao chất lượng tín dụng đã được phê duyệt nhằm nâng cao và
làm trong sạch, lành mạnh chất lượng tín dụng, nâng cao nhận thức cho người
dân sử dụng vốn vay đúng mục đích.


2
Vì vậy, làm thế nào để người nghèo nhận được và sử dụng có hiệu quả
vốn vay; chất lượng tín dụng được nâng cao nhằm bảo đảm cho sự phát triển
bền vững của nguồn vốn tín dụng, đồng thời người nghèo thoát khỏi cảnh
nghèo đói là một vấn đề được cả xã hội quan tâm. Vì thế tôi chọn luận văn tốt
nghiệp với đề tài “Phân tích hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại Phòng
giao dịch ngân hàng Chính sách Xã hội huyện Hồng Ngự tỉnh Đồng
Tháp” nhằm nghiên cứu đề xuất một số giải pháp giải quyết vấn đề trong hoạt
động cho vay đối với người nghèo tại phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách
vã hội huyện Hồng Ngự tỉnh Đồng Tháp.
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu thực trạng tín dụng đối với hộ nghèo tại phòng giao dịch
ngân hàng Chính sách xã hội huyện Hồng Ngự trong giai đoạn 2011 đến hết
tháng 6 năm 2014. Đồng thời kết hợp diễn biến của nền kinh tế, xác định
những thuận lợi khó khăn tại Phòng giao dịch. Tìm ra nguyên nhân và đề xuất
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại đơn vị.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Phân tích thực trạng cho vay hộ nghèo tại đơn vị thông qua các chỉ tiêu
doanh số cho vay, doanh số thu nợ, dư nợ, nợ quá hạn.
- Đánh giá hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại đơn vị thông qua tỷ lệ
tăng, giảm hộ nghèo trên địa bàn, tỷ lệ tăng, giảm thu nhập sau khi vay vốn
của hộ nghèo.
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn vay của hộ
nghèo trên địa bàn huyện Hồng Ngự.
- Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng cho vay hộ nghèo để tìm ra
nguyên nhân và đề ra các giải pháp để khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả tín
dụng đối với hộ nghèo tại đơn vị.
1.3 PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.3.1 Không gian

Nghiên cứu thực trạng tín dụng hộ nghèo tại Phòng giao dịch ngân hàng
Chính sách xã hội huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.
1.3.2 Thời gian
Đề tài được thực hiện từ tháng 08 đến tháng 11 năm 2014 và lấy số liệu
từ năm 2011 đến hết tháng 6 năm 2014.

3
1.3.3 Đối tƣợng nghiên cứu
Hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo tại Phòng giao dịch ngân hàng
Chính sách xã hội huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp nhưng chủ yếu là hoạt
động cho vay vì đây là hoạt động chính tại PGD.




























4
Chƣơng 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.1 Tổng quan về đói nghèo
2.1.1.1 Khái niệm về đói nghèo
Tình trạng đói nghèo ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau về cấp độ và số
lượng, thay đổi theo thời gian. Người nghèo của quốc gia này có thể có mức
sống cao hơn mức sống trung bình của quốc gia khác. Bởi vậy, để nhìn nhận
và đánh giá được tình trạng đói nghèo của một quốc gia, một vùng và nhận
dạng được hộ đói nghèo, để từ đó có giải pháp phù hợp để xóa đói giảm nghèo
(XĐGN), đòi hỏi chúng ta phải có sự thống nhất về khái niệm và các tiêu chí
để đánh giá đói nghèo tại từng thời điểm.
Ở nước ta trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta
khởi xướng và lãnh đạo, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng
kể. Tuy nhiên, bên cạnh sự tăng thu nhập và nâng cao đời sống của số đông
dân chúng, vẫn còn tồn tại một bộ phận dân chúng sống nghèo khổ, đặc biệt là
những hộ nông dân nghèo sống tập trung ở các vùng nông thôn, miền núi, hải
đảo, vùng sâu, vùng xa Chính vì vậy, trong xã hội sự phân hóa giàu nghèo
đang diễn ra ngày một sâu sắc, khoảng cách giàu, nghèo ngày càng rộng. Đây
là một thách thức lớn đặt ra đòi hỏi phải có những chính sách và giải pháp phù
hợp, đi đôi với phát triển kinh tế - xã hội phải thực hiện thành công chương

trình, mục tiêu quốc gia về XĐGN. Muốn XĐGN bền vững, thì đầu tiên là
phải trả lời được câu hỏi: Quan niệm thế nào là nghèo, người nghèo là ai và vì
sao họ nghèo? Để trả lời được các câu hỏi này chính xác, phải hiểu rõ được
bản chất và nội dung của đói nghèo.
Phải khẳng định rằng không có định nghĩa duy nhất về đói, nghèo. Đói
nghèo là tình trạng kiệt quệ bao gồm nhiều khía cạnh, từ thu nhập hạn chế đến
tính dễ bị tổn thương khi gặp những tai ương bất ngờ và ít có khả năng tham
gia vào quá trình ra quyết định chung. Việt Nam thừa nhận định nghĩa chung
về đói nghèo tại Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc – Thái Lan tháng 9/1993: “Nghèo là
tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ
bản của con người, mà những nhu cầu này được xã hội thừa nhận tùy theo
trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục, tập quán của địa phương” .


5
Đói là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức
sống tối thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống.
Đói nghèo là tổng hợp khái niệm đói và khái niệm nghèo: Đói và nghèo
thường gắn chặt với nhau, nhưng mức độ gay gắt khác nhau. Đói có mức độ
gay gắt cao hơn, cần thiết phải xóa và có khả năng xóa. Còn nghèo, mức độ
thấp hơn và khó xóa hơn, chỉ có thể xóa dần nghèo tương đối, còn nghèo tuyệt
đối chỉ có thể giảm dần.
Cụ thể hơn các khái niệm đói nghèo ta có thể thấy: Dù ở dạng nào, thì
đói cũng đi liền với thiếu chất dinh dưỡng, suy dinh dưỡng. Có thể hình dung
các biểu hiện của tình trạng thiếu đói như sau:
- Thất thường về lượng: Bữa đói, bữa no, ăn không đủ bữa.
- Về mặt năng lượng: Nếu trong một ngày con người chỉ được thoả mãn
mức 1.500 calo/ngày, thì đó là thiếu đói (thiếu ăn); dưới mức đó là gay gắt.
Nghèo đồng nghĩa với nghèo khổ, nghèo túng, túng thiếu. Trong hoàn

cảnh nào thì hộ nghèo, người nghèo cũng chỉ vật lộn với những mưu sinh hàng
ngày về kinh tế, biểu hiện trực tiếp nhất là bữa ăn. Họ không thể vươn tới các
nhu cầu về văn hóa, tinh thần, hoặc những nhu cầu này phải cắt giảm tới mức
tối thiểu nhất, gần như không có. Biểu hiện rõ nhất ở các hộ nghèo là hiện
tượng trẻ em bỏ học, thất học, không có điều kiện để chữa bệnh khi ốm đau.
Nhìn chung ở hộ nghèo, người nghèo thu nhập thực tế của họ hầu như chỉ
dành chi toàn bộ cho ăn; thậm chí không đủ chi ăn, phần tích lũy hầu như
không có.
2.1.1.2 Tiêu chí về đói nghèo
Theo Ngân hàng Thế giới, biện pháp áp dụng thông dụng nhất để đo
lường đói nghèo là dựa trên mức thu nhập hoặc mức chi tiêu. Một người được
coi là nghèo, nếu mức độ chi tiêu hoặc thu nhập của anh ta xuống dưới mức
tối thiểu cần thiết để đáp ứng cho các nhu cầu căn bản. Mức tối thiểu này được
gọi là “ngưỡng đói nghèo”. Các yếu tố đáp ứng nhu cầu căn bản thay đổi theo
thời gian và xã hội. Do đó, ngưỡng đói nghèo khác nhau theo thời gian và địa
điểm và mỗi quốc gia sử dụng các ngưỡng thích hợp với mức độ phát triển,
chuẩn mực và giá trị xã hội của mình. Để tổng hợp và so sánh toàn cầu, Ngân
hàng Thế giới sử dụng ngưỡng tham chiếu $1 và $2/ngày trong thuật ngữ “sức
mua tương đương” (PPP đo lường sức mua tương đối của đồng tiền các quốc
gia, 1993).
Trong quá trình nghiên cứu đói nghèo và thực hiện chương trình XĐGN
ở Việt Nam, WB đã đưa ra hai mức chuẩn nghèo đối với Việt Nam:

6
Thứ nhất, là số tiền cần thiết để mua một số lương thực, thực phẩm đáp
ứng nhu cầu dinh dưỡng với lượng 2.100 calo/người/ngày, gọi là chuẩn nghèo
về lương thực, thực phẩm;
Thứ hai, là số tiền cần thiết bao gồm cả chi tiêu cho lương thực, thực
phẩm và chi tiêu cho các nhu cầu cần thiết khác, gọi là chuẩn nghèo chung.
Tại Việt Nam hiện nay đang sử dụng một loạt các chỉ tiêu đánh giá về

nghèo đói và phát triển xã hội: Bộ LĐ- TB&XH (cơ quan thường trực của
Chính phủ trong tổ chức, triển khai, thực hiện XĐGN) dùng phương pháp dựa
trên thu nhập của hộ gia đình tuỳ theo từng thời gian. Các hộ được xếp vào
diện nghèo, nếu thu nhập đầu người của họ ở dưới mức chuẩn được xác định.
Mức này khác nhau giữa thành thị, nông thôn và miền núi. Tỷ lệ nghèo được
xác định bằng tỷ lệ giữa dân số có thu nhập dưới ngưỡng nghèo so với tổng
dân số trong cùng một thời điểm.
- Tiêu chuẩn nghèo của Việt Nam giai đoạn 2006 đến 2010
Theo công văn số 2128/2005/LĐTBXH-KHTC của Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội:
Khu vực nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người từ
200.000 đồng/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo;
Khu vực thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người từ
260.000 đồng/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo;
- Tiêu chuẩn nghèo của Việt Nam giai đoạn 2010 đến 2015
Theo quyết định số 09/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ban hành
chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011 - 2015 như sau:
Hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000
đồng/người/tháng (từ 4.800.000 đồng/người/năm) trở xuống.
Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000
đồng/người/tháng (từ 6.000.000 đồng/người/năm) trở xuống.
Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 401.000
đồng đến 520.000 đồng/người/tháng.
Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000
đồng đến 650.000 đồng/người/tháng.




7

- Tiêu chuẩn nghèo của Ngân hàng thế giới
Tiêu chuẩn nghèo thế giới được Ngân hàng Thế giới xác định mức chung
(không phân biệt nông thôn với thành thị) là 60 USD/người/tháng, tương
đương khoảng 1,2 triệu đồng/ tháng ( Báo lao động, 2012)
- Đánh giá tiêu chuẩn nghèo của Việt Nam so với Ngân hàng Thế giới
Từ năm 1993 đến nay, Chính phủ đã 5 lần nâng mức chuẩn nghèo. Từ
năm 2011, chuẩn nghèo khu vực nông thôn là hộ có thu nhập bình quân
400.000 đồng/người/tháng, vùng thành thị 500.000 đồng/người/tháng, giá hiện
tại thì 400.000 đồng không thể bảo đảm mức sống tối thiểu cho một người, bởi
một ngày chí ít người ta phải ăn hai lần và một suất cơm giá thấp nhất hiện
nay đã là 18.000 – 20.000 đồng. Mức chuẩn nghèo mà Chính phủ ban hành áp
dụng cho giai đoạn 2011-2015 đã là sự nỗ lực lớn. Dù như thế mức chuẩn
nghèo của Việt Nam chỉ chưa bằng 50% mức chuẩn nghèo của thế giới. Hiện
chuẩn nghèo thế giới được Ngân hàng Thế giới xác định mức chung (không
phân biệt nông thôn với thành thị) là 60 USD/người/tháng, tương đương
khoảng 1,2 triệu đồng. Không nên so sánh tiêu chuẩn của thế giới. Việt Nam
không thể “áp” theo chuẩn nghèo thế giới bởi ngân sách Nhà nước không thể
gánh được, nếu theo chuẩn thế giới, tỷ lệ hộ nghèo Việt Nam sẽ cao gấp ba lần
hiện nay.
2.1.1.3 Nguyên nhân đói nghèo
Đói nghèo là hậu quả đan xen của nhiều nguyên nhân nằm trong các
nhóm nguyên nhân. Nhóm nguyên nhân khách quan, do môi trường tự nhiên
(vị trí, khí hậu, đất đai); kinh tế - xã hội (trình độ dân trí thấp, yếu tố tập quán
của từng dân tộc, từng vùng miền, chính sách của Nhà nước) và nhóm nguyên
nhân do bản thân của người nghèo; đi vào phân tích các nguyên nhân như sau:
- Nguyên nhân do môi trường tự nhiên; kinh tế - xã hội
Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt đã tác động sâu sắc đến SXKD của các hộ
gia đình, đặc biệt là các hộ nghèo.
Đói nghèo tập trung ở khu vực nông thôn: Nghèo có đặc thù rõ rệt về mặt
địa lý. Ở Việt Nam, với 80% dân số và 90% số người nghèo sống ở nông thôn

“Những đặc trưng của người nghèo vẫn giống như trước đây - đói nghèo vẫn
là hiện tượng phổ biến ở nông thôn và đối với các dân tộc thiểu số, thì mức độ
đói nghèo cao và nghiêm trọng hơn so với đa số người Kinh. Các đặc trưng
khác của đói nghèo, là rủi ro cao về thu nhập, do thường xuyên bị thiên tai và
tình trạng thiếu việc làm nghiêm trọng ở nông thôn”.

8
Năm 2011, tỷ lệ nghèo đói về lương thực và thực phẩm ở nông thôn là
11,7%, năm 2012 là 9,6% ( Quốc Hà, 2012), năm 2013 là 7,6% (Xuân Thân,
2013) đa số người nghèo là nông thôn (trên 80%), trình độ tay nghề thấp, ít
khả năng tiếp cận nguồn lực trong sản xuất (vốn, kỹ thuật, công nghệ…), thị
trường tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn do điều kiện địa lý và chất lượng
sản phẩm kém, chủng loại sản phẩm nghèo nàn, những người nông dân nghèo
thường không có điều kiện tiếp cận với hệ thống thông tin, khó có khả năng
chuyển đổi việc làm sang các ngành phi nông nghiệp. Phụ nữ nông dân ở vùng
sâu, vùng xa, nhất là phụ nữ chủ hộ độc thân, phụ nữ cao tuổi là những nhóm
nghèo dễ bị tổn thương nhất, phụ nữ nghèo lao động nhiều thời gian hơn,
nhưng thu nhập thấp hơn, họ có ít quyền quyết định trong gia đình và cộng
đồng, do đó có rất ít cơ hội tiếp cận các nguồn lực và lợi ích do chính sách của
Nhà nước mang lại.
Điều kiện vị trí không thuận lợi đã hạn chế nhiều đến sản xuất, tiêu thụ
sản phẩm và sinh hoạt của các hộ gia đình. Người nghèo tập trung ở các vùng
có điều kiện sống khó khăn; đa số người nghèo sinh sống ở vùng sâu, vùng xa,
vùng nông thôn hoặc ở các vùng đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung; do
sự biến động của thời tiết (bão, lụt, hạn hán ) khiến cho các điều kiện sinh
sống và sản xuất của người dân càng thêm khó khăn, đặc biệt sự kém phát
triển về hạn tầng cơ sở đã làm cho các vùng này càng bị tách biệt với các vùng
khác. Đói nghèo trong khu vực thành thị: Đa số người nghèo đô thị làm việc
trong các khu kinh tế phi chính thức, công việc không ổn định, thu nhập thấp
và rất bấp bênh. Một số lao động mất việc làm do việc chuyển đổi cơ cấu kinh

tế và chủ sở hữu trong khu vực kinh tế Nhà nước, dẫn đến điều kiện sống của
họ càng khó khăn, một số người thất nghiệp. Các hộ nghèo thường có ít đất
đai và tình trạng không có đất đang có xu hướng tăng lên tại một số nơi. Thiếu
đất đai ảnh hưởng đến việc đảm bảo an ninh lương thực của người nghèo,
cũng như khả năng đa dạng hóa sản xuất để hướng tới sản xuất các loại cây
trồng với giá trị cao.
- Điều kiện kinh tế - xã hội
Người nghèo, đồng bào dân tộc ít người và các đối tượng có hoàn cảnh
khó khăn đặc biệt thường có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội kiếm được việc
làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ đảm bảo nhu cầu dinh
dưỡng tối thiểu và do vậy, không có đủ điều kiện nâng cao trình độ của mình
trong tương lai, để thoát khỏi cảnh đói nghèo. Bên cạnh đó, trình độ học vấn
thấp ảnh hưởng đến các quyết định có liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi
dưỡng con cái Những ảnh hưởng này tác động không những đối với thế hệ
hiện tại, mà cả đối với các thế hệ tương lai. Suy dinh dưỡng ở trẻ em và trẻ sơ

9
sinh là nhân tố ảnh hưởng tới khả năng đến trường của con em các gia đình
nghèo nhất và sẽ làm cho việc thoát nghèo thông qua giáo dục trở nên khó
khăn hơn. Kết quả của Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 đã phản ánh
tình hình khả quan về giáo dục của Việt Nam. Năm 2009, tỷ lệ dân số từ 15
tuổi trở lên biết đọc, biết viết là 93,5%. Trong nhóm dân số từ năm tuổi trở
lên, có 24,7% đang đi học, 70,2% đã thôi học và chỉ có 5,1% chưa bao giờ đến
trường. Do trình độ dân trí thấp, nên việc bất bình đẳng giới thường xảy ra.
Bất bình đẳng giới còn sâu sắc hơn tình trạng nghèo đói trên tất cả các mặt.
Ngoài những bất công mà cá nhân người phụ nữ và trẻ em gái phải chịu đựng
do bất bình đẳng giới, thì còn có những tác động bất lợi khác đối với gia đình.
Phụ nữ chiếm gần 50% trong tổng số lao động nông nghiệp và chiếm tỷ lệ cao
trong số lao động tăng thêm hàng năm trong ngành nông nghiệp. Mặc dù vậy,
nhưng phụ nữ chỉ chiếm 25% thành viên các khóa khuyến nông về chăn nuôi

và 10% các khóa khuyến nông về trồng trọt (Quyền Đình Hà,2011.) Phụ nữ ít
có cơ hội tiếp cận với công nghệ, tín dụng và đào tạo; họ thường xuyên gặp
khó khăn do gánh nặng công việc gia đình, thiếu quyền quyết định trong hộ
gia đình và thường được trả công lao động thấp hơn nam giới ở cùng một loại
công việc. Phụ nữ có học vấn thấp, dẫn tới tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh và bà mẹ
cao hơn, sức khỏe của gia đình bị ảnh hưởng và trẻ em đi học ít hơn. Bất bình
đẳng giới còn là yếu tố làm gia tăng tỷ lệ sinh và tăng tỷ lệ lây truyền HIV do
phụ nữ thiếu tiếng nói và khả năng tự bảo vệ trong quan hệ tình dục. Nghèo
cũng liên quan chặt chẽ tới nhóm dân tộc, ngay cả khi tất cả các đặc điểm khác
nhau là giống nhau, chi tiêu của một người thuộc dân tộc thiểu số cũng thấp
hơn chi tiêu của một người thuộc hộ người Kinh hoặc người Hoa. Trình độ
giáo dục cũng tạo sự khác biệt đáng kể (Nguyễn Xuân Minh,2012).
Ngoài yếu tố dân trí ra thì phong tục, tập quán lạc hậu và các tệ nạn xã
hội như buôn bán thuốc phiện, khai thác khoáng sản bừa bãi và di dân tự do
cũng là nguyên nhân dẫn đến đói nghèo.
- Chính sách Nhà nước
Do cơ chế chính sách Nhà nước thiếu hoặc không đồng bộ về chính sách
đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cho từng vùng nghèo, chính sách khuyến
khích sản xuất, chính sách tín dụng, chính sách giáo dục đào tạo, y tế, chính
sách đất đai đã ảnh hưởng đến kết quả XĐGN.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định trong thời gian qua là một
trong những nhân tố ảnh hưởng lớn đến mức giảm nghèo. Việt Nam đã có
những thành tích giảm đói nghèo rất đa dạng và trên diện rộng. Tuy nhiên, quá

10
trình phát triển và mở cửa nền kinh tế cũng có những tác động tiêu cực đến
người nghèo.
Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn
còn thấp, chủ yếu mới tập trung cho thủy lợi, các trục công nghiệp chính, chú
trọng nhiều vào đầu tư thay thế nhập khẩu, vẫn chưa chú trọng đầu tư các

ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động, chưa chú trọng khuyến khích kịp
thời phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; nhiều chính sách trợ cấp như lãi suất
tín dụng, trợ giá, trợ cước không đúng đối tượng, làm ảnh hưởng xấu đến sự
hình thành thị trường nông thôn, thị trường ở vùng sâu, vùng xa.
Cải cách doanh nghiệp Nhà nước và những khó khăn về tài chính của các
doanh nghiệp Nhà nước đã dẫn tới việc mất đi việc làm trong giai đoạn đầu
tiến hành cải cách doanh nghiệp. Nhiều công nhân bị mất việc đã gặp rất nhiều
khó khăn trong tìm việc làm mới và bị rơi vào nghèo đói. Phần lớn số người
này là phụ nữ, người có trình độ học vấn thấp và người lớn tuổi.
Chính sách cải cách nền kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, tự
do hóa thương mại tạo ra được những động lực tốt cho nền kinh tế, khuyến
khích các doanh nghiệp phát triển. Tuy nhiên, một số ngành công nghiệp thu
hút nhiều lao động chưa được chú trọng, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có khả
năng tạo việc làm chưa đựợc quan tâm và tạo cơ hội phát triển. Tình trạng
thiếu thông tin, trang thiết bị sản xuất lạc hậu, khả năng cạnh tranh của sản
phẩm thấp và năng lực sản xuất hạn chế đã làm không ít các doanh nghiệp nhỏ
và vừa bị phá sản và đẩy công nhân vào cảnh thất nghiệp, buộc họ phải gia
nhập vào đội ngũ người nghèo.
Tăng trưởng kinh tế giúp XĐGN trên diện rộng, song việc cải thiện tình
trạnh của người nghèo về thu nhập, khả năng tiếp cận, phát triển các nguồn lực
lại phụ thuộc vào loại hình tăng trưởng kinh tế. Việc phân phối lợi ích tăng
trưởng trong các nhóm dân cư bao gồm cả các nhóm thu nhập phụ thuộc vào
đặc tính của tăng trưởng. Phân tích tình hình biển đổi về thu nhập của nhóm
dân cư cho thấy, người giàu hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế nhiều hơn và kết
quả đã làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo.
Kết cấu hạ tầng giao thông đến các vùng sâu, vùng xa, vùng đói nghèo
còn thiếu và yếu kém. Việc tiếp cận đến các vùng này còn hết sức khó khăn,
đầu tư của Nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu, đóng góp nguồn lực của
nhân dân còn hạn chế, chủ yếu bằng lao động. Hệ thống pháp luật kinh tế vẫn
chưa đầy đủ và đồng bộ, thiếu một số đạo luật quan trọng. Nhiều văn bản pháp

quy dưới luật chưa được ban hành kịp thời và thiếu nhất quán đã gây không ít

11
cản trở trong quá trình thực hiện. Chất lượng một số luật về kinh tế, một số
văn bản pháp quy dưới luật còn yếu.
Việc mở các lớp bồi dưỡng về khoa học kỹ thuật mới đối với hộ nghèo
còn ít, hiệu quả chưa cao. Nhà nước chưa định hướng cụ thể cho người dân
nên trồng cây gì, nuôi con gì cho phù hợp với điều kiện từng vùng, từng thời
kỳ. Rủi ro trong SXKD của hộ nghèo chưa được xử lý kịp thời để hỗ trợ họ.
- Nguyên nhân do bản thân hộ nghèo
Hộ nghèo thường thiếu nhiều thứ như: Tri thức, học vấn, kỹ năng lao
động, khả năng tiếp cận thị trường, sức khỏe.
Người nghèo thường thiếu nguồn lực (vốn SXKD, kiến thức và kỹ năng
làm ăn, tư liệu sản xuất : Đất sản xuất, công cụ lao động, sức kéo ); trong đó,
thiếu khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng để SXKD là một lực cản lớn nhất
trong việc thoát khỏi đói nghèo. Người nghèo thường không đủ điều kiện để
vay được nhiều vốn, trong khi nguồn vốn tự có khiêm tốn hoặc không có.
Thiếu vốn là một trong những nguyên nhân trì hoãn khả năng đổi mới sản
xuất, áp dụng khoa học công nghệ, giống mới Mặc dù trong khuôn khổ của
dự án tín dụng cho người nghèo thuộc chương trình XĐGN quốc gia, khả năng
tiếp cận tín dụng đã tăng lên rất nhiều song vẫn còn khá nhiều người nghèo,
đặc biệt là người rất nghèo không có khả năng tiếp cận với các nguồn vốn tín
dụng. Một mặt, không có tài sản thế chấp, những người nghèo phải dựa vào tín
chấp với các khoản vay nhỏ, hiệu quả thấp đã làm giảm khả năng hoàn vốn.
Mặt khác, đa số người nghèo không có kế hoạch sản xuất cụ thể, hoặc sử dụng
các nguồn vốn vay không đúng mục đích, do vậy họ không có điều kiện tiếp
cận các nguồn vốn và cuối cùng sẽ làm cho họ càng nghèo hơn. Người nghèo,
đồng bào dân tộc ít người và các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt thường có
trình độ văn hóa thấp, nên không có khả năng tự giải quyết các vấn đề vướng
mắc liên quan đến pháp luật. Nhiều văn bản pháp luật có cơ chế thực hiện

phức tạp, người nghèo khó khăn nắm bắt, mạng lưới các dịch vụ pháp lý, số
lượng các luật gia, luật sư hạn chế, phân bố không đều, chủ yếu ở các vùng
thành phố, thị xã… Nên người nghèo khó tiếp cận; hơn nữa phí dịch vụ pháp
lý còn cao so với khả năng tài chính của họ.
Đại đa số hộ nghèo kiến thức và kỹ năng về sản xuất yếu, phương pháp
canh tác cổ truyền đã ăn sâu vào tiềm thức. Sản xuất tự cung, tự cấp là chính,
chưa có khái niệm về sản xuất hàng hoá. Kiến thức về marketing không có;
bán các sản phẩm làm ra, nhưng chưa qua chế biến, nên giá trị thấp; sản phẩm
làm ra chưa xuất phát từ nhu cầu của thị trường (bán sản phẩm của mình có,
chứ không bán cái mà thị trường cần). Người nghèo thường sống ở những

12
vùng xa xôi hẻo lánh, giao thông đi lại khó khăn, thiếu phương tiện thông tin
liên lạc, con cái thất học…Thiếu việc làm, không năng động tìm kiếm việc
làm, lười biếng lao động. Do sinh con nhiều, đông con vừa là nguyên nhân,
vừa là hệ quả của đói nghèo. Trong gia đình các hộ nghèo mặc dù nhân khẩu
nhiều, nhưng số người có sức lao động lại ít. Bệnh tật và sức khỏe kém cũng là
yếu tố đẩy con người vào tình trạng đói nghèo. Khi bị bệnh tật, hộ nghèo phải
gánh chịu mất đi thu nhập từ lao động và chi phí cao cho việc khám chữa
bệnh; do vậy đẩy họ vào chỗ vay mượn, cầm cố tài sản để trang trải chi phí,
dẫn đến tình trạng có ít cơ hội cho người nghèo thoát khỏi đói nghèo. Trong
khi đó, khả năng tiếp cận các dịch vụ phòng bệnh của người nghèo còn hạn
chế: Tình trạng sức khỏe của người Việt Nam trong thập kỷ qua đã được cải
thiện, song tỷ lệ người nghèo mắc các bệnh vẫn còn khá cao. Theo số liệu điều
tra, mức sống năm 2009, số ngày ốm bình quân của nhóm 20% người nghèo là
3,1 ngày/năm, so với 2,4 ngày/năm của nhóm 20% người giàu (Tổng cục
thống kê, 2009). Bệnh tật và sức khoẻ yếu ảnh hưởng đến việc lao động sản
xuất và tìm việc làm của người nghèo.
Hộ nghèo do có người không chịu làm việc, hoặc hay uống rượu bia,
hoặc chơi cờ bạc.

2.1.1.4 Sự cần thiết phải đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo
Đói nghèo là nguyên nhân gây mất ổn định xã hội, phá hoại môi trường
và cản trở nâng cao dân trí
Đa số người nghèo hiện sống tại khu vực nông thôn. Sự chênh lệch ngày
càng tăng giữa nông thôn và thành thị là nguyên nhân chính gây nên các vấn
đề xã hội. Ở nông thôn đất sản xuất có hạn và ngày càng bị thu hẹp; ngành
nghề phụ một số nơi không phát triển và có thu nhập thấp hoặc không có
ngành nghề phụ dẫn đến thời gian nông nhàn nhiều, hậu quả góp phần làm nảy
sinh các tệ nạn xã hội như cờ bạc, trộm cắp, nghiện hút. Các nguồn tài nguyên
xuống cấp và cạn kiệt, đánh bắt cá quá mức và các môi trường tự nhiên biển bị
phá hủy; môi trường tự nhiên ở vùng đất mặn và ven biển bị mất đi; mất đất
rừng tự nhiên ở các vùng núi, cùng với sự phá hoại hệ sinh thái đa dạng; các
vùng đất có vấn đề ngày càng lan rộng do sử dụng đất kém và không đúng
cách, ô nhiễm nước mặn, đất và nguồn nước khu vực nông thôn. Những mất
mát đi kèm với việc các hộ nghèo buộc phải bán đất, di dân tự do ra thành thị
và ven đô, nơi họ sinh sống thiếu hoặc không có những dịch vụ cơ bản, một bộ
phận con cái họ dễ trở thành nạn nhân của tội phạm (trộm cắp, buôn bán hàng
cấm, gái mại dâm…) và sự xuống cấp của môi trường xung quanh tăng ở mức
ngoài tầm kiểm soát…Nhiều hộ cả vợ chồng bỏ ra thành phố làm ăn, một năm

13
về nhà vài lần, ở nhà các con tự nuôi nhau hoặc ở nhà với ông bà già, các con
thiếu sự quản lý, thiếu tình thương bố mẹ, nhiều trường hợp học hành giảm sút
bị bỏ dở, tham gia trộm cắp…Tại thành phố sự chênh lệch giàu nghèo rõ nét,
thiếu việc làm, không có đất để sản xuất dẫn đến một số người làm ăn phi
pháp, tệ nghiện hút ở thanh niên ngày càng gia tăng…
Đói nghèo làm ảnh hưởng đến các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước
Mục tiêu tổng quát của Việt Nam trong giai đoạn 5 năm từ 2011 đến
2015 là: “ Đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời

sống vật chất, văn hoá, tinh thần cho nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020
Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn
lực con người, năng lực khoa học công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế,
quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế được nâng cao” ( Quốc Hội Việt Nam, 2011)
XĐGN và ngăn chặn kịp thời và có hiệu quả các tệ nạn xã hội. Muốn
thực hiện các mục tiêu nêu trên, thì yếu tố con người là yếu tố đầu tiên và có
tính chất quyết định. Vì vậy, phát triển con người là mục tiêu hàng đầu, vừa là
động lực to lớn khơi dậy mọi tiềm năng của cá nhân và tập thể trong công
cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh. XĐGN là một trong những chính sách xã
hội hướng đến phát triển con người, nhất là đối với nhóm người nghèo, tạo ra
nhiều cơ hội cho họ tham gia vào quá trình phát triển kinh tế- xã hội của đất
nước. Đói nghèo và lạc hậu bao giờ cũng đi đôi với gia tăng dân số, suy giảm
thể lực, trí lực… Vì vậy, XĐGN là một yêu cầu cấp thiết để phát triển một xã
hội bền vững.
Xoá đói giảm nghèo bảo đảm cho đất nước giàu mạnh và xã hội phát
triển bền vững
XĐGN không chỉ là công việc trước mắt, mà còn là nhiệm vụ lâu dài;
trước mắt là xoá hộ đói, giảm hộ nghèo. Lâu dài là xoá sự nghèo, giảm khoảng
cách giàu nghèo, phấn đấu xây dựng một xã hội giàu mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
XĐGN góp phần thực hiện công bằng xã hội thể hiện trên các mặt:
Mở rộng cơ hội lựa chọn cho cá nhân và nhóm người nghèo, nâng cao
năng lực cá nhân để thực hiện có hiệu quả sự lựa chọn của mình trong tạo việc
làm, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống.

14
Tạo cơ hội cho sự phát triển đồng đều giữa các vùng, giảm khoảng
cách và sự chênh lệch quá đáng về mức sống giữa nông thôn và thành thị,

các nhóm dân cư. XĐGN tham gia vào điều chỉnh cơ cấu đầu tư hợp lý
hơn, từng bước thực hiện sự phân phối công bằng cả trong khâu phân phối
tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất cho mỗi người, nhất
là nhóm người nghèo.
Hỗ trợ tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận dịch vụ xã hội, nhất là những
dịch vụ xã hội cơ bản.
Do vậy, các chính sách ban hành để thực thi chương trình XĐGN giữ vai
trò quan trọng, góp phần tích cực hoàn thành mục tiêu tăng trưởng nhanh và
bền vững của nền kinh tế trên diện rộng với chất lượng cao, tạo cơ hội thuận
lợi để người nghèo và cộng đồng nghèo tiếp cận được các cơ hội sản xuất kinh
doanh và hưởng thụ được từ thành quả tăng trưởng, tạo điều kiện thu hẹp dần
khoảng cách chênh lệch giữa các vùng trong cả nước.
2.1.2 Tín dụng và hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo
2.1.2.1 Những vấn đề cơ bản về tín dụng đối với hộ nghèo
Khái niệm
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín
dụng khác với các tổ chức và cá nhân trong xã hội. Trong mối quan hệ này
ngân hàng vừa là người cho vay, vừa là người đi vay. Tuy trong kinh tế thị
trường có nhiều hình thức tín dụng, nhưng tín dụng ngân hàng là hình thức
chủ yếu và phổ biến nhất. Các ngân hàng thực tế là một trung gian tài chính
quan trọng hàng đầu trong bất kỳ một quốc gia nào (Học viện ngân hàng,
2001).
Tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa
bên cho vay là ngân hàng và bên đi vay là cá nhân doanh nghiệp và các chủ
thể khác; trong đó, bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng
trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn
trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Tín dụng đối với người nghèo là những khoản tín dụng chỉ dành riêng
cho những người nghèo, có sức lao động, nhưng thiếu vốn để phát triển sản
xuất trong một thời gian nhất định phải hoàn trả số tiền gốc và lãi; tùy theo

từng nguồn có thể hưởng theo lãi suất ưu đãi khác nhau nhằm giúp người
nghèo mau chống vượt qua nghèo đói vươn lên hòa nhập cùng cộng đồng. Tín
dụng đối với người nghèo hoạt động theo những mục tiêu, nguyên tắc, điều
kiện riêng, khác với các loại hình tín dụng của các Ngân hàng Thương mại mà
nó chứa đựng những yếu tố cơ bản sau:

×